Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tiểu luận cao học Vai trò của quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.54 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xuất bản có vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội nói chung,
văn hóa nói riêng. Các quan hệ xã hội về xuất bản rất đa dạng, phong phú và phức
tạp. Nó đan xen giữa văn hóa - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo của tư
duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu thông và
tiêu dùng xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là kênh thông tin quan trọng để
tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần ổn định chính
trị, phát triển văn hóa và kinh tế, nâng cao dân trí, đời sống tinh thần của nhân
dân... Do đó, tăng cường quản lý nhà nước về xuất bản là vấn đề quan trọng luôn
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, tháng 11 năm 1946 Quốc hội
họp khóa thứ 2 đã thông qua Hiến pháp, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho
nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản: "Công dân Nước ta có quyền tự do
ngôn luận, tự do xuất bản...". Kể từ đó, Đảng và Nhà nước ta luôn có những bổ
sung, sửa đổi các chủ trương, đường lối quản lý nhà nước đối với xuất bản nhằm
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với xuất bản ở nước ta
hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: Mô hình tổ chức và cơ chế chính sách cho hoạt
động xuất bản còn nhiều bất cập, hoạt động xuất bản có những khó khăn, thách
thức gay gắt, một số nhà xuất bản chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế đơn thuần, coi nhẹ
chức năng, nhiệm vụ chính trị, văn hóa; xuất hiện một số xuất bản phẩm có nội
dung không lành mạnh, không phù hợp với truyền thống văn hóa Nước ta, bị dư
luận phê phán; một bộ phận khác hoạt động kém hiệu quả, kém năng động, còn
nặng về trông chờ, bao cấp. Nạn in lậu, in trái phép chưa được ngăn chặn, xử lý kịp
thời, thị trường xuất bản phẩm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ thống phát hành
xuất bản phẩm Nhà nước không được quan tâm, củng cố đúng mức, đang có nguy
cơ bị thu hẹp, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
-1-


IX - Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ: "Công tác quản lý báo


chí, truyền hình, internet, xuất bản vẫn còn nhiều lơi lỏng, kém hiệu lực".
Chính vì vậy, việc hiểu đúng vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt
động xuất bản là một đòi hỏi khách quan, vừa có ý nghĩa cấp thiết vừa mang ý
nghĩa lâu dài. Từ những lý do trên, em đã chọn đề tài: "Vai trò của quản lí nhà
nước đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay".
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề lí luận của việc quản lí
nhà nước đối với hoạt động xuất bản, đánh giá thực trạng của hoạt động này trong
những năm vừa qua ở nước ta. Trên cơ sở đó, đưa ra những phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở
nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được những mục đích trên, bài tiểu luận đặt
ra những nhiệm vụ sau:
+ Xây dựng khái niệm và chỉ ra những đặc điểm của quản lý nhà nước đối
với hoạt động xuất bản. Phân tích vai trò, nội dung của quản lý nhà nước đối với
hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay.
+ Đánh giá những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế cơ bản của
quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở nước ta trong những năm vừa qua
và chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế đó.
+ Đưa ra những quan điểm có tính định hướng và một số giải pháp cụ thể
như: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất bản; kiện toàn và đổi mới phương thức
quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản; nâng cao trình độ năng lực của cán
bộ;…
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động xuất bản gồm 3 lĩnh vực: Xuất bản, in,
phát hành. Mỗi lĩnh vực có một vị trí, đặc trưng riêng, song không thể tách rời
nhau. Bởi thế bài tiểu luận phải nghiên cứu việc quản lý nhà nước đối với hoạt
-2-


động xuất bản trên cả ba lĩnh vực, nhưng lấy việc nghiên cứu quản lý nhà nước đối

với hoạt động xuất bản trong lĩnh vực xuất bản, trong đó xuất bản sách là trọng
tâm.
Bài tiểu luận giới hạn nghiên cứu vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt
động xuất bản kể từ năm 2000 trở lại đây.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Bài tiểu luận được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu kết hợp lí luận
và thực tiễn; phân tích và tổng hợp lịch sử cụ thể; cùng một số phương pháp khoa
học quản lí khác.
4. Kết cấu của bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu và tham khảo, bài tiểu luận gồm
có 3 chương, 8 tiết.

-3-


NỘI DUNG
Chương I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC XUẤT
BẢN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lí nhà nước về xuất bản ở nước
ta hiện nay
1.1. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của hoạt động xuất bản
Xuất bản là một từ Hán Việt. Về từ loại là động từ, có nghĩa là phổ biến rộng
bằng cách in và phát hành những sách, báo, tranh ảnh và các văn bản khác. Trong
ngôn ngữ châu Âu, xuất bản theo tiếng Anh là Publish, tiếng Pháp là Publier, bắt
nguồn từ tiếng La tinh là Publicare, có nghĩa công bố cho mọi người đều biết.
Theo Từ điển Thuật ngữ Xuất bản - In - Phát hành sách - Thư viện - Bản
quyền (Cục Xuất bản - NXB Từ điển Bách khoa - 2002):
"Xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thông qua việc sản
xuất, phổ biến xuất bản phẩm đến nhiều người.

Xuất bản là hoạt động truyền bá xã hội. Nó không tạo ra các tác phẩm
nhưng sử dụng các tác phẩm văn hóa để truyền bá, phổ biến. Nó là khâu nối tiếp,
nâng cao các giá trị văn hóa, nhân rộng và mang chúng đến với quần chúng quảng
đại trong xã hội.
Xuất bản là một tổ hợp hoạt đọng văn hóa tinh thần, là một hoạt động sản
xuất, lưu thông. Đáp ứng các nhu cầu văn hóa, tư tưởng xã hội là mục đích của
hoạt động xuất bản. Việc tổ chức sản xuất lưu thông các xuất bản phẩn là phương
thức, phương tiện hoạt động của sự nghiệp xuất bàn.
Xuất bản là một quá trình hoạt động nối tiếp, đồng bộ, hoàn chỉnh. Nó gồm ba
khâu biên tập, in, phát hành các loại xuất bản phẩm trong xã hội".

