Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận cao học Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng đảng cộng sản và nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.08 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp.
Ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn
thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Người để lại một hệ thống tư
tưởng quý báu về Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với
chủ nghĩa Mác-Lênin, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (1920) và trở
thành người Việt Nam Cộng sản đầu tiên. Từ đó, Người xác định mục tiêu
của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Muốn hoàn thành nhiệm vụ đó, Người khẳng định: "Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy".(1)
Vấn đề được Người quan tâm hàng đầu về mặt tổ chức là sớm lập ra Đảng
Cộng sản, một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã xây dựng thành công
Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, giai cấp công nhân
nhỏ bé, nông dân chiếm đại bộ phận dân cư.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân đã được ghi trang trọng trong Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ðó là tư tưởng về "tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo"; tư tưởng về "nhân dân có quyền phúc
quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia"; tư tưởng
về "Chính phủ là công bộc của dân". Nhà nước của nhân dân thì "bao nhiêu
1



quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Tất cả các cơ quan Nhà nước đều
phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Từ khi thành lập nước đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin- tư tưởng Hồ Chí
Minh luôn là ngọn đuốc sáng soi đường chỉ lối cho mọi hoạt động của Đảng
và Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hơn 20 năm qua, trong quá trình
lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta rất coi trọng trong
vấn đề xây dựng, hoàn thiện Nhà nước. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 8 khoá VII đã đề ra Nghị quyết về "Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách
một bước nền hành chính". Báo cáo chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
tại Đại hội lần thứ VIII cũng khẳng định: "Xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng cho Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã
hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của
nhân dân.
Vì vậy, việc nghiên cứu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Cộng sản và Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân" qua các tác
phẩm kinh điển của Người góp phần nhận thức sâu sắc, đúng đắn nhằm vận
dụng sắng tạo, có hiệu quả về tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn công tác vừa
mang ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn to lớn, đồng thời mang tính cấp bách
trong công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay nhằm phát huy sức mạnh và
hiệu lực của Nhà nước trong việc tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, vì lợi ích của nhân dân, vì sự phồn vinh của đất nước.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận chủ yếu tập trung làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng Cộng sản và Nhà nước pháp quyền thông qua những vần đề như:
khái niệm, bản chất, chức năng, vai trò.
2



Thực hiện mục tiêu trên, tiểu luận phải giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phân tích và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng và Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân như khái niệm, bản chất, chức năng,
vai trò.
- Và những biến dạng của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân và giải pháp khắc phục
- Bước đầu đề cập một số kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh
đạo xây dựng Đảng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong công cuộc đổi mới
đất nước.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung trình bày về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
công tác xây dựng Đảng Cộng sản và Nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân qua các tác phẩm kinh điển và quá trình lãnh đạo của Đảng ta về
xây dựng Đảng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt nam
trong thời kỳ đổi mới (1986-đến nay). Từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm có ý nghĩa thiết thực đối với Nhà nước ta hiện nay.
4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo tiểu luận
gồm có 2 chương.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM


Cách mạng Việt Nam đi từ tự phát đến tự giác, có tổ chức, có đường
lối, được giác ngộ Chủ nghĩa Mác Lê Ninh giành được thắng lợi to lớn đó là
nhờ có Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tốt quyết định hàng đầu đưa
cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
- Vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và kế thừa
truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhưng quần chúng phải được giác ngộ, được tổ chức và được lãnh
đạo theo một đường lối đúng đắn mới trở thành lực lượng to lớn của cách
mạng, như con thuyền có người cầm lái vững vàng... thì thuyền mới vượt qua
được gió to sóng cả để đi đến bến bờ. Bác nhấn mạnh : "Cách mạng trước hết
phải có gì? Phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc Cộng sản dân tộc bị áp bức và vô sản gia cấp ở mọi
nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững con thuyền mới chạy".
- Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng mang bản chất của giai cấp
công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng
đoàn kết tập hợp các tầng lớp nhân dân khác làm cách mạng. Đảng là đội tiên
phong dũng cảm và là đội tham mưu sáng suốt. Đảng Cộng sản Việt Nam tận
tâm, tận lực phục vụ Tổ Quốc, phụng sự nhân dân, trung thành tuyệt đối với
lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào
khác ngoài lợi ích của nhân dân và của dân tộc. Mục tiêu phấn đấu của Đảng
là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mọi người.
4


