Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận cao học tư TƯỞNG GIẢI THOÁT TRONG TRIẾT học ấn độ cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.59 KB, 24 trang )

Tiểu luận
TƯ TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT TRONG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Môn: Triết học

Hà Nội, tháng 2 năm 2014


MỤC LỤC
CHƯƠNG I....................................................................................................................................................3
SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT....................................................................................................3
KẾT LUẬN....................................................................................................................................................20


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng giải thoát là tư tưởng chủ đạo và xuyên suốt trong tiến trình lịch sử
hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại. Các trường phái triết học Ấn độ
nói chung tuy muôn màu muôn vẻ với những khuynh hướng khác nhau, nhưng hầu
như đều tập trung vào lý giải một vấn đề then chốt nhất, đó là vấn đề bản chất, ý
nghĩa của đời sống, nguồn gốc nỗi khổ đau của con người và con đường, cách thức
giải thoát cho con người khỏi bể trầm luân của cuộc đời. Hướng đến việc giải thoát
luôn là mục đích, nhiệm vụ tối cao của các trường phái triết học tôn giáo Ấn độ.
Phương Tây cũng có những tôn giáo hay triết học mang đậm tư tưởng giải
thoát. Điển hình là các nhà triết học Hy lạp như Pythagoras và Platon. Trong số các
tư tưởng gia người Đức cũng có rất nhiều người chủ trương giải thoát. Nói tóm lại,
tư tưởng giải thoát và yêu cầu giải thoát ta có thể thấy nó biểu hiện dưới nhiều hình
thái và khắp nơi trên thế giới, nhưng nếu muốn tìm đến chỗ xuất phát của tư tưởng
giải thoát thì ta không thể không tìm đến Ấn Độ. Từ thời triết học Upanishad trở đi,
tất cả tư tưởng Ấn Độ, không những chỉ đứng trên lập trường giải thoát chủ nghĩa
mà còn tận tâm tận lực phấn đấu để giải thoát, ta có thể nói điều đó ngoài Ấn Độ ra


ta không thể tìm thấy ở một nơi nào khác. Ta không thể hiểu rõ chủ tư tưởng giải
thoát của triết học trên phạm vi toàn thế giới nếu không tìm hiểu tư tưởng giải thoát
trong triết học Ấn Độ.
Với mục đích đi tìm hiểu tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ không
phải chỉ để mở rộng kiến thức, mà cái chính là qua đó tìm ra thái độ sống dứt khoát
hơn, tích cực hơn để soi sáng cho chính bản thân trong mọi suy nghĩ, lời nói và
hành động trong một xã hội vô minh mà trong đó không biết đâu thực sự là đúng
sai, phải trái hiện nay. Để từ đó tạo tiền đề có những khảo sát, nghiên cứu chuyên
sâu hơn từ đó biết mình phải làm gì để giải thoát chính bản thân và cao hơn là giải
thoát con người khỏi sự kìm hãm và bao vây của sự ngu muội và bể khổ trầm luân
của cuộc đời. Đây là một vấn đề lớn có thể dài hàng trăm trang, nhưng trong phạm
1


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
vi hẹp của một tiểu luận, người viết sẽ tiến hành 2 nhiệm vụ chính: vạch ra hoàn
cảnh lịch sử - căn nguyên dẫn tới hình thành và phát triển tư tưởng giải thoát trong
mọi trường phái triết học Ấn Độ và phân tích tư tưởng giải thoát trong những
trường phái đó với hy vọng đây sẽ là tư liệu tham khảo có ích cho đối tượng có nhu
cầu nghiên cứu về triết học Ấn Độ nói chung và tư tưởng giải thoát trong triết học
nói riêng.

2


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
CHƯƠNG I
SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT
1.1. Sự hình thành và phát triển triết học Ấn Độ cổ đại
Là hình thái ý thức xã hội, quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng

triết học Ấn Độ cổ đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện vật chất và sinh hoạt
động xã hội Ấn Độ cổ đại. Có thể nói một cách khái quát, Ấn Độ là một đất nước
có điều kiện tự nhiên, địa lý hết sức đa dạng nhưng cũng vô cùng khắc nghiệt. Đó
là một bán đảo mênh mông, vừa có núi cao, đại dương, vừa có đồng bằng, những
cao nguyên và cả sa mạc. Chính sự mạnh mẽ và khắc nghiệt của thiên nhiên đã tác
động lâu dài đến sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh thần, đến phong tục tập quán,
đặc biệt là tư duy độc đáo vừa trìu tượng vừa vừa cao siêu của người Ấn Độ. Bên
cạnh đó, tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại cũng chịu sự chi phối sâu sắc của của chế
độ xã hội nô lệ mang đậm tính chất gia trưởng và chế độ công xã nông thôn –
không chỉ là một đơn vị kinh tế độc lập mà còn là đơn vị hành chính có quyền tự trị
rất lớn, nhà nước hầu như không can thiệp được vào nội bộ của công xã. Mác đã
từng nói về công xã nông thôn như sau: “…những công xã ấy đã hạn chế lý trí của
con nguồi trong một khuôn khổ chật hẹp nhất, làm cho nó trở thành một công cụ
ngoan ngoãn của mê tín, trói buộc nó bằng những xiềng xích nô lệ của các quy tắc
cổ truyền…”. Bên cạnh công xã nông thôn, Ân Độ có sư phân chia đẳng cấp hết
sức nghiệt ngã, trở thành gánh nặng đè nặng lên vai tất cả người dân Ấn Độ cổ đại,
khiến cuộc sống của họ vô cùng vất vả. Đó không chỉ góp phần quy định cơ cấu,
trật tự xã hội Ấn Độ mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nội dung và tính chất các quan
điểm triết học Ấn Độ cổ đại. Bên cạnh những xung đột ngầm trong xã hội bị kìm
giữ bởi sức mạnh vật chất và tinh thần của nhà nước – tôn giáo, nhân dân Ấn Độ
vẫn đạt được những thành tựu văn hóa tinh thần khá rực rỡ.
Về văn hóa, chữ viết đã được người Ấn Độ sáng tạo từ thời văn hóa
Haráppa, sau đó chữ Kharosthi (thế kỷ V-TCN) ra đời; chữ Brami được dùng rộng
3


