Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Chức năng tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế hoạt động ở Việt Nam hiện nay lý thuyết, thực tiễn và khuyến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.75 KB, 28 trang )

Mục lục
Lời mở đầu..................................................................................................................................................1
Chương 1.....................................................................................................................................................2
Quản lý nhà nước về kinh tế và ................................................................................................................2
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế....................................................................................................2
1.1.Khái niệm Quản lý nhà nước về kinh tế..............................................................................................2
1.2. Chức năng của quản lý Nhà nước về kinh tế.....................................................................................3
Chương 2.....................................................................................................................................................6
Nội dung chức năng tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế hoạt động của Nhà
nước.............................................................................................................................................................6
2.2. Giữ vững ổn định chính trị.................................................................................................................8
2.3. Bảo đảm ổn định xã hội.....................................................................................................................9
Chương 3...................................................................................................................................................13
Chức năng tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế hoạt động ở Việt Nam hiện
nay thông qua ..........................................................................................................................................13
hoạch định chính sách công.....................................................................................................................13
Kết luận.....................................................................................................................................................25
Tài liệu tham khảo....................................................................................................................................27

Lời mở đầu
Đất nước ta chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm
1986. Từ thời điểm lịch sử đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự
đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối
ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt
1


Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công
nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với nâng cao đời sống


của người dân.
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển lên chủ nghĩa xã hội nên chúng ta
cần có những chính sách phù hợp để điều tiết nền kinh tế phát triển theo đúng con
đường mà chúng ta đã chọn. Để làm được điều đó, Nhà nước cần phải có hệ thống
hiến pháp và pháp luật, các công cụ vĩ mô và các chính sách kinh tế đúng đắn để
vận hành nền kinh tế theo ý muốn. Nếu không có sự quản lý của Nhà nước thì cạnh
tranh và tự do cạnh tranh của nền kinh tế thị trường sẽ tác động tiêu cực đến xã hội
làm cho nền kinh tế mất cân bằng, vận hành không đúng quỹ đạo. Để làm được
điều đó Nhà nước cần thực hiện vai trò, chức năng của mình thông qua các công cụ
của mình. Điều này cho thấy vai trò của Nhà nước là rất quan trọng.
Vì vậy, tôi xin chọn đề tài: “Chức năng tạo lập môi trường và điều kiện
thuận lợi cho các nền kinh tế hoạt động ở Việt Nam hiện nay: Lý thuyết, thực
tiễn và khuyến nghị” để hiểu rõ hơn vấn đề này. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng
trong quá trình thu thập tài liệu và nghiên cứu nhưng không tránh được những sai
sót, rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn.

Chương 1
Quản lý nhà nước về kinh tế và
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
1.1.Khái niệm Quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức, bằng pháp quyền
thông qua một hệ thống các chính sách với các công cụ quản lý kinh tế nhằm đạt
được mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra trên cơ sở sử dụng có hiệu quả

2


nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý xã hội nói chung và nó phải

gắn chặt với các hoạt động quản lý khác của xã hội.
1.2. Chức năng của quản lý Nhà nước về kinh tế
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, được vận hành bằng cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà
nước được xác định là chức năng quản lý kinh tế vĩ mô với các nội dung cơ bản
như sau:
a. Định hướng sự phát triển của nền kinh tế
Định hướng sự phát triển kinh tế là xác định con đường và hướng sự vận
động của nền kinh tế nhằm đạt đến một đích nhất định (gọi là mục tiêu) căn cứ vào
đặc điểm kinh tế, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ nhất định (cách đi, bước đi
cụ thể, trình tự thời gian cho từng bước đi để đạt được mục tiêu)
Nội dung định hướng phát triển nền kinh tế
Chức năng định hướng có thể khái quát thành những nội dung chủ yếu sau đây:
- Xác định mục tiêu chung dài hạn. Mục tiêu này là cái đích trong một tương
lai xa, có thể vài chục năm hoặc xa hơn.
- Xác định mục tiêu trong từng thời kỳ (có thể là 10, 15, 20 năm) được xác
định trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và được thể hiện trong kế hoạch 5
năm, kế hoạch 3 năm, kế hoạch hàng năm.
- Xác định thứ tự ưu tiên các mục tiêu
- Xác định các giải pháp để đạt được mục tiêu
b. Tạo lập môi trường cho sự phát triển kinh tế
Môi trường cho sự phát triển kinh tế là tập hợp các yếu tố, các điều kiện tạo
nên khung cảnh tồn tại và phát triển của nền kinh tế. nói cách khác, là tổng thể các
3


yếu tố và điều kiện khách quan, chủ quan; bên ngoài, bên trong; có mối liên hệ mật
thiết với nhau, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến việc phát triển kinh tế và
quyết định đến hiệu quả kinh tế.
-Một môi trường thuận lợi được coi là bệ phóng, là điểm tựa vững chắc cho

