Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

tiểu luận cao học Tư tưởng hồ chí minh về phát triển nông nghiệp, nông thôn vận dụng tư tưởng hồ chí minh về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.21 KB, 53 trang )

MỞ ĐẦU
“…Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước
tôi được hoàn toàn độc lập, dân tôi được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái
nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc, để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm
bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu...”
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta, chiến
sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc, Người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách
mạng của dân tộc. Trước khi qua đời, Người đã để lại cho Đảng và nhân dân
ta di sản lý luận vô cùng quý giá, thật sự là nguồn trí tuệ to lớn soi sáng công
cuộc đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, kinh tế
nông nghiệp là chủ yếu. Sản xuất nông nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng
đối với việc phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Ngay trong ngày
đầu cách mạng Tháng Tám mới thành công, trong Thư gửi điền chủ nông gia
Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: "Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp.
Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước
nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một
phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta
thịnh" ( Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, trang 215)
Trong khi lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh cho rằng vai trò của sản xuất nông nghiệp
có ý nghĩa đối với sự thành bại của kháng chiến. Nông nghiệp, nông thôn lúc
bấy giờ có thể nói là toàn bộ hậu phương của cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh
nhiều lần nhắc đên câu châm ngôn “thực túc binh cường”. Ngay khi cuộc
kháng chiến bắt đầu nổ ra, Hồ Chí Minh đã nhận định để kháng chiến chóng
1


thành công thì phải tích cực phát triển nông nghiệp làm cơ sở, làm hậu phương


cho tiền tuyến lớn. Từ năm 1949 Người đã chỉ rõ: “Mặt trận kinh tế gồm có
công nghệ, buôn bán, nông nghiệp. Ngành nào cũng quan trọng cả. Nhưng lúc
này quan trọng nhất là nông nghiệp vì “có thực mới vực được đạo”. Có đủ
cơm ăn, áo mặc cho bộ đội và nhân dân thì kháng chiến mới mau thắng lợi,
thống nhất và độc lập mới thành công”. Năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại
viết: “Quân và dân ta phải ăn no để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Vì vậy, sản
xuất lương thực và thực phẩm là rất quan trọng”. Chính vì thế, Tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một bộ phận trong
hệ thống tư tưởng kinh tế của Người. Những tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí
Minh về phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện; ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hoá; phát triển kinh tế tập thể, xã hội hoá nông
nghiệp, xây dựng quan hệ sản xuất trong nông nghiệp là mẫu mực của sự vận
dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và những
quy luật kinh tế khách quan vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, không
những có ý nghĩa thực tiễn to lớn, mà còn là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng
đã và đang được các cấp bộ Đảng và chính quyền vận dụng để xây dựng phát
triển nền kinh tế nông nghiệp nước ta đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trải qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới kể từ năm 1986 đến nay,
nền nông nghiệp nước ta cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, với những
tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục trong nhiều năm đã dần dần đưa mức
sống của nhân dân được nâng cao. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu chúng
ta đạt được thì sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn nhiều mặt bất cập, thiếu
tính bền vững, quy mô sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp còn nhỏ, phân
tán, trình độ khoa học công nghệ thấp, sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản
nước ta khi đưa ra xuất khẩu và bán trên thị trường thế giới yếu, thị trường
tiêu thụ hạn hẹp, thu nhập của nông dân thấp.
2


Tổng kết thực tiễn 25 năm đổi mới, Tại Đại Hội Đảng lần thứ XI ta đã

khẳng định: Trong quá trình đổi mới cần phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Những tư tưởng của Người đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Như vậy, việc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận, nâng cao
trình độ nhận thức phục vụ cho công tác giảng dạy và góp phần thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp phát triển trong tình hình hiện nay là cần thiết, vì những lý
do trên tác giả xin chọn đề tài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình, tác
giả mong muốn góp phần vào việc tìm hiểu tư tưởng kinh tế của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Tuy nhiên, do những hạn chế về kiến thức,vì vậy tác giả sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình hoàn thành tiểu luận này. Rất mong
sự đóng góp ý kiến và của quý thầy cô, các bạn có quan tâm để đề tài nghiên
cứu được hoàn thiện tốt hơn.
Kết cấu tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu
tham khảo, nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn
Chương 2: Những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát
triển kinh tế nông nghiệp và nông
Chương 3: Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển
kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở nước ta hiện nay

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN
1. Cơ sở lý luận
1.1 Giá trị truyền thống của Việt Nam
Nước ta đi lên từ một đất nước có nền nông nghiệp tiểu nông lạc hậu.Vì
vậy, đã làm cho những người nông dân Việt Nam sống gắn bó và đùm bọc lẫn
nhau. Từ đó đã tạo nên những giá trị truyền thống của dân tộc như ý thức lấy
nông nghiệp làm gốc, tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên,
tính cộng đồng, dân chủ, linh hoạt, miềm dẻo...
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng coi trong nông nghiệp, bởi
nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu thiết
yếu cho xã hội.
Nhân dân Việt Nam là sống trọng tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữ.
Suốt cuộc đời bôn ba năm châu bốn biển. Hồ Chí Minh vẫn giữ chọn những
giá trị truyền thống của dân tộc. Người đi xa mà vẫn giữ nguyên tình cảm quê
hương, gia tộc vẫn không quên giọng quê xứ Nghệ. Ngoài truyền thống yêu
nước, chuộng hòa bình, là tinh thần đoàn kết và cách ứng xử linh hoạt của con
người Việt Nam. Trong thời đại Hồ Chí Minh, chiến tranh nhân dân đã được
nâng lên thành nghệ thuật mà biểu hiện sinh động của nó là sự phối hợp chặt
chẽ các hình thức đấu tranh khác nhau: đánh địch ngoài chiến trường, kết hợp
với công tác địch vận, giải thích, tuyền truyền cho đối phương và kiên trì đàm
phán với địch để kết thúc chiến tranh.
Trong hệ thống giá trị truyền thống của dân tộc, bên cạnh những giá trị
truyền thống văn hóa nhân gian cổ truyền là những tư tưởng kinh tế của những
cá nhân kiệt xuất có ảnh hưởng nhất định trong các thời kỳ lịch sử cũng góp
4


phần hình thành tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh. Có những tư tưởng kinh tế tác
động nhất định tới sự phát triển kinh tế tiến bộ ảnh hưởng tích cực đến sự hình
thành tư tưởng phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn Hồ Chí Minh.

1.2 Lý luận C.Mác và Ăngghen về nông nghiệp
Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, C.Mác và Ăngghen cho rằng sản
xuất của cải vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Thật
vậy, muốn sống, trước hết còn người phải có ăn, uống, ở và những của cải vật
chất khác. Những thứ này không có sẵn trong tự nhiên, chúng được tạo ra
thông qua lao động của còn người.
C.Mác cho rằng: "Đứa trẻ con nào cũng biết rằng bất kể dân tộc nào
cũng sẽ diệt vong, nếu như ngừng lao động, không phải một năm mà chỉ mấy
tuần thôi". Sản xuất của cải vật chất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói
riêng là một tất yếu khách quan. Nó cần thiết cho mọi hình thái kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và trên cơ sở đó, quan hệ
sản xuất có sự biến đổi làm cho tính chất của sản xuất, phân phối, trao đổi của
mỗi hình thái kinh tế xã hội có sự khác biệt nhất định. Trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người, do tồn tại chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên
đã tồn tại quan hệ người bóc lột người. Trong nông nghiệp cũng vậy, chế độ
tư hữu ruộng đất đã gây ra nhiều trở ngại cho sự phát triển và nâng cao năng
suất lao động nông nghiệp.
C.Mác viết: "Sở hữu ruộng đất, nguồn gốc đầu tiên của mọi của cải trở
thành một vấn đề lớn mà việc giải quyết sẽ định tương lai của giai cấp công
nhân". Theo Mác, để giải phóng giai cấp vô sản thoát khỏi ách áp bức, bóc lột,
trước hết phải giải quyết vấn đề sở hữu. Trong nông nghiệp đó là giải quyết
vấn đề sở hữu ruộng đất. Làm được việc đó, bước đầu đã khắc phục được trở
ngại lớn cho sự phát triển nông nghiệp, nhất là đưa tiến bộ khoa học công
nghệ vào sản xuất, kinh doanh. C.Mác chỉ rõ: "Trong nông nghiệp, do xiềng
5


xích của chế độ tư hữu, do tình trạng phân tán của ruộng đất, nên rất khó áp
dụng những sự cải tiến và những thành tựu của khoa học và sẽ cung cấp hoàn
toàn đầy đủ sản phẩm cho xã hội".

C.Mác đã vạch ra những nhân tố cản trở sự phát triển của nông nghiệp đó
chính là chế độ tư hữu về ruộng đất, nhất là sở hữu nhỏ, phân tán đã làm cho đất
đai manh mún, cạn kiệt màu mỡ, khó áp dụng khoa học kỹ thuật và Ông cho rằng
cần phải tiến hành một nền sản xuất lớn trong nông nghiệp. C.Mác viết:
"Cái mà chúng ta cần là một nền sản xuất ngày một lớn, và nhu cầu của
một nền sản xuất vẫn không thể nào được thỏa mãu khi một nhóm người còn
có thể điều tiết sản xuất theo sở thích và lợi ích riêng tư của họ hoặc làm cạn
kiệt ruộng đất một cách ngu ngốc. Tất cả những phương pháp hiện đại như
tưới nước, tiêu nước, cày bằng hơi nước, sản phẩm hóa học... phải được áp
dụng rộng rãi trong nông nghiệp. Nhưng những tri thức khoa học mà chúng ta
nắm được và những phương tiện kỹ thuật để canh tác mà chúng ta có chỉ có
thể dụng một cách có kết quả nếu được dùng trong việc canh tác đại quy mô".
Khi nghiên cứu tình hình sản xuất nông nghiệp ở Pháp, C.Mác lại nhấn
mạnh vấn đề sở hữu nhỏ, cá thể về ruộng đất - nhân tố cản trở việc áp dụng
khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp. C. Mác viết:
"Ở Pháp, quả vậy hễ ai có khả năng mua đất, đều có thể có ruộng đất,
nhưng chính việc có thể có được ruộng đất như vậy đã dẫn đến tình trạng
phân chia đất đai thành nhiều mảnh nhỏ được canh tác bởi những người có ít
tiền và chủ yếu dựa vào lao động của bản thân và gia đình mình. Hình thức sở
hữu ruộng đất và phương thức anh tác bằng những mảnh đất nhỏ do hình
thức sở hữu ấy tạo nên, đang loại trừ mọi việc ứng dụng những phương pháp
cải tiến hiện đại trong nông nghiệp, đồng thời biến bản thân người nông dân
thành kẻ kiên quyết phản đối mọi tiến bộ xã hội và nhất là phản đối quốc hữu
hóa ruộng đất".
6


Vậy giải quyết vấn đề sở hữu nhỏ về ruộng đất này bằng cách nào? Làm
thế nào để đưa một nước đại bộ phận là tiểu nông lên sản xuất lớn sau khi giai
cấp vô sản đã giành được chính quyền? Khi viết về "Vấn đề nông dân ở Pháp

và ở Đức". Ph. Ăngghen chỉ rõ: "... Chúng ta thấy trước sự tiêu vong tất yếu
của tiểu nông, nhưng chúng ta tuyệt nhiên không có nhiệm vụ đẩy nhanh sự
tiêu vong đó bằng sự có thể thiệp của mình... Cũng hoàn toàn hiển nhiên
rằng khi chúng ta nắm được chính quyền chúng ta sẽ không thể nghĩ đến dùng
bạo lực để tước đoạt tiểu nông (dù có hoặc không có bồi thường cũng vậy).
Nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu nông trước hết là phải hướng nền kinh tế
của họ vào con đường kinh doanh hợp tác, không phải bằng bạo lực mà bằng
những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội".
1.3 Lý luận Lênin về nông nghiệp
Cơ sở lý luận của vấn đề ruộng đất trong phát triển nông nghiệp ở Nga.
Trong các tác phẩm: "Phong trào kinh tế mới trong đời sống của nông
dân", "Bàn về cái gọi là thị trường", "Thế nào là người bạn dân và họ đã
chống lại những người dân chủ xã hội như thế nào", "Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản ở Nga", "Chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp", "Dự thảo cương
lĩnh của Đảng ta"... và trong nhiều tác phẩm về vấn đề ruộng đất khác, Lênin
đã chỉ ra những nguyên nhân chi phối cuộc đấu tranh của giai cấp nông dân
Nga chống lại bọn địa chủ; chỉ rõ cơ sở kinh tế chính trị, xã hội của sự hình
thành giai cấp nông dân Nga sau cải cách.
Tiếp tục phát triển lý luận về địa tô của Mác, trong tác phẩm "Vấn đề
ruộng đất và những kẻ phê phán Mác", Lênin đã những những vấn đề quan
trọng nhất của lý luận về ruộng đất: địa tô, phê phán quy luật độ màu mỡ của
đất đai giảm dần, sản xuất lớn và sản xuất nhỏ trong nông nghiệp, tính chất
đối kháng giữa thành thị và nông thôn...

7


Trong tác phẩm "Cương lĩnh ruộng đất của Đảng xã hội dân chủ trong
cuộc cách mạng đầu tiền ở Nga năm 1905 - 1907", Lênin đã chỉ rõ chế độ sở
hữu ruộng đất tư nhân là sự trở ngại của việc đầu tư tự do tư bản vào ruộng

đất. Người viết: "Do đó, thủ tiêu chế độ tư hữu ruộng đất tức là xóa bỏ đến
mức tối đa có thể có được trong xã hội tư sản, tất c ả những trở ngại, ngăn
cản việc tự do dùng tư bản vào nông nghiệp và tự do chuyển tư bản từ ngành
sản xuất này sang ngành sản xuất khác. Sự phát triển do, rộng rãi nhanh
chóng của chủ nghĩa tư bản, sự tự do hoàn toàn cửa cuộc đấu tranh giai cấp,
sự xóa bỏ tất cả những khâu trung gian khổ cần thiết cho nền nông nghiệp
giống như một nền công nghiệp có những "nhịp độ kinh khủng" quốc hữu hóa
ruộng đất dưới chế độ sản xuất tư bản chủ nghĩa là như thế đấy".
Trong "Dự thảo giải thích cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ" được
việt trong nhà tù năm 1895 - 1896, Lênin đã chỉ ra biện pháp phải thực hiện
đối với chính sách ruộng đất ở Nga như sau:
Cần bãi bỏ những khoản phải chuộc lại ruộng đất và tiền bồi thường của
nông dân đối với những khoản thanh toán chuộc lại đất đai.
Hoàn lại cho nông dân ruộng đất đã cắt của họ trong năm 1861.
Cần thực hiện bình đẳng hoàn toàn trong các khoản nộp và các khoản
thuế thu trên ruộng đất của nông dân và địa chủ.
Bãi bỏ chế độ liên đới bảo lãnh và tất cả các đạo luật ngăn cản những
người nông dân sử dụng ruộng đất của họ.
Thực hiện chính sách ruộng đất và kế hoạch hợp tác hóa của Lênin:
Quốc hữu hóa ruộng đất là biện pháp đầu tiền do Lênin đưa ra nhằm
chuyển ruộng đất cho nông dân lao động Lênin viết: "Chính phủ Xô viết phải
tuyên bố hủy bỏ ngay tức khắc quyền tư hữu ruộng đất của bọn địa chủ mà
không phải trả tiền chuộc". Lênin nói: giai cấp vô sản ở Nga cần giành lại giai
cấp nông dân ở những người xã hội cách mạng bằng cách ban hành sắc lệnh
8


về ruộng đất. Trong đó nêu rõ: "giai cấp vô sản với tốc độ, nghị lực và tinh
thần tận tụy cách mạng, đã hoàn toàn và ngay lập tức thỏa mãn toàn bộ
những nhu cầu kinh tế cấp thiết của đa số nông dân, đã hoàn tước đoạt bọn

địa chủ mà không có bồi thường gì cả".
Sắc lệnh về ruộng đất là đạo luật đầu tiên trên thế giới về việc xóa bỏ
chế độ chiến hữu ruộng đất tư nhân. Lần đầu tiên trong lịch sử chỉ có chính
quyền Xô viết mới giải quyết được vấn đề ruộng đất. Sắc lệnh về ruộng đất và
các văn kiện khác của Nhà nước Xô viết về ruộng đất có ý nghĩa cực kỳ to lớn
đối với việc thu hút giai cấp nông dân về phía giai cấp vô sản, để củng cố và
phát triển Nhà nước Xô viết.
Hợp tác hóa là con đường tất yếu để giải phóng nông dân và nâng cao
năng suất lao động trong nông nghiệp.
Lênin cho rằng lao động trong nền kinh tế nhỏ ít năng suất, ở đó không
thể áp dụng và sử dụng hợp lý máy móc nông nghiệp cũng như khoa học kỹ
thuật hiện đại. Nền kinh tế tiểu nông lãng phí lớn lãnh đạo của còn nhân dân.
Lênin viết: "Nếu chuyển từ nền kinh tế nhỏ, phân tán ấy sang nền kinh tế tập
thể thì năng suất lao động sẽ tăng lên gấp đôi, sự tiêu phí lao động của con
người trong nông nghiệp và trong sản xuất xã hội sẽ ít đi hai ba lần". Chính vì
vậy Nhà nước Xô viết bằng mọi cách thúc đẩy việc xuất hiện và phát triển các
xí nghiệp tập thể.
Tuy nhiên trong một nền kinh tế mà đại bộ phận là tiểu nông thì không
nhanh chóng chuyển sang kinh tế tập thể được mà nó phải trải qua một thời
gian dài với nhiều bước quá độ. Lênin viết: "Cuộc cách mạng của toàn thể
nông dân vẫn là một cuộc cách mạng tư sản và... nếu không trải qau một loạt
bước quá độ, một loạt giai đoạn quá độ thì trong một nước lạc hậu không thế
biến cuộc cách mạng đó thành cách mạng xã hội chủ nghĩa được".

9


Thật vậy, sau "chính sách cộng sản thời chiến", nền kinh tế nước Nga rơi
vào tình trạng khủng hoảng, lương thực thiếu thốn, hàng hóa tiêu dùng khan
hiếm, tâm trạng nông dân không phấn khởi... Lênin cho rằng chính sách cộng

sản thời chiến đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đó là chiến thắng được thù
trong, giặc ngoài. Vấn đề quan trọng, trước mắt là làm sao cải thiện được đời
sống của nhân dân, nhất là nông dân. Lúc này Lênin quyết định chuyển sang
"Chính sách kinh tế mới", thay chế độ trưng thu lương thực bằng chính sách
thuế lương thực. Thực chất của chính sách này là phát triển nền kinh tế tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước Xô viết. Chính sách này đã tạo mọi điều kiện để những người tiểu
nông sản xuất ra nhiều lương thực, thực phẩm, người sản xuất nhỏ đang sản
xuất cho sự lưu thông hàng hóa cho tới khi nền sản xuất thắng lợi hoàn toàn và
được khôi phục hoàn toàn. Nhưng việc khôi phục này không thể thực hiện
được trên cơ sở cũ. Đây là công việc phải làm trong nhiều năm, ít ra trong
hang chục năm, và trong tình trạng bị phân tán của chúng ta hiện nay, thì có
thể lâu hơn. Từ nay đến đó, chúng ta còn phải quan hệ với những người sản
xuất nhỏ đó trong nhiều năm nữa, và do đó khẩu hiệu tự do buôn bán vẫn là
không thể tránh khỏi".
Lênin cũng chỉ rõ việc cải tạo người tiểu nông cần phải có một thời gian dài.
Người viết, cải tạo người tiểu nông, cải tạo toàn bộ tâm lý và tập quán của họ là
một công việc phải làm nhiều thế hệ mới xong. Đối với người tiểu nông thì chỉ
có cơ sở vật chất kỹ thuật, những máy kéo và máy móc với quy mô lớn trong
nông nghiệp, điện khí hóa trên quy mô lớn, mới có thể giải quyết được vấn đề đó,
mới có thể làm toàn bộ tâm lý của họ, có thể nói trở nên lành mạnh được.
Theo Lênin, điều kiện kiên quyết để chuyển các hộ nông dân nhỏ lên con
đường của nền kinh tế tập thể lớn là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết
cho nó như máy móc, điện khí hóa, sử dụng các phương pháp quản lý kinh tế
10


khoa học. Lênin coi những máy kéo là phương tiện phá vỡ nền nông nghiệp cũ
chuyển nó sang con đường nông nghiệp tập thể... Trong một đất nước rộng lớn
như nước Nga, đòi hỏi cả nhiều thế hệ, song điều đó không có nghĩa là cần

phải hàng thế kỷ. "Sự nghiệp này có thể làm được trong hàng chục năm".
Đồng thời Người cũng chỉ rõ việc chuyển từ nền kinh tế nông dân nhỏ
sang nền sản xuất tập thể không thể diễn ra một cách tự phát. Cần phải có sự
tác động có phương hướng đến quá trình này từ phía Nhà nước, sự ủng hộ về
mặt kinh tế của chế độ nông trang. Cần phải dành cho các nông trang hàng
loạt các khoản ưu đãi về kinh tế, tài chính và tín dụng, tìm các hình thức ủng
hộ các nông trang tập thể.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Đặc điểm của nền kinh tế nông nghiệp nước ta đã ảnh hưởng tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Các nhà khảo cổ, nông học đều nhất trí cho rằng Việt Nam là một trong
những cái nôi của nền văn minh lúa nước. Các sưu tập trống đồng cho ta nhiều
họa tiết có liên quan về cây lúa trong đời sống dân cư cổ. Sách “Vân đài loại
ngữ” của Lê Quý Đôn đã thống kê: Riêng ở đồng bằng Bắc Bộ có tới 32
giống lúa tẻ và 29 giống lúa nếp, vùng Thuận Quảng có 23 giống lúa tẻ và 5
giống lúa nếp… Trong thời kỳ phong kiến, nhất là triều đại nhà Trần, nhà Lê
đã rất quan tâm đến vấn đề phát triển nông nghiệp, đê điều, thủy lợi… vì vậy
trong dân gian ngày hội mùa hay lễ mừng cơm mới ở đâu cũng là những ngày
hội vui nhất trong năm. Nhưng dưới sự thống trị của phong kiến, đế quốc cái
đói vẫn thường xuyên đe dọa cuộc sống của số đông dân cư là nông dân.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ “đồng bào nông thôn
đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến, hy sinh nhiều nhất cho Tổ quốc. Thế
mà đồng bào nông dân lại là những người nghèo khổ nhất, vì họ thiếu ruộng”.
Cho nên khi trở thành vị đứng đầu nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
chương trình hành động đầu tiên của Chính phủ là cứu đói và tăng gia sản
xuất; tấm bằng khen đầu tiên được dành cho thành tích giữ đê chống lụt;
11


những sắc lệnh đầu tiên là bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; những văn bản

ngoại giao đầu tiên phục vụ cho sự nghiệp kiến quốc là: “Sẵn sàng gửi 50
thanh niên Việt Nam ưu tú sang học hỏi kỹ nghệ canh nông ở Hoa Kỳ…”
2.2 Xuất phát từ thực tiển cuộc sống
Từ khi sinh ra và lớn lên Hồ Chủ tịch đã chứng kiến nỗi thống khổ của
người dân mất nước. Người nông dân hiền lành chất phác, cần cù lao động
nhưng bị một cổ hai tròng áp bức, sưu cao, thuế nặng, làm quần quật mà vẫn
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, Với tấm lòng yêu nước, thương dân,
Người đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng cho quê hương đất nước khỏi
cảnh nô lệ, lầm than đưa lại tự do, đưa lại nền độc lập cho nước nhà
2.3 Từ thực tiển lãnh đạo nhân dân trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc,
thống nhất đất nước và trong xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội.
Giai đoạn từ năm 1911 đến cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đây là giai đoạn Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và về
nước chuẩn bị lực lượng để tiến hành cách mạng nhằm đánh đổ thực dân
phong kiến. Trong thời gian hoạt động ở nước ngoài, bằng ngòi bút sắc sảo
viết trên các báo chí nước ngoài và từ những bài tham luận trong các Hội nghị
quốc tế, Người đã tốt cáo đanh thép tội ác của thực dân Pháp đối với các nước
thuộc địa nói chung và đối với nhân dân Việt Nam và nhân dân Đông Dương
nói riêng nhằm thức tỉnh tinh thần đấu tranh của nhân dân các dân tộc bị áp
bức trên thế giới. Trong cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam, với khẩu
hiệu đánh đổ đế quốc, giành độc lập cho dân tộc và đánh đổ phong kiến, giành
ruộng đất cho dân cày, Người đã tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân
liên minh với giai cấp công nhân tiến hành Cách mạng tháng Tám thắng lợi
lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Giai đoạn 1945-1954.
Đây là giai đoạn vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Sau cách mạng tháng
Tám, chính quyền cách mạng non trẻ đứng trước muôn vàn khó khăn, thử
thách. Thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai.Quân Anh,
Tưởng đều lăm le xâm lược Việt Nam. Trong nước bọn phản động nổi lên như
nấm. Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm luôn đe dọa sự tồn tại của chính

12


quyền cách mạng. Để chuẩn bị lực lượng chống thù trong, giặc ngoài, Người
kêu gọi tăng gia sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm. Vấn đề phát triển sản
xuất nông nghiệp luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: "Tiêu diệt chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện người cày
có ruộng, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, phát triển sản xuất, đẩy mạnh
kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn". Trong giai đoạn này, Đảng và Chính
phủ ta đã phát động nông dân thực hiện triệt để giam tô, cải cách ruộng đất.
Ngày 19-12-1953 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 197-SAI LẦM công bố thi
hành Luật cải các ruộng đất. Theo Hồ Chí Minh, "Về kinh tế, được giải phóng
khỏi ách địa chủ phong kiến nông dân sẽ vui vẻ tăng gia sản xuất và tiết kiệm,
sức tiêu thụ tăng thêm, công thương nghiệp sẽ phát triển, toàn bộ kinh tế quốc
dân được mở mang. Nhờ tăng gia sản xuất mà đời sống của nông dân, công
nhân, bộ đội, cán bộ đều được cải thiện mau hơn"[HCM t17, tr182]. Nhiều nội
dung tư tưởng về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn được hình thành
trong giai đoạn này.
Giai đoạn 1954-1969.
Đây là giai đoạn cách mạng nước ta phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ
nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những tư tưởng về vai t rò
của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, về xây dựng hợp tác xã, về xây
dựng cơ cấu kinh tế mới, về quan tâm đến đời sống của nông dân... đã được
thể hiện hóa rõ nét.

13


CHƯƠNG II NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ

MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN
Tại Đại Hội Đảng lần thứ XI Đảng chúng ta vân kiên trì lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí
tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn
của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn là
một bộ phận trong hệ thống tư tưởng kinh tế của Người. Hồ Chí Minh xác
định :“Phải lấy nông nghiệp làm chính, nhưng phải toàn diện, phải chú ý các
mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc,
văn hóa, giáo dục, y tế … các ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp làm
trung tâm”. Điều này đòi hỏi mọi chủ trương, đường lối, phương châm, kế
hoạch, mục tiêu phát triển của công nghiệp và các ngành kinh tế khác phải lấy
nông nghiệp, nông thôn làm đối tượng phục vụ, phải có chính sách ưu tiên, ưu
đãi đối với nông nghiệp và nông thôn. Người nói: “Nông thôn tăng gia sản
xuất thực hành tiết kiệm thì ngày càng giàu có. Nông thôn giàu có sẽ mua
nhiều hàng hóa của công nghiệp sản xuất ra. Đồng thời sẽ cung cấp đầy đủ
lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp và thành thị. Như thế là nông thôn
giàu có giúp cho công nghiệp phát triển”. Những tư tưởng kinh tế nói chung,
về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng của Hồ Chí Minh là
một mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác Lênin và những quy luật kinh tế khách quan vào hoàn cảnh lịch sử
cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng về phát triển nông nghiệp của Hồ Chí Minh đã
và đang là những cơ sở lý luận cho đường lối phát triển kinh tế nói chung,
đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng của Đảng ta.
14


1. Vai trò của nông nghiệp và nông thôn.

1.1 Cung cấp lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu đảm bảo nhu cầu
ăn, mặt, ở cho toàn xã hội
Nước ta là một nước nông nghiệp, đại đa số dân cư sống ở nông thôn,
phần lớn lao động làm nông nghiệp, vì vậy Hồ Chí Minh luôn coi nông nghiệp
là ngành sản xuất chính, là cơ sở phát triển kinh tế đất nước. Người viết: Việt
Nam là nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc.
Trong công cuộc xây dựng nước nhà, chính phủ trông mong vào nông dân,
trông cậy một phần lớn vào nông ghiệp. Nông dân ta vào thì nước ta giàu, nông
dân ta thịnh thì nước ta thịnh.
Hồ Chí Minh cho rằng nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm đảm
bảo cho nhu cầu ăn, mặc, ở của nhân dân.
Về vấn đề ăn, Hồ Chí Minh đã thấu hiểu nạn đói năm 1945 đã cướp đi sinh
mệnh hơn hai triệu đồng bào ta. Đây là nổi đau lớn không bao giớ quên đối với các
thế hệ người Việt chúng ta. Hồ chủ tịch đã nhiều lần nhắc lại: Việt Nam ta có câu
tục ngữ “ có thực mới giật được đạo”, Trung Quốc cũng có câu tục ngữ “ dân dĩ
thực vi thiên”. Chúng ta thấy tuy nó đơn giản nhưng rất đúng lẽ. Muốn nâng cao
đời sống của nhân dân thì trước hết phải giải quyết vấn đề ăn. Muốn giải quyết tốt
vấn đề này thì phải làm thế nào để cho nó có đầy đủ lương thực. Vì vậy, Người
luôn nhắc nhỡ phải đẩy mạnh tăng gia ssản xuất, trồng nhiều cây lương thực, hoa
màu, phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, gia cầm....
Vấn đề mặc, Người cho rằng chính quyền mới phải “phải làm cho dân có
mặc”. Khi về thăm Nghệ An, Người trao đổi với nhân dân địa phương: Đây một
năm sản xuất bao nhiêu bông? 2000 tây được bao nhiêu tấn? 1000 tấn bông tuy là
ít, nhưng nếu chú trong lương thực mà không có bông thì tức có ăn chứ chưa có
mặc”

15


Về vấn đề ở, Người cho rằng đây là một mặc của vấn đề dân sinh và là vấn

đề rất quan trọng. Người đánh giá “Nông thôn của ta, nhà ở của đồng bào phần
nhiều đang ọp ẹp, tối tăm, chẳng ra sao, chẳng có hàng lối gì....Khi trước nhà nào
lo làm nhà nấy, làm thế nào cũng được. Nhưng bây giờ không phải như thế. Bây
giờ minh phải đổi mới nông thôn. Nông thôn mình phải quang đãng, sạch sẽ”.
1.2. Nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp và các ngành kinh tế
quốc dân.
Trước hết, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp.
Hồ chủ tịch nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp đối với công nghiệp. Người
viết: “Sản xuất nông nghiệp ... cung cấp nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu
công nghiệp, thủ công nghiệp cho công nghiệp và cung cấp lâm thổ sản để mở
rộng quan hệ với nước ngoài
Thứ hai, phát triển nông nghiệp nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ mối quan hệ và sự tác động qua lại
giữa nông nghiệp, công nghiệp và các thành phần kinh tế khác. Trong mối quan hệ
với công nghiệp, Người đã cho rằng “người thì có hai chân, kinh tế một nước thì
có hai bộ phận chính: nông nghiệp và công ngiệp. Người còn nhấn mạnh “Nông
nghiệp không phát triển thì công nghiệp không phát triển được”.
Tuy nhiên do xuất phát từ một nước nông nghiệp, sản xuất nhỏ đi lên, trong
từng giai đoạn cụ thể của cách mạng, nông nghiệp luôn được Người quan tâm và
chú ý nhiều hơn. Người khẳng định: “Nông nghiệp là ngành chính”; “Nông
nghiệp là mặt trân cơ bản”; “Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”...
Từ năm 1949, ở vùng được giải phóng, Bác đã nhận thức rõ về vai trò của
nông nghiệp trong việc đảm bảo lương thực, thực phẩm để kháng chiến chống
Pháp thắng lợi. Người viết: “ Mặt trận kinh tế gồm có công nghệ, buôn bán, nông
nghiệp, ngành nào cũng quan trọng, nhưng lúc này quan trọng nhất lầ nông
16


nghiệp, vì “ Có thực mới vực được đạo”, có đủ cơm ăn, áo mặc cho bộ độivà

nhân dân, thì kháng chiến mới mau thắng lợi, độc lập mới mau thành công”.
Năm 1962, Người đã viết: “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền
kinh tế. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp lương thực cho nhân dân;
cung cấp nguyên liệu cho nhà máy; cung cấp nông sản cho xuất khẩu. Công
nghiệp phải phát triển mạnh mẽ để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân
dân, trước hết là nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ
sâu...để đẩy mạnh nông nghiệp và cung cấp dần máy cấy, máy bừa cho các hợp
tác xã công nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho
nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển,
như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước mới nhanh và nhanh chóng đi đến
đích. Thế là thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây
dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”.
1.3. Nông nghiệp nông thôn là thị trường tiêu thụ hàng hóa của nông
nghiệp.
Nông nghiệp phát triển, nông dân sẽ có nhiều hàng hóa đưa ra thị trường do
đó lại thúc đẩy thương nghiệp phát triển. Người chỉ rõ: “Nông nghiệp đưa hàng
đến nông thôn phục vụ nông dân, thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu
cho thành thị tiêu dùng”.
2. Các giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
2.1 Phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động trong
nông nghiệp
Người cho rằng chiến lược phát triển lâu dài của của công nghiệp là nhằm tạo
ra máy móc, phân hóa học, thuốc trừ sâu, hàng tiêu dùng cần thiết để phục vụ nông
nghiệp, nông thôn và nông dân. Bác chỉ rõ: “Quan trọng nhất trong đời sống nhân
dân là vấn đề ăn. Để giải quyết tốt vấn đề ăn thì phải sản xuất lương thực dồi dào.

17


Muốn như vậy thì công nghiệp phải giúp cho nông nghiệp nhiều máy làm thủy lợi,

máy cày, máy bừa, nhiều phân hóa học...”
Phải đẩy mạnh cải tiến nông cụ, ứng dụng khoa học kỹ thuật, thực hiện
công nghiệp hoá nông nghiệp. Hồ Chí Minh cho rằng cải tiến nông cụ là một
công việc rất quan trọng để phát triển sản xuất nông nghiệp. Nói về ích lợi của
việc cải tiến nông cụ, Người đã chỉ rõ nếu làm tốt phong trào cải tiến nông cụ,
thì sức lao động sẽ lợi gấp đôi, gấp ba, mà lúa và hoa màu sẽ tốt gấp bội, tức
là năng suất lao động sẽ tăng lên nhiều. Chúng ta đều biết rằng, năng suất lao
động chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, nhưng trong đó nhân tố giữ vai trò
quyết định năng suất cao hay thấp là do công cụ lao động hiện đại hay thô sơ.
Chính do nông cụ của chúng ta thô sơ, lạc hậu mà người nông dân làm việc
tốn nhiều công sức, vất vả nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế lại
kém. Theo tư tưởng của Người, việc cải tiến nông cụ cần phải thực hiện mạnh
hơn nữa, toàn diện hơn nữa; phải chú ý cải tiến từ cái cày, cái bừa, chiếc xe
vận tải cho đến các dụng cụ làm cỏ, tuốt lúa, thái rau,...Đồng thời với việc gây
dựng phong trào cải tiến nông cụ rộng khắp, Người yêu cầu phải đẩy mạnh
công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn.
Trong Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) bàn
về phát triển công nghiệp, Người nói: "Công nghiệp phát triển mạnh để cung
cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là nông dân; cung
cấp máy bơm nước, phân hoá học, thuốc trừ sâu...để đẩy mạnh nông nghiệp;
và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp".
Cùng với việc gây dựng phong trào cải tiến nông cụ, đưa máy móc vào
sản xuất, Người đề nghị cán bộ và nhân dân phải ra sức học tập và ứng dụng
tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, cải
thiện đời sống, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh rất coi trọng khoa
học công nghệ. Sở dĩ như vậy là vì Người đã nhìn thấy trước được xu hướng
18


phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới và vai trò cực kỳ quan trọng

của nó trong việc nâng cao năng suất lao động. Người khẳng định khoa học
công nghệ từ sản xuất mà ra và yêu cầu khoa học công nghệ phải quay lại
phục vụ sản xuất, đời sống, phải luôn cố gắng giải quyết tốt các yêu cầu thực
tiễn cách mạng đất nước đặt ra.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn coi trí thức là vốn liếng
quý báu của dân tộc. Bản thân Người rất trân trọng các trí thức, tin tưởng giao
trọng trách cho họ, có chính đãi ngộ và tạo điều kiện thuận lợi cho họ làm
việc, cống hiến tài năng; đồng thời luôn nhắc nhở trí thức cần phải có quan điểm
phục vụ quần chúng. Nhờ đó, trí thức nước ta đã có những đóng góp xứng đáng
vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Để nhanh chóng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất có
hiệu quả, Người hết sức quan tâm đến việc phổ biến tri thức khoa học rộng rãi
vào quần chúng nhân dân và kịp thời khai thác đúc kết những kinh nghiệm
hay của quần chúng để đẩy mạnh sản xuất; vì theo Người nhân dân ta rất cần
cù, thông minh, khéo léo và có rất nhiều kinh nghiệm quý báu. Quan điểm
quần chúng của Người trong việc triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học công
nghệ đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt càng có ý nghĩa hơn trong tình
hình khoa học công nghệ đang phát triển nhanh chóng.
Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang
công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác hoá, xã hội hoá sản xuất, xây
dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp, nông thôn
Từng bước đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, hình thành và
phát triển các hợp tác xã trong nông nghiệp là tư tưởng lớn, có từ rất sớm
trong Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, xuất bản
19


năm 1927, Người đã dành hẳn một chương để nói khá kỹ về hợp tác xã, từ căn

cứ lý luận, lịch sử phát triển cho đến các loại hình và cách thức tổ chức hợp
tác xã. Sở dĩ, Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến hợp tác hoá, xây dựng quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, nông thôn là vì theo Người, đây
không chỉ là một biện pháp quan trọng để đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết
kiệm, nâng cao hiệu quả kinh tế, cải thiện đời sống nông dân, phát triển nền
sản xuất nông nghiệp một cách vững chắc, mà còn là một tất yếu khách quan
trên con đường đấu tranh cách mạng, xoá bỏ áp bức bóc lột, xây dựng nông
thôn xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề đưa nông dân từng bước vào con đường làm ăn tập thể đã được
Ăng ghen nêu ra từ năm 1894. Trong tác phẩm "Vấn đề nông dân ở Pháp và
Đức" Ăng ghen đã dạy rằng khi nắm được chính quyền, chúng ta không được
suy nghĩ về việc cưỡng bức những người tiểu nông như chúng ta cần phải làm
với bọn địa chủ lớn, mà nhiệm vụ chính là ở chỗ phải chỉ rõ cho nông dân
thấy, chúng ta có thể cứu và giữ gìn đất đai, vườn tược cho họ chỉ khi chuyển
chúng thành sở hữu tập thể và sản xuất tập thể.
Sau này V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng đó trong tác phẩm "Bàn về chế
độ hợp tác xã" chỉ rõ tầm quan trọng của hợp tác xã trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định: "Nếu chúng ta tổ chức được toàn thể
nông dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững được hai chân trên miếng
đất xã hội chủ nghĩa" và đưa ra những chỉ dẫn có tính nguyên tắc về hợp tác
hoá trong thực tiễn, đó là: tự nguyện; nhà nước phải giúp đỡ về vật chất; thực
hiện từng bước đi dần từ thấp đến cao. Đồng thời V.I.Lênin lưu ý cần phải quan
tâm đến việc giáo dục thuyết phục, nâng cao trình độ văn hoá cho nông dân và
phải nêu gương bằng thực tiễn, tạo ra lợi ích thiết thân cho họ.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc xây dựng
20


chủ nghĩa xã hội ở nước phải bắt đầu từ nông nghiệp, nông dân và muốn phát

triển nông nghiệp, làm cho nông dân thật sự ấm no, giàu có, hạnh phúc thì
phải đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, bắt đầu từ chỗ hình thành
và phát triển các tổ đổi công, hợp tác xã, nông trường tập thể đến chỗ xã hội
hoá nông nghiệp.
Nói về sự cần thiết khách quan và tác dụng của việc đưa nông dân đi vào
con đường làm ăn tập thể, hình thành và phát triển các hợp tác xã trong nông
nghiệp, Người đã giải thích: "Trong lời Tuyên ngôn của hợp tác xã Anh đã
nói: Cốt làm cho những người vô sản giai cấp hoá ra anh em...làm giùm lẫn
nhau, nhờ lẫn nhau. Bỏ hết thói cạnh tranh. Làm sao cho ai trồng cây thì
được ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây. Tục ngữ An nam có câu:
"Nhóm lại thì giàu chia nhau thành khó" và "Một cây làm chẳng nên non,
nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao". Lý luận hợp tác xã đều ở trong những
điều ấy". Vì vậy, muốn giàu có thì phải vào hợp tác xã, bởi nhiều người hợp
lại thì sẽ làm được nhiều hơn, tốt hơn, nông dân có thêm sức để cải tiến kỹ
thuật, đẩy mạnh sản xuất và sẽ đi đến chỗ ấm no, sung sướng. Thật vậy, hợp
tác tạo nên sức mạnh tập thể, giúp các hộ nông dân làm được những công việc
mà từng hộ gia đình riêng lẻ không có khả năng thực hiện, hoặc thực hiện kém
hiệu quả hơn như: phòng chống thiên tai, xây dựng các công trình thuỷ lợi,
phòng trừ dịch hại, sâu bệnh,...Ngoài lợi ích to lớn về kinh tế, hợp tác còn là
cơ sở để xây dựng tình đoàn kết, phát huy tinh thần tương thân tương ái để
xây dựng cộng đồng xã hội tốt đẹp ở nông thôn.
Mục đích cuối cùng của việc làm ăn tập thể, xây dựng và phát triển hợp
tác xã như Hồ Chí Minh đã chĩ rõ là để cải thiện đời sống nông dân, làm cho
nông dân được no ấm, mạnh khoẻ, được học tập, làm cho dân giàu, nước
mạnh. "Dân có giàu thì nước mới mạnh. Đó là mục đích riêng và mục đích
chung của việc xây dựng hợp tác xã".
21


Về bước đi và hình thức hợp tác hoá nông nghiệp: Rút kinh nghiệm từ

thực tiễn, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định hợp tác hoá nông nghiệp ở nước
ta, cần phải trải qua hình thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
Nhưng trước hết phải bắt đầu từ chỗ xây dựng và phát triển rộng khắp tổ đổi
công, với các hình thức như tổ đổi công từng vụ, từng việc, tổ đổi công
thường xuyên. Sau này tổ đổi công thường xuyên đã rộng khắp và có nền nếp
rồi, mới tiến lên xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ thấp đến cao. Chớ vội tổ
chức hợp tác xã ngay. Chúng ta phát triển từng bước vững chắc tổ đổi công và
hợp tác xã thì hợp tác hoá nông nghiệp nhất định sẽ thành công.
Về nguyên tắc xây dựng tổ đổi công và hợp tác xã, Hồ Chí Minh căn dặn
là không được cưỡng ép ai hết. Phải tuyên truyền, giải thích cho nông dân thấy
được lợi ích của tổ đổi công và hợp tác xã. Phải làm sao cho những gia đình
trong tổ đổi công và hợp tác xã đều có lợi. Có lợi thì người ta mói vui lòng
vào. Quản trị phải dân chủ. Việc làm phải bàn bạc với nhau, mọi người đều
hiểu mới vui lòng làm.
Về phương châm tiến hành: chắc chắn, thiết thực, từ nhỏ đến lớn. Chớ
ham làm mau, ham rầm rộ. Làm ít mà chắc chắn hơn làm nhiều, làm rầm rộ
mà không chắc chắn. Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới
dần dần. Đã tổ chức là phải làm việc thiết thực, chứ không phải tổ chức cho có
tên mà không có thực tế, có số lượng mà không có chất lượng. Phải làm từ
nhỏ đến lớn, không nên tổ chức quá to, vì quá to thì khó quản lý, dễ thất bại.
Về củng cố và phát triển hợp tác xã, Hồ Chí Minh căn dặn cần phải chú ý
các điều kiện cần thiết sau:
Đi đôi với việc tuyên truyền, giáo dục, vận động thuyết phục nông dân
cần phải tổ chức tốt các hợp tác xã kiểu mẫu.
Cán bộ đảng viên phải chí công vô tư, phải làm tròn nhiệm vụ của người
cộng sản; đoàn viên thanh niên lao động phải làm gương mẫu, làm đầu tàu.
22


Lãnh đạo phải dân chủ. Quản lý phải chặt chẽ và toàn diện. Phân phối phải

công bằng. Các hợp tác xã phải trao đổi sáng kiến và kinh nghiệm cho nhau.
Phải chú ý lợi ích kinh tế, phải làm cho xã viên trong hợp tác xã thu nhập
nhiều hơn trong tổ đổi công và tổ viên trong tổ đổi công thu nhập nhiều hơn
nông dân còn làm ăn riêng lẻ.
Từ trung ương đến địa phương, các ngành, các cấp phải ra sức giúp đỡ
phong trào hợp tác xã, phải cố gắng phục vụ lợi ích hợp tác xã.
Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của chi bộ đảng cơ sở đối
với hợp tác xã.
Cùng với việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể, hình thành và phát triển
tổ đổi công, hợp tác xã trong nông nghiệp, Người còn nhắc nhở đưa những
người làm nghề thủ công vào các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ
họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo
nguyên tắc tự nguyện.
Về xã hội hoá sản xuất nông nghiệp: Theo Hồ Chí Minh quá trình vận
động, phát triển nền sản xuất xã hội từ thấp đến cao, từ nền sản xuất nhỏ lên
nền sản xuất lớn, việc xã hội hoá sản xuất nông nghiệp là một tất yếu khách
quan, có tính quy luật. Quá trình xây xây dựng và phát triển nền kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng tuân theo quy luật chung đó của
lịch sử.
Khi nói về vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản, VI. Lênin viết: "Vai trò
tiến bộ của chủ nghĩa tư bản về mặt lịch sử có thể tóm tắt bằng hai luận điểm:
tăng lực lượng sản xuất của lao động xã hội và xã hội hoá lao động. Nhưng
hai sự kiện ấy biểu hiện dưới những hình thức rất khác nhau trong những
ngành khác nhau của nền kinh tế quốc dân". VI.Lênin đã chỉ rõ quá trình xã
hội hoá biểu hiện ra ở chỗ:
23


Một là, chấm dứt tình trạng phân tán của những đơn vị kinh tế nhỏ riêng

lẻ vốn có trong nền kinh tế tự nhiên, làm hình thành một thị trường rộng lớn
thống nhất trong toàn quốc và sau đó trên toàn thế giới. Sản xuất cho mình
biến thành sản xuất cho toàn xã hội.
Hai là, thay vào tình trạng phân tán trước kia là sự tập trung sản xuất
chưa từng thấy, cả trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp.
Ba là, đẩy lùi những hình thức lệ thuộc cá nhân, là những hình thức vốn
có trong các chế độ kinh tế cũ...So với lao động của người nông dân bị lệ
thuộc hay bị nô dịch, thì lao động của người công nhân làm thuê tự do trong
tất cả các ngành kinh tế quốc dân là một hiện tượng tiến bộ.
Bốn là, tạo ra tình trạng lưu động của dân cư mà các chế độ kinh tế xã
hội cũ không cần có, và ở vào thời kỳ ấy tình trạng lưu động đó cũng không
thể tồn tại một cách khá rộng rãi được.
Năm là, thường xuyên làm giảm bớt tỉ lệ của số dân cư làm nghề nông và
làm tăng thêm số trung tâm công nghiệp lớn.
Sáu là, làm cho dân cư ngày càng thấy cần phải lập hội, kết đoàn và làm
cho các tổ chức liên hiệp ấy có một tính chất riêng biệt, tạo ra sự cạnh tranh
gay gắt hình thành những tập đoàn lớn trong sản xuất và thúc đẩy mạnh mẽ
nội bộ mỗi tập đoàn ấy đi đến chỗ liên hiệp nhau lại.
Bảy là, sự chuyển biến mau chóng của các phương thức sản xuất và sự
tập trung rất lớn của sản xuất, tiêu diệt hết thảy mọi hình thức lệ thuộc cá nhân
và những quan hệ gia trưởng, sự lưu động của dân cư, sự ảnh hưởng của các
trung tâm công nghiệp lớn… tất cả những điều ấy không thể không dẫn đến
một sự thay đổi sâu sắc trong chính ngay tính chất của những người sản xuất.
Từ các biểu hiện ở trên, chúng ta có thể khái quát: Xã hội hoá sản xuất là
sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng lẻ thành quá trình kinh tế xã hội dựa
trên cơ sở phân công lao động xã hội và hợp tác sản xuất phát triển.
24


Trong lịch sử đã từng có hai loại hình xã hội hoá sản xuất, đó là xã hội

hoá sản xuất tư bản chủ nghĩa và xã hội hoá sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, theo chúng tôi quan điểm xã hội hoá sản xuất nông nghiệp của
Hồ Chí Minh là gắn trực tiếp với nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và nội
dung của nó phải được thể hiện trên cả ba mặt của quá trình kinh tế - xã hội,
kinh tế - kỹ thuật và kinh tế - tổ chức, quản lý sản xuất. Ba mặt nói trên của xã
hội hoá sản xuất có mối quan hệ hữu cơ với nhau, vì vậy trong quá trình xây
dựng phát triển nền sản xuất nông nghiệp chúng ta phải thực hiện đồng thời cả
3 nội dung:
Xã hội hoá mặt kinh tế - xã hội: xác lập quan hệ sở hữu đa dạng về hình
thức, đi dần từ thấp đến cao, xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực
lượng sản xuất.
Xã hội hoá mặt kinh tế - kỹ thuật: thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Xã hội hoá mặt kinh tế - tổ chức, quản lý sản xuất: phân công và hiệp tác
sản xuất phát triển rộng khắp, quản lý nền kinh tế thống nhất, kiểm soát và
phân phối thu nhập hợp lý các vùng, các ngành và trong toàn bộ nền kinh tế.
Chỉ khi nào tiến hành đồng bộ và hoàn thành cơ bản không những về
mặt quan hệ sở hữu, mà cả về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để có
năng suất lao động cao, kiểm soát được việc sản xuất và phân phối thì chúng
ta mới có thể đưa đến cho nông dân một cuộc sống thật sự ấm no, sung sướng
như mong ước của Người.
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nền sản xuất nông nghiệp toàn
diện
Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện là một trong những tư tưởng cơ
bản của Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp. Vấn đề này được Người nhắc
đi nhắc lại nhiều lần khi nói chuyện với cán bộ, đảng viên và nông dân.
25



×