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
rãi vào thời vua Axôca, sau cùng, nó được cách tân thành chữ Đêvanagari để viết
tiếng Sanscrit. Thành tựu nổi bật nhất của văn học gồm có các bộ sử thi như Veda,
Mahabarata, Ramayana… Nghệ thuật tạo hình như kiến trúc, điêu khắc được thể

hiện trong các cung điện, đền chùa, tháp, lăng tẩm, trụ đá, các tượng phật và tượng
thần… đã tạo ra một nền điêu khắc và kiến trúc độc đáo và đặc biệt là luôn gắn với
những tư tưởng triết lý Ấn Độ cổ đại.
Về khoa học tự nhiên, người Ấn Độ đã làm ra lịch pháp, phân biệt được 5
hành tinh và một số chòm sao; đã phát hiện ra chữ số thập phân, số π, xây dựng
môn đại số học; đã biết cách tính diện tích các hình đơn giản và xác định được
quan hệ giữa các cạnh của một tam giác vuông; đã đưa ra giả thuyết nguyên tử…
Người An Độ cũng có nhiều thành tựu trong y dược học.
Về tôn giáo. Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng
nhất là đạo Bàlamôn (về sau là đạo Hinđu) và đạo Phật; ngoài ra còn có các tôn
giáo khác như đạo Jaina, đạo Xích…
Tất cả những điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội cùng sự
phát triển rực rỡ của nền văn hóa và khoa học Ấn Độ cổ đại thực sự là nhưng tiền
đề quan trọng cho quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại.
Theo cách chia truyền thống từ thời trung cổ của người Ấn Độ, có thể chia
quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại thành 2 thời kỳ:
1. Thời Veda – Sử thi (TK XV-TCN đến TK VII-TCN)
2. Thời Phật giáo – Balamon giáo
1.2. Căn nguyên dẫn tới sự hình thành tư tưởng giải thoát
Dân cư Ấn Độ sống rải rác ở khắp lãnh thổ của đất nước, tập trung thành
những trung tâm nhỏ nhờ vào mối liên hệ có tính chất gia trưởng giữa lao động
nông nghiệp và lao động thủ công nghiệp đã hình thành một chế độ xã hội đặc biệt:
chế độ công xã nông thôn. Nền kinh tế của công xã nông thôn mang tính chất tự
cấp tự túc, từ đó đời sống xã hội phát triển hết sức trì trệ và chậm chạp. Cùng với
chế độ chiếm hữu nô lệ hình thành sau khi người Arya xâm nhập, chinh phục và
4


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
biến những người bản địa Ấn Độ là Dravidian thành nô lệ của mình, tuy rằng chế

độ nô lệ ở Ấn Độ chưa phát triển thuần thục như ở các nền văn minh khác trên thế
giới nhưng sự bóc lột của chủ nô với nô lệ của chế độ công xã nông thôn cũng tàn
bạo, hà khắc không kém bất cứ chế độ chiếm hữu nô lệ nào trong lịch sử. Nó hạn
chế lý trí con người, biến con người thành công cụ, thành vật sở hữu ngoan ngoãn
của mê tín tôn giáo, cam chịu trước hoàn cảnh, trói buộc con người bằng xiềng xích
nô lệ.
Xã hội Ấn Độ cổ đại không chỉ bị đè nặng bởi nỗi khổ do quan hệ bất công
và sự bóc lột hà khắc của giai cấp quý tộc, chủ nô đối với giai cấp nô lệ và những
kẻ tôi tớ mà còn bị bóp nghẹt bởi chế độ phân biệt chủng tộc, màu da, sắc tộc – chế
độ đẳng cấp hết sức nghiệt ngã. Lúc đầu đó chỉ là sự phân biêt màu da, chủng tính,
sắc tộc chủ yếu giữa người Arya và người Dravidian để thống trị người dân bản địa
và không bị thổ dân đồng hóa vì lấy người bản địa. Sau đó, cùng với sự phát triển
của xã hội, sự phân biệt được mở rộng về nghề nghiệp, tôn giáo, cấm kỵ hôn nhân,
quan niệm về sự trong sạch và cả giao tiếp xã hội… tạo nên sự phân hóa xã hội sâu
sắc. Chế độ phân biệt đẳng cấp luôn được giáo lý của đạo Balamon – tôn giáo
chính thống của xã hội Ấn Độ đương thời bảo vệ. Triết lý tôn giáo Balamon lại lấy
chế độ phân biệt đẳng cấp làm nền tảng cho xã hội mình. Chính vì thế chế độ phân
biệt đẳng cấp ở Ấn Độ rất chặt chẽ và khắc nghiệt. Về sau những bộ luật của xã hội
Ấn Độ cổ cũng thừa nhận và bảo vệ cho hệ thống phân chỉa đẳng cấp này, đặt ra
những điều luật rất nghiêm ngặt, nhằm quy định quyền lợi và nghia vụ mỗi đẳng
cấp mà đạo Balamon cho rằng đó là trật tự mang tính tiền định, theo ý chí của thần
thánh.

5


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
CHƯƠNG II
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT Ở TỪNG THỜI KỲ
Trạng thái giải thoát được mô tả bằng nhiều đặc tính khác. Trước hết, giải

thoát là vượt ra ngoài sự chi phối của thời gian, vì sống và chết là những hiện tượng
trong thời gian. Giải thoát là trạng thái chân như, vượt lên trên mọi giới hạn của
thời gian, không gian và hiện tượng. Giải thoát là vượt ra ngoài sự chi phối của mọi
sự vật hiện tượng, vì giải thoát là tuyệt đối tự do, tất cả mọi hành động của bậc giải
thoát, dù xấu dù tốt cũng đều là những hành động vô tư tưởng. Nói cách khác, giải
thoát là trạng thái tâm hồn tuyệt đối hạnh phúc vì không biết lo sợ buồn phiền,
tuyệt đối sáng suốt vì là nền tảng của mọi sự hiểu biết.
2.1. Tư tưởng giải thoát thời kỳ Veda
Ở thời kỳ này, toàn bộ sinh hoạt xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân Ấn Độ đều được thể hiện và phản ánh tập trung trong các bộ kinh Veda
và sau đó là các bộ sử thi anh hùng ca như Ramayana, Mahabrata… Kinh Veda của
thời kỳ này mặc dù được coi là nặng về tôn giáo, nhẹ về triết lý nhưng kinh nhưng
lại được coi là khởi nguyên của tất cả các hệ thống tư tưởng tư tưởng và tôn giáo
chính thống của Ấn Độ cổ đại.
2.2.1. Tư tưởng giải thoát trong kinh Veda
Thực ra, Veda không do một nhân vật nào sáng tác, mà đó là một bộ sách
bao gồm nhiều câu da cao, bài thơ phú nói về sự giàu đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên
Ấn Độ, những tập tục, nghi lễ và các bài thánh ca cầu nguyện các đấng thần linh…
của người Arya. Với những hiện tượng tự nhiên và xã hội ẩn dấu những điều bí ẩn,
tuy là cái nôi sinh trưởng của con người nhưng lại luôn gây ra cho họ những tai
họa, bất trắc khôn lường. Do vậy người Ấn Độ cổ đại đã tạo nên một thế giới các vị
thần có tính chất tự nhiên nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên phong phú, phức
tạp của hiện thực. Các vị thần đầu tiên xuất hiện trong các kinh Veda đều tượng
trưng cho sức mạnh của các lực lượng, các sự vật tự nhiên mà người Ấn Độ thờ
phụng như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, lửa, nước, gió mưa, rạng đông… Về sau,
6