sự phát triển của nền kinh tế nói chung và cho hoạt động sản xuất-kinh doanh của
các doanh nghiệp nói riêng; ngược lại, môi trường kinh doanh không thuận lợi
không những sẽ kìm hãm, cản trở mà còn làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng
khủng hoảng, trì trệ và các doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản hàng loạt.
Vì vậy, việc tạo lập môi trường cho sự phát triển kinh tế chung của đất nước và cho
sự phát triển sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp là một chức năng quản lý kinh
tế của Nhà nước.
Để tạo lập các môi trường, Nhà nước cần tập trung tốt các vấn đề sau:
- Đảm bảo sự ổn định về chính trị và an ninh quốc phòng, mở rộng quan hệ
đối ngoại, trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Xây dựng và thực thi một cách nhất quán các chính sách kinh tế-xã hội theo
hướng đổi mới và chính sách dân số hợp lý.
- Xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật
- Xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng, bảo đảm điều kiện cơ bản cho
hoạt động kinh tế có hiệu quả: giao thông, điện nước, thông tin, dự trữ quốc gia
- Xây dựng cho được một nền văn hoá trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc và thừa kế tinh hoa văn
hoá của nhân loại.
- Xây dựng một nền khoa học-kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cần thiết và
phù hợp, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế và sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, cải cách nền giáo dục để đào tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật
và trí tuệ phục vụ cho sự phát triển kinh tế.
4


- Xây dựng và thực thi chính sách và pháp luật về bảo vệ và sử dụngcó hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên của đất nước, bảo vệ và hoàn thiện môi trường tự nhiên, sinh
thái.
c. Điều tiết sự hoạt động của nền kinh tế.
Nhà nước điều tiết sự hoạt động của nền kinh tế là nhà nước sử dụng quyền

năng chi phối của mình lên các hành vi kinh tế của các chủ thể trong nền kinh tế thị
trường, ngăn chặn các tác động tiêu cực đến quá trình hoạt động kinh tế, ràng buộc
chúng phải tuân thủ các quy tắc hoạt động kinh tế đã định sẵn nhằm bảo đảm sự
phát triển bình thường của nền kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở
khâu phân phối tư liệu sản xuất lẫn ở khâu kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện
cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo;
thu hẹp khoảng cách và trình độ phát triển về mức sống giữa các vùng, các tầng lớp
dân cư, giải quyết việc làm cho người lao động…
d. Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế
Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là Nhà nước xem xét, đánh giá tình
trạng tốt xấu của các hoạt động kinh tế, và theo dõi, xét xem sự hoạt động kinh tế
đươc thực thi đúng hoặc sai đối với các quy định của pháp luật. Nhà nước ta vận
hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường - hội nhập kinh
tế quốc tế, mọi hoạt động diễn ra rất đa dạng, phức tạp, các thành phần kinh tế vừa
hỗ trợ hợp tác, vừa đấu tranh, mâu thuẫn lẫn nhau trong quan hệ kinh tế thị trường
thường xuyên xảy ra. Hoạt động sản xuất kinh doanh trên các ngành nghề có thể
làm ô nhiễm môi trường, có thể có tác hại đến nguồn tài nguyên thiên nhiên, nạn
gian lận thương mại… đều có thể xảy ra.
5


Vì vậy, Nhà nước không thể buông lỏng sự quản lý của Nhà nước trên tất cả
các hoạt động của nền kinh tế phát triển theo định hướng chứ không thể để nó tự
phát được. Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là một chức năng quản lý của Nhà
nước. Công tác này phải được thực thi thừơng xuyên và nghiêm túc.

Chương 2

Nội dung chức năng tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi
cho nền kinh tế hoạt động của Nhà nước
Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố tác động trực tiếp hay gián tiếp
đến các quyết định hoặc hoạt động của các chủ thể kinh tế trên thị trường.
Nhóm các yếu tố bên ngoài có tác động gián tiếp đến các đơn vị kinh doanh
được gọi là nhóm các yếu tố môi trường vĩ mô bao gồm: môi trường văn hoá - xã
hội, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường vật chất và môi trường
công nghệ.

6


Nhóm các yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp đến các đơn vị kinh tế là các
yếu tố môi trường vi mô. Các yếu tố này gồm: khách hàng, nhà cung cấp, các đối
thủ cạnh tranh, các nhóm quyền lợi trong các cơ sở kinh tế.
Trong số các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, nhà nước có vai trò đặc biệt
với các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô: duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững ổn
định chính trị, đảm bảo ổn định xã hội
2.1. Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô
Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô là làm giảm những biến động ngắn hạn trong
nền kinh tế khuyến khích tăng trưởng bền vững lâu dài.
Trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô yếu tố hàng đầu là ổn định tiền tệ và
biểu hiện là ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định giá cả và lãi suất. Thông qua đó tác
động tích cực đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ổn định kinh tế vĩ mô có ý nghĩ rất lớn với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó
củng cố lòng tin của các chủ thể kinh tế vào tương lai của nền kinh tế, nó tránh cho
nền kinh tế khỏi những cuộc khủng hoảng kinh tế dẫn đến sự tàn phá nền kinh tế.
Nó là điều kiện tiên quyết cho việc tính toán kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Để
ổn định kinh tế vĩ mô, nhà nước cần thực hiện hàng loạt các biện pháp:
- Gia tăng tiết kiệm dùng để đầu tư cho phát triển.