-4-


Theo định nghĩa của khoa Xuất bản - Học viện Báo chí và Tuyên truyền:
“Xuất bản là một bộ phận của đời sống văn hóa, nó là quá trình hoạt động nối tiếp,
đồng bộ,hoàn chỉnh gồm ba khâu: biên tập - in - phát hành các loại sách, báo và
các loại văn hóa phẩm khác".
PGS.TS Trần Văn Hải - Trưởng khoa Xuất bản: Học viện Báo chí và Tuyên
truyền chỉ rõ: "Xuất bản là một thành tựu của nền văn minh nhân loại, khi đã ra đời
nó trở thành một công cụ mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của nền văn minh nhân
loại. Xuất bản là hoạt động truyền bá, một quá trình hoạt động đồng bộ, hoàn
chỉnh, khép kín gồm ba khâu: biên tập, nhân bản và phát hành. Xuất bản là một tổ
hợp hoạt động, vừa là hoạt động văn hóa, tư tưởng; vừa là hoạt động kinh tế, kinh
doanh hàng hóa xuất bản phẩm. Xuất bản là một công cụ thống trị của giai cấp
thống trị, là công cụ để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội ".
Như vậy, khái niệm xuất bản với tư cách là khái niệm của khoa học xuất bản
là sự khái quát hóa một quá trình hoạt động, vừa là hoạt động sáng tạo tinh thần,
vừa là hoạt động sáng tạo vật chất.
Xuất bản vừa là hoạt động văn hoá tư tưởng vừa là hoạt động kinh tế.

Xét về phương diện mục đích và hiệu quả thì xuất bản hướng tới việc cảm
hoá con người, cải tạo con người, để cải tạo thiên nhiên và xã hội vì mục đích
của con người. Nó là một hoạt động tinh thần, hoạt động trí tuệ và vì trí tuệ.
Song khi các sản phẩm của trí tuệ là sách đã “nhiễm” vào con người thì nó
không thể chỉ là dạng tinh thần, mà đến “cái ngưỡng” nhất định nó sẽ chuyển
hoá thành lực lượng chất.
Xuất bản phẩm là kết quả của quá trình tư duy và quy trình sản xuất đặc thù.
Xuất bản là một loại ngành nghề, và nó trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật
đạt lợi nhuận cao ở các nước phát triển. Hoạt động của nó là dạng hoạt động sản
xuất vật chất đặc biệt. Tính đặc biệt do đòi hỏi của sản phẩm sách quy định. Toàn

-5-


bộ quy trình sản xuất hàng hoá sách là một quá trình của lao động tư duy, lao
động trí óc.
Khi xét tới giá trị sử dụng của xuất bản phẩm, ta có thể thấy một số thuộc
tính sau:
Trong tiêu dùng giá trị của xuất bản phẩm không những không mất đi mà
còn được nhân lên. Người đọc sách không chỉ thoả mãn tức thời, như uống nước
khi khát, mà cái giá trị nội dung tiếp nhận được còn tích lũy lâu dài trong nhận
thức. Đọc một cuốn sách hay có khi nhớ cả đời. Người đọc sách còn truyền cho
người khác qua việc kể lại nội dung. Một cuốn sách đâu chỉ một người đọc, mà
được truyền tay nhau để đọc... Đặc biệt khi ở trong thư viện thì vòng luân chuyển
của sách lại càng cao. Trong khi một ấm trà chỉ có một số ít người uống, và khi
uống xong là hết.
1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của quản lí nhà nước
Trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải nhờ vào sự hỗ trợ của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi
rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và chịu một sự quản lí nào đó.

Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lí, có người cho rằng quản
lí là hoạt động nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc thông qua sự nỗ lực của
người khác. Có người cho quản lí là một hoạt động thiết yếu bảo đảm phối hợp
những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Người khác lại cho quản
lí là sự điều hành, điều khiển, chỉ huy;… Tuy nhiên, quan niệm do các nhà điều
khiển học đưa ra là quan niệm được nhiều giới công nhận: Quản lí là sự tác động
có định hướng bất kì lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó
phát triển phù hợp với những quy luật nhất định.
Quản lí xã hội là một loại hình của quản lí nói chung. Theo quan niệm này
thì: Quản lí xã hội là sự tác động có định hướng (chỉ huy, điều hành, hướng dẫn…)
lên các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người làm cho chúng vận
-6-


động và phát triển phù hợp với quy luật, đạt được mục đích và theo ý chí của người
quản lí.
Chúng ta có thể hiểu quản lí nhà nước: “là sự tác động, tổ chức và điều
chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động
của con người; duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật để
thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bào vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
Quản lí nhà nước có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rông: Quản lí nhà nước là hoạt động của toàn thể bộ máy nhà
nước nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Như vậy, hoạt động của tất
cả các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các
cấp) đều là hoạt động quản lí nhà nước.
Theo nghĩa hẹp: Quản lí nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chình
bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người do các cơ quan hành chính Nhà nước (còn gọi là cơ quan quản lí Nhà nước)

thực hiện để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nhà nước.
Với quan niệm trên, quản lí nhà nước lá một dạng quản lí đặc biệt thể hiện ở
các đặc trưng sau:
Thứ nhất, quản lí nhà nước mang tính chất quyền lực nhà nước. Quản lí nhà
nước được thực hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước
mang tính mệnh lệnh đơn phương đòi hỏi phải được chấp thuận nghiêm chỉnh, mọi
người bình đẳng, không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái với các
quyết định quản lí.
Thứ hai, quản lí nhà nước mang tính tổ chức và điều chỉnh là chủ yếu. Tổ
chức là một khoa học về sự thiết lập các mối quan hệ giữa con người, giữa các tập
-7-


thể để thực hiện một quá trình quản lí xã hội. Tổ chức được hình thành do nhu cầu
quản lí, nó phải hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Trong quản lí nhà nước,
chức năng tổ chức là quan trọng, vì không có tổ chức thì không quản lí được.
Nhà nước phải tổ chức hợp lí để mỗi người đều có một vị trí tích cực và đóng
góp đối với xã hội.
Thứ ba, quản lí nhá nước mang tính khoa học kế hoạch. Hoạt động quản lí
nhà nước là hoạt động mang tính chủ quan của con người, nhưng dựa trên những
yêu cầu khách quan. Vì vậy, quản lí nhà nước phải mang tính khoa học, chủ động,
sáng tạo trong việc điều hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức
mạnh tổng hợp để tổ chức lại nền sản xuất xã hội và cuộc sống con người trên địa
bàn mình theo sự phân công, phân cấp, đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ. Trong quản lí nhà nước được quyền năng động, sáng tạo để tổ chức
thực hiện pháp luật, nhưng không trái với đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của nhà nước, quản lí nhà nước cũng cần phải có mục tiêu chiến lược, có
chương trình, kế hoạch để thực hiện mục tiêu. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan quản lí
nhà nước phải có kế hoạch dài hạn, trung hạn và hang năm. Có chỉ tiêu định hướng