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
người Ấn Độ lại tạo ra nhiều biểu tượng các vị thần mới để lý giải các hiện tượng

trong lĩnh vực đạo đức, luân lý xã hội như thần ác, thần thiện, pháp thần, thần công
lý. Họ say mê gửi gắm tâm hồn, cuộc sống tự nhiên của mình vào thế giới các vị
thần linh. Họ rất sùng thượng, tín ngưỡng, cầu nguyện và hiến tế để cầu xin sự trợ
giúp của các thần linh mong cầu sự giải thoát khỏi biển khổ trầm luân của cuộc đời
trong kiếp nhân sinh. Nghĩa là cách thức và con đường giải thoát được đề ra trong
kinh Veda là thông qua việc tế tự, tôn thờ và cầu xin sự phù hộ của các đấng thần
linh biểu tượng cho sức mạnh của tự nhiên và xã hội.
2.2.2. Tư tưởng giải thoát trong kinh Upanishad
Là một trong những kinh quan trọng nhất của bộ kinh Veda, kinh Upanishad
xuất hiện và phát triển vào khoảng thế kỷ VIII-TCN đến TK V-TCN, là tập hợp
những lời bình chú tôn giáo triết học về các lẽ thiết yếu và ý nghĩa triết lý sâu xa
của các bài kinh cũng như thần thoại Veda. Sự xuất hiện của Upanishad đánh dấu
bước chuyển quan trọng từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư tưởng duy triết
học, từ tôn giáo đa thần sang nhất thần trong buổi đầu hình thành tư tưởng triết lý
Ấn Độ. Nếu như các kinh Veda thiên về các con đường thờ phụng cầu xin sự phù
hộ và ban ơn của các đấng thần linh thì kinh Upanishad lại nhằm mục đích lý giải
vấn đề bản thể vũ trụ, thực chất bản tính con người và mối quan hệ giữa đời sống
tinh thần của con người với sự sống bất diệt của vũ trụ, từ đó chỉ ra con đường,
cách thức giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của thế giới sự vật. Theo
Upanishad, giải thoát có các đặc tính: giải thoát là sự vươn ra ngoài sự chi phối của
thời gian; giải thoát vượt qua mọi ảo tưởng, nhận thức được bản thể vũ trụ tuyệt đối
tối cao và chân bản tính của con người; giải thoát thoát là trạng thái tự do tuyệt đối,
vượt qua quan niệm sống chết, còn mất, tha ngã, thoát khỏi sự chi phối của nghiệp
báo luân hồi. Giải thoát chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là việc đi tìm giải
thoát, nhưng giải thoát phải tìm ở tự nơi mình, không phải là tìm ở bên ngoài, cho
nên nhân của giải thoát là tự giác, nhân của luân hồi là bất giác; Giai đoạn thứ hai,
7


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại

muốn thoát luân hồi cần phải an trụ cái bản tính, và bồi dưỡng phần trí tuệ; Giai
đoạn thứ ba, phải noi theo phương pháp tu trì để mong phát minh trực quán trí, tức
là phép tu Yoga. Theo thứ tự như thế mà tu, dần dần chân ngã sẽ toàn hiện, tới lúc
chân ngã toàn hiện, thì Atman (hơi thở, linh hồn, bản thể chính yếu trong con
người) trở thành Brahman (thực tại có trước nhất và là thực tại duy nhất, tuyệt đối,
tối cao vĩnh viễn…, là bản chất của tất cả, xâm nhập và bao hàm tất cả, ở ngoài giới
hạn của không gian và thời gian), tức là giải thoát, chấm dứt luân hồi. Để nhận thức
được bản thể tuyệt đối tối cao của vũ trụ, Upanishad đã phân chia sự nhận thức của
con người thành hai trình độ hiểu biết khác nhau: trình độ nhận thức ở bậc hạ trí (sự
phản ánh thế giới sự vật hiện tượng cụ thể, hữu hình) và bậc thượng trí (“cái biết
mà nhờ đó người ta biết được cái gì chưa biết mà cũng như học rồi, chưa nghĩ mà
cũng như đã nghĩ rồi, chưa từng hiểu mà như cũng đã hiểu rồi”). Khi hiểu biết được
thực tại tuyệt đối tối cao, nhận thức được thực tướng của vạn vật và bản tính của
mình, con nguồi có thế đạt tới giác ngộ và giải thoát. Trả lời cho câu hỏi: “Cái gì là
thực tại đầu tiên tối cao duy nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức được
nó, người ta sẽ biết cả vũ trụ, và có thể giải thoát được linh hồn con người khói nỗi
khổ của cuộc đời”, Upanishad giải đáp rằng: đó là “tinh thần vũ trụ tối cao”
Bradman. Bradman cũng chính là Atman. Atman không tự nhiên sinh ra cũng
không tự nhiên mất đi, Atman nhỏ hơn cái nhỏ nhất, lớn hơn cái lớn nhất, là cái
tiềm ẩn trong lòng tất cả mọi chúng sinh. Vì Atman là đồng nhất với Bradman nên
về bản chất linh hồn tồn tại vĩnh viễn. Nhưng do linh hồn tồn tại trong thể xác con
người nên con người ta cứ lầm tưởng cho rằng linh hồn là cái tách biệt với tinh thần
vũ trụ tối cao, là cái của con người, do con người. Vì vậy, mọi hành động suy nghĩ
lời nói… đều nhằm thỏa mãn mọi ham muốn của con người trong đời sống trần tục
đã che lấp đi bản tính chân thực của con người đó, gây nên những hậu quả, giam
hãm và rằng buộc linh hồn bất tử đầu thai vào hết thân xác này đến thân xác khác,
từ kiếp này sang kiếp khác, gọi là luân hồi (samsara). Kinh Upanishad cho rằng
8



Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng nghiệp báo luôn hồi cần đưa linh hồn cá
biệt vốn là cái thể hiện của linh hồn tối cao trở về đồng nhất với linh hồn tối cao,
tức là con người phải toàn tâm toàn ý, dốc lòng tu luyện đọa đức và trí tuệ, nhận ra
chính bản tính của mình và thực tại của vũ trị vạn vật, đạt tới mức giác ngộ và giải
thoát. Tu luyện đạo đức là hành động theo đúng bổn phận tự nhiên, không tính toán
vụ lợi, diệt mọi dục vọng, vượt ra khỏi sự ràng buộc của thế giới đẩy rẫy những dục
vọng vô thường này. Tu luyện trí tuệ là quá trình dầy công thiền định, dốc lòng suy
tư chiêm nghiệm nội tâm, bằng tri giác trực tiếp, trực cảm, linh cảm mới đạt được
chân lý tối thượng, hòa nhập vào bản thể vũ trụ tuyệt đối, tối cao, an lạc và thanh
tịnh. Các phương pháp như karma-yoga và jana-yoga đều là những phương pháp
nhận thức để đạt tới sự giác ngộ và giải thoát.
2.2. Tư tưởng giải thoát thời kỳ Phật giáo - Balamon
2.2.1. Tư tưởng giải thoát trong các trường phái triết học chính thống
Trường phái triết học Samkhya do nhà thông thái Kapila sáng lập vào
khoảng thế kỷ thứ VII-TCN là trường phái nhị nguyên luận, tức là thừa nhận sự tồn
tại của vật chất lẫn sự tồn tại của linh hồn. Điểm khác biệt của trường phái này so
với quan điểm truyền thống là họ cho rằng thế giới không do Thượng Đế sáng tạo,
vạn vật có được là do nguyên thể vật chất đầu tiên Prakriti sinh ra.
Nếu Prakriti được xem là bản nguyên của vạn vật, thì Purusha được xem là
bản nguyên của tinh thần. Hai bản nguyên Prakriti và Purusha tuy tồn tại độc lập
nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Purusha không hoạt động nhưng lại là
yếu tố cần thiết, làm chất xúc tác cho Prakriti. Còn Prakriti hàm chứa nguyên nhân
cho cơ năng để tạo nên vật chất, cơ năng đó chính là sự liên kết, tương tác giữa ba
tính chất: Sattva (thuần chất), Rajas ( kích chất) và tamas (ế chất). Nhưng khi có sự
quan chiếu của Purusha thì trước tiên phần kích chất tự phá vỡ ra ngoài trạng thái
tĩnh, tiếp theo là yếu tố thuần chất và cuối cùng là ế chất, lúc ấy vạn vật mới được
hình thành, trong đó có con người. Do sự tác động qua lại của ba tính chất khi phá
9



Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
vỡ trạng thái tĩnh thì đầu tiên prakriti sinh ra tri năng tức khả năng tri giác, khả
năng này cũng tự biến hóa sinh ra năm cơ năng (thị năng, thính năng, khứu năng, vị
năng và xúc năng) và ý thức (cảm quan thứ sáu). Từ cơ năng hình thành năm giác
quan (mắt, tai, mũi, lưỡi và da) và năm cơ quan (cuống họng, bàn tay, bàn chân, cơ
quan bài tiết và cơ quan sinh dục) của con người. Cơ thể con người trở nên trọn vẹn
và cũng bắt đầu có sự “chấp ngã”, tức là con người cho rằng: cái này là ta; Cái này
là của ta; Cái này là tự ngã của ta. Chính sự chấp ngã này đã khiến con người đi lạc
ra ngoài phạm vi của bản tính và cũng vì thế mà con người bị kìm hãm, bị trói buộc
vào nghiệp, và bị chìm ngập trong biển sanh tử luân hồi chứ không phải Purusha bị
luân hồi sinh tử. Phái Samkhya cho rằng, chính sự khác biệt về linh hồn trong mỗi
cá thể nên dẫn đến mỗi người có ý nghĩ và hành động cũng như lời nói khác nhau
dẫn đến nghiệp - Karman khác nhau. Vì vậy, muốn giải thoát thân-linh hồn khỏi
luân hồi sanh tử thì con người phải dốc lòng, quyết tâm tẩy sạch hết dơ bẩn, tức là
đoạn trừ tất cả nghiệp để tinh thần trở nên trong sạch, trở về với tự tính bất sinh, bất
diệt, trường tồn và bất biến. Nhưng muốn đắc quả giải thoát, theo Kapila thì con
người phải: Hiểu được hai mươi lăm thực thể thì được giải thoát mà được giải thoát
là biết được cái trí duy nhất chân chính. Cái trí duy nhất chân chính ấy là trí nội tại,
là phần anh minh của tinh thần thuần túy chứ không phải là trí thức thông thường.
Và khi giải phóng linh hồn khỏi thể xác thì lúc đó tất cả chỉ là tinh thần, là trí thông
minh trong sáng và tuyệt vời, trong sáng và tuyệt vời đến mức không còn khái niệm
cá thể nữa, tức là biết được rằng không có “ta”, không có cái gì thuộc về ta cả”.
Bên cạnh việc hiểu được hai mươi lăm thực thể thì Yoga là phương pháp hổ
trợ cho trí nội tại hoàn thành sứ mạng giải thoát cho vi tế thân. Đó là phương pháp
mà những người theo phái Sankhya cần phải thực hành nếu muốn giải thoát.
Trường phái triết học Yoga do đạo sĩ Patanjali sáng lập vào khoảng năm
150-TCN. Yoga theo nghĩa đen là “sự đoàn kết” có nghĩa là sự đoàn kết tinh thần
của linh hồn riêng biệt với linh hồn vũ trụ, hay “hợp nhất tâm thể về một mối”. Do
10



Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
vậy, cơ thể là nguồn gốc của vô minh đau khổ, do vậy phải giải thoát thoát linh hồn
khỏi ảnh hưởng của mọi giác quan, mọi rẳng buộc với cơ thể, đạt được sự giác ngộ
tối cao và vĩnh cửu bằng cách trong kiếp này gột rửa hết mọi tội lỗi của linh hồn
trong các kiếp trước. Để đạt được như vậy, con người phải kiên trì rèn luyện, khổ
tu, thực hành kỷ luật thể xác và trí tuệ dần từng bước, theo từng giai đoạn bằng 8
phương pháp tu luyện gọi là: “Bát bảo tu pháp” được xem là pháp tu chung cho tất
cả các trường phái Yoga. Bát bảo tu pháp gồm:
Chế giới hay diệt dục (Yama) là những giới căn bản giúp chế ngự những
điều ác trong hành động, lời nói và cả trong ý thức. Bao gồm những giới: không sát
sanh, không nói dối, không trộm cắp, không có của riêng và không dâm dục, gọi là
ngũ chế. Đây là bước đầu tu luyện về đạo đức.
Nội chế (Niyama - văn hóa của bản thân) bao gồm sự thanh khiết bên ngoài
và bên trong, sự nghiên cứu học tập, dấn thân vào khổ hạnh mà tu luyện, gạt bỏ
mọi việc thế tục, không tham cầu danh lợi, tư tưởng chỉ hướng đến thần tối cao.
Tọa pháp (Asana) bao gồm những quy định, những phương pháp, những
nguyên tắc trong lúc tĩnh tọa. Ví dụ, khi ngồi không được cúi về trước, không được
ngã về sau, đỉnh đầu phải thẳng với đốt xương cùng, hay trong tư thế kiết già thì
bàn chân phải đặt lên đùi chân trái, bàn chân trái đặt lên đùi chân phải, tay phải đặt
lên tay trái, hai đầu ngón cái chạm vào nhau, toàn thân không được cử động trong
suốt thời gian thiền tọa, hoặc giả hai tay đặt lên hai đầu gối…
Điều tức pháp (Pranayama), tức là phương pháp kiểm soát và điều hòa hơi
thở. Trước tiên phải hít thật sâu bằng mũi thở ra bằng miệng một cách nhẹ nhàng.
Phải thở khoan thai để không ảnh hưởng đến sự tập trung của tinh thần. Khi đó, con
người có thể quên tất cả, trong tâm trí khong còn một ý niệm nào nữa mà trở nên
trống rỗng, thanh tĩnh.
Chế cảm pháp (Pratyahara) là phương pháp kiềm chế, kiểm soát các cảm
giác và chủ yếu là việc loại trừ cảm giác ra khỏi khách thể, làm chủ các giác quan,

11


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
không cho các sự vật, hiện tượng xung quanh tác động khiến các giác quan chạy
theo ngoại cảnh. Vì vậy, các hành giả thường sử dụng phương pháp “tự kỷ ám thị”“duy lý tác ý” để hướng các giác quan vào bên trong. Năm giai đoạn đầu được gọi
là những giúp đỡ bên ngoài đối với Yoga, và ba cấp còn lại được gọi là những giúp
đõ bên trong.
Tổng trì pháp, đó là sự thu nhiếp, cột chặt tâm thần mình với một đối tượng.
Đối tượng đó có thể là đầu mũi, điểm giữa của hai chân mày, rốn hoặc trái tim hay
hình ảnh các vị thần. Đối tượng này không bắc buộc phải chọn giống nhau, miễn
sao có thể giúp giữ tâm ý kiên định trong suốt thời gian tĩnh tọa là được.
Thiền định hay Tĩnh lự pháp (Dhyana), giai đoạn này là giai đoạn tập trung
tư tưởng cao độ vào một đối tượng duy nhất trong suốt thời gian thực tập thiền
định. Đó là sự tư duy vững vàng không bị gián đoạn.
Tuệ hay Tam muội pháp (samadhi) đây là bước cuối cùng của Yoga, ở giai
đoạn này trí óc hoàn toàn hấp thụ được đối tượng của thiền định. Trong Dhyana
(bước thứ bảy) hành động của việc thiền định và đối tượng của thiền định vẫn là
hai, vẫn tách rời nhau, nhưng ở đây chúng trở thành một. Đây là trạng thái hoàn
toàn làm chủ được tâm trí, đạt đến chỗ uyên thâm, khi thành công ở giai đoạn này
cũng có nghĩa là đạt được giải thoát.
Trường phái triết học Mimansa do triết gia Jaimini sáng lập vào khoảng thế
kỷ thứ II-TCN. Trường phái này bàn về hành động, cùng với các nghi thức và sự
hiến tế của phần đầu kinh Veda. Đây là trường phái nhị nguyên luận, vì nó thừa
nhận sự tồn tại của bản nguyên tinh thần tức Brahman và bản nguyên của vũ trụ.
Trường phái Mimansa cho rằng linh hồn trong mỗi cá nhân chỉ là hiện thân của
Brahman-tinh thần vũ trụ tối cao, tuyệt đối và bất diệt. Mục đích của phái Mimansa
là cung cấp những quy tắc, theo đó các đoạn văn của Veda phải được giải thích một
cách rõ ràng về mặt triết lý cho các quan điểm có ở phần đầu của kinh Veda.
Mimansa được xem như là một trường phái là vì nó ước muốn cung cấp sự thanh