"Muốn khỏi đi lạc phương hướng, giai cấp phải có Đảng lãnh đạo để
nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng".
Cách mạng là cuộc đấu tranh gian khổ. Kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng

lợi thì quần chúng phải tổ chức chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết.Vì vậy phải
có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh,
đánh kẻ địch giành chính quyền. Cách mạng thắng lợi rồi, giai cấp vẫn cần
có Đảng.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đây chính là quy luật hình thành và phát triển Đảng Cộng sản Việt
Nam, đồng thời là sự bổ xung, sáng tạo vào kho tàng lý luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin. Vì sao Hồ Chí Minh lại thêm yếu tôi phong trào yêu nước.
- Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quát trình
phát triển của dân tộc Việt Nam.
- Phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước vì nó đều có
mục tiêu chung. Phong trào yêu nước Việt Nam là phong trào rộng lớn nhất
có trước phong trào công nhân từ nghìn năm lịch sử. Nó cuốn hút mọi tầng
lớp nhân dân, toàn dân tộc đứng lên chống kẻ thù. Phong trào công nhân ngay
từ khi mới ra đời đã kết hợp với phong trào yêunước. Khác với những người
Cộng sản phương Tây, Hồ Chí Minh và những người Cộng sản Việt Nam đã
đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin từ giác ngộ dân tộc
đến giác ngộ giai cấp.
- Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân ngay từ đầu.
Hơn 90% dân số là nông dân. Họ là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp
công nhân.
- Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam trên Cộng sản kết hợp
vấn đề dân tộc với gia cấp, có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành
5


Đảng ở một nước thuộc địa. Đảng định hướng đúng đắn và thúc đẩy phong

trào cách mạng. Hồ Chí Minh tìm cách truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào
dân, vào phong trào yêu nước, phong trào công nhân. Bác viết : "Không phải
mọi người yêu nước đều là Cộng sản, việc tiếp nhận đường lối của Đảng
Cộng sản là cần thiết để xác định mục tiêu, yêu nước đúng đắn. Mỗi người
Cộng sản trước hết phải là một người yêu nước tiêu biểu, phải truyền bá Chủ
nghĩa Mác - Lênin vào trong dân, lãnh đạo công nhân và quần chúng thực
hiện thắng lợi đường lối của Đảng".
3. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Từ quy luật hình thành và phát triển Đảng, Hồ Chí Minh đã đi đến luận
điểm Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là
Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản.
Đảng tập hợp vào hàng ngũ của mình những người tin theo chủ nghĩa Cộng
sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản... dám hy sinh phục tùng mệnh
lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận của Đảng.
Tháng 2/1951, Bác viết : "Trong giai đoạn này quyền lợi của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Chính vì Đảng là
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân là cho nên nó phải là Đảng của cả
dân tộc Việt Nam".
Năm 1961, Bác viết : "Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng
thời là Đảng của dân tộc không thiên tư, thiên vị".
Đảng mang giai cấp công nhân thể hiện không chỉ ở số lượng Đảng
viên, nhân thân từ giai cấp công nhân mà ở nền tảng tư tưởng của Đảng là
Chủ nghĩa Mác - Lênin. Mục tiêu và đường lối của Đảng là độc lập dân tộc,
gắn liền với Chủ nghĩa xã hội vì giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
Đảng tuân thủ các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin. Đảng kết nạp
những người ưu tú của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và các thành
6



