Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

tiểu luận cao học Tư tưởng hồ chí minh về quản lý và cơ chế quản lý nền kinh tế quốc dân liên hệ với thực tiễn nước ta về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.44 KB, 37 trang )

MỞ ĐẦU
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là một hệ thống, quan điểm, toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề kinh tế cơ bản trong sự nghiệp cách mạng của
Việt Nam. Ngay sau khi giành được độc lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
bước giải quyết những vấn đề kinh tế hết sức cơ bản, đặt nền móng cho nền
kinh tế độc lập tự chủ, phát triển kinh tế phục vụ cho kháng chiến và kiến
quốc.
Có thể thấy tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ gồm rất
nhiều vấn đề như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc điểm, mục tiêu và nhiệm vụ
của thời kỳ quá độ; tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế, về thành
phần kinh tế; tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao năng suất lao động, về
nguyên tắc phân phối trong thời kỳ quá độ; tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý
kinh tế…
Hệ thống nền kinh tế quốc dân với lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất tương ứng là nền tảng của chế độ xã hội. Chế độ kinh tế mới ở nước ta
gắn liền với một chế độ chính trị phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân
dân vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
đồng thời cũng là ý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta. Nền
kinh tế quốc dân với tư cách là đối tượng quản lý của một hệ thống phân
công, hợp tác lao động trên quy mô toàn xã hội, được đặc trưng bởi hai yếu tố
cơ bản là cơ cấu kinh tế và cơ cấu quản lý kinh tế. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã quan tâm đến việc lựa chọn mô hình, cơ cấu của nền kinh tế
quốc dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, em
chọn đề tài " Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý và cơ chế quản lý nền kinh tế
quốc dân. Liên hệ với thực tiễn nước ta về vấn đề này " làm đề tài tiểu luận
của mình.

1


NỘI DUNG


I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý nền kinh tế quốc dân
1. Về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
1.1. Về cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành cùng với vị trí, tỷ trọng
của mỗi bộ phận và quan hệ tương tác giữa các bộ phận đó được hình thành
trong những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, trong khoảng thời gian nhất
định. Sau khi giành được chính quyền, để xây dựng nền tảng vật chất cho chế
độ mới, bất cứ nước nào cũng xác định vấn đề ưu tiên hàng đầu là lựa chọn
mô hình, cơ cấu kinh tế để đạt tới hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất. Chọn cơ
cấu kinh tế nào không thể do ý chí chủ quan, mà phải phụ thuộc vào điều kiện
lịch sử, xã hội của đất nước, xu thế vận động của nền kinh tế quốc tế. Từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt
Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lựa chọn cơ
cấu kinh tế nào hợp lý cho chặng đường đầu là một vấn đề hết sức nan giải.
Ngay từ đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đó là cơ cấu công – nông
nghiệp hiện đại và đưa ra quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế công –
nông nghiệp và vai trò của thương nghiệp trong phát triển kinh tế – xã hội ở
thời kỳ quá độ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cơ cấu toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, công nghiệp và nông nghiệp có vị trí, vai trò riêng. Đây là hai
ngành sản xuất ra những sản phẩm, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của
nền kinh tế, của toàn xã hội. Song hai ngành phát triển không tách rời nhau
mà có quan hệ hữu cơ với nhau. Chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa
ra quan niệm coi “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế…
Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển, như hai chân đi khỏe
và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến đích”. Quan hệ giữa
công nghiệp và nông nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến sự hợp tác giữa công nhân và

2



nông dân, là hai chủ thể của xã hội trực tiếp hoạt động trong hai lĩnh vực sản
xuất vật chất chủ yếu – nền tảng của chế độ xã hội mới.
Tại hội nghị Bộ Chính trị bàn về phương hướng khôi phục và phát triển
kinh tế sau hòa bình lặp lại, có ý kiến muốn tập trung lực lượng vào xây dựng
và phát triển công nghiệp nặng để nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta tiến
lên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Mấy năm kháng chiến ta chỉ có nông
thôn, bây giờ mới có thành thị,…nếu muốn công nghiệp hóa gấp thì là chủ
quan…cho nên, trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp…Ta cho nông
nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ,
sau mới đến công nghiệp nặng”.
Tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường phát triển kinh tế
sau năm 1954 là ưu tiên phát triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm gốc? Đó
là vì:
Trước hết, miền Bắn vừa ra khỏi chiến tranh, hậu quả do địch lập vành
đai trắng, thiên tai, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh đồng bằng rất
nghiêm trọng. Vấn đề quan trọng hàng đầu là phải giải quyết cái ăn, cái mặc,
rồi mới đến các vấn đề khác. Rõ ràng, trong điều kiện đó, “muốn công nghiệp
hóa gấp là chủ quan”.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp tao cơ sở để phát triển công nghiệp. Vì
nước ta là một nước nông nghiệp, mọi việc đều phải dựa vào nông nghiệp,
“Phải có một nền nông nghiệp phát triển mạnh thì công nghiệp mới có thể
phát triển mạnh”. “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung
phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển
nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công nghiệp vì nông nghiệp
cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của
công nghiệp làm ra”.
Thứ ba, nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông
nghiệp: khí hậu nhiệt đới, đất đai màu mỡ, lao động nông nghiệp dồi dào. Đó
là ba nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để phát triển nông nghiệp, phát
3