12


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
tịnh về mặt triết học, về các quan điểm của Veda, thay thế ý kiến trước đây về việc
lên thiên đường bằng lý tưởng đạt được sự giải thoát. Hay nói một cách khác là
dùng nghi lễ làm phương tiện để thoát khỏi luân hồi sinh tử. Trường phái này quan
niệm linh hồn cá thể bị trói buộc, đọa lạc là do ham muốn nhục dục của thể xác.
Cho nên linh hồn bị mê mờ, mất đi sự thanh tịnh. Và một khi linh hồn không còn
sáng suốt thanh tịnh thì không thể đạt đến sự giải thoát bằng con đường tri thức hay
tư duy trừu tượng, mà chỉ có thể giải toát bằng sự gìn giữ nghiêm ngặt và thực hiện
cho đúng mọi luật lệ, quy tắc, nghi thức được quy định trong kinh Veda.
Cho nên con đường giải thoát chỉ có thể thực hiện được bằng sự “kính cẩn
giữ truyền thống, cứ khúm núm theo đúng các nghi lễ trong các kinh sách”.
Trường phái triết học Nyaya ra đời vào khoảng TK thứ III-TCN do nhà hiền
triết Gautama sáng lập. Nyaya là trường phái nhị nguyên luận, tức là thức nhận sự
tồn tại của vật chất và linh hồn trong vũ trụ. Trường phái này cho rằng trong bản
thân các sự vật, hiện tượng và kể cả con người đều có bốn hành chất: đất, nước, lửa
và không khí. Các hành chất này được tạo bởi những hạt rất nhỏ-các nguyên tử
được gọi là Anu. Những nguyên tử -Anu là vĩnh cửu bất biến, còn vạn vật do các
nguyên tử tạo thành thì lại nhất thời, thay đổi và biến hóa. Nếu Anu được xem là
các nguyên tử các thực thể vật chất thì Ya được xem là những thực thể tinh thần tồn
tại vĩnh viễn và không thể bị tiêu diệt. Những linh hồn có thể tồn tại tự do hoặc có
thể gắn liền với các nguyên tử vật chất. Còn ý thức là thuộc tính của thực thể Ya.
Với họ nguyên nhân của những nỗi khổ trong cuộc sống con người là do
những linh hồn bất tử luôn bị trói buộc bởi những nguyên tử, cùng với những ham
muốn vật chất. Chính vì để thỏa mãn những ham muốn mà con người tạo ra nghiệp,
từ đó linh hồn cứ gắn kết với thể xác và bị giam hãm trong vòng luân hồi, không
thể trở về với bản tinh thanh tịnh bất sinh bất diệt được.Nếu muốn giải thoát, theo
Gautama thì phải triệt để tuân theo giới luật, thực tập thiền tọa, tạo ra nghiệp thiện,

diệt mọi dục vọng, xóa bỏ vô tri, mê muội bằng cách tư duy mạch lạc, sáng sủa hợp
13


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
logic hay nhận thức đúng đắn để đạt đến chân lý, tức là đạt tới cảnh giới thanh tịnh,
an vui và giải thoát.
Trường phái triết học Vaisesika do Kanada nghĩa là “Người ăn nguyên tử”
có biệt danh là Uluka sống vào khoảng TK II-TCN sáng lập. Đến TK V-SCN học
thuyết này được phát triển phong phú trong tác phẩm Prasastapat. Theo Kanada
linh hồn có hai loại: linh hồn cá biệt và linh hồn tối cao. Linh hồn tối cao là
Thượng đế, chỉ có một và là đấng toàn minh, là nguyên nhân sáng tạo ra vũ trụ, chỉ
huy các thế giới nguyên tử và thế giới linh hồn cá biệt. Còn những linh hồn cá biệt,
về bản chất chỉ là sự biển hiện của linh hồn tối cao trong cơ thể mỗi người mà thôi.
Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt nơi
mỗi người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi vào vòng
ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không giữ được bản
lai thanh tịnh của mình. Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ
bái, tích lũy khổ hạnh hay tin tưởng vào sự cứu rõi của đấng tối cao. Đối với họ,
phương pháp đưa đến sự giải thoát là phải chế dục theo pháp Yoga, diệt trừ nghiệp
lực và phải thấu triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ. Nếu thực hiện được như thế
thì linh hồn cá biệt mới đạt đến sự giải thoát hoàn toàn.
Trường phái triết học Vedanta ra đời từ việc tổng thuật, bàn luận, giải thích
kinh Veda và Upanishad. Trường hái này chia thành hai môn phái chính: Môn phái
thứ nhất ra đời vào khoảng năm 700-750 do Shankara sáng lập, có tên Advaita
nghĩa là tuyệt đối, không nhị nguyên; môn phái thứ hai do Ramanuja (1010-1091)
sáng lập có tên Visista Advaita, nghĩa là không nhị nguyên có phân biệt.
Theo Shankara, trên thế giới này không có gì tồn tại vĩnh viễn tuyệt đối
ngoài Brahman. Tất cả cá sự vật, hiện tượng và kể cà Atman đều do Brahman tạo
ra. Tất cả chỉ là sự thể hiện dưới các dạng khác nhau của một thực thể tuyệt đối,

duy nhất, tối cao, bất biến - Brahman mà thôi. Shankara cho rằng có hai cái ngã:
Brahman (đại ngã) và Atman (tiểu ngã) nhưng chỉ là một. Vì Atman bị che lấy bởi
14


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
thế giới vật dục, thế giới hiện tượng biến ảo, vô thường nên mới bị trầm luân sanh
tử.
Theo Shankara, con người không thể dùng nhận thức cảm giác hoặc tri năng
và quá trình logic để hòa nhập Atman với Brahman. Chỉ có thể tìm đến sự giải
thoát bằng con đường nhận thức trực giác, phép nội tỉnh và “thực nghiệm tâm
linh”.
Một khi nhận thức được bản chất của Atman và Brahman thì con người sẽ
trút bỏ được mọi sự ràng buộc, mê hoặc của thế giới vật chất hữu hình, hữu hạn
này. Con người sẽ không còn lòng tham vị kỷ tư lợi, chấm dứt mọi ham muốn nhục
dục, vật chất; vượt lên mọi quan niệm thiện và ác, sống và chết, sống hòa hợp,
thanh thản, vô dục, an lạc và tự tại. Đó chính là sự giải thoát. Còn môn phái Visista
Advaita cho rằng trong vũ trụ có ba thực thể tồn tại đó là: vật chất, linh hồn cá biệt
và linh hồn tối cao Brahman. Ba thực thể tồn tại này có sự liên hệ và quy định lẫn
nhau. Linh hồn cá biệt bắt thể xác phải phục tùng nó. Còn linh tồn tối cao Brahman
thống trị cả thể xác lẫn linh hồn cá biệt. Theo môn phái này, để đạt đến sự đồng
nhất giữa linh hồn cá thể và linh hồn tối cao - giải thoát chỉ có thể thực hiện được
bằng sự tu luyện, chiêm nghiệm nội tâm, bằng tính năng động của tinh thần cộng
với sự hiểu biết và lòng kính yêu Thượng đế Brahman, ngoài cách này ra không
còn cách nào khác.
Nhìn chung sáu trường phái triết học chính thống Bà-la-môn giáo tuy mỗi
trường phái có quan niệm khác nhau về thế giới vật chất cũng như vai trò của đấng
tối cao - Thượng đế và có những đường lối tu tập riêng biệt, nhưng tất cả những
trường phái này đều lấy sự giải thoát làm mục đích cuối cùng, lấy sự tu luyện tri
thức, trao dồi đạo đức, lánh xa trần tục, tìm nơi thanh vắng để tĩnh tâm, thiền định,

“thực nghiệm tâm linh” và diệt dục làm phương châm hầu đạt đến giác ngộ và giải
thoát cho mình. Tuy tất cả các trường phái đều vạch ra con đường giải thoát nhưng
con đường ấy chỉ dành cho giai cấp thượng đẳng, chứ không phải dành cho tất cả
15


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
mọi tầng lớp trong xã hội. Đây là điểm hạn chế lớn nhất mà sáu trường phái chính
thống vấp phải. Hạn chế này chỉ được khắc phục khi Đạo Phật ra đời. Đức Thích
Ca mâu Ni tuyên bố: không có đẳng cấp trong giọt máu cùng đỏ và nước mắt cùng
mặn. Chính vì lời tuyên bố này mà Ngài bị chống đối kịch liệt vì đã làm đảo lộn
trật tự phân biệt đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Nhưng lại được các vua
quan triều đình, các trưởng giả giàu sang, đặc biệt là những đẳng cấp dưới ủng hộ
một cách chân thành nhiệt tình. Và Ngài cho rằng: “tất cả chúng sinh đều có Phật
tính”; ”Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Cho nên, Ngài thu nhận tất
cả những ai muốn vào giáo đoàn và bình đẳng hướng dẫn để mọi người đều tiến
đến giải thoát như nhau.
2.2.2. Tư tưởng giải thoát trong các trường phái triết học không chính thống
Phật giáo
Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào cuối TK VI-TCN
với tư cách là một hệ thống triết lý đạo đức nhân sinh, nhằm mang lại một cuộc
sống hòa bình, an lạc, hạnh phúc cho mỗi chúng sinh trên cuộc đời, giúp con người
đoạn trừ những khổ đau và tìm ra con đường giải thoát khỏi tất cả những khổ đau
của cuộc đời. Phật giáo cho rằng phải tu luyện tâm trí theo giới luật để xóa bỏ vô
minh, diệt trừ mọi tham dục làm cho tâm trở nên bản nhiên thanh tịnh, hòa nhập
vào Niết bàn – một trạng thái tâm hồn tự do tự tại, dứt bỏ hay dập tắt ngọn lửa dục
vọng, đoạn trừ được mọi vọng động ưu tư tưởng, trạng thái siêu thế, vô sinh, bất
hoại, duy nhất, trường cửu hạnh phúc, không tùy thuộc vào nguyên nhân nào.
Phật giáo khẳng định thế giới về bản chất chỉ là một dòng biến ảo vô thường,
không do một vị thần nào sáng tạo ra cả. Sở dĩ vũ trụ vạn vật biến hóa vô thường

chính là do vạn vật trong vũ trụ chịu sự chi phối của luật nhân quả. Do vô minh và
lòng tham dục khiến con người sa vào thế giới vật dục, ra sức hành động chiếm
đoạt để thỏa mãn những ái dục của mình, gây nên những nỗi khổ triền miên. Con
người không nhận thức được cái biến ảo vô thường, vô định của thế giới mới là
16


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
chân thực, không nhận thức được cái vô ngã của vạn pháp, nghĩa là không thấy
được cái gốc của sự biến hóa vô cùng, vô tận ở vạn vật và chúng sinh là do nhân
duyên, nên con người ta lầm tưởng ngộ nhận rằng, cái gì cũng thường định, tồn tại
mãi mãi. Cái gì cũng là của ta, do ta, vì vậy, con người cứ khát ái, tham dục dẫn
đến hành động chiếm đoạt, tạo ra những quả, gây nên nghiệp báo, mắc vào bể khổ
triền miên trong tam giới.
Từ thế giới quan Nhân duyên sinh, triết lý Phật giáo đã vạch ra nguồn gốc
nỗi khổ của con người và con đường dẫn đến sự diệt khổ nhằm giải thoát chúng
sinh khỏi bể khổ cuộc đời bằng Tứ diệu đế và Bát chính đạo. Cùng với Thập nhị
nhân duyên, đây là tư tưởng triết lý đạo đức nhân sinh căn bản của Phật giáo. Tứ
diệu đế là 4 chân lý cao thượng, chắc chắn, hiển nhiên, gồm:
Khổ đế: Nhân sinh quan và thế giới quan Phật giáo cho rằng cuộc đời là bể
khổ, là thung lũng nước mắt: sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, tử khổ, ái biệt
ly khổ (yêu nhau mà phải xa nhau là khổ), oán tăng hội khổ (ghét nhau mà phải
chung sống với nhau là khổ), sở cầu bất đắc khổ (cầu mà không được là khổ)
và ngũ uẩn thịnh khổ.
Tập đế: Lý giải về nguyên nhân dẫn đến những nỗi khổ đau phiền não trong
đời người. Theo triết lý Phật giáo, nguyên nhân của những nỗi khổ đau đó là do con
người ta có lòng tham lam, sân hận, si mê và tham dục, khát ái. Dục vọng của con
người lại có nguyên nhân sâu xa từ sự vô minh, không hiểu được do nhân duyên
chi phối khiến vạn vật vạn pháp đều không thường hằng, biến ảo khôn lường mà cứ
bám víu, chấp ngã, nên ra sức hành động để chiếm đoạt cái mà chính tâm trí con

người phóng chiếu lên trên bức màn vô minh, từ đó sinh ra khổ não muôn kiếp
không dứt.
Diệt đế: Phương pháp diệt trừ nỗi khổ, giải thoát con người khỏi nghiệp
chướng, luân hồi. Phật giáo cho rằng chỉ có tận diệt ái dục, xóa bỏ vô minh mới
mong thoát khỏi khổ đau, mới mong đạt tới tình trạng Niết bàn. Nhưng Niết bàn,
theo Phật giáo, không phải là cõi riêng biệt tồn tại độc lập khách quan với con
17


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
người, mà nằm chính trong tâm trí con người, ngay trên thế gian này và nhờ vào sự
nỗ lực tu luyện nghiêm túc. Trong kinh Pháp cú, Đức Phật dạy: “Chỉ có ta làm điều
tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gột rửa
cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta. Không ai có thể làm người khác trở nên
trong sạch”.
Đạo đế: Là cách thức, con đường để được giải thoát khỏi nỗi khổ. Đây là con
đường “trung đạo”, không phải là cách tu luyện khổ hạnh ép xác, cũng không phải
là chìm đắm trong dục lạc, thấp hèn, thô bỉ. Con đường để tận diệt vô minh, giải
thoát, theo Đức Phật là con đường ở giữa hai thái cực kia, là con đường tu luyện
đạo đức theo giới luật, là con đường tu luyện tri thức, trí tuệ bằng “thực nghiệm
tâm linh”, “trực giác”.
Và đó là Bát chính đạo, gồm:
+ Chính kiến: Nhận thức đúng, nhìn nhận rõ phải trái, không để những điều sai trái
che lấp sự sáng suốt của mình.
+ Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn để đạt tới chân lý và giác ngộ.
+ Chính nghiệp: Hành động làm việc đúng đắn, không làm điều gian ác, tàn bạo giả
dối.
+ Chính ngữ: Nói những điều đúng đắn, điều phải, điều tốt, không được nói những
điều gian dối, điều ác, điều xấu.
+ Chính mệnh: Sống đúng đắn, trung thực, nhân nghĩa, không tham lam, gian tà, vụ

lợi.
+ Chính tinh tiến: Nỗ lực, sáng suốt, nâng lên một cách đúng đắn.
+ Chính niệm: Phải luôn tâm niệm và suy nghĩ đến đạo lý chân chính, đến điều tốt,
không được nghĩ đến điều xấu xa, bạo ngược.
+ Chính định: Kiên định, tập trung tư tưởng tâm trí vào con đường, đạo lý chân
chính, không để bất cứ điều gì làm lay chuyển tâm trí, đạt tới giác ngộ.

18


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
Phật giáo khái quát ba phương pháp tu tập đó gọi là “Tam học” gồm: giới,
định và tuệ. Cùng với Bát chính đạo,Phật giáo còn đưa ra phép tu tổng quát cho tất
cả các hạng phật tử, đó là Ngũ giới, tức là 5 điều răn, gồm: cấm sát sinh; cấm làm
điều ác, xấu xa, gian dối, phi nghĩa; cấm tà dâm; cấm nói dối, bịa đặt; cấm uống
rượu; Và Lục độ, tức là 6 phép tu, gồm: bố thí, tự đem công sức tài trí của cải của
mình ra cứu người; trì giới, giữ nghiêm giới luật; nhẫn nhục, sự kiên nhẫn, nhường
nhịn, chịu đựng trong hành động, lời nói, không phục thù…; tinh tiến, sự cố gắng,
nỗ lực vươn lên, học tập tu luyện đạo pháp ngày một tốt hơn; thiền định, sự tập
trung cao độ tâm trí vào một chỗ để tâm được an trí; bát nhã là trí tuệ do thiền định
phát sinh mà hiểu rõ được thực tướng vạn pháp. Về sau những phương pháp tu
luyện của Phật giáo còn được bổ sung khá phong phú, song phương pháp chủ yếu
vẫn là Bát chính đạo, Ngũ giới và Lục độ. Trong đó Ngũ giới là phép tu bước đầu
của người xuất gia tu hành; Lục độ là phép tu của các bậc tu hành đắc đạo.

19


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
KẾT LUẬN

Được biểu hiện dưới nhiều hình thức ở khắp nơi trên thế giới, nhưng Ấn Độ
chính là cội nguồn và đỉnh cao của tư tưởng giải thoát. Đối với các trường phái triết
học và tôn giáo Ấn Độ, mục đích tối cao của đời sống con người là phải vượt qua
sự mê ngộ, vô minh, nhận ra bản tính của mình và vạn vật, hoà nhập với bản thể vũ
trụ tuyệt đối, chân thực, bằng nhận thức trực giác, "thực nghiệm tâm linh" hay là sự
chiêm nghiệm, vén mở chính thế giới nội tâm con người. Đó chính là sự giải thoát.
Tuy cùng một mục đích chung là đi tìm lẽ sống, đạo sống của con người, nhưng các
trường phái triết học Ấn Độ cổ đại lại phát triển theo nhiều khuynh hướng mang
tính chất khác nhau, khác trong quan niệm về thế giới cũng như quan niệm về nhân
sinh, dẫn đến sự khác nhau trong việc đi tìm con đường giải thoát.
Tư tưởng giải thoát trong kinh Veda chủ yếu nhằm giải quyết mâu thuẫn
giữa một bên là những mối đe doạ đến sự sinh tồn, sống chết của con người bởi
những lực lượng thiên nhiên mạnh mẽ, huyền bí với một bên là ý chí, ước vọng
vươn lên để khẳng định sự tồn tại của bản thân con người, cầu mong một cuộc sống
an lành. Vì vậy cách giải thoát của kinh Veda thiên về con đường thờ phụng, cầu
xin sự trợ giúp của các đấng thần linh. So với kinh Veda, kinh Upanishad đã thể
hiện một bước biến đổi về chất trong nội dung, con đường và phương pháp. Sự giải
thoát trong triết lý Upanishad được thực hiện bằng chính sức mạnh trí tuệ, lý trí và
sự tu luyện đạo đức của con người. Sau thời kỳ Veda là thời kỳ cổ điển. Trong thời
kỳ này, hệ thống triết học chính thống có sáu trường phái chính, mỗi trường phái lại
có những quan điểm và phương pháp giải thoát khác nhau. Có trường phái chủ
trương giải thoát bằng nghi thức tế tự, có trường phái chú trọng cách giải thoát
bằng con đường tu luyện trí tuệ, lại có trường phái đề cao sự rèn luyện thể xác, tinh
thần đạo đức nhằm diệt mọi dục vọng và vô minh.

20


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại
Với những ảnh hưởng sâu rộng mà triết học và văn hoá Ấn Độ nói chung và

triết học Ấn Độ cổ đại nói riêng lan toả hàng ngàn năm qua ở Đông Nam Á, triết
học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều vấn đề của triết học, thể
hiện tính biện chứng và tầm khái quát khá sâu sắc, đưa lại nhiều đóng góp quý báu
vào kho tàng di sản triết học của nhân loại.

21


Tư tưởng giải thoát trong Triết học Ấn Độ cổ đại

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Doãn Chính – Trương Văn Chung – Vũ Tình, 2003, Đại cương lịch sử triết học
phương Đông cổ đại, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội.
2. Phó Doãn Chính, 2010, Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
3. Will Durant, Nguyễn Hiến Lê dịch, 2002, Lịch sử văn minh Ấn Độ, Nxb. Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
4. Phó Doãn Chính, 1999, Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nxb. Thanh
Niên, Hà Nội.
5. Diễn đàn kiến thức />6. Diễn đàn lý học Đông Phương
/>7. Diễn đàn Phật học

22



×