chủ yếu, có biện pháp cân đối để thực hiện chỉ tiêu, để hoàn thành có hiệu quả các
chương trình mục tiêu chiến lược của nhà nước.
Thứ tư, hoạt động quản lí nhà nước mang tính liên tục và ổn định. Sự tác
động của quản lí nhà nước phải thực hiện liên tục, thường xuyên, các quyết định
quản lí nhà nước phải tương đối ổn định, tránh sự thay đổi quá nhanh chóng và
phải được giữ gìn. Đây là một đặc điểm quan trọng thể hiện tính trách nhiệm của
nhà nước đối với xã hội, với nhân dân. Nhà nước là người thay mặt cho nhân dân,
là công cụ mạnh mẽ của nhân dân lao động thực hiện quyền lực chính trị. Do đó,
mọi quyết định quản lí phải phù hợp với lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Chỉ như vậy và khi được như vậy thì các quyết định quản lí nhà nước mới có
hiệu lực và hiệu quả, mới trở thành hiện thực cuộc sống.
-8-


1.3. Đặc điểm cơ bản của quản lí nhà nước về xuất bản ở nước ta hiện
nay
Thứ nhất, quản lí nhà nước về xuất bản là mở đường cho hoạt động sáng
tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học để công bố dưới hình thức
xuất bản.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ xuất bản rất đa dạng, phong phú
và phức tạp. Nhu cầu về tự do, sáng tạo ra các giá trị khoa học, văn học, nghệ thuật
là nhu cầu tự nhiên. Các sản phẩm sáng tạo có giá trị chỉ được thực hiện khi tư duy
trong tình trạng hưng phấn cao. Mọi sự gò bó, khống chế là ngăn chặn hoạt động
sáng tạo. Nhưng sự an toàn của tự do ngôn luận, của tự do tư duy sáng tạo, của
bình đẳng trong việc công bố và phổ biến tác phẩm phải được bảo đảm bằng pháp
luật. Đòi hỏi này bắt nguồn từ quyền con người, với tư cách là chủ thể sáng tạo và
chủ thể hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần. Nhà nước khẳng định các giá trị xã
hội của quyền con người, nên đã ghi nhận và thể chế hóa các quyền con người,
quyền công dân và bảo đảm về mặt pháp lí cho các quyền đó được thực hiện. Do
được ghi nhận một cách chính thức các giá trị về quyền tự do ngôn luận, tự do

nghiên cứu, sáng tác, bình đẳng trong công bố và phổ biến tác phẩm, pháp luật trở
thành phương tiện để các tác giả bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.
Nhà nước quản lí hoạt động của tư duy sáng tạo trong xuất bản bằng pháp
luật, là khuyến khích tài năng sáng tạo và đề cao các tác phẩm có giá trị về khoa
học, về nghệ thuật. Chính từ cơ chế thị trường được pháp luật thừa nhận, là nơi
đánh giá công minh các tác phẩm. Ở đó, công chúng với tư cách là người tiêu dung
sẽ là thước đo về năng lực sáng tạo của tác giả qua tác phẩm.
Thứ hai, quản lí nhà nước về xuất bản là bảo tồn, phát triển nền văn hóa
dân tộc, hiện đại, nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến bộ về khoa học –
công nghệ của nhân loại.

-9-


Văn minh của loài người được nhân loại đánh giá ở các nền văn hóa có bản
sắc, ở các cuộc cách mạng đã diễn ra trong lịch sử. Mỗi dân tộc có cội nguồn, có
truyền thống riêng, được phản chiếu lên tấm gương văn hóa. Nó là gia sản quá khứ,
tạo nên dòng chảy cho hiện tại và tương lai dân tộc. Đảng và Nhà nước ta coi văn
hóa là nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
việc bảo tồn, kề thừa phát triển những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc là quốc
sách, được ghi nhận trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, và 1992.
Nhà nước khuyến khích bồi dưỡng tài năng nghiên cứu, sáng tạo ra các giá
trị tinh thần mới, làm giàu vốn văn hóa dân tộc. Đồng thời trao vào tay họ các
quyền cao cả mang tính nhân văn sâu sắc trong hoạt động văn hóa nói chung, xuất
bản nói riêng. Và cũng vì vậy, quản lí nhà nước về xuất bản đã đưa ra các chế tài
nghiêm khắc đối với những hành vi truyền bá xuất bản phẩm có nội dung trái với
thuần phong mĩ tục, truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, nhằm bảo
vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhu cầu giao lưu văn hóa, tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hóa của nhân loại
là nhu cầu của bản than nên văn hóa dân tộc. Mặt khác, trong thời đại bùng nổ

thông tin hiện nay, với sự phát triển nhảy vọt của Internet, của khoa học và công
nghệ, thì việc nhận thức và ứng dụng các tiến bộ mới của khoa học là đòi hỏi bức
thiết. Mỗi dân tộc phải biết làm giàu bởi trí thức của nhân loại. Điều đó chỉ được
thực hiện khi nhà nước trao cho các chủ thể được xác định các quyền và nghĩa vụ
trong các quan hệ quốc tế về xuất bản.
Thứ ba, quản lí nhà nước về xuất bản là quản lí thuộc lĩnh vực văn hóa tư
tưởng, đồng thời là hoạt động sản xuất kinh doanh.
Với thuộc tính là hoạt động văn hóa – tư tưởng, hoạt động sản xuất kinh
doanh, xuất bản chịu sự tác động đồng thời của hệ thống các quy luật phát triển
văn hóa và hệ thống các quy luật kinh tế. Do tính chất phức tạp như vậy nên yêu
cầu quản lí nhà nước về xuất bản được đặt ra bức thiết hơn. Quản lí nhà nước về
- 10 -