- Duy trì sự cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước nhằm giữ lạm phát ở
mức có thể kiểm soát được bằng cách duy trì tỷ giá hối đoái hợp lý.
- Duy trì sự cân đối giữa tích luỹ và đầu tư nhằm tránh sự lệ thuộc vào nước
ngoài.
- Đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực như nạn quan liêu, tham nhũng, buôn lậu và
gian lận thương mại.

7


2.2. Giữ vững ổn định chính trị
Chức năng ổn định chính trị của Nhà nước xuất phát từ sự tác động của
chính trị với kinh doanh. Ổn định chính trị tạo ra môi trường thuận lợi đối với hoạt
động kinh doanh. Một nhà nước mạnh, thực thi hữu hiệu các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội đáp ứng được các yêu cầu chính đáng của nhân dân sẽ đem lại lòng
tin và hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong một xã hội ổn định chính
trị, các nhà kinh doanh được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu và các loại
tài sản khác. Do đó, các nhà kinh doanh sẵn sang đầu tư những khoản tiền lớn vào
các dự án dài hạn.
Xu hướng chính trị là định hướng chính trị của chính phủ sẽ áp dụng trong
chính sách điều hành đất nước. Một chính phủ có thể áp dụng một chính sách quá
tải, quá hữu hoặc ôn hoà. Những chính sách này sẽ ảnh hưởng đến rất nhiều khía
cạnh trong nền kinh tế và các doanh nghiệp. Chẳng hạn, khi một chính phủ áp dụng
chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế và chú trọng đến các chính sách xã hội sẽ
rất thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh.
Định hướng của nền kinh tế phản ánh những chính sách kiểm soát về tài
chính và thị trường đối với các hoạt động kinh tế, đầu tư và các dịch vụ hỗ trợ,
cũng như chính sách kiểm soát môi trường, tài nguyên.
Các chính sách điều hành và kiểm tra nền kinh tế của chính phủ bao gồm
chính sách xuất nhập khẩu, chính sách giá cả, chính sách tiền lương. Các chính

sách quản lý nền kinh tế gồm chính sách kiểm soát lạm phát, mức nợ nước ngoài,
tỷ lệ thâm hụt ngân sách và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như phát triển giao thông
vận tải, thông tin, y tế, dịch vụ ngân hàng, điện nước… Những chính sách này làm
cho mức độ rủi ro tăng hoặc giảm tuỳ theo mức độ nhất quá và cởi mở của chúng.
Những chính sách này được thể chế hoaas thành các đạo luật và chúng có hiệu lực
pháp lý đối với các hoạt động kinh doanh.
8


2.3. Bảo đảm ổn định xã hội
Thực chất của việc tạo ra môi trường văn hoá - xã hội thuận lợi cho hoạt
động của chủ thể kinh tế là Nhà nước giải quyết những vấn đề xã hội theo hướng
tích cực cho phép các tổ chức kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn. Thuộc nhóm
những vấn đề xã hội mà nhà nước phải quan tâm để tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển bao gồm: vấn đề dân số, vấn đề việc làm và xoá đói giảm nghèo, vấn đề công
bằng xã hội, vấn đề xoá bỏ những tệ nạn xã hội, vấn đề thái độ lao động, vấn đề
đạo đức kinh doanh, vấn đề y tế, giáo dục và bảo vệ mội trường sinh thái.
Vấn đề dân số.
Tăng trưởng dân số sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế. Bởi vậy, để
đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải hạn chế tốc độ tăng dân
số ở mức hợp lý. Hạ thấp tỷ lệ sinh đẻ và giảm tốc độ tăng dân số là nhiệm vụ của
tất cả các nước đang phát triển. Để thực hiện nhiệm vụ này, nhà nước cần quan tâm
đến cả giải pháp về kế hoạch hoá gia đình và những chương trình phát triển kinh tế
xã hội. Ngoài ra cần cải thiện phân phối thu nhập, bao gồm nhiều cơ hội để có việc
làm và giáo dục cho phụ nữ, tầng lớp ít được hưởng các đặc quyền đặc lợi và các
nhóm có thu nhập thấp hơn cũng góp phần giảm tỷ lệ sinh.
Vấn đề việc làm.
Thất nghiệp, thiếu việc làm không chỉ ảnh hưởng đến môi trường xã hội mà
còn ảnh hưởng trực tiếp đến sử dụng nguồn nhân lực của đất nước, hơn nữa việc
thu nhập và đời sống là mục tiêu phát triển kinh tế đất nước. Để giải quyết vấn đề

này, “bàn tay” của Nhà nước có sức mạnh hơn thị trường. Các định hướng trong
việc giải quyết vấn đề này bao gồm:
+ Chương trình giảm tỷ lệ sinh đẻ
+ Khuyến khích phát triển nông nghiệp và nông thôn

9


+ Thay thế kỹ thuật sản xuất sử dụng nhiều lao động thay vì áp dụng những
kỹ thuật sử dụng nhiều vốn.
+ Thay thế những sản phẩm sử dụng nhiều lao động hơn.
+ Phân phối lại thu nhập cho người nghèo.
+ Tăng sức mua của chính phủ với hàng hoá của các doanh nghiệp quy mô
nhỏ, sử dụng nhiều lao động.
+ Tạo ra công nghệ mới ở địa phương.
+ Quy định tỷ giá hối đoái cân bằng.
+ Chống lại sức ép với mở rộng quá nhanh giáo dục ở cấp cao và từ chối bao
cấp cho giáo dục này, tăng chi tiêu cho giáo dục tiểu học, nhấn mạnh giáo dục khoa
học kỹ thuật và kỹ thuật.
+ Cải thiện sự linh hoạt về lương ở mức cao.