phần khác mà họ được rèn luyện, thử thách, giác ngộ về Đảng, tự nguyện
chiến đấu trong hàng ngũ của Đảng. Đảng đặc biệt chú ý giáo dục, rèn luyện
Đảng viên giác ngộ giai cấp và dân tộc, nâng cao hiểu biết Chủ nghĩa Mác Lênin. Đảng ta là sự thống nhất giữa thống nhất giai cấp và thống nhất dân
tộc, lợi ích của giai cấp gắn với lợi ích dân tộc "nhân dân và cả dân tộc thừa
nhận Đảng là người lãnh đạo duy nhất, đại diện cho quyền lợi cơ bản và thiết
thân của mình"
B/c giai cấp của Đảng còn thể hiện ở định lý xây dựng Đảng thành
Đảng gắn bó máu thịt với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể
dân tộc trong mọi giai đoạn, mọi @ của cách mạng Việt Nam.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt.
Theo Bác : "Chỉ có Đảng nào theo lý luận cách mạng tiền phong, Đảng
cách mạng mới làm nổi trách nhiệm cách mạng tiền phong", "Đảng muốn
vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải
theo chủ nghĩa ấy".
"Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nghiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là Chủ nghĩa Mác - Lênin"... Chủ
nghĩa Mác - Lênin là học thuyết về giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân
lao động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người nói chung, đồng thời
là học thuyết về sự phát triển xã hội lên hình thái cao hơn, xóa bỏe hoàn toàn
bất công, nguồn gốc đẻ ra sự bóc lột, áp bức. "Chủ nghĩa Mác - Lênin là lực
lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng đôi có thể
trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của
trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi".
Đảng lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt có nghĩa là Đảng ta nắm vững
tinh thần của Chủ nghĩa Mác - Lênin, lập trường, quan điểm và phương pháp
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời nắm vững tinh hoa văn hóa dân tộc va
trí tuệ thời đại vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Không
máy móc, kinh viện, giáo điều.
7



Trong tiếp nhận và vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh lưu
ý những điểm sau :
- Học tập, nâng cao, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù
hợp honà cảnh và từng đối tượng.
- Vận dụng phải phù hợp với từng hoàng cảnh.
- Chú ý học tập, kế thừa kinh nghiệm tốt của các Đảng Cộng sản khác,
tổng kết cách mạng của mình để bổ sung cho Chủ nghĩa Mác - Lênin.
5. Đảng Cộng sảnViệt Nam xây dựng theo nguyên tắc Đảng kiểm
mới của giai cấp vô sản.
a. Tập chung dân chủ:
Đây là nguyên tắc cơ bản của tổ chức Đảng. Tập chung là truyền thống
về tư tưởng, tổ chức, hành động. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên, đảng viên chấp hành nghị quyết của tổ chức Đảng, Đảng trong
nhiều người, nhưng khi tiến hành chỉ như một người".
Dân chủ là của "quý báu của nhân dân" là thành quả của cách mạng.
Tất cả mọi người được tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý.
Phải phát huy dân chủ nội bộ nếu không sẽ suy yếu từ bên trong .
b. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách :
Tập thể lãnh đạo, nhiều thì thấy hết mọi việc, hiểu hết mọi mặt của vấn
đề, có nhiều kiến thức, tránh tệ bao biện, quan liêu, độc đoán, chủ quan.
"Việc gì đã bàn kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi thì cần phải giao cho
một người hoặc một nhóm ít người phụ trách kế hoạch đó mà thi hành. Như
thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy".
Cá nhân phụ trách, sau khi bàn bạc kỹ lưỡng thì phải giao cho một
người phụ trách (nếu là nhóm người thì có một người phụ trách chính) để
tránh bừa bãi, lộn xộn, cô chính phủ dễ hỏng việc.
c. Tự phê bình và phê bình:
Đây là nguyên tắc sinh hoạt Đảng, là quy luật phát triển Đảng. Tự phê

bình là mỗi Đảng viên phải tự thấy rõ mình để phát huy mặt ưu điểm, khắc
8


phục nhược điểm. Tự phê bình mà tốt thì mới phê bình người khác được.
"Muốn đoàn kết trong Đảng, phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội
bộ, mở rộng tư phê bình và phê bình". Đó là vũ khí sắc bén để rèn luyện
Đảng viên.
"Một Đảng mà dấu giếm khuyết điểm là một Đảng hỏng. Một Đảng có
gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có
khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, ròi tìm để sửa
chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn,
chân chính".
Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình thật đúng và nghiêm túc
không phải dễ dàng. Nó là vấn đề khoa học và NTCM. "Phải tiến hành
thường xuyên như rửa mặt hàng ngày, phải trung thực, chân thành, thẳng
thắn, không nể nang, không giấu giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm,
phải có tính đồng chí yêu thương lẫn nhau". Cán bộ Đảng viên phải luôn dừng
và khéo dừng. Để thực hiện tốt nguyên tắc này mọi người cần phải trung thực,
chân thành với nhau, với chính mình và với người khác, phải có tình đồng chí
yêu thương lẫn nhau". Bác nhắc, trước lợi dụng phê bình để nói xấu nhau, bôi
nhọ nhau, đả kích nhau...
d. Kỷ luật nghiêm minh và tự giác :
Đây là nguyên tắc Đảng kiểu mới do Lênin đề ra, Đảng thực sự là một
tổ chức chiến đấu chặt chẽ để giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc
và Chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh coi trọng xây dựng kỷ luật, nghiêm minh
và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn cho Đảng.
Nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, kỷ luật đối với mọi Đảng viên
không phân biệt. Mọi Đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật Đảng.
Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân, cán bộ Đảng viên đối với Đảng. Kỷ

luật này do lòng tự giác của họ về nhiệm vụ của họ đối với Đảng. Yêu cầu cao
nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, Nghị quyết của Đảng tuân
theo nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng. "Mỗi Đảng viên cần
9


phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật chẳng những kỷ luật Đảng, mà cả kỷ
luật của toàn thể nhân dân và của chính quyền cách mạng".
e. Đoàn kết thống nhất trong Đảng.
"Điều kiện là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta của nhân dân
ta... giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Cơ
sở để đoàn kết nhất trí trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng,
điều lệ của Đảng. "Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao
giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo".
6. Tăng cường và củng cố mối quan hệ bền chặt giữa Đảng với dân.
Hồ Chí Minh yêu cầu tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng với
dân như sau :
- Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của dân, khắc phục bệnh
quan liêu.
- Thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng dưới mọi
hình thức.
- Đảng có trách nhiệm nâng cao dân trí.
- Trong quan hệ với dân, Đảng không được theo đuôi quần chúng.
7. Đảng phải thường xuyên chỉnh đốn, tự đổi mới làm cho Đảng
thực sự trong sạch, vững mạnh :
Đảng là đạo đức, là văn minh tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương
tâm của dân tộc. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới trong điều kiện Đảng
cầm quyền. Chỉnh đốn chú ý những vấn đề sau :
- Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức xứng đáng là
người lãnh đạo nhân dân.

- Cán bộ Đảng viên phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, phục vụ tổ
quốc, có đức, có tài.
- Chú ý khắc phục tiêu cực, luôn giữ gìn Đảng trong sạch, vững mạnh.
- Đảng phải vươn lên đáp ứng yêu cầu tình hình và nhiệm vụ mới.

10


CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
1. Khái niệm, bản chất của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1. Khái niệm
Ở Hồ Chí Minh đã sớm hình thành một hệ thống quan điểm về pháp
quyền, về quyền con người, về hiến pháp, về vai trò của pháp luật…Trên con
đường đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin, tìm thấy ở đó chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Suốt đời Người luôn
luôn nghĩ về dân, lo cho dân, vì hạnh phúc của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền là một Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ là cốt
lõi của tư tưởng Nhà nước pháp quyền. Nhà nước đó phải quản lý xã hội theo
pháp luật, bằng hiến pháp với tính cách là luật cơ bản.
Ngay từ năm 1919, Nguyễn Ái Quốc cùng các bạn hữu chiến đấu viết
bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi các đồng minh thắng trận trong chiến
tranh thế giới thứ nhất và gửi chính phủ Pháp. Trong điều kiện của chế độ
thuộc địa thực dân, khi chưa đòi được quyền tự quyết thiêng liêng, tác giả bản
yêu sách nêu ra các yêu sách và tự đánh giá đấy cũng chỉ là những yêu sách
khiêm tốn. Trong số các yêu sách đó, đáng chú ý nhất là yêu sách thứ 7:
“Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật” và sau này yêu sách này
đã thành hai câu thơ lục bát: "Bảy xin hiến pháp ban hành, trăm điều phải có

thần linh pháp quyền”.
1.2. Bản chất của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân cũng mang bản chất giai
cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Ngoài ra, Nhà nước
pháp quyền phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

11


Là người sang lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề Đảng cầm quyền hay Đảng
nắm chính quyền. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước có một điều rất quan
trọng, đó là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
ngay từ khi Nhà nước được thiết lập. Kể cả khi đất nước đứng trước muôn
vàn khó khăn, Đảng tuyên bố tự giải tán, nhưng thực chất là rút vào hoạt động
bí mật mà vẫn lãnh đạo chính quyền. Đảng lãnh đạo nhà nươc là một nguyên
tắc bất di bất dịch trong toàn bộ quá trình xây dựng, củng cố và phát triển của
Nhà nước ta. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta là nhằm giữ
vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước.
Đảng Cộng sản không chỉ lãnh đạo chính quyền mà còn lãnh đạo toàn
bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã được
thể hiện trong hiến pháp năm1980 và hiến pháp năm 1992, trong đó khẳng
định “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Đảng Cộng sản lãnh đạo Nhà nước thông qua những chủ trương, đường
lối, thông qua tổ chức của mình trong bộ máy Nhà nước, thể chế hóa đường
lối thành pháp luật; kiểm tra, giám sát hoạt động của các đảng viên trong bộ
máy Nhà nước.

2. Chức năng, vai trò của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân
2.1 Chức năng của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thực hiện chức năng
quản lý xã hội, quản lý Nhà nước theo pháp luật.
Mục tiêu của Nhà nước pháp quyền trên thực tế là yêu cầu các cơ quan
Nhà nước, kể cả cấp cao nhất đều phải đặt mình dưới hiến pháp. Ở Hồ Chí
Minh độc lập gắn liền với hiến pháp và các lý tưởng dân quyền. Đó là một
12


công thức chứa đựng đầy đủ các yêu cầu về một Nhà nước pháp quyền. Hiến
pháp là nền tảng pháp lý của quyền lực nhân dân, trên cơ sở đó mà triển khai
các quyền tự do, dân chủ của công nhân.
Vì vậy, ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, một trong sáu
nhiệm vụ cơ bản của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra là tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng hiến pháp
dân chủ. Đó là môt quyết định hợp lòng dân, và kết quả của tổng tuyển cử là
từ một chính quyền lâm thời đã có một chính quyền do dân lần đầu tiên trực
tiếp bầu ra.
Ngày 9.11.1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa I đã
quyết định thành lập ban sửa đổi Hiến pháp do chủ tịch Hồ Chí Minh làm
trưởng ban. Sau khi tiếp thu ý kiến đóng góp của hàng triệu người, ngày
31.12.1959, hiến pháp đã được thông qua. Hiến pháp năm 1959 quy định rõ
“Tất cả các nhân viên cơ quan Nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân
chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật”.
Với tính chất tối thượng của hiến pháp như vậy, không một văn bản
pháp luật nào, kể cả các đạo luật không được trái với Hiến pháp. Không một
cán bộ, công chức nào được đặt mình trên pháp luật, mọi người đều bình

đẳng trước pháp luật. Đó là đảm bảo cao nhất về mặt pháp luật của một Nhà
nước được coi là hợp pháp mà tư tưởng lập hiến đã khẳng định. Thông qua
đó quyền của công dân được tôn trọng và bảo vệ, chủ quyền quốc gia được
bảo đảm.
2.2 Vai trò của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
Vai trò của Nhà nước thể hiện rõ qua tư tưởng của Hồ Chí Minh về một
nền pháp luật dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên thực tế.
Nổi bật qua các tác phẩm của Hồ Chí Minh và những lời dạy thực tiễn
của Người là quan niệm về pháp luật, vai trò, tác dụng của pháp luật, cách
thức ban hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Hồ Chí Minh chỉ rõ,
13


luật pháp của chúng ta hiện nay là ý chí của giai cấp công nhân lãnh đạo cách
mạng. Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao
động. Trong tác phẩm “Dân vận”, Bác viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi
mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là
công việc của dân…”.
Từ đó, Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân
chủ, nhưng dân chủ phải trong khuôn khổ của pháp luật, chứ không phải là
thứ dân chủ vô chính phủ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một Nhà nước có
hiệu lực mạnh là Nhà nước quản lý đất nước theo pháp luật và làm cho pháp
luật có hiệu lực trên thực tế. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được tôn
trọng và phải được thể chế hóa bằng pháp luật. Pháp luật càng quy định cụ thể
và chặt chẽ thì quyền của công dân càng được đảm bảo.
Ngoài ra, chủ tịch Hồ Chí Minh còn chăm lo đến việc tuyên truyền
pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo ra cơ chế cho pháp luật được thi
hành, đồng thời tạo ra cơ chế kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật trong các
cơ quan Nhà nước và trong nhân dân. Người coi giáo dục pháp luật cho cán

bộ và nhân dân là một việc làm kiên trì, lâu dài. Người cũng thường nhắc nhở
cán bộ phải lo “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Công dân hiểu được pháp luật,
hiểu được tinh thần và nội dung của pháp luật để tuân thủ pháp luật, chấp
hành pháp luật, để rồi tự bảo vệ được quyền của mình, đó là một yêu cầu quan
trọng của Nhà nước pháp quyền của dân do dân vì dân theo tư tưởng của Hồ
Chí Minh.
3. Những biến dạng của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân và giải pháp khắc phục
Một trong những dấu hiệu không thể thiếu của một Nhà nước pháp
quyền là việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
Phải thừa nhận rằng đây là vấn đề được đặt ra trong tất cả các kiểu Nhà nước,
14


nhưng do việc giải quyết không phải bao giờ cũng đúng đắn nên có thể dẫn
đến các căng thẳng xã hội.
Thực tế chứng minh rằng, nếu các cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà
nước mà mắc bệnh quan liêu, xa dân, cửa quyền, tắc trách trong quan hệ với
dân thì từ phía người dân sẽ diễn ra tình trạng có nơi, có lúc vô tổ chức, thiểu
kỷ cương, thậm chí là vô pháp luật, vô chính phủ.
Để giải quyết vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích vai trò
hướng dẫn, điều chỉnh, kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Các cơ quan Nhà
nước phải đóng vai trò của người cầm lái, người dẫn đường.
Một trong những nguyên nhân làm biến dạng Nhà nước mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu ra là quan liêu, lãng phí, tham ô. Chúng đối lập với dân chủ
và chỉ có thực hành dân chủ thật nghiêm túc, triệt để thì mới chống được quan
liêu, tham nhũng.
Người đã vạch ra được thực chất, bản chất của vấn đề, đó là vì sao lại
có nạn quan liêu. Người nêu rõ: quan liêu là do xa nhân dân, khinh nhân dân,

không thương yêu nhân dân. Đây là một cách nhìn với nhiều tìm tòi, phát
hiện. Rõ ràng vấn đề không chỉ ở cơ chế, tổ chức, bộ máy mà nguyên nhân
của quan liêu còn nằm ở sự thóai hóa đạo đức, thái độ vô trách nhiệm trước
quần chúng, nó còn là biểu hiện của quyền lực bị biến dạng.
Muốn sửa chữa tận gốc quan liêu, tham nhũng phải ra sức thực hành
dân chủ. Người chỉ rõ: thực hành dân chủ để làm cho dân ai cũng được hưởng
tự do dân chủ. Có phát huy được dân chủ cao độ thì mới động viên được mọi
lực lượng của nhân dân để đưa cách mạng tiến lên. Do đó thực hành dân chủ
rộng rãi là cái chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Ngoài ra, nhân
dân phải có điều kiện tham gia trực tiếp các công việc quản lý Nhà nước, thực
hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động hàng ngày của các cơ quan Nhà nước.
Phải tăng cường hoạt động của các cơ quan quyền lực từ cơ sở tới Trung ương,
phải làm trong sạch tổ chức và bộ máy, giáo dục công phu về ý thức trách
nhiệm, đã có gan dám nói, dám làm thì cũng phải có gan dám chịu trách nhiệm.
15


Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật phải được thi
hành nghiêm chỉnh “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất
kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.
Người cũng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách
mạng, của đảng, của nhân dân lên trên hết, phải kiên quyết quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi
với quần chúng, thực sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân. Để làm gương cho nhân dân, cán bộ phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe,
chân đi, miệng nói, tay làm”. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình
độ hiểu biết để làm tốt nhiệm vụ. Đó cũng chính là những yêu cầu mà quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đang đặt ra cho đội ngũ cán
bộ công chức.


16


KẾT LUẬN
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân là sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học, tính
cách mạng và tính nhân văn. Tính khoa học trong tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh thể hiện ở sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin vào thực tế Việt
Nam, luận giải đúng đắn con đường và phương pháp của cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc và sự phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế phát
triển khách quan của thời đại. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh thể hiện tính
độc lập và chủ động trong đường lối cách mạng của Đảng và phương pháp
đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước;
trong vận động và tập hợp quần chúng; trong phương pháp và phong cách
lãnh đạo và quản lý xã hội; trong sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Dưới ánh sáng của những tư tưởng đó, Đảng ta đã có những nhận thức
mới và biến những nhận thức đó trong chỉ đạo thực tiễn xây dựng Đảng Cộng
sản và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành
tựu quan trọng bước đầu. Đó là tiền đề để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiếp
tục xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thông qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và Nhà
nước pháp quyền qua các tác phẩm kinh điển được trích giới thiệu góp phần
nhận thức sâu sắc, đúng đắn nhằm vận dụng sắng tạo, có hiệu quả về tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn công tác vừa mang ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực
tiễn to lớn, đồng thời mang tính cấp bách trong công cuộc đổi mới của chúng
ta hiện nay nhằm phát huy sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước trong việc tổ
chức triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, vì lợi ích của
nhân dân, vì sự phồn vinh của đất nước.

17



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
9. Phạm Ngọc Anh - Bùi Đình Phong: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003.
10. Nguyễn Đình Lộc: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân,
do dân và vì dân, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
11. Dương Xuân Ngọc (chủ biên): Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
12. Đặng Xuân Kỳ: Phương pháp cách mạng và phong cách Hồ Chí
Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
13. Lê Minh Quân: Tư tưởng chính trị của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I
Lênin và Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
14.Ngô Đức Tính (chủ biên): Giới thiệu tác phẩm của C. Mác, Ph.
Ăngghen, V.I Lênin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền Nhà
nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
15. Nguyễn Xuân Tế: Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.

18



MỤC LỤC



×