triển kinh tế nói chung. Vì vậy, phải đi lên từ nông nghiệp, phải coi “phát
triển nông nghiệp là việc cực kỳ quan trọng.
Khi xác định trong bước đi ban đầu phải ưu tiên phát triển nông nghiệp,
lấy nông nghiệp làm cơ sở để phát triển công nghiệp và phát triển kinh tế nói
chung, Người lưu ý đến nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là công nghiệp hóa để biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc
hậu thành một nước công nghiệp. Người nhấn mạnh: “nhiệm vụ quan trọng
nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội”.
Những quan điểm về mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên ở tầm khái quát, có giá trị phương pháp
luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn: cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Sự tương tác giữa công nghiệp và nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế nói
chung, lúc đầu là nông nghiệp – công nghiệp, ở giai đoạn sau là công nghiệp
– nông nghiệp, phản ánh hai mức độ chín muồi, hai nấc thang trưởng thành về
kinh tế của bản thân chủ nghĩa xã hội. Cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp
hiện đại, nhưng để tới được tính chủ thể phải qua cơ cấu nông – công nghiệp;
cùng với sự thay đổi kết cấu kinh tế, các quan hệ giai cấp, văn hóa, tư tưởng
cũng biến đổi theo và kết cấu nông – công nghiệp có tính chất quá độ, tồn tại
lâu dài trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây mới là
khía cạnh triết học trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu nông –
công nghiệp hợp lý. Sự tồn tại và khả năng tương tác giữa công nghiệp và
nông nghiệp được thực hiện qua một mắt khâu trung tâm là thương nghiệp. Vì
vậy, việc cải tạo và xây dựng nông nghiệp, công nghiệp không thể tách rời cải
tạo và xây dựng ngành thương nghiệp. Bởi vì “…trong nền kinh tế quốc dân
có ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công
tác quan hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp là cái khâu giữa nông nghiệp
và công nghiệp. Thương nghiệp là đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân,

thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu
4


khâu thương nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông nghiệp với công
nghiệp, không củng cố được liên minh công nông. Công tác thương nghiệp
không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị rời rạc”. Hai mặt
kinh tế và xã hội thống nhất trong hoạt động thương nghiệp, phản ánh đúng
đắn các quan hệ kinh tế xã của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tiếp cận nghiên cứu cơ cấu kinh tế của một quốc gia cho chúng ta thấy
ngoài công, nông nghiệp còn có một bộ phận quan trọng nữa là ngành dịch
vụ, trong đó có thương nghiệp; nhưng thương nghiệp chưa phải là toàn bộ
dịch vụ. Trong nền kinh tế hiện đại, vai trò của ngành dịch vụ không ngừng
tăng lên, biều kiện rõ nhất là ở tỷ trọng trong GDP. Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chưa có điều kiện đề cập nhiều đến lĩnh vực dịch vụ, đó là thời gian
dài trước đây, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lựa chọn mô hình kinh tế
kế hoạch hóa tập trung, hiện đại với hai khu vực chính là công nghiệp và nông
nghiệp.
1.2. Về cơ cấu thành phần kinh tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển nền kinh
tế với cơ cấu nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành
phần có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc. Về mặt lý luận, Người đã kế
thừa trực tiếp các luận điểm của V.I.Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần,
giải phóng tối đa lực lượng sản xuất thông qua phát triển sản xuất và trao đổi.
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phổ biến có ba
thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư bản chủ nghĩa
và kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ. V.I.Lênin còn khẳng định rằng, nền kinh tế
nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ, khi mà chưa có phương
thức sản xuất nào chiếm vị trí thống trị tuyệt đối, rằng một nước tiểu nông

muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một quá trình lâu dài với nhiều
nấc thang trung gian mà chủ nghĩa tư bản nhà nước là một nấc thang quan
trọng, gần với chủ nghĩa xã hội. Sau Cách mạng Tháng Mưởi, V.I.Lênin đã
5


làm rõ, nền kinh tế nước Nga lúc bấy giờ có 5 thành phần kinh tế. Đó là: Kinh
tế nông dân kiểu gia trưởng, có tính chất tự nhiên; Sản xuất hàng hóa nhỏ;
Chủ nghĩa tư bản tư nhân; Chủ nghĩa tư bản nhà nước; Chủ nghĩa xã hội.
Việc sắp xếp các thứ tự các thành phần kinh tế như trên, chủ đích của
V.I.Lênin là làm rõ sự vận động của các chế độ sở hữu trong lịch sử theo
hướng từ thấp lên cao; đồng thời chỉ ra tính chất tiệm cận, mức độ gần gũi của
các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cũng qua sự sắp xếp này, V.I.Lênin
muốn chỉ ra vai trò của thành phần kinh tế tư bản nhà nước như là một nấc
thang trung gian cần thiết, xuyên quan nó, các nước tiểu nông đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội tinh thần cơ bản từ những luận điểm
đó và áp dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế nước ta. Sau Cách mạng Tháng
Tám thành công, nước ta không chủ trương xóa bỏ tất cả các loại hình kinh tế
đang có lúc bấy giờ, trên thực tế là thừa nhận sự tồn tại khách quan của cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần. Thực tế khách quan này được Người khái quát
thành quan điểm lý luận: cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng nổi bật
của nền kinh tế dưới chế độ dân chủ mới: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm
loại kinh tế khác nhau:
A. Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội…)
B. Các hợp tác xã (nó là nửa xã hội chủ nghĩa…)
C. Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ…
D. Tư bản của tư nhân.
E. Tư bản của nhà nước.
Việc sắp xếp các thứ tự các thành phần kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí

Minh tuy bề ngoài có ngược lại với cách sắp xếp của V.I.Lênin, nhưng không
tạo nên sự đối lập mà là sự bổ sung hợp lý. Nếu V.I.Lênin sắp xếp các thành
phần kinh tế theo logic vận động khách quan của chúng thì Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại sắp xếp căn cứ vào vai trò thực tế của từng thành phần kinh tế trong
đời sống kinh tế xã hội Việt Nam. Theo tiêu chí này, thành phần kinh tế xã
6


hội chủ nghĩa đứng ở vị trí cao nhất, bởi nó đang là nền tảng của chế độ mới,
là chỗ dựa của Nhà nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là ở chỗ: nắm giữ những lĩnh vực then
chốt, ảnh hưởng lớn đến quốc kế, dân sinh, có tác dụng hướng dẫn các loại
hình kinh tế khác và là dòng chảy chủ đạo, là mục đích hướng tới của tất cả
các quan hệ và hoạt động kinh tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người Việt Nam đầu tiên dành sự quan
tâm đặc biệt đến việc phát triển kinh tế hợp tác. Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh”, Nguyễn Ái Quốc dành hẳn một chương viết về hợp tác xã. Theo
Người, Hợp tác xã là loại hình kinh tế nửa xã hội chủ nghĩa và là “góp gạo
thổi cơm chung” cho khỏi hao của, tốn công, lại có nhiều phần vui vẻ, cũng
có nghĩa rằng hợp tác xã vừa có ý nghĩa là một loại hình tổ chức sản xuất
(thuộc phạm trù kinh tế) vừa bao hàm cả ý nghĩa xã hội. Đúc rút từ lịch sử
hình thành và phát triển loại thành phần kinh tế này, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra
rằng, “hợp tác xã trước là có ích lợi cho dân, sau là bớt sức bóp nặn của tụi tư
bản và đế quốc chủ nghĩa”. Ở nước ta, đại bộ phận dân số là nông dân với nền
sản xuất chủ yếu là nông nghiệp và khá phát triển các hoạt động thương
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, việc áp dụng các loại hình hợp tác xã là phù hợp
và rất cần thiết. Về cách tổ chức hợp tác xã, Người viết: “Không phải làng
nào cũng phải lập mỗi làng một hợp tác xã. Cũng không phải lập cả mấy hợp
tác xã. Cũng không phải có hợp tác xã này thì không lập được hợp tác xã kia.
Chẳng qua theo hoàn cảnh nơi nào lập được hợp tác xã nào, và có khi hai hợp

tác xã – mua và bán – lập chung cũng được”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về hợp tác xã trước khi dân tộc giành dược
độc lập. Đó là tầm nhìn chiến lược. Luôn luôn nghĩ về quyền lợi của nước,
của dân, Người sớm ý thức tìm phương cách tổ chức nhân dân để họ tự giác
cải thiện điều kiện lao động, cải thiện đời sống của chính họ và đấu tranh
chống sự bóc lột của giai cấp thống trị. Bàn về hợp tác xã, Người đã trang bị
cho quần chúng nhân dân cả lý luận và vũ khí để họ chuẩn bị tiến hành cách
7


mạng giải phóng dân tộc và dần tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hợp tác xã càng
phát triển rộng rãi thì cách mạng càng đông lực lượng và càng bền vững về
mọi phương diện. Chuẩn bị xây dựng hợp tác xã cũng là một yếu tố quan
trọng để xây dựng một nền kinh tế tự chủ. Nghiên cứu những tinh hoa mà nền
văn minh nhân loại đã đạt được, hiểu rõ bản chất và những lợi ích do chúng
đem lại, vận dụng chúng có chọn lọc vào con đường cách mạng của nước
mình, trực tiếp giúp cho dân mình cải tạo xã và cải thiện chính bản thân họ để
vươn tới cuộc sống mới, đó là nét đặc sắc, độc đáo trong tư tưởng và hành
động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngoài thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
thừa nhận sự tồn tại khách quan, tất yếu, lâu dài của các thành phần kinh tế
khác. Người chỉ rõ: “Đối với người làm nghề thủ công và lao động rieng lẻ
khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng
dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã
sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện”. Còn “Đối với những nhà tư sản công
thương. Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải
khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế
dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước
khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công
tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người Việt Nam đầu tiên đề cập đến
phạm trù tư bản nhà nước, Người coi đó là một trong năm thành phần kinh tế
dưới chế độ dân chủ nhân dân. Người viết: “Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà
nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại
này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà nước là chủ
nghĩa xã hội”. Người còn giải thích: kinh tế tư bản của tư nhân bóc lột công
nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế.
Song song với việc sử dụng là việc quản lý các thành phần kinh tế. Để
kinh tế Nhà nước có thể trở thành nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc
8


đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa và lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, “Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên”. Chủ
trương ưu tiên cho kinh tế nhà nước cần được triển khai thực hiện trên tất cả
các mặt: hoạch định chiến lược, tập tring nguồn lực tài chính, lao động khoa
học, kỹ thuật… Đối với kinh tế tư nhân, quan điểm sử dụng và quản lý của
Người dựa trên tư tưởng xuyên suốt “lấy dân làm gốc”, dựa vào nhân dân,
thực hiện phương châm tự lực, tự cường. Trong chiến tranh cũng như trong
hòa bình, vượt lên trên những định kiến giai cấp đương thời, Người chú trọng
vai trò, tiềm năng, luôn kêu gọi và tạo mọi điều kiện cho thành phần kinh tế
này phát triển. Trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Nười chỉ đạo việc
quản lý phải dựa trên lợi ích kinh tế: “công tư đều có lợi” và “chủ thợ đều
lợi”. Người chỉ rõ: “nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng chính phủ ngăn
cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ lợi quyền của công
nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh em thợ cũng để cho chủ số lợi hợp lý,
không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự dộng, tăng gia sản xuất lợi
cả đôi bên”.
Tư tưởng sử dụng và quản lý nền kinh tế nhiều thành phần của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã được áp dụng vào thực tế trong công cuộc khôi phục và phát

triển kinh tế ở miền Bắc trong giai đoạn hòa bình, xây dựng từ sau năm 1954
và đã chứng minh tính đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta. Nhờ phát
huy được tiềm năng và động lực của các thành phần kinh tế nên đã thúc đẩy
sản xuất phát triển mạnh, đời sống nhân dân được nâng cao, nhất là vào
những năm 1960. Tư tưởng sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế đã tác
dộng tới cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta. Nhờ vậy, ngay cả khi kinh tế
quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn nhát thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vẫn
có vai trò và vị trí quan trọng trong nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân vẫn
tồn tại dưới hình thức cá thể, tiểu chủ. Đây là điểm khác biệt trong cơ cấu
thành phần kinh tế của nước ta so với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Người nói: “làm trái với Liên Xô, đó cũng là mácxít”.
9


2. Về cơ chế quản lý kinh tế
2.1. Hệ thống bộ máy quản lý kinh tế quốc dân
Hệ thống bộ máy quản lý kinh tế với tư cách là chủ thể quản lý, bao
gồm những cơ quan và cá nhân có trách nhiệm và quyền hạn nhất định, có
mối quan hệ phụ thuộc theo chiều dọc và theo chiều ngang để thực hiện các
chức năng quản lý trong nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế của chế độ dân chủ
mới ở nước ta, với tư cách là một hệ thống, có đối tượng quản lý là các quá
trình kinh tế đang diễn ra với cơ cấu kinh tế tương ứng và chủ thể quản lý là
hệ thông các cơ quan quản lý từ Trung ương đến cơ sở, gắn với cơ chế quản
lý tương ứng, thực hiện các chức năng quản lý các quá trình kinh tế – xã hội ở
các cấp khác nhau. Trong đó, vai trò của Nhà nước các cấp là hết sức quan
trọng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, hạnh phúc của nhân dân từng bước được
nâng lên, trước hết do thành quả lao động của chính họ; song, để đem lại hạnh
phúc thực sự lâu bền và toàn diện, cho toàn xã hội thì vai trò của nhà nước hết
sức to lớn, có ý nghĩa quyết định, vì nhà nước xã hội chủ nghĩa là của dân, do

dân, vì dân. Vai trò đó thể hiện ở chính sách cụ thể về phát triển kinh tế – xã
hội trong từng giai đoạn, từng thời kỳ theo mục tiêu chiến lược; về sự phân
phối mọi lợi ích trên nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, công khai; về sự động
viên đầy đủ mọi nguồn tiềm lực vật chất và tinh thần của quần chúng nhân
dân phục vụ lợi ích dân tộc. Vai trò đó còn thể hiện ở hệ thống pháp luật đầy
đủ, toàn diện, chặt chẽ, đảm bảo cho mọi người trong xã hội thực hiện tốt
nghĩa vụ công dân, được hưởng những quyền lợi chung. Do đó, công tác giáo
dục phải từng bước nâng cao tinh thần làm chủ, ý thức công dân của quần
chúng nhân dân lao động.
Đặc điểm cơ bản trong tư duy quản lý kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là tất cả mọi thao tác đều quy tụ về nhân tố người lao động. Tổ chức sản
xuất và quản lý kinh tế cũng xuất phát từ nhân tố con người và nhằm mục
đích phục vụ con người. Trong đó, sử dụng hợp lý người lao động trong quá
10


trình sản xuất được xem là nhiệm vụ quan trọng. Tổ chức sản xuất, trước hết
phải xếp đặt người nào việc nấy, người nào giỏi việc nào thì bố trí công việc
thích hợp để làm sao sản xuất thông suốt, nhịp nhàng ăn khớp, khâu sau đã có
khâu trước đảm bảo và hỗ trợ cho khâu tiếp theo. Dụng nhân như dụng mộc,
là vậy. Nếu sử dụng không đúng người, đúng việc thì không có điều kiện tăng
năng suất và nâng cao chất lượng. Do đó, tổ chức lao động hợp lý là: vì việc
xếp người, không vì người mà đặt việc. Thực tế cho thấy, tổ chức lao động
lủng củng, người thì nhiều mà việc không chạy, chỉ thấy người chạy lăng
xăng là do làm ngược, do không biết cách sử dụng người. Tổ chức lao động
thất bại, nguyên nhân lại xuất phát từ thói tự tư tự lợi, bỏ người giỏi để đưa
người nhà, người thân vào cơ quan, xí nghiệp, thậm chí ăn đút lót dù người đó
kém năng lực.
Quản lý kinh tế, trước hết là phải quản lý người lao động. Quản lý chặt
chẽ đi đôi với giáo dục. Hệ thống pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu chăng

nữa vẫn không đủ, vẫn có kẽ hở. Cho nên, giáo dục tính tự nguyện tự giác cho
người lao động mới thực sự có ý nghĩa. Hô hào chung không phải là giáo dục.
Nói chuyện với cán bộ, công nhân mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), ngày 15-91958, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ở xí nghiệp phải biết quản lý; có
quản lý mới biết thu vào tiêu ra, mới biết lỗ lãi, mới biết ai làm tốt, ai làm
xấu, ai làm vượt mức, ai không muốn vượt mức, muốn làm được như thế phải
biết quản lý”.
Điều này có nghĩa là: muốn quản lý tốt, phải có người quản lý giỏi,
nhưng trước tiên người quản lý phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm đến
nơi, đến chốn, vượt mọi khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: cán bộ
tham gia lao động, công nhân tham gia quản lý. Đây là cách tư duy biện
chứng và rất thực tế. Người quản lý, mà phải lăn lộn vào trong hoạt động sản
xuất, hiểu rõ quy trình, các khâu trong dây chuyền sản xuất, hiểu rõ từng
người lao động, từ đó mới có được quan điểm quản lý rõ ràng, biện pháp quản
lý cụ thể. Có làm như vậy mới chống được bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chống
11


được thói bảo thủ, rụt rè, chống được tệ coi khinh, xem thường người lao
động. Dành thời gian lao động, người quản lý sẽ có điều kiện nâng cao tinh
thần trách nhiệm, nắm bắt được những vấn đề sai để điều chỉnh các biện pháp
quản lý cho phù hợp với thực tế.
Tham gia quản lý, người lao động thực sự thực hiện nghĩa vụ và quyền
lợi công dân của mình. Trong sản xuất, người lao động có điều kiện phát hiện
những điều hợp lý hay chưa hợp lý để đề xuất với người quản lý cách thức
phát huy hoặc biện pháp khắc phục, giúp cho người quản lý điều chỉnh
phương pháp, biện pháp kịp thời, làm tốt nhiệm vụ quản lý. Khi hiệu quả
quản lý đã đạt, doanh nghiệp có lợi (năng xuất tăng, chất lượng tốt, lợi nhuận
nhiều, quy mô sản xuất, kinh doanh mở rộng) và người lao động cũng có lợi
(thu nhập tăng, đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện). Nhờ đó, người
quản lý và người lao động luôn đoàn kết, thống nhất, hợp tác chặt chẽ, tư

tưởng thoải mái, sống và làm việc trong môi trường không chỉ có lý, có tình
đồng nghiệp, mà còn có cả tình người. Nếu quay lưng lại với nhau, thì sẽ
trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, tài chính thất thoát, lãng phí thời gian vào
việc giải quyết những khúc mắc, mâu thuẫn, mất đoàn kết, sản xuất kinh
doanh thua lỗ, tất yếu dẫn tới phá sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: công tác cải tiến quản lý, cải tiến kỹ
thuật và cải tiến tổ chức như cái kiềng ba chân. Ba chân phải bằng nhau thì
cái kiềng mới vững được. Muốn làm tốt cả ba việc, cần phải thực hiện dân
chủ. Có dân chủ mới phát huy được sáng kiến cải tiến. Người quản lý giỏi
mấy cũng chỉ có một cái đầu. “Một cây làm chẳng nên non; Nhiều cây chụm
lại nên hòn núi cao”. Dân chủ là động lực của phát triển. Mất dân chủ là mất
đi thái độ thực sự cầu thị, biết lắng nghe ý kiến thẳng thắn, là mất đi sự bàn
bạc để đi tới khẳng định sáng kiến, có khả năng thực hiện để đem lại nhiều lợi
ích cho tập thể. Cái yếu kém nhất và cúng là cái xấu nhất của người quản lý là
bóp nghẹt dân chủ, không chịu lắng nghe ý kiến của quần chúng, cất vào ngăn
kéo những sáng kiến hay của người lao động. Người thường chỉ ra những
12


khuyết điểm phổ biến trong công tác tổ chức quản lý của ta là lủng củng,
thiếu nề nếp, kém hiệu quả, người thì nhiều việc quá, làm không hết, người
thì ngồi chờ việc, người thì chạy lăng xăng… và đề ra yêu cầu “phải tìm cách
tổ chức sắp đặt cho hợp lý, để 1 người có thể làm việc như 2 người, 1 ngày có
thể làm việc của 2 ngày, 1 đồng có thể dùng bằng 2 đồng”.
2.2. Về phương thức tác động
2.2.1. Hệ thống các mục tiêu phát triển kinh tế và quản lý kinh tế
- Về mục tiêu phát triển kinh tế
Năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta tranh được tự
do, độc lập rồi mà dân chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì.
Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn, mặc đủ”; do

đó, Người dành toàn bộ sự quan tâm về kinh tế của mình cho việc chăm lo
phát triển sản xuất để sao cho nhân dân ta có đủ cái ăn, cái mặc, chỗ ở, được
học hành, đi lại, chữa bệnh… tức là sao cho mọi người được ấm no, hạnh
phúc. Người nói: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách của Đảng đều
chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân”.
Sau này, khi có điều kiện bàn về chủ nghĩa xã hội, Người nói chủ
nghĩa xã hội là “làm cho dân giàu, nước mạnh. Dân có giàu thì nước mới
mạnh”. Vì vậy, theo Người phải đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế nhằm
“Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu
thì giàu thêm”. Nêu lên những điều này, chứng tỏ Người hiểu sâu sắc quy luật
phát triển không đều – trong xã hội thường có một bộ phận giàu lên trước, các
bộ phận khác sẽ giàu sau để tất cả cùng giàu có, đó cũng là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc điểm lớn nhất, bao trùm nhất, nó chi phối
các đặc điểm khác của nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là “từ nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đặc điểm này thâu tóm đầy
đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, đồng thời nó đặt ra hàng loạt vấn đề
13


lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, khách quan,
khoa học mới có được những giải pháp đúng đắn về con đường, bước đi và
cách làm phù hợp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Về mục tiêu quản lý kinh tế
Muốn kinh tế phát triển, sau khi có chủ trương, đường lối đúng đắn thì
lãnh đạo, tổ chức, quản lý kinh tế có vai trò quyết định trực tiếp. Đây là lĩnh
vực được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và coi đó là “cái thìa
khóa” để phát triển kinh tế quốc dân. Muốn phát triển lực lượng sản xuất,
muốn tăng năng suất lao động thì phải biết quản lý cho tốt. Quan điểm cơ bản

của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quản lý kinh tế là quan điểm hạch toán, làm ăn
phải có hiệu quả kinh tế. Người cho rằng: “Quản lý một nước cũng như quản
lý một doanh nghiệp: phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc gì phải làm ngay,
việc gì chờ, hoãn, món gì đáng tiền, người nào đáng dùng: tất cả mọi thứ đều
phải tính toán cẩn thận. Về mặt này chúng ta thiếu sót nhiều”.
Tuy nhiên, Người lưu ý: sự tiến bộ trong kinh tế – xã hội cũng là một quá
trình, cũng phải đi từng bước chắc chắn, bước trước đạt kết quả cao hơn.
2.2.2. Công tác kế hoạch hóa
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác kế hoạch hóa là một trong những
phương thức tác động quan trọng đến đối tượng quản lý. Trong việc xây dựng
và hoàn thiện công tác kế hoạch hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những
nguyên tắc chỉ đạo sát sao với tình hình:
- Trước hết, “Khi đặt kế hoạch phải nhìn xa. Có nhìn xa mới quyết định
đúng đắn thời kỳ nào phải làm công việc gì là chính. Phải thấy rộng. Có
thấy rộng mới sắp đặt các ngành hoạt động một cách cân đối. Khi đi
vào thực hiện thì mỗi ngành, mỗi nghề rất tỉ mỉ, chu đáo, thật sát với
mỗi cơ sở. Đó là “một bộ ba” để hoàn thành tốt kế hoạch”.
- Thứ hai, phải đảm bảo vấn đề dan chủ trong việc làm kế hoạch, phải từ
trên xuống dưới và từ dưới lên trên.

14


- Thứ ba, “Phải thiết thực, phải làm được. Chớ làm kế hoạch mặt đẹp, to
tát, kể hàng triệu nhưng không thực hiện được”.
- Thứ tư, có chỉ tiêu kế hoạch, biện pháp rồi, “phải có tinh thần cố gắng
rất cao để thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra. Chỉ tiêu kế hoạch
một phần, biện pháp hai phần, cố gắng phải ba phần”.
2.2.3. Các công cụ quản lý kinh tế cụ thể
Để kích thích sản xuất phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận

thấy phải biết tác động vào nhu cầu và lợi ích thiết thân của người lao động.
Cơ chế, chính sách phải làm sao kết hợp được lợi ích của Nhà nước, của tập
thể và của cá nhân người lao động. Ngoài ra, còn phải biết sử dụng các công
cụ đòn bẩy trong quản lý kinh tế.
Để thực hiện tốt việc cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật và cải tiến tổ
chức sản xuất cần sử dụng các đòn bẩy kinh tế: tiền lương, khoán sản phẩm,
thực hành tiết kiệm và cải cách hành chính.
- Công cụ tiền lương
Mọi người đều hiểu rằng, tiền lương, tiền công là giá cả của sức lao
động, nó phản ánh công sức, trình độ, tinh thần lao động của người lao động.
Nâng lương góp phần nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống của người lao
động. Nhưng sức lao động cũng là một loại hàng hóa, nên nó chịu tác động
của thị trường. Giá trị của sức lao động được xác định gián tiếp thông qua giá
trị của toàn bộ những tư liệu sinh hoạt sản xuất và tái sản xuát ra sức lao
động. Tiền lương hợp lý là tiền lương đảm bảo cho người lao động không chỉ
tự nuôi mình mà còn nuôi con cái một cách đầy đủ, đàng hoàng, ngày càng
sung túc. Tiền lương không hợp lý là tiền lương không đảm bảo được nhu cầu
cần thiết của người lao động và gia đình, khiến cho người lao động không yên
tâm làm việc, họ luôn tìm mọi cách để có thu nhập thêm, “đứng núi này trông
núi nọ”, không quan tâm đến cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất và tham gia
quản lý. Tiền lương hợp lý là thước đo trình độ tổ chức sản xuất và quản lý
sản xuất, cũng là thước đo trình độ tổ chức và quản lý thị trưởng. Để có tiền
15


lương hợp lý phải không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao
hiệu quả kinh tế.
- Công cụ khoán sản phẩm:
Từ rất sớm, Người đã đề cập đến vấn đề khoán, cả trong công nghiệp và
nông nghiệp. Khoán sản phẩm là một công cụ quản lý có tính đòn bẩy đem lại

lợi ích cho tập thể và cho người lao động. Lá đòn bẩy kinh tế vì khoán có tác
dụng khuyến khích tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hiệu quả
kinh tế. Do dó, nếu triển khai thực hiện tốt, khoán sản phẩm sẽ thể hiện tính
ưu việt của nó, là điều kiện của chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “Chế độ làm khoán là một điểu kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến
khích người nông dân luôn luôn tiến bộ, cho nha máy tiến bộ. Làm khoán là
ích chung và lại lợi riêng. Công nhân sản xuất ra nhiều vải, cố gắng nhiều,
hưởng được nhiều; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện
nay. Nếu người công nhân nào thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu kr luật lao
động thì làm cho mau nhưng không tốt; như vậy là không đúng và làm khoán
phải nâng cao số lượng, nhưng luôn luôn phải giữ chất lượng”.
Không chỉ trong sản xuất, trong hoạt động kinh tế, chế độ khoán còn áp
dụng tốt trong các lĩnh vực hành chính. Khoán có lợi về nhiều mặt, trong đó
việc đem lại những thay đổi lớn trong tư duy và tác phong lao động thông qua
hình thức khoán càng khẳng định tính hiệu quả của công cụ đòn bẩy kinh tế
này.
- Thực hành tiết kiệm:
Thực hành tiết kiệm cũng là một công cụ đòn bẩy trong quản lý kinh tế.
Người mong mọi người hiểu sâu sắc nội dung, ý nghĩa của tiết kiệm: tiết kiệm
là tích lũy vốn. “Nó giúp chúng ta dành dụm từng đồng xu thành những vốn
lớn… Như vậy mới dồn được vốn của Nhà nước vào việc công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa”. Nhưng để thực hành tiết kiệm, cũng giống như “xây”, phải đi
liền với “chống”, chống lãng phí, xa hoa. Người luôn luôn kêu gọi mọi người
phải thực hành tiết kiệm và phê phán mạnh mẽ sự xa hoa, lãng phí. Người cho
16


rằng, lãng phí là một căn bệnh, thậm chí là tội lối đối với Đảng, với Nhà
nước, với nhân dân vì nó gây ra nhiều tai hại cả trước mắt lẫn lâu dài. Trong
bài báo Việc đáng chê, Người phê bình: “Vừa rồi, vì được mùa to, 20 xã ở

huyện Yên Thành (Nghệ An) đã “liên hoan” hết 123 con lợn, 8 con bò, 3 con
bê! Đó còn chưa kể số tiền chi tiêu vào muối, gạo, rượu, chè. Cũng chưa kể
những ngày lao động của bà con 20 xã đã mất toi”; và Người khuyên chí tình,
chí lý:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan.
Mừng Xuân, Xuân cả thế gian,
Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân”
Để thực hành tiết kiệm, ngăn chặn sự lãng phí, phải có biện pháp quản lý
một cách hiệu quả. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tăng cường quản lý ngân
sách nhà nước là biện pháp quan trọng hàng đầu. “Đúng, chế độ chi tiêu của
Nhà nước là một sự “ràng buộc”, nhưng đó là một sự ràng buộc rất cần thiết
và rất hay. Nó ràng buộc những kẻ phung phí, những người thích phô trương.
Nó ràng buộc cả những người chỉ biết việc trước mắt mà không thấy việc lâu
dài, chỉ biết việc của bộ phận mình mà không thấy việc chung của cả nước.
Nhưng chính nhờ đó mà nó lại chặt xiềng, chắp cánh cho kinh tế nước ta tiến
lên như ngựa thần trên con đường xã hội chủ nghĩa. Nó giúp chúng ta dành
dụm từng đồng xu thành số vốn lớn. Nó vít kín các lỗ thủng, các khe hở,
không để của cải của chúng ta bị hao hụt, phân tán”.
Một cách thức khác nhằm thực hành tiết kiệm là mở rộng đầu tư. Đó là
khuyến khích các tầng lớp nhân dân gửi tiền tiết kiệm. Dân sẵn sàng đóng góp
vốn vì công cuộc kiến thiết đất nước. Huy động được nguồn vốn trong dân đã
khó vì đây là dồng vốn do toàn dân tiết kiệm trong sản xuất và sinh hoạt có
được. Việc sử dụng hay chi tiêu những đồng vốn đó càng khó hơn vì phải
đúng mục đích, việc cần nhiều tiền thì dùng nhiều, việc cần ít tiền thì dùng ít,
việc nào chưa cần thiết nhất định không dùng tiền vốn đó. Sử dụng các nguồn
17


vốn có hiệu quả, một mặt tập trung xây dựng các công trình trọng điểm có ý

nghĩa toàn cục; mặt khác là để thực hiện công bằng trong phân phối. Để các
nguồn vốn thất thoát hay rơi vào túi cá nhân một số người là phạm pháp, là có
tội với dân, dân không tin, dân không nhiệt tình đóng góp nữa, gây hại cho đất
nước. Để nâng cao chất lượng tín dụng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu: huy động tiền nhàn rỗi trong dân là nhằm đưa vào sản xuất, thì
đồng tiền ấy mới sinh sôi, nảy nở ngày càng thêm nhiều. Về góc độ kinh tế,
con người muốn làm chủ nền kinh tế mới thì phải học cách quản lý và sử
dụng tiền sao cho hợp lý, đem lại lợi ích cho công cuộc kiến thiết đất nước,
nâng cao mức sống nhân dân. Mặc khác, pháp luật của Nhà nước là hành lang
ngăn chặn các hành vi lãng phí, tham ô, tham nhũng trong cán bộ, đảng viên
và nhân dân.
-Cải cách hành chính cũng là một đòn bẩy – mà là đòn bẩy quan trọng
trong quản lý kinh tế. Bộ máy hành chính phình ra bao nhiêu thì trở thành
gánh nặng cho ngân sách nhà nước bấy nhiêu. Lượng tiền bỏ ra chi trả lương
cho khối hành chính càng lớn, thì lượng tiền đưa vào sản xuất càng hạn chế.
Đó là chưa kể sự thất thoát đồng tiền qua việc mua sắm những thứ đắt tiền
không cần thiết, xây dựng trụ sỏ làm việc quá lớn, tiêu tốn nhiều tiền của
công quỹ. Muốn thực hiện triệt để việc giảm biên chế hành chính, một mặt
phải cải tiến công tác tổ chức và quản lý, mặt khác phải thực hiện chế độ
khoán đến người lao động. Cải cách hành chính cũng là một biện pháp tiết
kiệm sức người, sức của. Mấu chốt của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định. Đó là tăng gia sản xuất và
thực hành tiết kiệm, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tiến hành công
nghiệp hóa nước nhà. Cải cách hành chính, thực chất cũng là công việc phải
làm thường xuyên, để làm cho bộ máy quản lý nhà nước không rơi vào tình
trạng quá cồng kềnh, gây lãng phí sức người, sức của, trở nên gọn nhẹ mà
công việc vẫn chạy đều và thực sự có hiệu quả cả về kinh tế và xã hội.

18



II. Liên hệ thực tiễn nước ta về vấn đề này
Với Luật doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp 1992
quy định đã thực sự đi vào cuộc sống. Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Bộ luật
dân sự, Luật Thương mại, Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư
trong nước đã tạo khuôn khổ pháp lý ban đầu cho các yếu tố thị trường hình
thành và vận hành từng bước. Đồng thời, Nhà nước đã thể chế hóa thành cơ
chế, chính sách về đất đai, tín dụng, ưu đãi thuế,... Nhờ đó, Nhà nước đã góp
phần tích cực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thị trường trong suốt gần
20 năm qua. Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước
của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp; chuyển từ quản lý
cụ thể các hoạt động của doanh nghiệp sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc
dân, chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp
thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ
điều tiết vĩ mô khác.
Cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về cơ cấu ngành kinh tế: Từ năm 1988 đến nay, tỷ
trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng nhanh và liên tục ( năm 1988
là 21,6% GDP, năm 1995 là 28,8%, năm 2003 là 40%, năm 2005 chiếm 41%
GDP). Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi đã
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả
kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên đơn vị diện
tích tăng lên. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm
1988 lên 38,2% năm 2003, 38,5 năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển
đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Ngành bưu chính viễn thông và dịch vụ phát triển nhanh. Các dịch vụ tài
chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý… có bước phát triển khá.
Về cơ cấu các vùng kinh tế: Có sự chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so
sánh và quan tâm hỗ trợ các vùng còn có nhiều khó khăn. Ba vùng kinh tế

19


trọng điểm đã phát triển với tốc độ cao hơn mức bình quân của cả nước, hiện
chiếm hơn 60% GDP của cả nước, dần dần phát huy lợi thế so sánh, bước đầu
có vai trò thúc đẩy các vùng khác phát triển. Các vùng kinh tế còn khó khăn
đang từng bước vươn lên, có chuyển biến tốt về đời sống kinh tế - xã hội. Tốc
độ đô thị hóa tương đối nhanh. Các vùng ngoại thành, ven đô thị được chú
trọng phát triển. Việc dịch chuyển cơ cấu đầu tư có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ tiết
kiệm trong nước so với GDP tăng khá nhanh; nguồn vốn tích lũy trong nước
đã được khai thác tốt hơn, chiếm 60% tổng vốn đầu tư. Mặt khác, đã huy
động được nhiều vốn bên ngoài cho đầu tư phát triển. Đã hướng mạnh hơn
đầu tư vào các mục tiêu chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn; bổ sung thiết bị và hiện đại hóa một số ngành công nghiệp; xây
dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất; xây
dựng kết cấu hạ tầng; đầu tư phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo nhất là ở vùng núi, vùng đặc biệt khó khăn. - Năm là, đạt được những kết quả
tích cực trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Từ sau khi xóa bỏ thành
công chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch nước
ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế trên các cấp độ
và trong các lĩnh vực kinh tế then chốt (như thương mại, dịch vụ, lao động,
đầu tư, khoa học và công nghệ...). Đặc biệt là nước ta tham gia Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ngày 28-7-1995; đã không ngừng mở rộng
các quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng, vùng, liên vùng và tiến tới tham
gia liên kết kinh tế toàn cầu. Đến năm 2005, nước ta đã có quan hệ thương
mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định thương mại song phương,
trong đó, nổi bật là Hiệp định Thương mại với Mỹ, tạo điều kiện mở rộng
giao lưu hàng hóa với nước ngoài.
Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta cũng còn tồn tại những mặt hạn chế,
những vấn đề bất cập đòi hỏi được giải quyết. Chưa hình thành một khung lý
luận vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên

nhiều khi chưa thực thi đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của kinh tế
20


trường trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của nền kinh tế. Chưa
xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là về định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhận thức chưa rõ về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các nhân tố
cấu thành chủ yếu của nền kinh tế thị trường: Nhà nước, thị trường và doanh
nghiệp, nên chưa phát huy tốt tác dụng của các nhân tố đó. Quan niệm về
“bóc lột”, về kinh tế tư bản tư nhân vẫn chưa thật rõ, một số người còn ấn
tượng khá nặng nề, gây cản trở không nhỏ về tâm lý và chính sách cho sự
phát triển kinh tế. Có ý kiến cho rằng, việc không cho đảng viên làm kinh tế
tư nhân cũng là một yếu tố gây sự khó khăn, e ngại, nhất là cho những tư
nhân muốn đầu tư kinh doanh lớn. Ngược lại có ý kiến cho rằng, phát triển
kinh tế tư nhân, nhất là kinh tế tư bản tư nhân, tất yếu sẽ tích tụ những nguy
cơ của khuynh hướng tư bản chủ nghĩa. Về vai trò, xu hướng và triển vọng
của khu vực kinh tế tư nhân, có ý kiến cho rằng kinh tế tư nhân là động lực
(hoặc một trong những động lực phát triển) của nền kinh tế thị trường ở nước
ta, trước hết là đối với sự tăng trưởng nhanh, giải quyết việc làm, xóa đói,
giảm nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội; kinh tế tư nhân là một thành tố cơ
bản của nền kinh tế thị trường, kể cả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng, chúng ta không thể tránh khỏi
chệch hướng sang chủ nghĩa tư bản, nếu cho phép phát triển kinh tế tư bản tư
nhân. Chậm cụ thể hóa mô hình, dẫn đến còn nhiều lúng túng trong thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông nghiệp, nông thôn. Nhận thức như thế
nào là nền kinh tế độc lập tự chủ và sự phụ thuộc giữa các nền kinh tế trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề còn nhiều ý kiến
khác nhau. - Về thực tiễn: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với
tiềm năng; chất lượng tăng trưởng còn thấp; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế

còn thiếu vững chắc; đời sống nhân dân ở nhiều vùng còn rất khó khăn. Tăng
trưởng những năm qua chủ yếu dựa vào các nhân tố tăng trưởng theo chiều
rộng, với những ngành, những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu
21


hao vật tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào
đầu tư và bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước, điều đó làm
giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp. Công nghiệp phụ trợ và các dịch
vụ khác chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp. Hầu
hết các ngành công nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng lượng và nguyên liệu
cao hơn so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh tuy có tiến bộ,
nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc
dù đã có nhiều cố gắng trong việc tạo lập và chuẩn bị các tiền đề cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng nhìn chung, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển. Trong chiến lược 10 năm (2001 - 2010), với mục tiêu là đến năm
2010 “tạo được nền tảng để năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”, thì phần việc tạo ra nền tảng trong 5 năm
qua thực hiện còn có mặt chậm trễ và thiếu đồng bộ. Tích lũy từ nền kinh tế
còn thấp; kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Chất lượng nguồn nhân
lực còn thấp. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu hai, ba thập kỷ so
với các nước trong khu vực. Tỷ lệ công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực còn
rất thấp, sử dụng công nghệ trung bình còn là phổ biến. Kinh tế nhà nước
chưa làm thật tốt vai trò chủ đạo; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn
thấp. Kinh tế tập thể phát triển chậm và còn nhỏ bé. Kinh tế tư nhân chưa phát
triển đúng với tiềm năng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn khó khăn về
môi trường đầu tư và một số vướng mắc về cơ chế, chính sách... Thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hình thành đồng bộ. Hệ
thống thị trường còn bất cập, thị trường chứng khoán mới được hình thành,
thị trường lao động còn sơ khai, thị trường tài chính mới đang từng bước

được xác lập, thị trường khoa học - công nghệ chưa thực sự ra đời. Hệ thống
pháp luật trên lĩnh vực kinh tế còn thiếu toàn diện, chưa mang tính quốc tế,
chưa đồng bộ và thiếu ổn định, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước
bằng pháp luật, còn thiếu nhiều văn bản dưới luật. Quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế chậm, làm ảnh hưởng đến nâng cao hiệu quả kinh tế, sức cạnh
22


tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng
lớn; tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ còn có phần chậm lại.

23


KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt
xuất. Suốt cả cuộc đời, Người phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc,
hạnh phúc cho nhân dân. Cùng với sự nghiệp của Đảng ta, dân tộc ta, Hồ Chí
Minh đã để lại cho hậu thế một tài sản tinh thần vô giá. Trong hệ thống tư
tưởng của Người, tư tưởng kinh tế là mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và những quy luật kinh tế
khách quan vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những tư tưởng đó đã
chỉ đạo cho Đảng ta hoạch định đường lối, chính sách kinh tế trong từng thời
kỳ, từng giai đoạn của cách mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi và
kiến quốc thành công. Trong hệ thống tư tưởng của Người, tư tưởng kinh tế là
mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin và những quy luật kinh tế khách quan vào điều kiện lịch sử cụ
thể của Việt Nam. Những tư tưởng đó đã chỉ đạo cho Đảng ta hoạch định
đường lối, chính sách kinh tế trong từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách
mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi và kiến quốc thành công. Ngày

nay, điều kiện trong nước và thế giới đã có những biến đổi sâu sắc, nhưng tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh nói riêng vẫn
có ý nghĩa lớn lao. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã
xác định đường lối đổi mới, tạo cho nền kinh tế Việt Nam đạt được nhiều
thành tựu quan trọng nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Bốn
nguy cơ mà Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (1994) đã xác định,
trong đó có nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, ngày càng biểu hiện rõ nét.
Thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải đi sâu nghiên cứu tư tưởng kinh tế Hồ Chí
Minh nhằm rút ra những bài học và vận dụng những tư tưởng đó phù hợp với
bối cảnh mới để góp phần đắc lực vào việc phát triển nền kinh tế nói chung,
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thành công nói
riêng.

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tương Hồ Chí Minh về kinh tế - Nhà xuất bản chính trị
quốc gia.
2. Phạm Ngọc Anh (1997), “Quan niệm của Hồ Chí Minh về cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
3. Phạm Ngọc Anh (1998), “Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về
công tác tài chính”.
4. Trần Văn Phòng (2002), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ”.
5. Vũ Văn Phúc (2000), “Một số luận điểm kinh tế của Hồ Chí Minh
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.

25



×