Vấn đề công bằng xã hội:
Công bằng vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Đảm bảo công
bằng xã hội là việc Nhà nước can thiệp vào thị trường nhằm một mặt tăng thu nhập
của những người nghèo làm cho khoảng cách giàu nghèo không tăng hơn mà giảm
đi, mặt khác nhằm làm cho giá cả phản ánh đúng chi phí mà xã hội bỏ ra.
Một số định hướng trong việc giải quyết vấn đề công bằng theo hướng thứ
nhất gồm:
+ Phân phối lại thu nhập thông qua thuế.
+ Phân phối lại thu nhập thông qua chuyển giao thu nhập bằng việc tăng

công ăn việc làm trong khu vực nhà nước, bằng các chương trình chi tiêu cho người
nghèo.
+ Trợ giá một số hàng hoá và dịch vụ nhất định (hàng thiết yếu).
10


+ Điều tiết giá cả (lượng tối thiểu, lãi suất…)
+ Khuyến khích đầu tư vào vốn nhân lực.
Theo hướng thứ hai của giải quyết vấn đề công bằng tức là làm cho giá cả
phản ánh đúng chi phí xã hội. Do ảnh hưởng của ngoại ứng, một chủ thể kinh tế có
thể gây ra những tác động tích cực và ngược lại gây ra những tác động tiêu cực đối
với các chủ thể kinh tế khác và xã hội. Về nguyên tắc, ai làm hại xã hội người đó
phải có trách nhiệm, ai làm lợi cho xã hội người đó phải được bù đắp có ba hướng
chính để giải quyết vấn đề này:
+ Xử lý ngoại ứng thông qua thương lượng giữa các chủ thể kinh tế.
+ Xử lý ngoại ứng thông qua thuế và trợ cấp chính phủ.
+ Xử lý ngoại ứng thông qua việc đưa ra các quy định như cấm ngặt một số
hoạt động, định tiêu chuẩn cho việc sử dụng đầu vào và mức độ của đầu ra như
mức độ xả khỏi, mức độ ô nhiễm không khí được phép.
Ngoài việc xử lý ngoại ứng, Nhà nước thực hiện các biện pháp chống độc
quyền cũng là góp phần giải quyết vấn đề công bằng kinh tế bằng các giải pháp:
+ Dùng thuế thu nhập.
+ Kiểm soát giá cả.
+ Điều tiết thị trường.
+ Luật chống độc quyền.
+ Dùng doanh nghiệp nhà nước.
Vấn đề xoá đói giảm nghèo.
Nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo là tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế.
Song, thị trường không thể giải quyết được tận gốc vấn đề này mà còn làm cho nó
trở nên trầm trọng hơn do vậy nhà nước cần đứng ra để đảm bảo thực hiện được

nhiệm vụ này theo các biện pháp:
+ Xã hội hoá các phương tiện sản xuất,
11


+ Tín dụng cho người nghèo.
+ Giáo dục tiểu học phổ cập.
+ Xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn.
+ Thực hiện các loại thuế thu nhập luỹ tiến, các trợ cấp lương thực.
+ Các chương trình sức khoẻ, kế hoạc hoá gia đình.
+ Các chương trình xoá đói giảm nghèo.
+ Nghiên cứu về lương thực, thực phẩm.
Vấn đề củng cố và phát triển văn hoá.
Văn hoá trong nền kinh tế thị trường có nhiều điều kiện để phát triển, song
cũng gặp không ít trở ngại trên con đường phát triển của nó. Củng cố và phát triển
văn hoá không chỉ là nhiệm vụ mà còn là mục tiêu của quản lý nhà nướcvề kinh tế.
Thông qua củng cố và phát triển văn hoá mà đảm bảo điều kiện cho kinh tế phát
triển.
Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Những hiện tượng tiêu cực làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh
doanh gồm: sản xuất hàng hoá, buôn lậu, trốn thuế và gian lận thương mại, vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ, tham nhũng. Những tiêu cực này ở Việt Nam còn tương đối
phổ biến do đó nhiệm vụ của Nhà nước ta trong lĩnh vực này còn rất nặng nề.
Vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái.
Phát triển phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái, vì mục tiêu lợi nhuận,
các chủ thể kinh tế có thể làm ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. Nhà nước cần
can thiệp để hạn chế mức độ ảnh hưởng xấu tời môi trường sinh thái như kiểm soát
mức độ ô nhiễm, đánh thuế và đưa ra những quy định về cấm hoặc cho phép ở mức
độ nào đó.