xuất bản phải mở đường cho sự sáng tạo, đồng thời ngăn chặn những độc hại, tiêu
cực do xuất bản gây ra đối với văn hóa, tư tưởng; phải định hướng cho xuất bản
phát triển theo đúng quy luật kinh tế, ngăn ngừa những tác hại từ mặt trái của cơ
chế thị trường. Nếu chúng ta coi xuất bản như các tổ chức kinh tế đơn thuần sẽ dẫn
đến tình trạng hoạt động xuất bản bị thương mại hóa, chỉ chạy theo lợi nhuận kinh
doanh; ngược lại, nếu chúng ta chỉ đề cao vai trò của xuất bản ở phương diện văn
hóa, tư tưởng sẽ dẫn đến khả năng bất chấp quy luật kinh tế. Như vậy, hoạt động
xuất bản sẽ phá sản trong điều kiện kinh tế thị trường.
Có thể nói, quản lí nhà nước về xuất bản là quản lí hoạt động kinh tế trong
văn hóa tư tưởng, đồng thời quản lí hoạt động văn hòa, tư tưởng trong cơ chế thị
trường. Đó là hai mặt của một vấn đề phải được quản lí một cách hài hòa, đảm bảo
cho xuất bản hoạt động đúng quy luật.
1.4. Vai trò của quản lí nhà nước về xuất bản ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, quản lí nhà nước về xuất bản nhằm triển khai thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng trong quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất bản.
Quản lí nhà nước bằng pháp luật luôn luôn là phương tiện triển khai thực

hiện chủ trương, đường lối của Đảng trong quản lí nhà nước đối với bất kì lĩnh vực
nào. Quản lí nhà nước bằng pháp luật về xuất bản triển khai thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng trong quản lí nhà nước về xuất bản.
Tương ứng với những thời kì phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
đất nước, Đảng ta có những chủ trương, đường lối trong quản lí nhà nước đối với
hoạt động xuát bản. Sauk hi những chủ trương đường lối ra đời, các văn bản pháp
luật của Nhà nước sẽ thể chế hóa và ghi nhận các chủ trương, đường lối đó vào
trong các chế định, các quy phạm pháp luật. Khi các chủ trương, đường lối của
Đảng đã thể chế hóa vào pháp luật, một mặt, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tổ chức thực hiện chúng trong thực tế bằng các hoạt động chuyên môn. Mặt khác,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ các quy định của pháp luật đó thong
- 11 -


qua các hoạt động thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo các hành vi vi
phạm pháp luật trong hoạt động xuất bản. Như vậy, các chủ trương, đường lối của
Đảng trước hết được cụ thể hóa, ghi nhận vào pháp luật rồi được thực hiện trong
thực tế, đồng thời được bảo về bằng các hoạt động xử lí hành vi vi phạm pháp luật,
những quy định pháp luật đã cụ thể hóa, những chủ trương, đường lối đó. Khi chủ
trương, đường lối của Đảng thay đổi, thì hoạt động quản lí nhà nước bằng pháp
luật lại thay đổi từ khâu sửa đổi, bổ sung các văn bản, quy phạm pháp luật có liên
quan, sau đó các hoạt động quản lí nhà nước khác mới tiếp tục thay đổi theo.
Thứ hai, quản lí nhà nước về xuất bản giúp tạo lập môi trường tự do sáng
tạo, bình đẳng cho các chủ thể trong hoạt động xuất bản.
Với đặc trưng của lao động sáng tạo nói chung, đặc biệt là lao động sáng tạo
ra tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học thì nhu cầu về tự do sáng tạo, bình
đẳng trong việc công bố và phổ biến tác phẩm là một đòi hỏi khách quan. Tuy
nhiên, tự do và bình đẳng trong sáng tạo phải vì lợi ích xã hội, vì lợi ích cộng
đồng, không thể có tự do vượt quá giới hạn cho phép. Giới hạn cho phép này được
nhà nước thể hiện thông qua pháp luật. Pháp luật quy định những gì được phép làm

đối với các cơ quan nhà nước nhằm ngăn các hành vi lạm dụng, xâm hại đến quyền
tự do, bình đẳng. Đồng thời, pháp luật đề ra các nghĩa vụ tương ứng cho các chủ
thể của hoạt động sáng tạo và quản lí.
Thứ ba, quản lí nhà nước về xuất bản bảo vệ lợi ích của những người sáng
tạo ra các tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học
Hoạt động sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa tinh thần được xã hội xếp vào
loại lao động đặc biệt. Các quốc gia trên thế giới đều coi các sản phẩm của trí tuệ
là tài sản. Vì vậy, các tác giả được bảo hộ quyền sở hữu. Berne là công ước quốc tế
đầu tiên về quyền tác giả, dưới sự điều hành của tổ chức quyền sở hữu trí tuệ thế
giới (WIPO) ra đời từ năm 1886 (là tổ chức của Liên hợp quốc từ năm 1974) để
bảo vệ quyền tác giả thuộc gần 100 nước thành viên.
- 12 -


Ở Việt Nam, các quy định về quyền của người sáng tạo, người quản lí và các
nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ các quyền đó, cùng với các quy định về cơ chế
đảm bảo thực hiện, là cơ sở pháp lí cho việc bảo hộ quyền sở hữu tác phẩm. Các
tác giả được Nhà nước tạo phương tiện để đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của
mình. Các tranh chấp về quyền tác giả, các hành vi xâm hại lợi ích vật chất và tinh
thần của tác giả được xét xử tại Tòa án dân sự. Như vậy, thong qua việc bảo hộ
quyền tác giả, Nhà nước tiếp tục khuyến khích năng lực sáng tạo của văn nghệ sĩ,
trí thức để có nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần có giá trị phục vụ xã hội.
Thứ tư, quản lí nhà nước về xuất bản chống thương mại hóa xuất bản, bảo
vệ lợi ích người tiêu dung xuất bản phẩm.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động xuất bản đã khởi sắc và có
một diện mạo mới, phục vụ tốt đời sống tinh thần của nhân dân với những xuất bản
phẩm phong phú về nội dung và hình thức. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị
trường đã thúc ép các chủ thể xuất bản chỉ chú ý tới các xuất bản phẩm có khả
năng thanh toán, đẩy hoạt động xuất bản tìm kiếm các khả năng thanh toán có lợi
nhuận cao, không lường đến hậu quả chính trị, xã hội có thể xảy ra. Quản lí nhà

