Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

tiểu luận cao học Tư tưởng của lênin về sở hữu và các thành phần kinh tế trong tác phẩm “bàn về thuế lương thực” quá trình nhận thức, vận dụng tư tưởng này trong nền kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.23 KB, 39 trang )

Mở đầu
Hiện nay nước ta đang quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đảng và nhà nước ta chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu. Vậy đó là
những thành phần nào?chúng có mối quan hệ với nhau ra sao? Có phải
chúng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần là đang đi theo chủ nghĩa tư bản
? Nghiên cứu về vấn đề này,Lê-nin trên cơ sở kế thừa quan điểm của MacĂngghen đã đưa ra quan điểm của mình về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội từ những nước kém phát triển một cách khoa học và hoàn thiện hơn. Đặc
biệt, lý luận của Lênin về sở hữu và các thành phần kinh tế - một trong
những nội dung cơ bản của Chính sách kinh tế mới, được Người trình bày
trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc
trong việc xây dựng mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa ở những nước tiểu
nông.
Theo Lênin, đối với các nước kinh tế kém phát triển đi lên chủ nghĩa
xã hội thì không thể xoá bỏ ngay các hình thức sở hữu và các thành phần
kinh tế. Để có chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ –
thời kỳ còn tồn tại những thành phần kinh tế, những bộ phận, những mảnh
của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề này là một vấn đề hết sức phức tạp, cần làm rõ về mặt lý luận
trong giai đoạn hiện nay. Để tiếp tục làm rõ hơn về vấn đề này, em chọn đề
tài: “Tư tưởng của Lênin về sở hữu và các thành phần kinh tế trong tác
phẩm “Bàn về thuế lương thực”. Quá trình nhận thức, vận dụng tư tưởng
này trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam “ làm bài tiểu luận.
Trong khuôn khổ tiểu luận môn học, em xin đề cập đến quan
niệm của Lênin về các thành phần kinh tế; vai trò; các hình thức của nó và
2


chủ trương vận dụng các thành phần kinh tế này của Đảng ta trong thời kỳ
trước và sau đổi mới.
Nội dung bài tiểu luận gồm 3 phần:


I: Lý luận của Lênin về sở hữu và các thành phần kinh tế
II:Ý nghĩa Tư tưởng của Lênin về sở hữu và các thành
phần kinh tế đối với nước Nga-Xô viết
II: Vận dụng lý luận của Lênin về sở hữu và các thành phần
kinh tế ở nước ta trong thời kỳ trước và sau đổi mới

3


Nội dung
Sau cách mạng tháng 10 Nga (1917) nước Nga bị các thế lực thù địch
chống phá quyết liệt, tình hình nước Nga hết sức khó khăn “một tình trạng
suy sụp về kinh tế ghê gớm nhất, từ nạn thất nghiệp và nạn đói kém”, nhân
dân hoang mang. Trước tình hình đó Lê-nin đó thông qua chính sách “cộng
sản thời chiến”. Nhờ chính sách này, nước Nga đó chiến thắng được kẻ thù,
giữ vững được chính quyền”. Nhưng sau nội chiến nước, nước Nga lâm vào
tình trạng khủng hoảng trầm trọng, kinh tế đất nước tổn hại nặng nề, chính
trị-xã hội rối ren,nhân dân biểu tình, bất mãn. Trước bối cảnh đó buộc Đảng
cộng sản Nga và Nhà nước Xô viết không thể duy trì tiếp Chính sách cộng
sản thời chiến. Đại hội X của Đảng cộng sản(B) Nga đã chủ trương thay
Chính sách cộng sản thời chiến bằng Chính sách kinh tế mới. Do đó, V.I.Lê
nin đã viết tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”, Lý luận về vấn đề sở hữu và
các thành phần kinh tế được trình bày trong tác phẩm này.
I. Lí luận của Lênin về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế.
1. Sự tồn tại các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ ở nước Nga
Qua 3 năm thực hiện chính sách kinh tế “ cộng sản thời chiến”, việc
xoá bỏ các thành phần kinh tế xác lập chế độ công hữu, tiến hành quốc hữu
hoá một cách nhanh chóng tài sản của giai cấp tư sản đã làm triệt tiêu động
lực phát triển của các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Nhưng các

hình thức sở hữu phi xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại một cách không chính
thức. Đứng trước tình hình đó, Lênin đã có nhận thức mới về sở hữu và các
thành phần kinh tế: tình hình hiện tại của nước Nga chưa thể thủ tiêu các

4


hình thức phi sở hữu xã hội chủ nghĩa vì nước Nga chưa thức sự có chủ
nghĩa xã hội, mà đang mới ở bước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lênin viết “ Danh từ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô-viết có
nghĩa là chính quyền xô-viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên Chủ
nghĩa xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế
hiện nay là chế độ xã hội chủ nghĩa”. 1
Đồng thời, Người cũng quan niệm về thời kỳ quá độ vận dụng vào
kinh tế nghĩa là trong thời kỳ đó có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội đan xen nhau. Cụ
thể, ở nước Nga lúc đó tồn tại 5 thành phần kinh tế, đó là:
1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính
chất tự nhiên.
2. Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán
lúa mì)
3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
5. Chủ nghĩa xã hội.
Lê-nin cho rằng điều quan trọng cần chú ý không phải là có bao
nhiêu thành phần kinh tế mà là mối quan hệ đan xen giữa các thành phần
kinh tế và xu thế phát triển của các thành phần kinh tế như thế nào để
chuyển sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
2. Đặc điểm và vai trò của các thành phần kinh tế.
2.1Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng.

Đây là thành phần kinh tế tiền tư bản, trong xã hội trước chủ nghĩa tư
bản thành phần kinh tế này gắn liền với sản xuất nhỏ mang tính tự cung, tự
cấp, khép kín trong gia đình. Sự phân công lao động trong thành phần kinh
1

V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 248, tập 43

5


tế này là theo giới tính và tuổi tác, không có sự trao đổi lẫn nhau. Thành
phần kinh tế này thường tồn tại ở vùng sâu, vùng xa chiếm một tỷ trọng nhỏ
“ Nhưng trên tất cả những vùng mênh mông ấy, còn thịnh hành những
phong tục gia trưởng, tình trạng nửa dã man và cả tình trạng dã man nữa.
Và trong những xóm làng xa xôi của phần còn lại của nước Nga thì thế
nào? Tức là trong tất cả mọi nơi mà hàng chục dặm đường làng nhỏ hẹp,
hay đúng hơn là hàng chục dặm không có một con đường lớn nào, tách xóm
làng ra khỏi đường sắt, nghĩa là tách xóm làng khỏi sự liên hệ vật chất với
nền văn minh, với chủ nghĩa tư bản, với đại công nghiệp, với thành thị lớn.
Ở khắp mọi nơi trong tất cả những xóm làng đó, há không phải là chế độ
gia trưởng , là tinh thần Ô – blo – mốp, tình trạng nửa dã man đang ngự trị
đó sao?” 2
.
“kinh tế nông dân kiểu gia trưởng nghĩa là một phần lớn có
tính chất tự nhiên” 3
Trong tác phẩm ”Bàn về chế độ hợp tác xã”, Lê-nin khẳng định:
Những điều chúng ta phải làm là tập hợp những tầng lớp nông dân Nga thật
sâu rộng vào các hợp tác xã, trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân
với việc nhà nước kiểm soát được lợi ích đó để phục vụ lợi ích chung” Chế
độ hợp tác xã văn minh” đó có khả năng đem lại” bước quá độ sang một chế

độ mới bằng con đường đơn giản nhất,dễ dàng nhất,dễ tiếp thu nhất đối với
nông dân.
2.2Thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ

2
3

V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 275, tập 43
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 248, tập 43

6


Thành phần kinh tế này bao gồm những người tiểu nông ở nông thôn
và tiểu thủ công nghiệp ở thành thị. Đây là thành phần kinh tế chiếm tỷ trọng
tuyệt đại đa số.
“ Thử hỏi, thành phần kinh tế nào chiếm ưu thế ? Rất rõ ràng,
trong một nước tiểu nông thì tính tự phát tiểu tư sản chiếm ưu thế và không
thể không chiếm ưu thế, số đông, thậm chí là đại đa số nông dân đều là
những người sản xuất nhỏ…” 4
- Thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ có đặc điểm sau:
+ Sở hữu nhỏ, phân tán theo từng hộ gia đình.
+ Kinh tế thủ công, năng suất lao động thấp, sản xuất và tái sản xuất
giản đơn.
+ mang tính chất tư hữu như : tệ đầu cơ, tính tự phát tiểu tư sản gây
cản trở cho sự nghiệp cách mạng ” “Chúng ta thừa biết rằng: cơ sở kinh tế
của tệ đầu cơ là tầng lớp những kẻ tiểu tư hữu vô cùng rộng rãi ở nước Nga
và chủ nghĩa tư bản tư nhân, có đại diện của mình trong mỗi người tiểu tư
sản. Chúng ta biết rằng hàng triệu vòi của con thuồng luồng tiểu tư sản ấy
đang quấn lấy một số tầng lớp của công nhân lúc ở chỗ này lúc ở chỗ nọ,

rằng nạn đầu cơ đang chui vào mọi chân lông kẽ tóc của đời sống kinh tế xã hội nước ta” 5
+ Người lao động mang tính hai mặt; một mặt, mang tính cách mạng
nhưng luôn giao động, mặt khác, mang tính tư hữu phân tán, Có điều này là
vì họ không có hệ tư tưởng riêng và không đại diện cho một phương thức
sản xuất tiên tiến. Thành phần kinh tế kinh tế này thường không định hình,
cố định, tự giác.

4
5

V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 248, tập 43
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 250, tập 43

7


“… Sự phá sản, cùng khốn, sinh hoạt gian khổ gây ra sự do dự: ngày
nay thì theo giai cấp tư sản, ngày mai thì theo giai cấp vô sản…” 6 ,
nó là” là cái không định hình nhất, không cố định nhất, không tự giác
nhất “7
Vậy, giải pháp để phát triển thành phần kinh tế này là gì ?
Theo Lênin : Chúng ta động viên tinh thần cách mạng, tinh thần lao
động của họ, có chính sách tạo điều kiện cho họ phát triển như : vốn, kỹ
thuật, quản lý…
Trong tác phẩm ”Bàn về chế độ hợp tác xã”, Lê-nin khẳng định:
Những điều chúng ta phải làm là tập hợp những tầng lớp nông dân Nga thật
sâu rộng vào các hợp tác xã, trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân
với việc nhà nước kiểm soát được lợi ích đó để phục vụ lợi ích chung “làm
cho người tiểu tư sản ấy phục tùng sự kiểm soát và kiểm kê của chúng ta” 8”
“Chế độ hợp tác xã văn minh” đó có khả năng đem lại” bước quá độ sang

một chế độ mới bằng con đường đơn giản nhất,dễ dàng nhất,dễ tiếp thu nhất
đối với nông dân.
Hướng nông dân vào làm ăn tập thể là con đường đơn giản
nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Nhưng, hợp tác phải
bằng con đường tự nguyện, không được cưỡng chế. Lênin cũng chỉ rõ rằng,
làm ăn tập thể là con đường, phương tiện để khôi phục kinh tế, thoát khỏi
tình trạng tối tăm, lạc hậu mà chủ nghĩa tư bản đã đem lại cho người dân ở
nông thôn.
Đồng thời, cải thiện đời sống nhân dân, giúp đỡ tiểu thủ công nghiệp
2.3 Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 291, tập 43
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 291, tập 43
8
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 250, tập 43
6
7

8


Đây là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân là chủ yếu.
- Thành phần kinh tế này có đặc điểm là:
+Thành phần kinh tế tư bản tư nhân đối lập với thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa, Lê nin hiểu rất rõ về thành phần này,ông biết rằng khuyến
khích thành phần này phát triển sẽ làm sống dậy chủ nghĩa tư bản nhưng nó
không thực sự đáng sợ vì đã bị nhà nước quốc hữu hoá những xí nghiệp lớn,
chúng chỉ còn sở hữu những xí nghiệp vừa và nhỏ.
+ Nó vẫn có thế mạnh của riêng nó, đó là, nó có cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, trình độ tổ chức quản lí tốt, năng suất lao động cao, có mối
liên hệ chặt chẽ với nền sản xuất hàng hoá. Cho nên cần lợi dụng nó để xây

dựng chủ nghĩa xã hội.
+ có mối liên hệ chặt chẽ với nền sản xuất hàng hoá.
-Vai trò của thành phần kinh tế này là:
+ Dựa vào thành phần kinh tế này để chống lại tình trạng phân tán sản
xuất nhỏ và bệnh quan liêu.
+ Góp phần đưa nước Nga thoát khỏi khủng hoảng, đóng vai trò trợ
lực cho chủ nghĩa xã hội “ …chủ nghĩa tư bản tư nhân mà lại đóng vai trò
trợ thủ cho chủ nghĩa xã hộ à ?
Nhưng điều đó không có gì là ngược đời cả; đó
là một sự thật kinh tế hoàn toàn không thể chối cải được”. 9
Lê-nin nhấn mạnh hiện nay” người nào thu được nhiều kết quả nhất,
dẫu bằng con đường kinh tế tư bản tư nhân, thậm chí không phải bằng con
đường hợp tác xã, không trực tiếp biến chủ nghĩa tư bản ấy thành tư bản
nhà nước sẽ giúp ích cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong toàn

9

V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 281, tập 43

9


bộ nước Nga nhiều hơn những kẻ chỉ ngồi”lo lắng” đến sự thuần túy của
chủ nghĩa tư bản” 10
- Từ các đặc điểm trên Lênin đã đưa ra các giải pháp cho thành phần
kinh tế này là:
+ Chúng ta phải khẳng định sự tồn tại khách quan của nó “… không
có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh mới
nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức nhà nước có kế hoạch
khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm ngặt một

tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản phẩm, thì
không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được” 11
+ Chúng ta không nên cho chủ nghĩa tư bản là xấu mà phải thấy được
vai trò của nó “…thường thường chúng ta vẫn còn lặp lại cái lý luận cho
rằng : chủ nghĩa tư bản là xấu, chủ nghĩa xã hội là tốt. Nhưng cái lý luận ấy
là sai…”12
+Chúng ta cần tiến hành phục hồi lại các xí nghiệp tư nhân đã góp
phần phát triển đất nước ”Việc phục hồi lại sự hoạt động kinh tế-điều này
rất cần thiết đối với chúng ta…kết quả sẽ tiếp tục tốt nếu chúng ta biết khéo
làm” 13
2.4 Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Thành phần kinh tế này là ý tưởng mới của Lênin, trước đây chưa có
ai đề cập đến, kể cả C.Mac và Ph.Ăngghen.Thành phần kinh tế này rất quan
trọng trong giai đoạn quá độ, được Lênin hết sức chú trọng.
- Khái niệm:
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 280-281, tập 43
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 276, tập 43
12
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 276, tập 43
13
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 256, tập 44
10

11

10


“ Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thứ Chủ nghĩa tư bản mà chúng
ta có thể hạn chế, có thể qui định giới hạn; chủ nghĩa tư bản nhà nước đó

gắn liền với nhà nước, mà nhà nước chính là công nhân, chính là bộ phận
tiến tiến của công nhân, là đội tiên phong, là chúng ta” 14
“ Chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự giám sát của nhà nước đối với chủ
xí nghiệp và thương nhân, những người hoạt động trong hợp tác xã tư sản”15
Hay, Lênin còn cho rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước là thứ mà 3/4 là
Chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản nhà nước mà Lênin nói đến là một kiểu tư
bản có nghĩa vụ thực hiện các mục tiêu của giai cấp vô sản đề ra, là công cụ
để nhà nước vô sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là chuẩn bị tiền đề
vật chất cho Chủ nghĩa xã hội. Do đó, Người viết: “Chủ nghĩa tư bản nhà
nước ở trong một nước mà chính quyền thuộc về tư bản và chủ nghĩa tư bản
nhà nước ở trong một nhà nước vô sản - đó là 2 khái niệm hoàn toàn khác
nhau” 16 Vì, nhà nước vô sản không phải đại diện cho giai cấp tư sản mà đại
diện cho giai cấp vô sản. Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong một nhà nước vô
sản chẳng những nắm ruộng đất, mà còn nắm tất cả những bộ phận quan
trọng của công nghiệp và làm lợi cho giai cấp công nhân, để cho giai cấp
công nhân chống lại được giai cấp tư sản.
Theo Lê-nin, sự tồn tại của kinh tế tư bản nhà nước là một tất yếu “
về phương diện kinh tế, đó là điều có thể thực hiện được, vì ở chỗ nào có
những thành phần tự do buôn bán và những thành phần tư bản chủ nghĩa
nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác, ở trình độ này hay ở trình
độ nọ” 17 .
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 102, tập 44
11 V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 249, tập 43
16
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 58, tập 44
17
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 268, tập 43
14
15


11


Sự tất yếu của thành phần kinh tế tư bản nhà nước được thể hiện qua
vai trò của nó như sau:
-Vai trò của thành phần kinh tế tư bản
Không phải đến khi đưa ra “Chính sách kinh tế mới”, Lênin mới nói
đến chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà từ trước khi những người bôn-sê-vích
nắm được chính quyền (từ 9/1917), Người đã có những nhận định khá sâu
sắc về vấn đề này, rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước không phải là một hình
thức xã hội chủ nghĩa, nhưng những người cộng sản phải làm nhiệm vụ của
nhà tư bản là xây dựng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Vì “trong một nước dân
chủ cách mạng thực sự, Chủ nghĩa tư bản độc quyền - nhà nước tất nhiên
và nhất định phải có nghĩa là một bước tiến lên Chủ nghĩa xã hội, Chủ
nghĩa xã hội không phải là cái gì khác hơn là một bước tiến liền ngay sau
chế độ độc quyền tư bản nhà nước”, “Chủ nghĩa tư bản độc quyền - nhà
nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho Chủ nghĩa xã hội, là phòng
chờ đi vào Chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó)
với nấc thang được gọi là Chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc nào ở giữa
cả” 18
Nhận thức rõ điểm xuất phát của nước Nga, Lênin khẳng định rằng từ
một nước với nền kinh tế tiểu nông là chủ yếu quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
thì không có con đường nào khác và thích hợp hơn là phải “bắc những chiếc
cầu nhỏ” vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, phải biết nghĩ
đến các “mắt xích trung gian” có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước
chuyển từ nền tiểu sản xuất lên Chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Vì chúng ta
chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên Chủ nghĩa xã
hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, Chủ nghĩa tư bản là không thể tránh
khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy,

18

V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 256, tập 43

12


chúng ta phải lợi dụng Chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào
con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền
tiểu sản xuất và Chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương
pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”19.
Việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước là cần thiết và không còn
phải bàn cãi gì nữa. Nó sẽ khắc phục tình trạng tản mạn, phân tán của sản
xuất nhỏ và bệnh quan liêu do sản xuất nhỏ sinh ra. Do đó, “chủ nghĩa tư
bản nhà nước vẫn là một bước tiến lớn” cho dù chúng ta phải trả học phí cho
nó, nhưng điều ấy không những không làm cho chúng ta diệt vong, trái lại,
nó sẽ đưa chúng ta đến Chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất.
Mặt khác, chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ giúp chính quyền xô-viết tiếp
cận được với nguồn vốn, với kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý tiên tiến để
tạo ra năng suất lao động cao hơn, có vậy mới chiến thắng được Chủ nghĩa
tư bản. “Chừng nào mà giai cấp công nhân học biết cách giữ gìn trật tự nhà
nước chống tình trạng vô chính phủ của tiểu tư hữu, chừng nào mà giai cấp
công nhân học được cách sắp đặt tổ chức sản xuất với quy mô lớn toàn
quốc, trên cơ sở chủ nghĩa tư bản - nhà nước, thì khi ấy tất cả những con
chủ bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ bảo đảm cho Chủ nghĩa xã hội
được củng cố” 20
Lênin đã thừa nhận: “ chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn
rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước ta” 21
Song, vấn đề đặt ra là việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước có
đáng sợ không? Vai trò của nhà nước xô-viết đối với thành phần kinh tế này


19

V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 256, tập 43

20

V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 252, tập 43
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 252, tập 43

21

13


như thế nào? Liệu có thể kết hợp, liên hợp, phối hợp nhà nước xô-viết với
chủ nghĩa tư bản nhà nước được không?
Trả lời vấn đề này, Lênin đã khẳng định rằng: “chủ nghĩa tư bản nhà
nước không có gì là đáng sợ đối với chính quyền xô-viết, vì nước xô-viết là
một nước mà trong đó chính quyền của công nhân và nông dân nghèo đã
được đảm bảo” 22 .Như vậy có thể khẳng định sự tồn tại của thành phần kinh
tế tư bản nhà nước trong giai đoạn quá độ là một tất yếu.
-Lênin đã chỉ ra các hình thức cơ bản của các hình thức của chủ nghĩa
tư bản nhà nước
Lênin đã chỉ ra những hình thức cơ bản của chủ nghĩa tư bản nhà
nước, đó là: tô nhượng trong công nghiệp, hợp tác xã của những người sản
xuất nhỏ, tư nhân làm đại lý cho nhà nước trong thương nghiệp và nhà nước
cho tư nhân thuê các xí nghiệp, cơ sở sản xuất.
+ Hình thức tô nhượng:
Theo Lênin, đó là một giao kèo, một sự liên kết, một liên minh giữa

chính quyền nhà nước xô-viết với chủ nghĩa tư bản nhà nước để chống lại
thế lực tự phát tiểu tư hữu. Người viết: “Tô nhượng là gì? Là hợp đồng giữa
nhà nước và một nhà tư bản, người này cam kết tổ chức hoặc hoàn thiện sản
xuất (chẳng hạn như đẵn và chở gỗ, khai thác than, dầu lửa, khoáng
sản,v.v.) trả cho nhà nước một phần sản phẩm sản xuất ra, và nhận một
phần khác dưới danh nghĩa là lãi” 23
So với các hình thức khác của chủ nghĩa tư bản nhà nước,
Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô nhượng có lẽ
là hình thức đơn giản nhất, rành mạch nhất, sáng tỏ nhất, có hình thù rõ rệt
nhất” 24 . Vì, chúng ta có hợp đồng trực tiếp trên giấy tờ, chúng ta biết chính
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 252, tập 43
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 299, tập 43
24
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 270, tập 43
22
23

14


xác cái lợi và cái hại, quyền hạn và nghĩa vụ của mình, biết rõ thời hạn cho
tô nhượng.Bên cạnh đó, Lênin cũng nhấn mạnh: “ Tô nhượng không đáng
sợ, nếu chúng ta chỉ giao cho những người được tô nhượng một vài nhà
máy, còn đa số nhà máy thì vẫn giữ lại”, “ Tô nhượng là không đáng sợ,
chừng nào mà chúng ta vẫn nắm trong tay tất cả các xí nghiệp quốc doanh
và chừng nào mà chúng ta cân nhắc một cách chính xác và nghiêm túc xem
chúng ta có thể tiến hành tô nhượng những gì, với điều kiện như thế nào và
với mức độ ra sao” 25 .Như vậy, Chủ nghĩa tư bản ở đây hoàn toàn bị kiểm
soát và nó chỉ hoạt động nhằm làm cho những tư liệu sản xuất được sử dụng
một cách hiệu quả hơn phục vụ cho sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

+ Hình thức hợp tác xã.
Lênin chỉ ra 2 loại hình hợp tác xã, đó là hợp tác xã tiêu dùng và hợp
tác xã sản xuất.
“Hợp tác xã tiêu dùng là sự tập hợp công nhân và nông dân, nhằm
mục đích cung cấp và phân phối những sản phẩm cần thiết cho họ”,
“Hợp tác xã sản xuất là sự tập hợp những người tiểu nông hoặc thợ
thủ công, nhằm mục đích sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm vừa nông
nghiệp (chẳng hạn như rau, sản phẩm sữa và v.v.), vừa phi nông nghiệp
(sản phẩm công nghiệp đủ mọi loại, đồ bằng gỗ, bằng sắt, bằng da,v.v.)
26

.Theo Lênin, “các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản

nhà nước nhưng ít đơn giản hơn, có hình thù rõ rệt hơn, phức tạp hơn " 27..
Các hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ nhất định sẽ sản sinh ra những
quan hệ tư bản, tiểu tư sản, góp phần phát triển những quan hệ ấy, đẩy
những nhà tư bản nhỏ lên hàng đầu, mang lại cho họ những lợi ích lớn nhất.
Do đó, tự do và quyền lợi của hợp tác xã có nghĩa là tự do và quyền lợi cho
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 191, tập 43
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 271, tập 43
27
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 271, tập 43
25
26

15


Chủ nghĩa tư bản. Song, dưới chính quyền xô-viết, hợp tác xã là một hình
thái của chủ nghĩa tư bản nhà nước cho nên trong một mức độ nào đó nó có

lợi và có ích.
Lênin viết: “Chủ nghĩa tư bản hợp tác xã giống chủ nghĩa tư bản nhà
nước ở chỗ nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự kiểm kê, kiểm soát, theo dõi,
cho những quan hệ đã ghi trong hợp đồng giữa nhà nước (ở đây là nhà
nước xô-viết) với nhà tư bản”, mặt khác, “nó tạo điều kiện thuận lợi cho
việc liên hợp và tổ chức hàng triệu người, sau đó toàn thể dân chúng; và
tình hình ấy lại là một điều lợi rất lớn cho bước quá độ tương lai từ chủ
nghĩa tư bản nhà nước lên Chủ nghĩa xã hội” . 28
Nếu mang so sánh 2 hình thức: tô nhượng và hợp tác xã, chúng ta sẽ
thấy rõ: Hình thức tô nhượng dựa trên cơ sở đại công nghiệp cơ khí; hợp
đồng của nó chỉ quan hệ đến một nhà tư bản và có thời gian chính xác; việc
giám sát của nhà nước đối với người nhận tô nhượng dễ dàng hơn; việc
chuyển từ tô nhượng lên Chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một hình thức đại
sản xuất này sang một hình thức đại sản xuất khác.
Còn chế độ hợp tác xã thì lại dựa trên cơ sở tiểu thủ công nghiệp; nó
bao gồm hàng ngàn, hàng triệu tiểu nghiệp chủ. Thêm vào đó, hợp tác xã
không có hợp đồng và cũng không có thời hạn chính xác; việc giám sát các
xã viên khó khăn hơn; chuyển từ hợp tác xã của người sản xuất nhỏ lên Chủ
nghĩa xã hội là chuyển từ tiểu sản xuất sang đại sản xuất. Đây là một bước
quá độ phức tạp hơn. Nhưng nếu thành công, lại có thể bao gồm được những
khối quần chúng nhân dân đông đảo hơn, sẽ nhổ được tận gốc rễ sâu xa hơn,
dai dẳng hơn của quan hệ cũ tiền xã hội chủ nghĩa và tiền tư bản.
Nhận thức được vai trò của hợp tác xã, Lênin đã chỉ đạo: “Các nhà
chức trách xô-viết chỉ cần kiểm tra hoạt động của các hợp tác xã để tránh
28

V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 272, tập 43

16



sự gian lận, việc giấu giếm nhà nước, hoặc các sự lạm quyền; bất luận thế
nào cũng không được hạn chế sự phát triển của các hợp tác xã, mà trái lại
phải bằng đủ mọi cách giúp đỡ hợp tác xã” 29
+ Hình thức đại lý
Đây cũng là một trong những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà
nước. ở đây “nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả
cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản
phẩm của người sản xuất nhỏ” 30.Điều đó nghĩa là, nhà tư bản thương nghiệp
làm đại lý để tiêu thụ sản phẩm và cung cấp đầu vào cho các xí nghiệp của
nhà nước.
+ Hình thức cho thuê các xí nghiệp, cơ sở sản xuất
Là hình thức mà “nhà nước cho một nhà kinh doanh - tư bản thuê một
xí nghiệp hoặc vùng mỏ, hoặc khu rừng, khu đất” 31. Nó giống với hợp đồng
tô nhượng.
Hai hình thức trên đã không được quan tâm chú ý. Chính vì vậy Lênin
đã chỉ ra rằng, đó là sai lầm của những người vô sản khi không nhận thức
đúng về điểm xuất phát, cũng như sứ mệnh lịch sử của mình. Theo Người,
để có thể làm tròn một cách thắng lợi nhiệm vụ của giai cấp vô sản, tức là
chuyển thẳng lên Chủ nghĩa xã hội, thì giai cấp vô sản phải hiểu những
đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển
từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên Chủ nghĩa xã hội.
2.5 Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là thành phần kinh tế dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể.

V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 303, tập 43
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang302, tập 43
31
V.I.Lênin Toàn tập, NXB chính trị quốc gia trang 302, tập 43

29
30

17


Đây là thành phần kinh tế mới được hình thành từ việc quốc hữu hoá
một số xí ngiệp lớn của kinh tế tư nhân, chưa phải là thành phần kinh tế đặc
trưng nhưng lại nắm các vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân như cong
nghiệp, ngân hàng, tín dụng, tài chính. Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
là cơ sở của nhà nước Xô-Viết, là công cụ để điều tiết các cơ cấu kinh tế
khác. Ở Nga thành phần này chưa chiếm ưu thế, mới được hình thành và còn
non yếu, đang gặp nhiều khó khăn.
Các thành phần kinh tế được trình bày trên đây tạo nên một cơ cấu
kinh tế thống nhất, làm tiền đề cho nhau, đồng thời cũng mâu thuẫn với nhau
và tạo nên 2 hệ thống đối lập nhau, đó là hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa
(bao gồm Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản nhà nước) và hệ thống kinh
tế tư bản chủ nghĩa (bao gồm Chủ nghĩa tư bản tư nhân, sản xuất hàng hóa
nhỏ và kinh tế nông dân kiểu gia trưởng).
Như vậy ,sự tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là một
tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử, đặc biệt
trong điều kiện một nước tiểu nông quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại
của các thành phần kinh tế không có nghĩa là đi theo con đường chủ nghĩa tư
bản mà đó chỉ là “mắt xích trung gian” để đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính
Lênin đã khẳng định: quả thật, tốt hơn là nên trước hết hãy thực hiện chủ
nghĩa tư bản nhà nước, để rồi sau đó, đi đến Chủ nghĩa xã hội. Đồng thời
Người cũng phê phán những ai đã đem Chủ nghĩa tư bản đối lập một cách
trừu tượng với Chủ nghĩa xã hội mà không nghiên cứu những hình thức cụ
thể của nó trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, đó là một sai lầm hết
sức nghiêm trọng về phương diện lý luận.

Trong quan niệm của Lê-nin về các thành phần kinh tế ở nước Nga
sau nội chiến, Lê-nin đã sắp xếp các thành phần kinh tế theo tính chất tăng
lên của tính chất xã hội chủ nghĩa; tỷ trọng các thành phần kinh tế theo từng
18


giai đoạn của lịch sử; sự biến đổi tỷ trọng các thành phần kinh tế phải theo
hướng xã hội chủ nghĩa.
II.Ý nghĩa Tư tưởng của Lênin về sở hữu và các thành phần kinh tế
đối với nước Nga-Xô viết
Về lý luận: Quan điểm của Lê-nin về sở hữu và các thành phần kinh tế
là sự bổ sung, phát triển lý luận của Lê-nin về mô hình kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những bổ sung và phát triển đó là: Trong giai
đoạn quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tồn tại các
loại sở hữu và các thành phần kinh tế.
Trong nền kinh tế hiện nay vấn đề phát triển kinh tế hàng hóa và cơ
chế thị trường phải có sự quản lý của nhà nước để bảo vệ thành quả cách
mạng, đặc biệt coi trọng thành phần kinh tế tư bản nhà nước bởi nó là: “mắt
xích trung gian” để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Về thực tiễn:
Tư tưởng của Lê-nin có ý nghĩa thực tiễn to lớn:
Trên cơ sở lý luận nó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân
dân lao động đặc biệt là nông dân và công nhân chấp nhận. Nó đã khơi dậy
được tiềm năng, sức mạnh của mọi thành phần kinh tế trong xã hội ,vì vậy
chỉ một thời gian ngắn, nền kinh tế Nga đã đi vào ổn định và phát triển, đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, đến năm 1926, Liên Xô tuyên bố Chính
sách kinh tế mới đã hoàn thành vai trò lịch sử của nó là đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế để bước vào một thời kỳ mới-thời kỳ đẩy mạnh CNH
đất nước.
Như vậy tư tưởng của Lê-nin có vai trò to lớn đối với nước Nga- Xô

Viết lúc bấy giờ, đưa nước Nga trong giai đoạn khủng hoảng lên nền kinh tế
phát triển mạnh, đời sống nhân dân ổn định. Đây là thời kỳ mà về sau này
được đánh giá rằng, chính V.I. Lênin đã thực hiện một bước ngoặt cách
19


mạng vĩ đại đối với nền kinh tế Xô - Viết, hình thành lý luận về một mô hình
kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ những nước lạc hậu, sản
xuất nhỏ còn là phổ biến.
III. Vận dụng tư tưởng của Lê-nin vào thực tiễn nước ta về các
thành phần kinh tế trước và sau đổi mới.
Tư tưởng của Lênin về các thành phần kinh tế đã được triển khai
trong công cuộc xây dựng đất nước Xô - Viết và đã đem lại những thành tựu
quan trọng, nhất là ở thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới. Quan điểm về
các loại sở hữu và các thành phần kinh tế có vai trò đối với tất cả quốc gia
muốn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển.
Tư tưởng của Lê-nin về sở hữu và các thành phần kinh tế mang tính
quốc tế sâu sắc, nó đã thoát khỏi phạm vi chật hẹp của nước Nga để là bài
học, cơ sở lý luận cho những nước đi sau, kém phát triển.Tính thời sự của nó
thể hiện ở việc hiện nay rất nhiều nước đang phát triển vẫn tiếp tục quan
điểm những năm 1921-1939 để tìm con đường, biện pháp giải quyết hình
quyết tình hình kinh tế còn lạc hậu hiện nay.
Nước ta cũng là một nước lạc hậu, kém phát triển, đặc biệt là sau khi
kết thúc hai cuộc kháng chiến thì hoàn cảnh nước ta cũng khá là giống với
nước Nga lúc Lênin đề ra chính sách kinh tế mới. Vì vậy, sự tồn tại nhiều
thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Bởi vì:
-Khi bước vào thời kỳ quá độ, lực lượng sản xuất và trình độ phát
triển kinh tế thấp, không đồng đều giữa các xí nghiệp, giữa các ngành các
vùng trong nền kinh tế. Xã hội cũ để lại không ít các thành phần kinh tế,
không thể xoá bỏ hay cải biến nhanh được.


20


-Sự ra đời của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải phát triển dần từ
thấp tới cao. Vì vậy còn tồn tại kinh tế tư bản tư nhân và sản xuất nhỏ của
nông dân và thợ thủ công là tất yếu.
-Sử dụng các thành phần kinh tế sẽ tạo điều kiện sử dụng có hiệu quả
tiềm năng về vốn, công nghệ, lao động trí tuệ, kinh nghiệm quản lý… tạo
công ăn việc làm cho người lao động.
Hơn nữa sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế còn mang lại những lợi
ích to lớn: làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng của lực lượng
sản xuất. Sự phù hợp đó thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, nâng cao
hiệu quả kinh tế; góp phần khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá; cho
phép khai thác và sử dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế;
tạo điều kiện thực hiện các hình thức kinh tế quá độ để đưa nước ta từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
Sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế trên lý thuyết là
như thế nhưng để áp dụng vào thực tiễn thì cần phải có thời gian, phải tuỳ
từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Vậy, tư tưởng của Lênin về các thành phần
kinh tế đã và đang được vận dụng ở nước ta như thế nào ?.
1.Trước đổi mới
Trong “Chính cương vắn tắt” của Đảng ngày 3/2/1930, Hồ Chí Minh
đã chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản, nghĩa là không kinh qua giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Tuy nhiên, trong tác phẩm “Thường thức chính trị” năm 1953,
Người đã nói đến sự tồn tại của 5 loại kinh tế khác nhau trong chế độ mới,
đó là:
- Kinh tế quốc doanh (thuộc Chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của
nhân dân)


21


- Các hợp tác xã (nó là nửa Chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến Chủ
nghĩa xã hội)
- Kinh tế cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp
tác xã, tức là nửa Chủ nghĩa xã hội)
- Tư bản tư nhân
- Tư bản của nhà nước (như nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để
kinh doanh), tiếp đó trong “ Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ
họp thứ 11 Quốc hội khoá I nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”, Người đã
chỉ ra 4 hình thức sở hữu tồn tại ở nước ta. Người cũng chỉ ra rằng thành
phần kinh tế quốc doanh là chủ đạo và nền kinh tế nước ta phát triển theo
hướng chủ nghĩa xã hội chứ không phải là chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên, , chúng ta đã không quán triệt tư tuởng của Người do bệnh
quan liêu, duy ý chí, nóng vội nên chúng ta đã không quán triệt tư tuởng của
Người, cũng như không coi trọng những quan điểm của Lê-nin về các loại
sở hữu và các thành phần kinh tế, vì thế chính sách kinh tế nhiều thành phần
chỉ dừng lại ở lý thuyết, hình thức, nền kinh tế lúc này chủ yếu là nền kinh tế
với hai hình thức sở hữu là sở hữu tập thể và sở hữu công cộng với hai thành
phần kinh tế là: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, nhà nước quản lý nền
kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, thực hiện bao cấp giá.
Kinh tế quốc doanh được ưu tiên phát triển, lan rộng nhanh chóng bao
trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân, ngược lại các hình thức khác bị xem nhẹ,
thậm chí bị cấm đoán như kinh tế tư bản tư nhân. Kết cục đó tất yếu dẫn đến
hậu quả: xã hội trì trệ, mất động lực phát triển, các nguồn lực bị lãng phí, có
một bộ phận người dân mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội .
Nói chung, trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta
chưa thực sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại ở nước ta

22


trong một thời gian tương đối dài. Việc cải tạo các thành phần kinh tế phi xã
hội chủ nghĩa được thực hiện theo kiểu chiến dịch, gò ép, không căn cứ vào
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Những sai lầm này tất yếu dẫn
đến tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng vào cuối những
năm 70 – đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta
phải có những thay đổi lớn trong nhận thức và hành động, phải tìm ra con
đường, bước đi phù hợp để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Dưới áp lực của tình hình khách quan, nhằm thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội, chúng ta đã có những cải tiến nền kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đứng trước tình hình Đảng ta đã nhìn nhận vào thực tế và có những
bước điều chỉnh phù hợp, sự điều chỉnh được thể hiện qua nhiều Hội nghị
trung ương, cụ thể là : chỉ thị số 100-CT/TW của Ban bí thư Trung ương
khoa IV, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IV(1985) về giá-lương-tiền, Nghị
quyết 20/NQ-TW do Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8- 1979) nêu ra:
Chủ trương ban hành ngay các chính sách khuyến khích sản xuất nông
nghiệp: ổn định nghĩa vụ lương thực 5 năm; bán cho Nhà nước theo giá thoả
thuận, được lưu thông tự do, khuyến khích xuất khẩu nông sản, sửa đổi cách
phân phối trong hợp tác xã. ở miền Nam, cải tạo nông nghiệp phải đảm bảo
đúng nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi; thừa nhận nhiều thành phần kinh tế:
quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể, kể cả tư sản.
2. Sau đổi mới
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như các nước
xã hội chủ nghĩa trước đây thì tư tưởng của Lê nin về các loại hình sở hữu
và các thành phần kinh tế không chỉ là mẫu mực về giải pháp tình thế mà là
đường lối mang tính chất chiến lược, là cơ sở lý luận về con đường quá độ đi
23



lên chủ nghĩa xã hội:xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Tính bước ngoặt của nhận thức mới của Đảng ta về các thành phần
kinh tế thể hiện rõ nét ở Đại hội VI (1986) - Đại hội của sự đổi mới, mà
trọng tâm là đổi mới kinh tế.
Đại hội đã nhận thức lại việc phát triển kinh tế nhiều thành phần và
khẳng định:
+ Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản
mà là thành tựu chung của nhân loại,
+Kinh tế thị trường còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế còn tồn tại
khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định, hiện nay nước ta còn tồn tại các thành phần kinh tế:
kinh tế XHCN gồm quốc doanh và tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng
hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, người buôn bán và kinh doanh dịch vụ
cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự
cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và
các vùng núi cao khác.
Trên cơ sở xác định các thành phần kinh tế, việc cải tạo XHCN cũng
xuất phát từ sự nhận thức đầy đủ về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ: “cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế”
bởi vì nó “ cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế qui mô và trình độ kỹ
thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông nhằm
khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong
đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo”.
Như vậy, một mặt Đảng ta thừa nhận còn tồn tại nhiều thành phần
kinh tế, mặt khác đặt vấn đề cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể,
tư bản tư nhân, nhưng không phải là trong một thời gian ngắn vài ba năm,
24



thậm chí một vài kế hoạch 5 năm mà coi đó là nhiệm vụ tiến hành trong suốt
thời kỳ quá độ. Nghị quyết Trung ương 6, khoá VI chỉ rõ: “ Trong điều kiện
nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, tư nhân vẫn cần
thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu nền kinh tế hàng hoá đi
lên chủ nghĩa xã hội” . Thời điểm này Đảng ta cũng đã xác định : “Kinh tế
tư bản nhà nước là hình thức kinh tế quá độ, có thể được tổ chức từ thấp
đến cao, từ đại lý cung ứng và tiêu thụ hàng hóa, làm gia công, cho đến hợp
doanh với nhà nước”
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta đã
khẳng định “Phải vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng về chinh sách kinh tế mới, về
chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc
thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể để đưa nước ta đi
lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”
Vấn để cải tạo và sử dụng các thành phần kinh tế được thực hiện theo
hai phương châm: sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn. Tuy nhiên,
để tiến hành cải tạo XHCN một cách vững chắc và khai thác có hiệu quả
những tiềm năng của các thành phần kinh tế phi XHCN, Đại hội nhấn mạnh:
“ làm cho kinh tế quốc doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các
thành phần kinh tế khác”. Đây là điều kiện tiên quyết trong sử dụng cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc và toàn diện đòi hỏi chúng ta phải có những bước
trung gian, quá độ dài.Thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đã cho chúng ta
thấy đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu không thể ” quá độ trực tiếp lên
chủ nghĩa xã hội” được. Bài học xương máu của việc tiến hành công nghiệp
25



hóa xã hội chủ nghĩa, phát triển công nghiệp nặng trước những năm đổi mới
cũng cho chúng ta thấy rõ điều đó. Do vậy chúng ta phải “gián tiếp lên chủ
nghĩa xã hội”
Như vậy, Đại hội VI , Đảng ta chủ trương đa dạng hoá các loại hình
sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy lý luận và nhận thức thực tiễn.
Đảng không chỉ thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu của nền kinh tế nhiều
thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, mà còn nhận thấy sự cần thiết phải có
chính sách đúng đắn nhằm sử dụng và phát triển các thành phần kinh tế,
trong đó có kinh tế tư nhân nhằm thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội. Cùng với sự vận động của thực tiễn và sự phát triển của nhận thức, lý
luận về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung, hoàn thiện qua các
kỳ Đại hội sau.
+ Tại Đại hội VII quan điểm phát triển các thành phần kinh tế được
Đảng ta rất dứt khoát: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp,
không gò ép tập thể hoá tư liệu sản xuất,..” và “ trong nền kinh tế thị trường,
với quyền tự do kinh doanh được pháp luật đảm bảo, từ ba loại hình sở hữu
cơ bản ( toàn dân, tập thể, tư nhân )…”, “mọi người được tự do kinh doanh
theo pháp luật…Mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt quan hệ sở hữu đều
hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau
bình đẳng trước pháp luật”.
So với Đại hội VI, quan điểm về các thành phần kinh tế có sự bổ
sung, phát triển một số điểm mới quan trọng:

26



×