12


Chương 3
Chức năng tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho nền
kinh tế hoạt động ở Việt Nam hiện nay thông qua
hoạch định chính sách công
3.1. Khái niệm Chính sách công
Chính sách là một công cụ quan trọng của quản lý. Mọi tổ chức, mọi cấp quản
lý đều phải sử dụng các công cụ quản lý như chiến lược, kế hoạch, chính sách và
quyết định quản lý để tác động lên đối tượng quản lý theo một cách thức nào đó
nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn.
Hiểu một cách đơn giản thì chính sách là một chưong trình hành động do các
nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó. Một số chính sách có thể được
đề ra và thực hiện trong phạm vi một doanh nghiệp, một tổ chức, một cộng đồng
nhỏ, các chính sách như vậy chỉ liên quan đến lợi ích của một số ít người. Các
chính sách khác có thể do Chính phủ, một Bộ hay chính quyền cấp tỉnh đề ra, có
liên quan đến lợi ích rộng lớn hơn.
Nhìn chung lại, có thể coi chính sách là một công cụ của quản lý để
13


điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội theo những mục tiêu nhất định.
Ở đây, chúng ta đi sâu nghiên cứu về các chính sách có tác động đến đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội của nhiều người hoặc của toàn quốc gia, đó là các chính
sách công.
Chính sách công là những chính sách do Nhà nước đề ra, có phạm vi tác động
rộng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trên phạm vi quốc gia, một địa
phương, một ngành, một nhóm người hay một cộng đồng xã hội. Nhà nước là chủ thể
chủ yếu ban hành các chính sách công,


thông qua đó, Nhà nước thực hiện vai trò quản lý

đối với đất nước. Các chính sách công là sự tác động của Nhà nước lên các lĩnh vực
hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Có thể nói, các chính sách
công là những bộ phận hợp thành của toàn bộ chiến lược phát triển đất nước. Vì
vậy, khi đánh giá sự phát triển của một quốc gia, chúng ta phải xem xét tổng thể
các chính sách công của quốc gia đó để thấy được định hướng phát triển chung của
quốc gia. Chính sách công được Nhà nước đề ra như một chương trình hành động
trong một thời gian lâu dài để giải quyết một vấn đề nhất định.
Do đó, chính sách thường bao gồm một loạt các quyết định quản lý có quan hệ
với nhau cùng tác động lên vấn đề đó theo mục tiêu mà Nhà nước đặt ra. Như vậy,
có thể phát biểu khái niệm chính sách công như sau: “Chính sách công là một tập
hợp các quyết định hành động của Nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề đang đặt
ra trông đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định. Chính sách công do Nhà
nước đề ra và tổ chức thực thi nên chính sách công luôn phản ánh bản chất của
Nhà nước đó”. Nhà nước phong kiến và Nhà nước tư bản là những Nhà nước của
giai cấp bóc lột, của thiểu số thống trị đối với đa số nhân dân lao động, do đó, chính
sách công của những Nhà nước này phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị.
Những quyền lợi này đôi khi trùng hợp với quyền lợi của quốc gia và nhân dân lao
động, nhưng nhiều khi, chúng mâu thuẫn và đối lập lại quyền lợi của người lao
14


động, khi đó chính sách công không được sự ủng hộ của nhân dân.
Ở nước ta, các chính sách công do Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đề ra. Nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công nhân dựa trên nền tảng liên
minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn
dân xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh; xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đảng ta là người đề xướng đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo định hướng xă hội chủ nghĩa. Nhà nước ta là Nhà nước do

Đảng lãnh đạo; là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, các chính sách công
của Nhà nước là những bộ phận hợp thành, là sự cụ thể hoá đường lối phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, các chính sách công của Nhà nước
những động lực và phát huy sức mạnh nội tại trong dân, kết hợp với việc tận

hướng vào việc tạo ra

dụng nguồn vốn, môi

trường và điều kiện quốc tế để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
3.2.

Vai trò và đặc trưng của Chính sách công

3.2.1. Vai trò của Chính sách công
Chính sách công là một công cụ quản lý quan trọng của Nhà nước đối với các
lĩnh vực hoạt động của một quốc gia. Nhà nước không thể thực hiện sự quản lý có
hiệu quả, nếu không sử dụng công cụ chính sách công để điều hành những công
việc chung của đất nước.
Vai trò của chính sách công thể hiện cụ thể như sau:
- Vai trò định hướng:
Chính sách công là một phương tiện quan trọng định hướng mọi hoạt động và
hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội theo
những mục tiêu, phương hướng đã định trước của Nhà nước.
Chính sách công hướng dẫn việc sử dụng và tận dụng các nguồn nhân tài, vật
15



lực để đáp ứng kịp thời, có hiệu quả và tiết kiệm nhằm giải quyết một vấn đề của
quốc gia hay một vấn đề mà Nhà nước quan tâm đến.
Ở nước ta, các chính sách công là sự cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng trong
các lĩnh vực hoạt động của đời sống,

nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc đang đặt ra

trong lĩnh vực đó. Vì vậy, các chính sách công của Nhà nước ta luôn phản ánh
đường lối, chủ trương của Đảng và định hướng phát triển các hoạt động trong mỗi
lĩnh vực theo đường lối đó.
-Vai trò kích thích phát triển:
Khác với các công cụ quản lý khác, phần lớn các chính sách công có vai trò
kích thích, tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Bản thân mỗi
chính sách công khi hướng vào một vấn đề đang đặt ra, tự nó chứa đựng nhu cầu
giải quyết vấn đề đó, làm cho sự vật phát triển lên một bước. Đồng thời, khi giải
quyết một vấn đề thì chính sách đó lại tác động đến các vấn đề chính sách khác,
làm nảy sinh những nhu cầu phát triển mới.
Chẳng hạn, chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã giải phóng
được sức sản xuất, huy động được tiềm năng của các thành phần kinh tế, khuyến
khích họ phát triển nhằm đem lại những lợi ích lâu dài cho đất nước cũng như cho
mỗi cá nhân. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần lại đặt ra những yêu cầu
mới như: phát triển đồng bộ các thị trường, hình thành các loại hình công ty, cạnh
tranh, phá sản...
- Vai trò điều tiết:
Chính sách công được Nhà nước ban hành để giải quyết những vấn đề bức
xúc phát sinh trong đời sống kinh tế - xã hội, điều tiết những sự mất cân đối, những
hành vi không phù hợp, nhằm tạo ra một hành lang hợp lý cho các hoạt động xã hội
theo các mục tiêu đề ra.
Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực của nó còn có những
16



khiếm khuyết tiêu cực, đòi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà nước, chẳng hạn như sự
bất ổn định, tình trạng độc quyền, sự phân hoá giàu nghèo, những bất công trong xã
hội... Để hạn chế những khiếm khuyết tiêu cực này, phát huy tác dụng tích cực của
cơ chế thị trường; đặc biệt, để tạo ra sự công bằng trong xã hội, Nhà nước ban hành
một số chính sách công có tác dụng điều tiết như:
+ Chính sách thuế bao gồm thuế thu nhập để điều tiết thu nhập của những
người có thu nhập cao, thuế lợi tức căn cứ vào lợi nhuận thu được của đơn vị sản
xuất kinh doanh...
+ Chính sách giá cả để điều tiết và bình ổn giá trên thị trường, hạn chế những
sự gia tăng giá cả, góp phần điều tiết cung cầu và làm lành mạnh hoá thị trường.
+ Chính sách cho vay vốn đối với các hộ nông dân nghèo tạo điều kiện cho
những người nông dân sử dụng vốn vay được với lãi suất thấp để làm ăn sinh sống
và cải thiện đời sống nhân dân.
3.2.2. Đặc trưng của Chính sách công
Các chính sách công có các đặc trưng sau đây:
- Chính sách công là một quá trình hành động nhằm
định.

giải quyết một vấn đề nhất

Đặc điểm của chính sách công là chúng được đề ra và được thực hiện nhằm

giải quyết một hoặc một số vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội. Chính sách
công chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại hoặc có nguy cơ chắc chắn xuất hiện một
vấn đề cần giải quyết. Chẳng hạn, chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình được
ban hành khi vấn đề dân số đang trở thành một nguy cơ đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
- Việc giải quyết những vấn đề bức xúc nói trên nhằm vào


những mục tiêu



Nhà nước mong muốn đạt được. Các mục tiêu có thể là định tính hoặc định lượng,
là mục tiêu lâu dài, có tính chiến lược hay những mục tiêu trung hạn hoặc ngắn hạn
nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước trong thời gian một vài
17


năm.
- Chính sách công không chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định
chính sách về một vấn đề nào đó, mà còn bao gồm

những hành vi thực hiện

các dự

định nói trên.
Chính sách công trước hết thể hiện dự định của các nhà hoạch định
chính sách nhằm làm thay đổi và phát triển một lĩnh vực nhất định. Song, nếu chính
sách chỉ là những dự định, dù được ghi thành văn bản và được cấp có thẩm quyền
thông qua thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. Chính sách công còn phải bao
gồm các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những kết quả thực tế.
Nhiều người thường hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ
trương mà Nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc
thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương đó
chỉ là những khẩu hiệu mà thôi. Xét theo nghĩa rộng, chính sách công bao gồm
những việc Nhà nước định làm và không định làm. Điều đó có nghĩa là, không phải

mọi mục tiêu của chính sách công đều dẫn tới hành động, mà chính sách công có
thể là yêu cầu chủ thể không được hành động. Chẳng hạn, chính sách thả nổi giá cả
hoặc lãi suất xác định việc Nhà nước không can thiệp vào sự lên xuống của giá cả
và lãi suất, để cho chúng biến động theo cơ chế thị trường, theo quan hệ cung - cầu
trên thị trường.
Chính sách công là một quá trình do nhiều người, nhiều tổ chức tham gia.
Việc đề ra và thực thi chính sách công, cũng như việc phân tích và đánh giá chính
sách công là công việc chung của nhiều người, nhiều tổ chức. Bởi vì, chính sách
công không phải là một quyết định đơn lẻ chỉ có tác động đến một số ít đối tượng,
mà nó là một quá trình giải quyết một vấn đề rộng lớn của xã hội; chẳng hạn vấn đề
xoá đói giảm nghèo, vấn để phòng chống các tệ nạn xã hội... Để giải quyết những
vấn đề như vậy, cần phải huy động sự tham gia của nhiều người, nhiều tổ chức
18


trong việc nghiên cứu đề ra chính sách, thực thi chính sách, phân tích và đánh giá
chính sách công. Điều đáng lưu ý là chính sách công không phải chỉ do các tổ chức
công của Nhà nước thực hiện, mà nó là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi tổ chức và
mọi thành viên có liên quan đến lĩnh vực mà chính sách công đó điều tiết. Chính
sách công được Nhà nước để ra nhằm phục vụ lợi ích chung của nhiểu người hoặc
của quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế có tình trạng là một chính sách công đem lại
lợi ích cho nhóm dân cư này nhiều hơn so với nhóm dân cư khác, thậm chí có
nhóm còn bị thiệt thòi.
Ở nước ta, các chính sách công của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của đại đa
số nhân dân lao động, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ trong một số
trường hợp, chính sách công động chạm đến lợi ích cục bộ của một số cá nhân,
nhưng lợi ích của những cá nhân này lại làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của quốc
gia hoặc của mọi người khác; khi đó chính sách công phải đứng trên lợi ích của đa
số để giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, chính sách chống tham nhũng đương nhiên sẽ
động chạm đến lợi ích của một số kẻ tham nhũng. Song, những kẻ này lại là mối

hại to lớn đối với lợi ích chung của quốc gia; vì vậy chính sách cồng phải đứng trên
lợi ích của quốc gia để giải quyết vấn đề.
Chính sách công có phạm vi tác động rộng. Chính sách công được ban hành
nhằm điều tiết hoạt động của một hoặc nhiều ngành, một hoặc nhiều lĩnh vực, một
hoặc nhiều địa phương, một cộng đồng dân cư hay một quốc gia.
Chính sách công có thể tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để thực
hiện vai trò quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực đó. Có nhũng lĩnh vực chịu tác
động của một vài hoặc nhiều chính sách công của Nhà nước. Tuy nhiên, cũng có
những hoạt động chưa được điều tiết bằng chính sách công của Nhà nước, đó là
những khoảng trống chính sách. Xu hướng chung là các khoảng trống này sẽ dần
dần được lấp đầy, bởi vì Nhà nước ngày càng mở rộng phạm vi điều hành, quản lý
19


của mình đối với toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.

3.3. Những quả đạt được và một số hạn chế trong hoạch định chính sách
công tại Việt Nam hiện nay
Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định chính
sách, tiếp theo là thực thi chính sách và sau một khoảng thời gian thực hiện cần tiến
hành đánh giá chính sách để điều chỉnh, bổ sung chính sách…
Như vậy, hoạch định chính sách được coi như là bước khởi đầu trong chu
trình chính sách. Đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn,
khoa học sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc
sống và mang lại hiệu quả cao.
Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực tế,
thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý.
Những tổn hại này không chỉ tạm thời, cục bộ, mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan
tới nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
3.3.1. Những kết quả đạt được trong hoạch định chính sách công

Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định chính sách công đã đạt được một
số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu,
cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự,
ngoại giao…).
Một số chính sách công quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn, bám sát
thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập và hoàn
thiện được một hệ thống chính sách công khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
20


Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp ứng
được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường.
Đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách
hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt
Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh,
chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng
đất nông nghiệp…
Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế lạm
phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền kinh tế
trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những phản ứng
kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và khu vực.
3.3.2. Một số hạn chế còn tồn tại trong hoạch định chính sách công tại Việt
Nam hiện nay
Quy trình hoạch định chính sách công cũng còn bộc lộ một số tồn tại, đó là:
Thứ nhất, các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ
quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính sách
thường là do các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan đặc biệt của Chính phủ, UBND
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện.

Như vậy, chính sách công được ban hành dựa trên suy xét, phân tích tình hình
thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự
tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp vào xây dựng các
phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính sách là
rất hạn chế.
Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý tưởng của những đối
tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện chính sách do
21


những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm
cho một số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi thực thi không đem hiệu quả như
nhà quản lý mong muốn.
Thứ hai, các ý tưởng hoạch định chính sách được đề xuất, và dự thảo chính
sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu là do các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành
phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất dựa trên mong
muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình quản lý mà không tính tới
tổng thể chung.
Thứ ba, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào tình hình
quản lý, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố để đề xuất dự thảo chính sách trong
lĩnh vực quản lý được giao và cũng chính là cơ quan dự thảo, do đó thiếu sự phối
hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính toàn diện. Tính phối hợp trong
các chương trình ban hành chính sách giữa các bộ, ban, ngành là không cao.
Có thể nói rằng hiện tượng việc của bộ nào thì bộ ấy lo vẫn còn là điều phổ
biến, do vậy rất dễ khi chính sách đó được thực thi thì sự chênh chính sách, chồng
chéo chính sách hoặc mâu thuẫn, trái ngược về chính sách là rất dễ xảy ra.
Thứ tư, quy trình hoạch định chính sách còn bị khép kín; việc lấy ý kiến tham
gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nếu có thì
hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính chủ động.
Mặt khác, chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân dân, các

chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là vô hình chung
làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, trong hoạch định chính
sách việc dự báo chính sách rất quan trọng.
Thời gian qua, khi một số biến động về giá cả, tình trạng lạm phát trên thế
giới và ở nước ta, cho thấy việc dự báo chính sách còn nhiều yếu kém. Dự báo
chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong hoạch định chính
22


sách không có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì việc dự báo chính
sách gặp rất nhiều khó khăn.
Trong quá trình hoạch định chính sách công chưa tạo được kênh thông tin tốt
nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính
sách. Trong khi đó, chính sách không thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà
nước, càng không phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền mà xuất phát từ
hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện chứng
các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế – xã hội và có các phương án giải quyết
phù hợp với thực tế. Một chính sách đúng đắn phải từ thực tế khách quan.
Thứ năm, năng lực của đội ngũ tham gia hoạch định chính sách còn hạn chế.
Điều này dẫn đến tình trạng bỏ sót vấn đề chính sách hoặc nhìn nhận cách giải
quyết vấn đề chưa đúng. Do tầm nhìn hạn hẹp của đội ngũ hoạch định chính sách
nên khi chính sách đưa vào thực thi mới nảy sinh nhiều bất cập hoặc tình trạng
chưa thực thi đã vấp phải phản đối của dư luận và phải sửa (ví dụ điều 60 của Luật
Bảo hiểm xã hội).
Thứ sáu, công tác hoạch định chính sách công hiện nay chưa theo kịp với tình
hình hội nhập của đất nước. Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế, các chính sách công bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở phạm vi nhất định
trong lãnh thổ của một quốc gia mà còn bị chi phối bởi các yếu tố mang tính toàn
cầu.
Chẳng hạn như chính sách đối với vấn đề phát triển nông nghiệp. Qua sự kiện

giá gạo trên thị trường thế giới bị đẩy lên cao, vấn đề an ninh lương thực đặt ra…
Chính sách phát triển nông nghiệp ở nước ta cần phải có sự tính toán, cân nhắc,
điều chỉnh lại. Như vậy, chính sách công của một quốc gia cũng đang phải chịu
nhiều sự chi phối ở mức độ và phạm vi rộng lớn hơn.
Trong việc hoạch định chính sách công cần phải có sự tổng kết, phân tích,
23


đánh giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính sách, các biện
pháp thực hiện chính sách, và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án chính sách
phù hợp với thực tế.
Thứ bảy, việc đánh giá tác động của chính sách trước khi ban hành hiện nay
tại Việt Nam còn rất hạn chế. Việc phản biện chính sách trước khi ban hành là việc
làm rất quan trọng để có thể lường trước được những mặt tiêu cực có thể do thực
thi chính sách mang lại cho đối tượng chịu tác động trực tiếp của chính sách đó.
Hiện nay các nước trên thế giới hoạt động phản biện chính sách là một khâu rất
quan trọng nhưng tại Việt Nam thì hoạt động này lại bị coi nhẹ.
Do tồn tại những thực trạng trên cho nên dẫn tới hệ quả là các chính sách thực
thi hiệu quả chưa cao như: kết quả phát triển kinh tế - xã hội còn thấp; các chính
sách khi đưa vào thực thi có khi không thực sự phù hợp với địa phương đó do thiếu
sự phối hợp giữa các bộ, ngành; chính sách xóa đói giảm nghèo còn chồng chéo
nên dẫn đến hiệu quả không cao; đào tạo nguồn nhân lực hay là các chính sách
khác triển khai còn nhiều bất cập ...
3.4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạch định chính sách công
nhằm tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế hoạt động ở
Việt Nam trong thời gian tới
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động hoạch định chính sách
công ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, cần đặt trọng tâm
vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự

một cách có hiệu quả của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá
nhân người lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách công.
Việt Nam nên bắt đầu một quy trình hoạch định chính sách mới, với sự tham
gia cả tất cả các bên liên quan, bao gồm: Chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu
24


dùng, người nước ngoài, các nhà tài trợ, các nhà khoa học, chuyên gia…
Các doanh nghiệp hoặc các nhà khoa học có thể vạch ra một chiến lược trình
Chính phủ. Nhà nước cần lấy các nhu cầu thực sự của nhân dân, của doanh nghiệp
để làm cơ sở hoạch định chính sách, chính sách không đơn thuần chỉ là một văn
bản hành chính của Nhà nước. Nói cách khác, làm cho chính sách công từ chỗ chỉ
là chức năng đặc quyền của các cơ quan nhà nước thành mối quan tâm chung và
trách nhiệm của toàn xã hội.
Thứ hai, đổi mới quy trình hoạch định chính sách công theo hướng dân chủ,
huy động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào
xây dựng chính sách. Tích cực lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến từ các đối tượng chịu
tác động trực tiếp của chính sách. Cần lấy ý kiến của người dân để có những chính
sách sát với thực tế, tránh việc chính sách xa rời thực tế vì không đủ điều kiện để
thực hiện. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng
khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ
chế thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn, quan
trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội.
Thứ ba, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành trong hoạch định
chính sách, tránh mâu thuẫn nhau.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ làm công tác hoạch định chính sách có chất lượng
cao, có tầm nhìn bao quát về các vấn đề (yếu tố con người là cốt lõi để có chính
sách tốt, hợp lòng dân và hiệu quả thực thi cao).
Thứ năm, học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong công tác hoạch định chính sách,
phù hợp với thực tiễn ở nước ta.


Kết luận
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế
quốc tế của mọi quốc gia chỉ có hiệu quả cao, khi có tác nhân khởi thủy từ phía nhà
25


×