nước về xuất bản là phải hạn chế đến mức tối đa các hoạt động xuất bản chạy theo
lợi nhuận kinh tế đơn thuần, đặc biệt phải ngăn chặn xu hướng thương mại hóa
hoạt động xuất bản.
Thứ năm, góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội trong quá
trình phát triển đất nước.
Hoạt động xuất bản là lĩnh vực rất nhạy cảm về mặt chính trị, xã hội, là
phương tiện lợi hại trong cuộc đấu tranh giai cấp. Trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, việc đảm bảo nội dung xuất bản phẩm lành mạnh, phù hợp với pháp luật, phù
hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam là rất cần thiết.
Các sản phẩm văn hóa, xuất bản nói riêng thuộc hang hóa công cộng, được
mọi tầng lớp nhân dân tiêu dung, nó tác động trực tiếp đến ý thức, tình cảm, suy
- 13 -


nghĩ của từng người dân. Vì vậy, bằng những xuất bản phẩm của mình, hoạt động
xuất bản chuyển tải tới công chúng các ý tưởng cao cả của giai cấp, về việc xây
dựng một xã hội tương lai với bộ máy chính quyền vững mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh và thịnh vượng. Thông tin và giải đáp kịp thời các vân đề của
quốc gia và quốc tế. Như vậy, hoạt động xuất bản đã góp phần ổn định chính trị và
trật tự xã hội trong quá trình phát triển đất nước.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của hoạt động xuất bản, Nhà nước ta đã đề
ra những chính sách cụ thể, như: Chính sách đặt hàng; trợ cước vận chuyển; mua
bản thảo những tác phẩm có giá trị… Tất cả những chính sách đó nhằm đảm bảo
cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu được mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam phồn thịnh, hòa bình, ổn định.
Thứ sáu, quản lí nhà nước về xuất bản góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác
và hội nhập quốc tế.
Thực hiện chính sách mở cửa hội nhập và hợp tác quốc tế với phương châm:
Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với
nhiều nước, vùng lãnh thổ và tổ chức trên thế giới. Để quá trình hợp tác, hội nhập

quốc tế diễn ra thuận lợi, đạt mục đích một cách tốt nhất, hai bên đều phải tìm hiểu
truyền thống văn hóa, mọi lĩnh vực đời sống xã hội của nhau và cách tìm hiểu đạt
hiệu quả cao và phổ biến là trao đổi các xuất bản phẩm cho nhau. Quản lí nhà nước
về xuất bản có vai trò giải quyết các vấn đề này thong qua việc xác định rõ các tổ
chức quốc tế, cá nhân nước ngoài được xuất bản các tài liệu, tác phẩm tại Việt
Nam; quy định rõ các thủ tục về xuất nhập khẩu xuất bản phẩm. Nhằm giới thiệu
văn hóa Việt Nam với thế giới, góp phần tuyên truyền đường lối đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta, Nhà nước ta khuyến khích các nhà xuất bản, các cơ sở phát
hành xuất bản phẩm xuất khẩu xuất bản phẩm ra nước ngoài. Việc xuất khẩu các
xuất bản phẩm hợp pháp ra nước ngoài không phải xin phép các cơ quan quản lí

- 14 -


nhà nước về hoạt động xuất bản. Đây là một điểm mới cơ bản nhằm đưa hoạt động
xuất bản phát triển, góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế.
2. Nội dung quản lí nhà nước về xuất bản ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, đưa ra các cơ chế, chính sách và ban hành các quy phạm pháp
luật về xuất bản.
Đây là một nội dung cơ bản của quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất
bản vì các văn bản pháp luật xuất bản là cơ sở đầu tiên và quan trọng để quản lí
nhà nước đối với hoạt động xuất bản có hiệu quả.
Hoạt động ban hành pháp luật xuất bản là hoạt động phức hợp gồm nhiều
giai đoạn kế tiếp nhau, do nhiều chủ thể có vị trí, chức năng, quyền hạn khác nhau
tiến hành, từ sáng kiến xây dựng pháp luật đến việc công bố văn bản pháp luật.
Trong tất cả các giai đoạn của hoạt động xây dựng pháp luật xuất bản đều đòi hỏi
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc cơ bản
của quá trình xây dựng pháp luật xuất bản. Đó là, nguyên tắc chính trị - xã hội,
như: nguyên tắc không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc khách
quan, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa… hay các nguyên tắc mang tính kĩ

thuật trong soạn thảo, như: tính xác định của cách thức diễn đạt, bảo đảm rõ ràng
và dễ hiểu của ngôn ngữ; điều chỉnh đầy đủ các quan hệ xã hội trong lĩnh vực
tương ứng; tính cụ thể;…
Như vậy, hoạt động ban hành pháp luật xuất bản phải thể chế hóa được các
chủ trương, đường lối của Đảng, phải phù hợp với thực tiễn, phản ánh được xu thế
vận động của các quy luật khách quan, bảo đảm tính đồng bộ trong nội tại trong hệ
thống quy định của pháp luật xuất bản, tính thống nhất với cả hệ thống pháp luật
của Nhà nước; bảo đảm điều chỉnh toàn diện, đầy đủ các quan hệ cơ bản trong hoạt
động xuất bản; hệ thống các quy định phải cụ thể; ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng, chính
xác, đồng thời hệ quy định cũng phải bảo đảm tính tương đối ổn định; các văn bản

- 15 -


pháp quy phải kịp thời điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh trong lĩnh
vực xuất bản…
Trong hoạt động ban hành các văn bản pháp luật xuất bản của các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền, trước hết, phải nói đến các hoạt động ban hành các Luật,
các Nghị quyết về tổ chức và hoạt động xuất bản của Quốc hội và Ủy ban thường
vụ Quốc hội, như: Luật xuất bản 1993; Luật xuất bản 2004. Tiếp theo là việc ban
hành các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ; các Quyết định, Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ nhằm cụ thể hóa các quy định trong các luật về tổ chức và hoạt
động xuất bản. Sau đó các Bộ, các cơ quan ngang Bộ ban hành các Thông tư, Bộ
trưởng ban hành các Quyết định, Chỉ thị để điều chỉnh các quan hệ cụ thể trong
lĩnh vực xuất bản. Ngoài ra, Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ban hành
các Nghị quyết, Viện trưởng Việt kiểm sát nhân dân ban hành các quyết định để
giải quyết các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực xuất bản.
Thứ hai, các cơ quan Nhà nước tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách và
các quy định của pháp luật xuất bản. Các cơ quan này bao gồm:
+ Hoạt động của Quốc hội trong việc quyết định và thực hiện quyền giám sát

tối cao đối với mọi hoạt động xuất bản trong phạm vi cả nước.
+ Hoạt động của Chính phủ, UBND cấp tỉnh, Bộ Văn hóa thông tin; Sở Văn
hóa thông tin trong: quản lí, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp
xuất bản; quản lí việc thực hiện kế hoạch xuất bản; lưu chiểu, kiểm tra lưu chiểu;
tổ chức nhân sự.
Thứ ba, hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong thanh tra, kiểm tra, giả
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lí các hành vi vi phạm pháp luật xuất bản.
Đây là hoạt động thanh tra việc xuất bản, in, phát hành; thanh tra việc thi
hành Luật xuất bản; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lí các hành vi vi
phạm pháp luật xuất bản do các cơ quan quản lí hành chính trong lĩnh vực này tiến
hành.
- 16 -


Chương II
THỰC TRẠNG QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC BẰNG XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Quá trình hình thành hoạt động quản lí nhà nước về xuất bản ở nước
ta
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hòa đã tuyên bố bảo đảm quyền tự do dân chủ cho nhân dân, trong đó có
quyền tự do xuất bản. Một năm sau, tháng 11 năm 1946 tại kì họp Quốc hội khóa II
đã thông qua Hiến pháp, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, trong đó
có quyền tự do xuất bản: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản”.
Trong kháng chiến chống Pháp, các nhà xuất bản thuộc cơ quan nhà nước,
đoàn thể nhân dân hoặc của tư nhân ở vùng tự do, vùng du kích đã không bị kiểm
duyệt tác phẩm trước khi in. Chính phủ chỉ quy định các nhà xuất bản không được
xuất bản những xuất bản phẩm có hại cho nền độc lập dân tộc, ảnh hưởng xấu đến
tinh thần chiến đấu của bộ đội và của nhân dân.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, cách mạng Việt Nam chuyển

sang giai đoạn mới với hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng CNXH ở miền Bắc,
đấu tranh để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật để thể chế hóa đường lối, chính sách
của Đảng trên các lĩnh vực xã hội trong giai đoạn mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí
ban hành sắc luật 003/SLt ngày 18/06/1957 quy định về chế độ xuất bản. Sắc luật
này đặt cơ sở pháp lí đầu tiên cho hoạt động xuất bản ở Việt Nam.
Dự án về Luật Xuất bản được xây dựng từ sau đại hội lần thứ VII, được
Quốc hội khóa IX kì họp thứ 3 thông qua ngày 07/07/1993 và Chủ tịch nước công
bố ngày 19/07/1993. Luật Xuất bản 1993 là cơ sở pháp lí bảo đảm cho sự phát triển
của hoạt động xuất bản.

- 17 -


Trước yêu cầu phát triển sự nghiệp xuất bản trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản liên quan
đến hoạt động xuất bản để điều chỉnh từng mặt hoạt động xuất bản như Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 3 (khóa IX), Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư… Một số nội
dung điều chỉnh này có nhiều khác biệt so với một số điều khoản của Luật Xuất
bản. Đứng trước yêu cầu đó, Luật Xuất bản 2004 đã được Quốc hội khóa XI thông
qua ngày 03/12/2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2005.
Luật Xuất bản 2004 là đỉnh cao của pháp luật về xuất bản ở Việt Nam, nó đã
kế thừa được những tiến bộ của Luật Xuất bản 1993, tổng kết được thực tiễn lãnh
đạo và quản lí xuất bản trong những năm đổi mới, đón nhận được những đòi hỏi
mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và nhu cầu
hòa nhập, giao lưu trong cộng đồng quốc tế.
2. Những kết quả đạt được trong hoạt động quản lí nhà nước về xuất
bản ở nước ta trong những năm gần đây
2.1. Công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
Năm 2010, Cục Xuất bản đã phối hợp với các cơ quan chức năng soạn thảo

trình Bộ Thông tin và Truyền thông kí, ban hành hoặc trình Chính phủ các văn bản
quy phạm pháp luât như: Nghị định 110/2010/NĐ-CP ngày 09/11/2010 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 111/2005/CP ngày 26/08/2005 và Nghị định
11/2009/CP ngày 10/02/2009 của Chính phủ; Thông tư 02/2010/TT-BTTTT ngày
30/12/2010 “Quy định về việc cấp phép tài liệu không kinh doanh”; Thông tư Liên
tịch số 04/2011/TTLT-BTTTT-BTC ngày 10/01/2011 về “Hướng dẫn thực hiện
đặt hàng xuất bản phẩm sử dụng ngân sách nhà nước”.
Hoàn thành và trình Thủ tướng CHính phủ xem xét, ban hành Quyết định về
“Loại hình tổ chức hoạt động nhà xuất bản”; “Chính sách thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với hoạt động xuất bản”.
2.2. Công tác đọc kiểm tra xuất bản phẩm và xử lí vi phạm
- 18 -


Qua đọc kiểm tra xuất bản phẩm lưu chiểu năm 2010 đã xử lí 69 cuốn sách
vi phạm của 23 nhà xuất bản với các hình thức khác nhau như: không tái bản, tạm
dừng phát hành để thẩm định nội dung; tạm dừng phát hành để sửa chữa, đính
chính: 60 cuốn; nhà xuất bản tự thu hồi: 9 cuốn. Ngoài ra, cơ quan quản lí còn
chuyển thanh tra xử lí các xuất bản phẩm không thực hiện theo đúng pháp luật xuất
bản như: xuất bản trình bày dạng tạp chí, không đúng với nội dung đăng kí kế
hoạch xuất bản, không nộp lưu chiểu…
Đoàn Liên ngành phòng chống in lậu Trung ương phối hợp với các cơ quan
chức năng ở Trung ương và địa phương đã tiến hành thanh tra, kiểm tra, phát hiện
và xử lí vụ in lậu lớn tại Công ty Cổ phần Hoa Mai, Công ty Cổ phần phát hành
sách thiết bị trường học Việt Nam, Công ty TNHH Minh Tâm…
2.3. Công tác tài trợ và đặt hàng xuất bản phẩm
Năm 2010, Cục Xuất bản đã duyệt danh mục xuất bản phẩm đặt hàng cho 32
nhà xuất bản Trung ương thực hiện 237 cuốn với số lượng 237.370 bản với ngân
sách nhà nước là 10,5 tỉ đổng. Nội dung xuất bản phẩm đặt hàng tập trung vào một
số mảng đề tài trọng tâm như: tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của

Đàng và Nhà nước; kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội; giới thiệu những
thành tựu phát triển của đất nước sau 20 năm đổi mới; sách phục vụ cuộc vận động
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; sách về biển đảo và chủ
quyền quốc gia… Nhiều xuất bản phẩm có giá trị được đầu tư xuất bản như: “Từ
điển bách khoa giới thiệu đất nước và con người Việt Nam” – NXB Từ điển bách
khoa, “Hồ Chí Minh toàn tập” – NXB Văn học, “Bộ sách ảnh về 54 dân tộc Việt
Nam” – NXB Thông tấn…
Ngoài nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng cho các nhà xuất bản Trung
ương, một số Bộ, ngành, địa phương còn bố trí nguồn ngân sách đặt hàng (80 tỉ
đồng) khác như: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban Dân tộc và Miền núi, UBND tỉnh Thanh Hóa, Sở
- 19 -


Thông tin và Truyền thông tỉnh Nghệ An, UBND tỉnh Đà Nẵng…Đặc biệt là Dự
án sưu tầm, biên soạn và xuất bản tủ sách về Thăng Long – Hà Nội được UBND
thành phố Hà Nội đầu tư 53 tỉ đồng.
2.4. Công tác khác
- Toàn ngành xuất bản đã tham gia các Triển lãm, Hội chợ sách trong nước
và quốc tế, đặc biệt đã tổ chức thành công Triển lãm – Hội chợ Sách Quốc tế - Việt
Nam lần III để chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội với quy mô lớn
nhất từ trước đến nay với nhiều hoạt động phong phú và chất lượng. Triển lãm –
Hội chợ sách 2010 đã thực sự là ngày hội tôn vinh văn hóa đọc và đã được bình
chọn là một trong mười sự kiện nổi bật của ngành Thông tin và Truyền thông năm
2010.
- Phối hợp với Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức thành công Giải thưởng Sách
Việt Nam lần thứ VI và mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho biên tập viên các nhà
xuất bản; Phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông
để triển khai việc bỗi dưỡng quản lí nhà nước về xuất bản cho các Sở Thông tin và
Truyền thông.

- Hoàn thành 4 đề tai nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu đề xuất các
giải pháp kĩ thuật và pháp lí nâng cao hiệu quả xử lí xuất bản phẩm vi phạm”,
“Nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức và cơ chế chính sách nâng cao hiệu quả hoạt
động xuất bản”, “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp tăng cường quản lí Văn phòng
đại diện của nước ngoài tại Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực xuất bản và phát
hành xuất bản phẩm”, “Tiêu chuẩn kĩ thuật sách Việt Nam”.
- Trả lời các đơn thư khiếu nại về lĩnh vực xuất bản; Thỏa thuận với các cơ
qua chức năng bổ nhiệm và khen thưởng cho các nhà xuất bản.
- Chỉ đạo các đơn vị trong ngành quyên góp ủng hộ đồng bào miền Trung bị
ảnh hưởng trong đợt lũ lụt lịch sử vừa qua, đã trao tặng hàng vạn cuốn sách với giá
trị hàng tỉ đồng.
- 20 -


2.5. Công tác quản lí xuất bản của Sở Thông tin và Truyền thông
Năm 2010, công tác quản lí về hoạt động xuất bản tại địa phương đã được
các Sở Thông tin và Truyền Thông triển khai có hiệu quả trên các mặt quản lí như
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xuất bản đến các đối tượng
hoạt động trong lĩnh vực xuất bản; chủ động tham mưu, xây dựng các văn bản
quản lí trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành nhằm tăng cường công tác quản lí nhà
nước, đảm bảo đưa hoạt động xuất bản tại địa bàn theo đúng quy định của pháp
luật. Một số địa phương đã tiến hành xây dựng Quy hoạch phát triển hoạt động
xuất bản đến 2020 như Lào Cai, Nghệ An, Quảng Trị, Khánh Hòa…
Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất bản tại địa bàn đã được các Sở
Thông tin và Truyền thông phối hợp với các cơ quan chức năng của Trung ương và
địa phương thực hiện đồng bộ. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đã thành lập Đội liên ngành phòng chống in lậu và thường xuyên tiến
hành thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lí kịp thời các vi phạm trong hoạt động
xuất bản.
Việc cấp phép xuất bản tài liệu không kinh doanh đã được các Sở Thông tin

và Truyền thông thực hiện đúng quy định, phục vụ kịp thời, có hiệu quả nhiệm vụ
chính trị của địa phương.
3. Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động quản lí nhà nước về xuất bản
trong những năm gần đây
3.1. Về kế hoạch xuất bản
- Một số nhà xuất bản bổ sung kế hoạch xuất bản nhiều lần trong năm, hiện
tượng đăng kí “xếp chỗ” quá nhiều đề tài diễn ra phổ biến. Thực tế này làm cho cơ
quan quản lí nhà nước rơi vào tình trạng quá tải khi xem xét, chấp nhận kế hoạch
xuất bản, gây lãng phí về thời gian và công sức.
- Tình trạng “đội mũ” đề tài, chuyển từ đề tài sách thành dạng chuyên đề, tạp
chí in xong mới xin bổ sung kế hoạch xuất bản vẫn xảy ra nhiều.
- 21 -


- Việc xem xét và chấp nhận đăng kí kế hoạch xuất bản còn thiếu cơ sở và
điều kiện cần thiết, vì những nội dung đòi hỏi đăng kí theo quy định của Luật Xuất
bản quá sơ sài, không đủ thông tin kiểm soát đầu vào, để có những xuất bản phẩm
lành mạnh ở đầu ra.
- Nhu cầu về xuất bản nhất thời luôn phát sinh, nhưng lại bị hạn chế trong
việc cấp giấy phép, trong khi đó kế hoạch của các nhà xuất bản chỉ được bổ sung
vào tháng 3, tháng 6, tháng 9 và năm xuất bản.
- Bộ Văn hóa – Thông tin vừa là cơ quan chủ quản, vừa là cơ quan quản lí
một số nhà xuất bản. Cục Xuất bản là cơ quan tham mưu và có một số quyền cụ
thể về quản lí nhà nước do Bộ Văn hóa – Thông tin giao. Như vậy, việc xem xét,
chấp nhận đăng kí kế hoạch xuất bản của các nhà xuất bản thuộc Bộ Văn hóa –
Thông tin không thể giống như các nhà xuất bản ngoài bộ. Tình trạng Cục Xuất
bản xem xét lại, không chấp nhận quyết định của lãnh đạo Bộ, kể cả quyết định của
Thứ trưởng phụ trách ngành xuất bản trong việc phê duyệt kế hoạch đề tài của nhà
xuất bản thuộc Bộ là trái với cơ chế quản lí nhà nước.
3.2. Về lưu chiểu và kiểm tra lưu chiểu xuất bản phẩm

Trong những năm qua, công tác lưu chiểu còn nhiều bất cập, có thể nói rằng,
khâu yếu nhất của công tác lưu chiểu là đọc lưu chiểu của cơ quan quản lí nhà
nước về xuất bản. Thực tiễn mười mấy năm thi hành Luật Xuất bản cho thấy nhiều
sai phạm về nội dung của các xuất bản phẩm lưu hành trên thị trường là do độc giả
phát hiện, trong khi đó nhiệm vụ quan trọng nhất của cơ quan quản lí nhà nước về
xuất bản là không được để các tác phẩm có nội dung xấu xuất hiện trên thị trường.
3.3. Về tổ chức
- Chưa xác lập được định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển lực lượng
trong cả nước. Các nhà xuất bản phân bố không dồng đều, chủ yếu tập trung ở hai
thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong 11 nhà xuất bản địa
phương tồn tại, có tới 7 nhà xuất bản thuộc các tỉnh phía Nam, trong khi đó, một số
- 22 -


vùng văn hóa, khu vực lại không có nhà xuất bản, như: Tây Bắc, Việt Bắc, Tây
Nguyên, Đồng bằng Sông Cửu Long…
- Việc sắp xếp lại hệ thống xuất bản, in, phát hành trê quy mô cả nước và
trong từng ngành, từng địa phương vẫn gặp nhiều khó khăn, tình trạng bất hợp lí,
vừa thừa, vừa thiếu vẫn xảy ra, có sự chồng chéo, “lấn sân” giữa các nhà xuất bản
về tôn chỉ mục đích, chức năng, nhiệm vụ vẫn còn phổ biến. Một số Bộ, ngành đã
có nhiều nhà xuất bản, nhưng vẫn tiếp tục đề nghị thành lập nhà xuất bản mới.
Hiện tại, số lượng cơ sở in và phát hành sách quá lớn, một số cơ sở hoạt động kém
hiệu quả, rất khó quản lí và dễ xảy ra sai phạm; trong khi đó công tác quản lí nhà
nước chưa mang tính chủ động, toàn cục mà còn chạy theo thực tiễn để giải quyết
những vụ việc cụ thể xảy ra.
- Do hoạt động theo các mô hình khác nhau, việc cấp vốn lưu động, việc
thực hiện nghĩa vụ với nhà nước cũng khác nhau, mặt khác, theo luật định, vai trò
của cơ quan chủ quản là vô cùng quan trọng trong hoạt động của nhà xuất bản,
nhưng hầu hết gần như khoán trắng cho nhà xuất bản từ nội dung đến hiệu quả
kinh tế - xã hội. Do vậy, để tồn tại trong cơ chế thị trường, các nhà xuất bản phải tự

bươn chải, việc chạy theo thị hiếu để có thu nhập và duy trì sự hoạt động cũng như
hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước là điều không thể tránh khỏi.
4. Những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
4.1. Nguyên nhân khách quan
- Tác động của các yếu tố khách quan làm cho pháp luật xuất bản chưa thể
hoàn thiện vì còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm. Pháp luật xuất bản bao giờ cũng
lạc hậu hơn các quan hệ xã hội trong lĩnh vực xuất bản, thêm vào đó là sự thay đổi
nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội nước ta làm nảy sinh nhiều vấn đề cần
giả quyết. Việc nghiên cứu, trình và thông qua dự án luật về các lĩnh vực văn hóa,
sản phẩm văn hóa tinh thần thường khó khăn, phức tạp hơn nhiều so với các lĩnh
vực và sản phẩm vật chất thuần túy, một số quy định của pháp luật chỉ dừng lại ở
- 23 -


mức định tính, chưa được lượng hóa và cụ thể hóa nên việc thực hiện gặp khó
khăn. Các văn bản về luật xuất bản và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa đầy
đủ, đồng bộ nên việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lí vi phạm còn chưa kịp thời,
chưa nghiêm minh.
- Trong cơ chế thị trường, các hoạt động xuất bản cũng chịu sự tác động và
chi phối của thị trường, quy luật cung cầu, quy luật giá cả… Một số không ít các
chủ thể đã không nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của hoạt động xuất bản, đã
“thương mại hóa” các hoạt động xuất bản, chạy theo thị hiếu, kinh doanh xuất bản
phẩm bất chính và tệ hại hơn đã kiếm tiền bằng cách làm băng hoại tâm hồn, đạo
đức thế hệ trẻ. Đáng trách là có một số cơ quan quản lí nhà nước cũng chỉ vì tham
lợi nhuận đã đứng ra tổ chức và bao che cho những việc làm sai trái đó.
4.2. Nguyên nhân chủ quan
- Các văn bản pháp luật xuất bản vẫn chưa được ban hành kịp thời, tình
trạng ỷ lại cho cơ quan quản lí nhà nước cấp dưới đã góp phần làm cho hệ thống
luật thiếu đồng bộ, mâu thuẫn. Trình độ, năng lực của cơ quan xây dựng văn bản
pháp luật còn hạn chế, đội ngũ cán bộ xây dựng pháp luật còn thiếu, các điều kiện

vật chất chưa đảm bảo; vẫn còn sự vi phạm các nguyên tắc và kĩ thuật trong xây
dựng văn bản pháp luật.
- Lực lượng cán bộ làm nhiệm vụ quản lí nhà nước còn mỏng so với nhu cầu
thực tế. Ví dụ hiện nay, