Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

tiểu luận cao học tư tưởng về chủ nghĩa tư bản qua tác phẩm “ bàn về thuế và lương thực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.24 KB, 48 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình phát triển ngày càng mạnh mẽ của giáo dục Việt Nam
về cả chiều rộng lẫn chiều sâu, thì việc nghiên cứu và giảng dạy các môn
khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay là vấn đề cần thiết,
nhằm trang bị thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng cho các thế hệ người
Việt Nam. Tuy nhiên, việc giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin còn có
khoảng trống, chưa khai thác hết giá trị các tác phẩm kinh điển của các nhà
khoa học để lại. Do vậy, để giảng dạy sinh động, hiệu quả, tránh sự khô khan,
nhàm chán thì ngoài nội dung kiến thức cơ bản đã có trong giáo trình, giảng
viên cần chủ động khai thác các tác phẩm kinh điển của Mác, của Ăngghen,
của Lênin và của Hồ Chí Minh để vận dụng vào bài giảng, đó không chỉ là cơ
sở khoa học mà còn là hệ thống hóa tư tưởng của các nhà kinh điển đã được
kế thừa, bổ sung từ thời kỳ này sang thời kỳ khác. Cũng chính lý do này môn
TÁC PHẨM KINH ĐIÊN ra đời, thứ nhất tìm kiếm các tác phẩm có giá trị;
thứ hai lựa chọn các vấn đề của tác phẩm để lồng ghép vào bài giảng giúp học
sinh không những biết đến mà còn hiểu rõ hơn bài học cũng như chân ý của
các nhà tư tưởng lớn thông qua tác phẩm của họ.
Trong các tác phẩm, thì tư tưởng về chủ nghĩa tư bản qua tác phẩm “ bàn
về thuế và lương thực” em đã chọn để làm đề tài tiểu luận. Lênin là người đầu
tiên đã có công lao to lớn trong việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản nhà nước,
đồng thời, còn táo bạo áp dụng vào nước Nga sau thời kỳ thực hiện Chính
sách Cộng sản thời chiến. Chủ nghĩa tư bản nhà nước theo tư tưởng của Lênin
là một bộ phận quan trọng nằm trong tổng thể chính sách chung, đó là Chính
sách Kinh tế mới (NEP). Đây là tư duy đúng đắn, sáng tạo, độc đáo và mang
tính đột phá. Đáng tiếc là sau khi Lênin mất, cùng với thời gian và nhiều
nguyên nhân khác nhau, dẫn đến tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà
nước dường như bị lãng quên ở nước Nga và nhiều nước xã hội chủ nghĩa
(XHCN). Việc nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản
nhà nước và vận dụng đúng đắn, khoa học vào điều kiện thực tế ở Việt Nam
trong công cuộc đổi mới hiện nay là vô cùng quan trọng và cấp thiết.
1




PHẦN NỘI DUNG:
I- LÝ LUẬN CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC.

1.Những cơ sở đi đến Chủ nghĩa tư bản Nhà nước
Luận điểm "Chủ nghĩa tư bản Nhà nước" đóng một vai trò rất quan trọng
trong lý luận của Lênin về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong nhiều
tác phẩm bàn về công cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước Nga- đặc biệt
là cuốn "Bàn về thuế và lương thực" năm 1921- Lênin đã trình bày rất nhiều
về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Việc xem xét những cơ sở hình thành của lý
luận này cho chúng ta được cái nhìn sâu sắc về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước và
từ đó tìm được những biện pháp đúng đắn hoàn thành nhiệm vụ đi lên Chủ
nghĩa Xã hội phù hợp với thời đại ngày nay.
Có thể nói những lý luận của Lênin về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước được
bắt nguồn từ cơ sở là thực trạng nền kinh tế nước Nga sau nội chiến. Chúng ta
hãy xem xét một chút về tình cảnh của nước Nga thời kỳ đó để soi tỏ vấn đề
này... Tập trung mọi nguồn lực cho cho cuộc nội chiến bằng chính sách "cộng
sản thời chiến" là một bước đi rất đúng đắn và đã giúp cho nước Nga nhanh
chóng thoát khỏi tình trạng nội chiến. Thế nhưng sau nội chiến, việc tập trung
mọi nguồn lực cho quân đội trong một thời gian dài đã nảy sinh một vấn đề:
Nền kinh tế của nước Nga đã đình đốn trong một thời gian khá dài, lại bị vắt
kiệt mọi nguồn lực nên giờ đây đang đứng trên bờ vực của sự thiếu thốn. Để
tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nước Nga phải giải bài toán đầu
tiên là phải tìm được con đường phát triển nền kinh tế. Lênin đã là người đầu
tiên đề ra biện pháp hồi phục và phát triển kinh tế nước Nga đang què quặt
thông qua "mượn" khả năng về kinh tế của thành phần kinh tế tư bản. Những
ý tưởng mở đầu của Lênin đã nêu rõ: Người tiểu tư sản có tiền để giành một
vài ngàn đồng rup đã lượm lặt được trong cuộc chiến tranh bằng những
phương pháp "chính đáng" và nhất là bằng những phương pháp bất chính. Đó

là điển hình kinh tế, đặc trưng, làm cơ sở cho sự đầu cơ và Chủ nghĩa tư bản
2


tư nhân. Tiền bạc là một chứng từ để đổi lấy những tài phú xã hội; từng lớp
tiểu chủ nắm chắc chứng từ ấy và dấu "nhà nước", vì họ không tin tưởng chủ
nghĩa xã hội cũng như chủ nghĩa cộng sản, họ chờ đợi cho chủ nghĩa cộng sản
"đi qua". Hoặc là chúng ta sẽ kiểm soát và thống kê tầng lớp tiểu tư sản
ấy(chúng ta có thể làm được nếu chúng ta biết tổ chức các tầng lớp nghèo, tức
là đại đa số dân chúng hay là những người nửa vô sản chung quanh đội tiền
phong vô sản giác ngộ ),hoặc là chính quyền công nhân của chúng ta, tất
nhiên và không thể tránh được, sẽ bị dân chúng đánh đổ, như bọn Na-pô-lêông và bọn Cai-va-nhác, bọn đã nảy sinh đúng trên miếng đất tiểu tư hữu ấy,
để đánh đổ cách mạng. Vấn đề là như thế và chỉ có như thế thôi... Người tiểu
tư sản giữ một vài nghìn rup là kẻ thù của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước : một
vài nghìn ấy họ muốn dùng để mưu lợi ích riêng, làm thiệt hại cho những
người nghèo và chống lại mọi sự kiểm soát của nhà nước. Nhưng, cộng những
số ngàn ấy thành hàng ngàn hàng triệu, đó là cơ sở cho việc đầu cơ làm cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta thất bại. Chúng ta hãy cho
rằng một số công nhân nhất định, trong nhiều ngày , sản xuất được một tổng
giá trị là 1000. Sau đó cho rằng trong số ấymất đi 200 vì đầu cơ nhỏ, vì trộm
cắp đủ mọi thứ và vì những thủ đoạn của bọ tiểu chủ xoay xở các sắc lệnh và
luật lệ Xô Viết. Mọi công nhân giác ngộ sẽ nói: trong số nghìn ấy tôi sẵn sàng
cho 300 chứ không phải 200 để cho có trật tự và tổ chức hơn....bởi vì chính
quyền Xô Viết khi mà tổ chức và trật tự đã được thiết lập, khi mà mọi hành
động phá hoại độc quyền nhà nước của bọn tiểu chủ đã hoàn toàn bị phá vỡ
thì sau này có giảm bớt sự đóng góp ấy xuống 100 hay 50 chẳng hạn là việc
rất dễ dàng. Thí dụ này đã nói rõ mối quan hệ giữa Chủ nghĩa tư bản nhà
nước và Chủ nghĩa xã hội...
Qua những lí giải của Lênin chúng ta có thể thấy rằng thực chất của
những lý luận của Người về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là được bắt nguồn từ

sự phân tích những nguồn lực, những mối quan hệ hiện có trong thực trạng
kinh tế nước Nga. Lênin đã nhìn nhận thẳng vào những vấn đề cần giải quyết,
3


và từ sự phân tích tổng hợp những mối quan hệ để tìm ra con đường. Điểm
khác biệt giúp cho Người tìm được con đường đúng đắn là ở chỗ Người đã
phân tích rất rõ tình hình của những thành phần bị coi là những "kẻ phá hoại"
trên con đường đi của chúng ta và tìm cách cải tạo những thành phần này theo
con đường của chúng ta,chứ không "cắt bỏ, đào thải" chúng bằng những biện
pháp cưỡng chế. Không phải tất cả mọi mặt của những "kẻ phá hoại" đều là
xấu. Vấn đề là phải tìm được những biện pháp thích hợp để tận dụng điểm
mạnh và cắt bỏ những tật xấu...
Từ những cơ sở phân tích như vậy, Lênin đã đề ra những lý luận cụ thể
để thực hiện Chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Ta sẽ đi tìm hiểu những lý luận của
Người về vấn đề này-về thực chất của chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong điều
kiện chuyên chính vô sản, về vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về các hình thức của nó.

2. Lý luận về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước của Lênin
Lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước của Lênin không phải được hình
thành ngay một lúc mà lý luận này phải trải qua thực tiễn, rút kinh nghiệm,
phát triển dần dần. Trước hết ta hãy nghiên cứu về "chính sách kinh tế mới"
sự áp dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào nước Nga của Lênin.

2.1.Chính sách kinh tế mới
Thực chất của chính sách kinh tế mới
Chính sách "kinh tế mới" ra đời trong hoàn cảnh nào? Ngay khi cách
mạng tháng Mười vừa thành công, chính quyền Xô viết Nga non trẻ phải đối
mặt với vô vàn những khó khăn. Đó là sự khan hiếm lương thực do giai cấp

địa chủ đầu cơ tích trữ lương thực, giai cấp tư sản và bọn phản động trong
nước âm mưu giành lại chính quyền, 18 nước đế quốc vũ trang can thiệp vào
nước Nga. Trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" đó thì Nhà nước Xô viết ban
hành chính sách "Cộng sản thời chiến" nhằm mục tiêu ổn định tình hình kinh
tế và chính trị. Nhà nước thực hiện trưng thu lương thực thừa của nông dân để
4


cung cấp cho quân đội và công nhân; quốc hữu hoá toàn bộ các cơ sở công
nghiệp; Nhà nước độc quyền mua bán trên thị trường thi hành chế độ nghĩa
vụ lao động đối với tất cả những người có năng lực. Nhà nước Xô Viết đã thi
hành cơ chế kế hoạch hoá tập trung từ trên xuống dưới. Chính sách "Cộng sản
thời chiến" đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thắng lợi cho
chính quyền Xô Viết non trẻ. Thế nhưng sau khi kết thúc nội chiến thì tình
hình nước Nga hết sức bi đát. Lênin ví nước Nga lúc đó như "một người đã bị
đánh gần chết,..., may mà nó vẫn cón có thể chống nạng mà đi được". Nước
Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Điều nguy hại nhất là khối
liên minh công-nông bị rạn nứt do giai cấp nông dân bất mãn với chính sách
"Cộng sản thời chiến" Lênin đã nhận ra nguyên nhân và người ban hành chính
sách "kinh tế mới" nhằm mục đích khôi phục kinh tế.
Hai nội dung cơ bản nhất của chính sách "kinh tế mới" là: Thứ nhất, thay
chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực. Thứ hai, Nhà nước
cho phép giai cấp tư sản thuê hoặc mua lại các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ
mà đã quốc hữu hoá trong thời kỳ nội chiến.
Vậy thực chất của chính sách "kinh tế mới" là gì? Trong "dàn ý dự thảo
huấn thị của Hội đồng lao động quốc phòng" năm 1921, Lênin viết "thực chất
của chính sách kinh tế mới là phát triển đến mức tối đa lực lượng sản xuất; cải
thiện tình cảnh của công nhân và nông dân, sử dụng tư bản tư nhân và hướng
nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước, ủng hộ toàn diện sáng kiến của
địa phương, đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề mề".

Lênin cho rằng muốn tiến lên xã hội chủ nghĩa ở một nước tiểu nông thì
giai cấp vô sản thực hiện quyền chuyên chính phải lấy công nghiệp để trao
đổi với sản phẩm nông nghiệp của nông dân. Lênin cho rằng "Cần phải có
một vài hy sinh, là thả cho tư bản hàng chục triệu pút sản phẩm vô cùng quý
báu" (1). Muốn vậy thì tất yếu phải thay chế độ trưng thu lương thực thừa
bằng thuế lương thực. Như vậy thì sau khi nộp thuế cho Nhà nước (như Lênin
nói thì "thuế lương thực chỉ chiếm một phần rất nhỏ các sản phẩm") nông dân
5


có toàn quyền tự do buôn bán trao đổi phần còn lại trên thị trường. Có tự do
trao đổi, tự do buôn bán tất yếu dẫn đến phân hoá những người sản xuất hàng
hoá ra thành kẻ sở hữu tư bản, người sở hữu sức lao động. Điều này có nghĩa
là khôi phục lại chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính sách "kinh tế mới" sẽ làm nảy
sinh chủ nghĩa tư bản tư nhân trong nước Nga. Nhưng Nhà nước Xô Viết lại
nằm trong tay của giai cấp vô sản và giai capá vô sản phải hướng chủ nghĩa tư
bản tư nhân vào con đường chủ nghãi tư bản Nhà nước để phục vụ cho công
cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nếu không như vậy thì giai cấp vô sản sẽ mất
chính quyền và thay đổi ngay bản chất của mình.
Trong nội dung thứ hai của chính sách"kinh tế mới", Nhà nước Xô Viết
cho phép giai cấp tư bản thuê hay mua lại các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ
là nhằm mục đích gì? Đó là để phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
bằng cách lợi dụng ưt bản trong và ngoài nước trong khi mà với điều kiện và
hoàn cảnh khó khăn lúc bấy giờ giai cấp vô sản chưa thể tự làm được. Đến
đây thì cũng làm xuất hiện vấn đền tất yếu là giai cấp vô sản phải thực hiện
việc kiểm soát tư bản để nó phục vụ cho lợi ích của mình sử dụng chủ nghĩa
tư bản Nhà nước.
Như vậy thực chất của chính sách "kinh tế mới" là sử dụng chủ nghĩa tư
bản Nhà nước để phát triển kinh tế nước Nga đưa nước Nga thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng sau nội chiến. Nhưng vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà

nước còn hơn thế nữa. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là một mắt xích trung gian
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Đối với một nước đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản nhằm giảm bớt đau thương thì phải
sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước . Như Lênin từng nói "trong một nước
tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi
xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội".
Để giải thích vấn đề này được rõ ràng hơn Lênin đưa thí dụ cụ thể về chủ
nghĩa tư bản Nhà nước ở nước Đức - nơi là "đỉnh cao" về kỹ thuật đại tư bản
chủ nghĩa hiện đại và về tổ chức có kế hoạch. Nếu trình độ kỹ thuật và tổ
6


chức đó là của nước Nga thì Lênin khẳng định "... các anh sẽ có tất cả các
điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội". Nước Đức và nước Nga năm 1918
đã hợp đủ điều kiện để thực hiện chủ nghĩa xã hội. Nhưng mỗi nước lại đều
không có đủ cả hai điều kiện mà mỗi bên chỉ "sở hữu" một nửa. Nước Đức có
điều kiện kinh tế, sản xuất, kinh tế -xã hội, với trình độ khoa học kỹ thuật và
trình độ tổ chức nền sản xuất lớn phát triển cao. Còn nước Nga lại có điều
kiện Nhà nước là Nhà nước của nền chuyên chính vô sản. Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì phải có cả hai điều kiện trên. Nguyên văn trong cuốn
"bàn về thuế và lương thực", Lênin viết " không có kỹ thuật đại tư bản chủ
nghĩa chủ nghĩa được xây dựng trên những phá minh mới nhất của khoa học
hiện đại, không có một tổ chức Nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục
triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất
trong việc sản xuất và phân phối sản phẩm thì không thể nói đến chủ nghĩa xã
hội được "và"Đồng thời nếu không có sự thống trị của giai cấp vô sản trong
Nhà nước thì cũng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được..." Lênin ví nước
Đức và nước Nga lúc bấy giờ là hai nửa rời rạc của chủ nghĩa xã hội cùng tồn
tại bên cạnh nhau. Vậy thì vấn đề đặt ra là cần phải làm gì để có thể có đủ hai
điều kiện cho nước Nga tiến hành chủ nghĩa xã hội. Lênin khẳng định điều

trước tiên là hãy bằng tất cả sức lực phải học tập chủ nghĩa tư bản Nhà nước
của người Đức tức là phải làm sao cho nước Nga có được một lực lượng sản
xuất phát triển cao-đó là điều cốt yếu nhất.

3. Sự cần thiết khách quan và lợi ích của Chủ nghĩa tư bản
Nhà nước
Từ sự phân tích điều kiện thực tế của nước Nga Xô Viết, Lênin đã đi đến
kết luận chủ nghĩa tư bản Nhà nước là "có lợi và cần thiết". Vậy thì chủ nghĩa
tư bản Nhà nước có lợi như thế nào? Và cần thiết như thế nào? Ta lần lượt xét
các vấn đề sau:
Trước hết phải khẳng định rằng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước có lợi cho
chính bản thân giai cấp vô sản trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
7


chủ nghĩa cộng sản. Đến đây có một câu hỏi đặt ra là chủ nghĩa tư bản đời nào
lại chịu đi phục vụ cho chủ nghĩa xã hội? Để trả lời câu hỏi này ta phải phân
biệt chủ nghĩa tư bản Nhà nước thông thường và chủ nghĩa tư bản Nhà nước
dưới thời chuyên chính vô sản. Khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển
sang giai đoạn độc quyền thì xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước.
Các tổ chức độc quyền chiếm địa vị thống trị tuyệt đối trong các ngành sản
xuất và ngân hàng hình thành nên tư bản tài chính, các tổ chức độc quyền nắm
những mạch máu kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa. Chúng cấu kết với
bộ máy Nhà nước và Nhà nước tư sản phụ thược chúng. Nhà nước tư bản là
chuyên chính của tư bản độc quyền, mọi hoạt động của Nhà nước đều vì lợi
ích của tư bản độc quyền và nó vẫn dựa trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất.
Do đó nó là chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong một nước mà chính quyền
thuộc về tư bản. Còn chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà ta đang bàn đến là chủ
nghĩa tư bản Nhà nước ở trong một Nhà nước vô sản. Lênin nói "Chủ nghĩa tư
bản Nhà nước của chúng tôi khác về căn bản so với chủ nghĩa tư bản Nhà

nước ở những nước có chính phủ tư sản, sự khác biệt là ở chỗ Nhà nước của
chúng tôi không phải đại diện cho giai cấp tư sản mà đại diện cho giai cấp vô
sản" và "chủ nghĩa tư bản Nhà nước của chúng tôi... chẳng những nắm ruộng
đất mà còn nắm cả những bộ phận quan trọng nhất của công nghiệp nữa".
Giai cấp vô sản sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước chính là để phục vụ cho
lợi ích của giai cấp mình cũng như toàn thể nhân dân lao động.
Lợi ích mang lại ở đây chính xác là lợi ích cơ bản và lâu dài. Bởi vì ban
đầu những người được lợi nhiều hơn là các nhà tư bản, những người có sức
mạnh kinh tế và kỹ thuật hơn hẳn. Điều này âu cũng hợp lý vì việc phân chia
lợi ích trong kinh doanh được dựa trên sức mạnh kinh tế và kỹ thuật. Nước
Nga lúc đó về sẽ mạnh kinh tế và kỹ thuất chưa thể so sánh với các nước tư
bản. Do đó đầu tiên, giai cấp vô sản phải chấp nhận cho nhà tư bản có những
quyền lợi như được phép sử dụng những hầm mỏ, được khai thác một số tài
nguyên... để thu được lợi ích cơ bản hơn, lâu dài hơn. Và như Lênin phân tích
8


nhà nước vô sản lại được lợi ngay trên cái lợi của nhà tư bản. Vì khi chủ
nghĩa tư bản được lợi thế thì sản xuất công nghiệp được tăng lên, giai cấp vô
sản cũng theo đó mà lớn mạnh lên và là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất
có ích cho xã hội.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước tại sao lại cần thiết cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở những nước tiểu nông đã có điều kiện chính quyền nằm
trong tay giai cấp vô sản? Bởi vì nó là con đường, là phương tiện để phát triển
lực lượng sản xuất lên trình độ cao, là biện pháp biến các xí nghiệp tư bản chủ
nghĩa thành xí nghiệp xã hội chủ nghĩa. Vì chưa có điều kiện để chuyển trực
tiếp từ tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội ở các nước tiểu nông lên giai cấp vô
sản " phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản, nhất là bằng cách hướng nó vào con
đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản
xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, làm con đường, phương pháp,

phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên". Đó là vấn đề thứ hai.
Vậy thì những cái lợi cụ thể sẽ đạt được khi sử dụng chủ nghĩa tư
bản Nhà nước hay tác dụng cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước là như
thế nào Lênin khẳng định: "Chủ nghĩa tư bản nhà nước vẫn là một bước
tiến lớn..., dù cho chúng ta phải trả một khoản lớn hơn hiện nay, vì trả
"học phí" là một việc làm đáng giá, vì cái đó có lợi cho công nhân, vì việc
chiến thắng được tình trạng hỗn độn, suy sụp về kinh tế và hiện tượng
lỏng lẻo là cái quan trọng hơn hết, vì việc để tình trạng vô chính phủ của
những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một mối nguy hại lớn nhất, đáng
sợ nhất, nó sẽ làm cho chúng ta bị diệt vong (nếu chúng ta không chiến
thắng nó) một cách dứt khoát" (2).
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại,
khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư sản và
tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế là
nền sản xuất lớn hiện đại. Nhưng đối với những nước tiểu nông như nước Nga
thời gian sau nội chiến thì kinh tế nhỏ vẫn tồn tại một cách độc lập do giữa
9


chúng vẫn chưa có cái gì để chúng liên kết lại với nhau. Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì không thể để nền kinh tế nhỏ tồn tại riêng rẽ, manh mún như
vậy được. Và chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ kết hợp nền sản
xuất nhỏ lại. Bởi vì theo qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất và lịch sử đã chứng minh nền sản xuất nhỏ
phát triển đển mức độ nào đó tất yếu sẽ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. "Tư bản làm
cho sản xuất nhỏ liên hợp lại, tư bản sinh ra từ sản xuất nhỏ". Xét về trình độ
phát triển thì chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với
nền kinh tế tiểu nông.Nếu phát triển được chủ nghĩa tư bản Nhà nước thì sẽ
phát triển được nền đại sản xuất tiên tiến thay cho nền tiểu sản xuất lạc hậu để
có điều kiện phát triển chủ nghĩa xã hội. Nói rõ hơn thì nếu phát triển được

chủ nghĩa tư bản nhà nước thì chính quyền Xô Viết sẽ tăng cường được nền
đạI sản xuất đối lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với
nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ
công, nó làm tăng sản phẩm mà nó thu được của đạI công nghiệp., củng cố
được những quan hệ kinh tế do Nhà nước đIũu chỉnh, đối lập với những quan
hệ kinh tế tiểu tư sản vô chính phủ.
Là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại thì nó cũng là công cụ để đấu
tranh chống tính tự phát triển tư bản và tư bản chủ nghĩa. Trong một nước tiểu
nông thì tất yếu tính tự phát tiểu tư sản và tư bản chủ nghĩa sẽ chiếm ưu thế. Và
theo Lênin, chính giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng
nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản Nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội.
"Giai cấp tiểu tư sản chống lại bất cứ sự can thiệp, kiểm kê và kiểm soát nào
của Nhà nước, dù là chủ nghĩa tư bản Nhà nước hay chủ nghĩa xã hội Nhà
nước. Phải bắt những người tiểu tư sản phục tùng sự kiểm soát kiểm kê của
Nhà nước vô sản nếu không họ sẽ lật đổ chính quyền, đó là điều không tránh
khỏi.Chủ nghĩa tư bản là một bước tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng được tình
trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện tượng lỏng lẻo, những tập
quán, những thói quen, địa vị kinh tế của giai cấp, đó là cáI quan trọng hơn hết.
10


Bởi vì việc để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tạI
là một mối nguy hạI lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ đưa đất nước tới chỗ diệt
vong. Cũng chính vì thế mà chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ đưa nước Nga lên
chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất. Xây dựng được chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện trình độ lực lượng sản xuất còn thấp chủ nghĩa tư bản Nhà
nước như là một công cụ hữu hiệu nhất để chiến thắng tình trạng hỗn độn, sự
khắc phục tính tập quán của sản xuất nhỏ, đập tan sự phá hoại của bọn đầu cơ
gian thương muốn làm lũng đoạn nền kinh tế.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước còn là công cụ để khắc phục được kẻ thù

chính trong nội bộ đất nước, kẻ thù của các biện pháp kinh tế của chính
quyền Xô Viết. Đó là bọn đầu cơ, bọn gian thương, bọn phá hoại độc quyền
của nhà nước. Lênin nói rằng không thể xử lí vấn đề này bằng biện pháp xử
bắn hoặc những lời tuyên bố sấm sét, bởi vì cơ sở kinh tế của tệ đầu cơ là tầng
lớp những kẻ tiểu tư hữu và chủ nghĩa tư bản tư nhân có đại diện của mình
trong tiểu tư sản.
Du nhập được chủ nghĩa tư bản bên ngoài chính là du nhập được trình
độ kỹ thuật cao, trình độ tổ chức quản lý sản xuất một nền sản xuất lớn.
Ngoài ra tư bản nước ngoài có vốn rất lớn sẽ rất cần thiết cho công cuộc xây
dựng một nền sản xuất lớn khi mà lượng vốn từ bên trong rất thiếu. Vấn đề
đặt ra ở đây là phải sử dụng những hình thức nào để vừa thu hút được tư bản
bên ngoài vừa ngăn chặn được những ảnh hưởng xấu mà nguy hại nhất là có
thể làm thay đổi bản chất của nền chuyên chính vô sản
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn được xem là công cụ đấu tranh chống
chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa. Vì khi nói về thực
chất của chính sách kinh tế mới Lênin đã đề cập đến nhiệm vụ "đấu tranh
chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề mề" mà chính sách kinh tế mới là
sự sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Lênin phân tích về nguồn gốc của chủ
nghĩa quan liêu ở nước Nga : ấy là tình trạng phân tán, tình trạng riêng rẽ của
những người sản xuất nhỏ, cảnh khốn cùng của họ , tình trạng dốt nát của họ,
11


tình trạng không có đường sá, nạn mù chữ, tình trạng không có sự trao đổi
giữa nông nghiệp và công nghiệp, tình trạng thiếu sự liên hệ và tác động qua
lại giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Du nhập chủ nghĩa tư bản bên ngoài qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước
chính là du nhập được trình độ kỹ tiên tiến, học tập được cách thức tổ chức
quản lý một nền sản xuất lớn hiện đại. Phải thừa nhận một thực tế là chủ
nghĩa tư bản hơn hẳn chúng ta về trình độ khoa học kỹ thuật và họ đã có được

nền sản xuất lớn hiện đại với trình độ quản lý rất cao. Như Lênin nói về nước
Nga khi đó rằng: "Giai cấp vô sản Nga so với bất cứ giai cấp vô sản ở các
nước phát triển nào khác là giai cấp tiên tiến hơn về chế độ chính trị và về sức
mạnh chính quyền công nông nhưng lại lạc hậu hơn những nước lạc hậu nhất
ở Tây Âu về mặt tổ chức một chủ nghĩa tư bản Nhà nước có qui củ, về trình
độ văn hoá, về mức độ chuẩn bị cho việc thực hiện chủ nghĩa xã hội trong
lĩnh vực sản xuất vật chất". Lênin phê phán luận điểm cho rằng vì không có
sự tương xứng đó cho nên không cướp chính quyền. Chủ nghĩa tư bản nhà
nước, nếu thực hiện được sẽ giúp chính quyền Xô Viết khắc phục dần những
tình trạng lạc hậu ấy. Cũng qua đây mà học tập được cách quản lý của những
ngưòi tổ chức thông minh và có kinh nghiệm trong những xí nghiệp hết sức to
lớn, thực sự đảm nhận được việc cung cấp sản phẩm cho hàng chục triệu
người. Lợi dụng kỹ thuật được du nhập thông qua chủ nghĩa tư bản còn
chuẩn bị tốt cơ sở cho nền đại sản xuất của chính quyền Xô Viết.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước còn mang lại cái lợi là thông qua sự phát
triển của nó mà phục hồi giai cấp công nhân Nếu chủ nghĩa tư bản được lợi
thế thì sản xuất công nghiệp cũng sẽ tăng lên và giai cấp vô sản cũng theo đó
mà lớn mạnh lên. Nếu chủ nghĩa tư bản được khôi phục lại thì cũng có nghĩa
là khôi phục lại giai cấp vô sản và tạo ra một giai cấp vô sản công nghiệp, vì
chiến tranh, vì bị phá sản nên mất tính giai cấp, nghĩa là bị đẩy ra ngoài con
đường tồn tại giai cấp của mình và không còn tồn tạI với tư cách là giai cấp

12


vô sản nữa. Đôikhi về hình thức nó đã được coi là giai cấp vô sản nhưng nó
không có gốc về kinh tế.
Những nước tiểu nông hay những nước chưa có cơ sở vật chất, kỹ thuật
cao muốn tiến lên được chủ nghĩa xã hội họ phải trải qua một thời kỳ quá độ.
Mục tiêu của thời kỳ quá độ, theo cách nói hình tượng của Lênin là "đặt nền

móng kinh tế cho toà nhà mới, toà nhà xã hội chủ nghĩa, để thay thế cho toà
nhà phong kiến đã bị phá huỷ, và cho toà nhà tư bản đã bị phá huỷ một nửa".
Nhưng để đạt mục tiêu đó phải đi bằng con đường nào. Thực tế cho thấy rằng
không thể áp dụng trực tiếp tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa là Nhà nước
sản xuất và phân phối sản phẩm. Thực tế đã chứng minh nưững người cộng
sản Nga đã thất bại trong chính sách "Cộng sản thời chiến" khi muốn chuyển
sang chủ nghĩa xã hội ngay bằng việc thiết lập chế độ sản xuất quốc doanh và
chế độ Nhà nước phân phối sản phẩm. Chính sách "Cộng sản thời chiến" chỉ
có tác dụng như một biện pháp tức thời để đưa nước Nga thoát khỏi tình hình
nội chiến. Vậy không muốn bị thất bại và sai lầm thì phải thông qua trao đổi
hàng hoá, qua sản xuất hàng hoá tức là kinh tế thị trường. Cơ sở kinh tế của
chủ nghĩa xã hội là trình độ xã hội hoá sản xuất cao. Kinh tế thị trường văn
minh cực thịnh chính là một biểu hiện của trình độ xã hội hoá sản xuất cao.
Cho nên để bước quá độ thành công thì phải tiến tới xã hội hoá trong thực tế
bằng sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Nhưng có trao đổi hàng hoá tất yếu
đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Tư bản sinh ra từ sản xuất hàng hoá, giai cấp vô sản
không thể tìm cách để chặn đứng sự phát triển của trao đổi tư nhân hay của
chủ nghĩa tư bản (Lênin nói đó là "dại dột" và "tự sát") mà phải hướng chủ
nghĩa tư bản vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Vậy có thể nói hoàn
toàn không quá rằng chủ nghĩa tư bản Nhà nước có vai trò tối quan trọng
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước có trình độ lực lượng
sản xuất còn thấp. Chính là với những ý nghĩa của việc thực hiện chủ nghĩa tư
bản nhà nước như vậy, mà Lênin nó rằng đó là “điều có lợivà cần thiết”,
đáng mong đợi trong điều kiện của chính quyền Xô Viết.
13


4. Những điều kiện để áp dụng thành công Chủ nghĩa tư
bản Nhà nước
Bây giờ là vấn đề liệu có thể sử dụng thành công chủ nghĩa tư bản Nhà

nước hay không? "Liệu chính quyền Nhà nước vô sản có khả năng khống chế
được các ngài tư bản một cách thích đáng, để hướng chủ nghĩa tư bản đi theo
đúng phương hướng mà Nhà nước đã vạch ra và tạo ra một thứ chủ nghĩa tư
bản phục tùng Nhà nước và phục vụ Nhà nước không?"
Câu trả lời là có nếu đảm được những điều kiện cần thiết. Điều kiện cần
là điều kiện liên quan đến việc tạo những thuận lợi hay môi trường để chủ
nghĩa tư bản hình thành và phát triển những nước có nền chuyên chính vô sản.
Chắc chắn là phải phát triển kinh tế hàng hoá như ta đã đề cập ở trên. Theo
Lênin "Nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ
quá độ không phải chỉ đối với một nước tiểu nông, mà nói chung đối với mọi
nước khi chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở vào trình độ
xã hội hoá sản xuất cao độ". Muốn xây dựng được một nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần phải có cơ cấu sở hữu hợp lý. Đó phải là chế độ sở hữu hỗn
hợp đảm bảo cho chủ nghĩa tư bản Nhà nước có thể tồn tại và phát triển.
Điều kiện đủ là điều kiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước chịu "phục
tùng".Trong thời kỳ quá độ phải "dung nạp" chủ nghĩa tư bản nhưng phải
hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chủ nghĩa tư bản có
bản chất khác hẳn chủ nghĩa xã hội. Do đó chủ nghĩa tư bản Nhà nước như
"con dao hai lưỡi". Nếu sử dụng không khéo nó sẽ cho tác dụng phản hồi.
Muốn ngăn chặn được những tác động xấu khi sử dụng chủ nghĩa tư bản
thì Nhà nước phải là Nhà nước chuyên chính vô sản và đồng thời Nhà nước
phải nắm được các đỉnh cao kinh tế. Nhà nước phải có trong tay một thực lực
kinh tế dựa trên hình thức sở hữu xã hội mà Nhà nước là đại biểu , nắm giữ
những vị trí then chốt, trọng yếu của nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo đối vưói
các thành phần kinh tế khác. Chấp nhận điều kiện của CNTB để tạo điều kiện
cho CNTBNN phát triển và phát huy tác dụng. Sử dụng sức mạnh của nền
14


kinh tế nhiều thành phần từ đó vận dụngtất cả các hình thức kinh tế TBNN.

Trong quá trình đó phải luôn luôn kiên định về định hướng XHCN và độc lập
kinh tế trong quan hệ với CNTB nước ngoài.Có như vậy Nhà nước mới có thể
hướng các thành phần kinh tế theo sự điều khiển của mình. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa mới ngăn chặn được bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt ra khỏi chủ
nghĩa tư bản Nhà nước. Và có như vậy, chủ nghĩa tư bản Nhà nước mới là
"cái không đáng sợ" theo cách nói của Lênin.

5. Những hình thức của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước được
Lênin vận dụng
Ở dưới thời Lênin có một số hình thức của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước
được vận dụng. Mặc dù sự thành công của nó chưa đạt được những mục tiêu
đặt ra nhưng những lý luận của Lênin về các hình thức này thì rất cần thiết
cho việc để vận dụng trong điều kiện hiện nay. Ta hãy đi tìm hiểu những hình
thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước đồng thời kết quả thực hiện thời
Lênin để có những bài học bổ ích.
Hình thức đầu tiên mà Lênin nêu ra là tô nhượng "Đó là một giao kèo
một sự liên kết, một liên minh giữa chính quyền Nhà nước Xô Viết nghĩa là
Nhà nước vô sản với chủ nghĩa tư bản Nhà nước chống lại thế lực tự phát
triển tư sản. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản. Họ kinh tế theo phương
thức tư bản để lấy lợi nhuận, họ đồng ý thoả thuận với chính quyền vô sản để
cốt thu được lợi nhuận bất thường, lợi nhuận tiểu ngạch hoặc để có loại
nguyên liệu mà họ không thể tìm ra hoặc khó tìm bằng cách khác". Còn chính
quyền Xô Viết thì được lợi gì? " Chính quyền Xô Viết tăng cường được nền
đại sản xuất đối lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiêu trên đối lập với
nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ
công, nó tăng thêm sản phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp, nó củng
cố được những quan hệ kinh tế do Nhà nước điều chỉnh đối lập với những
quan hệ tiêu tư sản vô chính phủ. Tô nhượng là hình thức của chủ nghĩa tư
15



bản Nhà nước mà Lênin đánh giá cao nhất cũng vì lý do đó. Khi sử dụng tô
nhượng, Lênin nêu ra một nhiều điều phải chú ý là:
- Khi sử dụng tô nhượng đôi lúc phải biết chịu đựng những hy sinh, chấp
nhận sai lầm.
- Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân
trong xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức số trung bình của nước ngoài.
đIũu trọng yếu khi thực hành chế độ tô nhượng là nâng cao số lượng sản
phẩm lên. Nhưng đIũu đặc biệt quan trọng, thậm chí quan trọng hơn là ngay
lập tức cải thiện đời sống công nhân trong các xí nghiệp đó. Cải thiện đời
sống công nhân trong các xí nghiệp tô nhượng và ngoàI tô nhượng được xem
là cơ sở của chính sách tô nhượng. NgoàI ra người nhận tô nhượng phảI bán
thêm cho chính quyền Xô viết (nếu có yêu cầu ) từ 50% đến 1005 số lượng
sản phẩm tiêu dùng cho các công nhân ở xí nghiệp tô nhượng cũng với giá
bán như trên, làm như vậy để cảI thiện đời sống công nhân.
- Hình thức trả lương cho công nhân được qui định tuỳ từng hợp đồng.
Về phương diện hình thức trả lương, nhà nước Xô Viết không hề trói buộc
các nhà tư bản. Vấn đề đối với nhà nước là phảI biết thích ứng với các đIũu
kiện sao cho có thể đấu tranh được với họ để cảI thiện đời sống của công
nhân.
- Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho các
công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài được qui định theo sự
thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng với những loại công nhân viên
nói trên. Công Đoàn không có quyền đòi áp dụng những mức lương của Nga
cũng như các luật lệ của Nga về thuê mướn nhân công đối với những công
nhân đó. Đối với những công nhân Nga – chuyên gia có trình độ cao, nếu các
xí nghiệp tô nhượng muốn mời thì phảI được sự đồng ý của các cơ quan chính
quyền trung ương. Tinh thần chung là không để các các chuyên gia ưu tú nhất
làm việc ở các xí nghiệp tô nhượng. Tuy không cấm hoàn toàn nhưng việc thi
hành hợp đồng phảI được giám sát từ trên xuống và từ dưới lên.

16


- Phải tôn trọng pháp luật của nước Nga. Chẳng hạn như các đạo luật về
đIũu kiện lao động , về kì hạn phát lương….Đặc biệt là: ngoàI những hàng
tiêu dùng và những thiết bị máy móc nhập vào cho xí nghiệp tô nhượng,
người nhận tô nhượng còn phảI nhập thêm cho ta, ví dụ 25% số cần thiết và
bán lạI cho ta với giá thoả thuận.
- Phải nghiêm chỉnh tuân theo những qui tắc khoa học và kỹ thuật phù
hợp với pháp luật của nước Nga và của nước ngoài. ĐIũu này phảI được qui
định tỉ mỉ trong các hợp đồng, bởi vì đặc trưng copư bản của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa là ở chỗ nó không có khả năng chăm lo tới việc sử dụng đất đai
và sức lao động một cách khoa học và đúng đắn. Những qui tắc khoa học và
kỹ thuật là biện pháp đấu tranh chống hiện tượng đó.
Hình thức thứ hai được áp dụng thời Lênin là hợp tác xã. Thoạt đầu
Lênin quan niệm hợp tác xã là một hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
Sau đó trong một tác phẩm người lại viết "cần phải viện đến một cái gần
giống như chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Tôi muốn nói đến chế độ hợp tác xã"
tiếp theo ngay sau đó Lênin lại nói "thường thường trong hoàn cảnh nước ta
chế độ hợp tác xã là hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội". Trong các ý
kiến của Lênin thì hợp tác xã dần càng khác nhau. Điều này là do những thời
điểm lịch sử khác nhau. Ban đầu Lênin coi hợp tác xã là một "hình thức của
chủ nghĩa tư bản Nhà nước nhưng ít đơn gian hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn,
phức tạp hơn và vì thế trong thực tế nó đặt chính quyền Xô Viết trước những
khó khăn lớn hơn". Sau này từ thực tiễn nước Nga Lênin đã phân biệt hai chế
độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chế độ hợp tác xã tư bản
chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô Viết được coi là một hình thức chủ nghĩa tư
bản Nhà nước. Chế độ hợp tác xã theo kiểu thứ nhất là sự kết hợp những xí
nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống,
đây là một bước chuyển từ hình thái đại sản xuất này sang hình thái đại sản

xuất khác. Trong một nước tư bản chủ nghĩa hợp tác xã là những tổ chức tư
bản tập thể. Còn trong điều kiện kinh tế mới tức chính quyền Xô Viết hình
17


thành kiểu xí nghiệp hợp tác xã, đây là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư
nhân (xây dựng trên đất đai thuộc về xã hội) với những xí nghiệp kiểu xã hội
chủ nghĩa chính cống. Còn một con đường khác là con đường của chủ nghĩa
tư bản hợp tác xã. Đây là tổ chức bao gồm hàng ngàn thậm chí hàng triệu tiểu
nghiệp chủ, nó là nước chuyển tư nền tiểu sản xuất sang đại sản xuất. Lênin
quan niệm về sau là con đường theo chế độ này hoàn toàn đồng nhất với chủ
nghĩa xã hội.
Hình thức thứ ba là hình thức đại lý uỷ thác. "Nhà nước lôi cuốn nhà tư
bản với tư cách một nhà buôn trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản
phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ.
Hình thức thứ tư là Nhà nước cho tư bản thuê những xí nghiệp, vùng
mỏ, vùng đất... hình thức này phân biệt với tô nhượng ở chỗ đối tượng thuê là
tư bản trong nước.
Hình thức thứ năm là cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ . Đây cũng
là kiểu cho thuê nhượng đối tượng thuê - theo cách nói của Lênin là các tiểu
tư bản. Qua thực tiễn vùng mỏ Đôn Bát, Lênin rút ra một hình thức nữa của
chủ nghĩa tư bản nhà nước: cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ. Qua việc
làm này, Lênin rút ra hai kết luận-một hiện tượng ngược đời: chính ở những
hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê, sản xuất lại đặc biệt phát triển hơn là những
xí nghiệp lớn nhất trước kia là của tư bản, ngang hầnh với các xí nghiệp tư
bản ở Tây Âu. Những quan hệ của chủ nghĩa tư bản nhà nước được phát
triển. Những nông dân hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nước
Hình thức thứ sáu là Công ty hợp doanh. Hình thức này tồn tại trong lĩnh
vực thương nghiệp, nó được thành lập theo thể thức chính quyền Xô Viết tư
bản trong và ngoài nước cùng góp vốn.

Trên đây là một số hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước được thực
hiện dưới thời của Lênin. Sự thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở thời
Lênin đã mang lại những kết quả to lớn cả về mặt thực tiễn cũng như mặt lý
luận.
18


II- SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
NHÀ NƯỚC VÀO VIỆT NAM.

Những lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước có một ý nghĩa vô
cùng quan trọng cho những nước đi lên chủ nghĩa xã hội muốn bỏ qua giai
đoạn chủ nghĩa tư bản. Nhưng lý luận của Người cần được vận dụng một cách
hợp lý vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Không thể đưa nguyên xi
vào mô hình chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã được áp dụng ở Liên Xô vào áp
dụng ở một môi trường, ở một quốc gia khác được. Thực tế đã chứng minh khi
các nước Đông Âu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã sao chép mô hình của Liên
Xô và kết quả là khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ thì kéo theo sự sụp đổ
ở các nước này và hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới không còn.
Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước phải được lấy làm cơ
sở để từ đó mỗi nước có sự ứng biến linh hoạt khi áp dụng. Luận điểm quan
trọng nhất làm cơ sở xuất phát để nghiên cứu đó là: Việc chuyển sang chủ
nghĩa xã hội cần thiết phải có một loạt nhữg bước quá độ như chủ nghĩa tư
bản Nhà nước. Điều này ta đã xem xét ở phần trước.

1. Sự cần thiết áp dụng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt
Nam
Thực tiễn của công cuộc đổi mới được tiến hành ở Việt Nam trong
những năm qua đã chứng minh rằng trong bối cảnh quốc tế hiện thời, Việt
Nam không có điều kiện để bỏ qua hoàn toàn chủ nghĩa tư bản để quá độ trực

tiến lên chủ nghĩa xã hội mà chỉ có khả năng rút ngắn giai đoạn phát triển đó,
phương pháp rút ngắn là phải sử dụng chủ nghĩa tư bản. Đảng cộng sản Việt
Nam chủ trương trong quá trình đổi mới là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường cho phép tự
do buôn bán trao đổi hàng hoá, chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài, góp vốn
hợp tác, liên doanh với tư bản nước ngoài, phát triển doanh nghiệp tư nhân ...
Điều này tất yếu dẫn đến sự phục hồi chủ chủ nghĩa tư bản. Nhưng như Lê
nin đã khẳng định rằng không phải thủ tiêu nó mà tìm cách hướng nó vào chủ
19


nghĩa tư bản Nhà nước, đó là biện pháp hữu hiệu nhất. Một thực tế có thể
nhận thấy ngay là nước ta chưa có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho chủ
nghĩa xã hội. Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội dựa trên lực lượng sản
xuất phát triển cao. Nước ta muốn xây dựng được chủ nghĩa xã hội phải tuân
theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất nhưng nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất
còn nhỏ lẻ nên phải đi bằng con đường gián tiếp, phải sử dụng chủ nghĩa tư
bản Nhà nước để hạn chế tính tự phát trong sản xuất và chiến lược phát triển
công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong thời kỳ
quá độ không thể không phát triển kinh tế tư bản Nhà nước, lực lượng sản
xuất của nước ta còn hết sức lạc hậu. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật cho
bước quá độ thì phải mau chóng công nghiệp hoá để hiện đại lực lượng sản
xuất. Dưới góc nhìn của lịch sử công nghiệp hoá là nhiệm vụ của chủ nghĩa tư
bản. Nhưng Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội mà không qua chủ nghĩa tư bản để giảm bớt những đau thương có thể xảy
ra. Để sự lựa chọn này thành công và đồng thời để có thể tiến hành công
nghiệp hoá mau chóng thì buộc phải sử dụng quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa đặt dưới sự kiểm kê kiểm soát của Nhà nước chuyên chính vô sản và để
hiện đại hoá lực lượng sản xuất, phải gắn công nghiệp hoá, hiện đại hóa với

việc sử dụng rộng rãi các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Dưới
hình thức tư bản Nhà nước chẳng những Việt Nam thu hút được tư bản nước
ngoài mà còn thu hút được tư bản trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước, hùn vốn liên doanh để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển
hơn nữa. Nhờ đó có thể thu hút vốn và hiện đại hoá công nghệ và năng lực
quản lý của các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, nhờ
đó ta có thể huy động tối đa mọi tiềm năng, tận dụng mọi nguồn lực cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như cho các chương trình khác.
Từ Đại hội VI của Đảng ta đã quyết định chuyển nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường
20


theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế thị
trường phải chấp nhận các quy luật của thị trường. Có mua bán, trao đổi tất
yếu sẽ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Quan hệ chủ nghĩa tư bản tồn tại và phát triển
thì tất yếu sẽ có tính tự phát của nó.. Để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ
nghĩa thì nhất thiết phải hướng các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vào
con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Phải dung nạp chủ nghĩa tư bản trong
và ngoài nước dưới sự kiểm soát và hướng dẫn của Nhà nước. Nếu không cho
tư bản tư nhân theo con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước chẳng những
chúng ta không hướng nó theo xã hội chủ nghĩa mà đôi khi còn làm nó đi lệch
lạc sang chủ nghĩa tư bản. Sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước ta sẽ nâng cao
trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất, đồng thời sử dụng được những
thành tựu về khoa học và kinh tế của nhân loại vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Để phát triển kinh tế thì nước ta không thể không hội nhập với nền kinh
tế thế giới. Trong điều kiện hiện nay, khi mà chủ nghĩa tư bản đang tạm thời
thắng thế, muốn các nước này chấp nhận hội nhập với nước ta là một vấn đề
nan giải vì giữa hai bên có bản chất chế độ chính trị khác nhau, nước ta muốn

hội nhập được chỉ có thể bằng con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chủ
nghĩa tư bản Nhà nước không những để cho các nước tư bản chấp nhận quan
hệ với nước ta và ta có thể lợi dụng được những cái tiến bộ của họ mà còn
giúp cho chúng ta huy động được những lợi thế cho quá trình hội nhập.
Một sự cần thiết nữa để áp dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào nước ta
là để đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Muốn cho
dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh thì phải có một quá trình phát
triển bền vững. Chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là cứu cánh giúp cho đất
nước được những thành tựu trong thời gian qua khi mà nước ta đang mắc phải
hai khó khăn thiếu thốn và trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu.
Đồng thời trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu
quả của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hoá
21


nhiều thành phần chẳng những giúp chúng ta đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế, rút ngắn quá trình khắc phục tình trạng tụt hậu mà còn tạo thêm công
ăn việc làm cho người lao động và góp phần cải thiện đời sống cho họ.
Với tất cả những lý do trên thì có thể nói hiện nay Việt Nam không thể
không vận dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước để hoàn thành thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh một điều là không nên
tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước, xem nó là cứu cánh duy
nhất cho thời kỳ quá độ, phải lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo, phát triển
kinh tế hợp tác xã, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này dần
trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.

2. Những thuận lợi của chúng ta trong sử dụng Chủ nghĩa
tư bản Nhà nước
Học thuyết về kinh tế tư bản Nhà nước của Lênin là lý luận cho đường
lối của thời kỳ quá độ của các nước tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội. Học

thuyết đó cần được vận dụng linh hoạt cho các điều kiện hoàn cảnh cụ thể
khác nhau. Nước ta có những thuận lợi lớn để sử dụng được thành công chủ
nghĩa tư bản Nhà nước.
Trước hết là những thuận lợi thuộc về yếu tố chủ quan. Một đảm bảo
quan trọng nhất đó là sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam-đội tiên
phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trải qua một quá trình
đấu tranh gian khổ và lâu dài, Đảng ta đã trở thành người lãnh đạo cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa của nước nhà. Đảng đại diện cho ý chí quyền lợi của
giai cấp công nhân và đoàn thể nhân dân lao động. Có sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng mới có thể dung nạp được chủ nghĩa tư bản, đảm bảo chủ nghĩa tư
bản không gây tác hại cho quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản của nước nhà. Toàn thể nhân dân một lòng theo Đảng là nguồn sức
mạnh lớn lao để đi đến thành công. Sức mạnh của toàn dân tộc được phát huy
dưới sự chỉ đạo của Đảng có thể vượt qua mọi trở ngại để đi đến thành công.
22


Thuận lợi chủ quan thứ hai là những yếu tố nguồn lực, gồm hai nguồn
lực quan trọng nhất là tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động xã hội. Việt
Nam có vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở trung tâm khu vực kinh tế được đánh giá
là năng động nhất thế giới, có điều kiện quan hệ với các nước trên thế giới
cũng như hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Là nước nhiệt đới gió mùa thuận
lợi cho phát triển nền nông nghiệp, lâm nghiệp và hải thủy sản đa dạng. Đặc
biệt nước ta có nguồn tài nguyên nhiên liệu, khoáng sản phong phú, là một thị
trường hấp dẫn để thu hút đầu tư nước ngoài... tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư
bản phát triển. Việt Nam cũng có một nguồn lao động dồi dào với giá lao
động rẻ khiến các nhà đầu tư nước ngoài chú ý đến.
Những nguyên nhân khách quan chính là những nét đặc trưng của
thời đại ngày nay. Đó là sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang tạo ra một lực lượng sản xuất mới

có tính chất và trình độ cao hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất cũ. Các
nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc nhau hơn do trình độ xã hội hoá mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất. Điều này cho phép chúng ta có thể áp dụng những
thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ phục vụ cho sự phát triển nước
nhà. Và chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ để ta có thể có được
những thành tựu đó. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra cho đất
nước ta cả những thách thức bên cạnh những thời cơ. Nếu như không nắm bắt
được với nhịp độ phát triển của nó thì nước ta có thể bị tụt hậu lại so với thế
giới. Một đặc trưng khác nữa của thời đại ngày nay là xu thế đối thoại và hợp
tác hoá. Đất nước ta có điều kiện cho việc bình thường hoá quan hệ với các
nước trước đây vốn là thù địch, thuận lợi cho việc du nhập chủ nghĩa tư bản
từ bên ngoài, từ các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên trong quá trình hợp tác
quan hệ, ta phải luôn cảnh giác với âm mưu "diễn biến hoà bình" , dã tâm của
các nước đế quốc vẫn không thay đổi.
Tóm lại, trong đIều kiện hiện tạI Việt Nam có nhiều những mặt mạnh
trong thu hút tư bản nước ngoài. Cái mà chủ nghĩa tư bản thế giới cần là sự
23


chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường thì chúng ta đã bắt đầu.Về khách
quan, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là cáI quan trọng nhất quyết
định xu hướng hoà nhập của nền kinh tế thế giới, quyết định triển vọng phát
triển của nền kinh tế nước ta. Công cuộc đổi mới của chúng ta đã thu được
những thành tựu ban đầu rất quan trọng. Nhà nước ta đã thiết lập được nhiều
mối quan hệ kinh tế với bên ngoàI và đã có những chính sách kinh tế đối
ngoạI được nước ngoàI đánh giá klà rộng mở và thức thời. Nước ta cũng có
một số tàI nguyên quí giá, là một thị trường không phảI nhỏ. Đặc biệt là sự ổn
định chính trị là cáI mà nước ngoàI có thể tin cậy để đầu tư lâu dài.
Đó là những điều kiện mà nước ta có được trong thời đại ngày nay,
thuận lợi hơn rất nhiều so với thời Lênin. Hay nói cách khác đây chính là tính

hiện thực của những khả năng. Tuy nhiên trong tính hiện thực đó thì nước ta
còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức.

3. Những khó khăn của chúng ta để sử dụng thành công
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước
Trước hết, một thực tế là nước ta đang là một nước nghèo, có thu nhập
quốc dân tính trên đầu người đứng vào hàng những nước thấp nhất thế giới.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế là rất nặng nề, trình độ khoa học kỹ thuật còn
kém xa với các nước tư bản phát triển. Nước ta còn rất thiếu đội ngũ tri thức
cũng như đội ngũ kinh doanh hiện đại. Đó là do chúng ta xuất phát từ một
nền kinh tế chủ yếu là tự nhiên, tự cung tự cấp, hiện vật.Do vậy, cáI thiếu
thốn nhất và từ đó gây nhiều khó khăn nhất trong quản lí nền kinh tế nói
chung , quản lí sự hồi sinh, dung nạp chủ nghĩa tư bản nói riêng là chưa có
thói quen làm ăn theo kiểu buôn bán, thiếu tri thức. Toàn thế giới đang lao
vào cuộc chạy đua vào những ngành công nghệ cao, kỹ thuật cao, nên hố sâu
ngăn cách về đội ngũ khoa học, kỹ thuật là vấn đề khó khăn của chúng ta
trong hội nhập kinh tế. Những khó khăn này ảnh hưởng lớn đến việc du nhập
chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, sự chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa
24


xã hội ở nước của các thế lực phản động trong và ngoài nước cũng là một trở
ngại lớn. Chúng mưu toan thực hiện “diễn biến hoà bình” và hướng công
cuộc đổi mới của chúng ta đI chệch khỏi con đường xã hội chủ nghĩa. NgoàI
ra, những mặt tráI của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường thực hiện
chủ nghĩa tư bản nhà nước là những vấn đề xã hội hết sức phức tạp, đến mức
có thể gây ra những bất bình của cả một tầng lớp đan cư nào đó trước sự dung
nạp, du nhập chủ nghĩa tư bản. Chúng ta luôn phảicân nhắc cẩn thận , xem xét
hậu quả, cáigiá phải trả cho những vấn đề này.
Nhìn chung lại, việc thực hành chủ nghĩa Nhà nước ở nước ta có cả

những khó khăn cũng như những thuận lợi. Những khó khăn là không nhỏ và
chúng ta cũng phải xác định là sẵn sàng trả giá để phát triển. Vấn đề là làm
sao cho cái giá phải trả là nhẹ nhất. Phải có những bước đi khôn ngoan để
vượt qua được những khó khăn và tận dụng tối đa những thuận lợi để vận
dụng thành công chủ nghĩa tư bản Nhà nước phục vụ cho công cuộc tiến lên
xã hội chủ nghĩa thành công.
Sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước là một trong những điều kiện quyết
định thành công cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong
báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định "kinh tế tư bản
Nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước và
tư bản, tư nhân trong và ngoài nước. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan
trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ
chức quản lý.... của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước..."

25


×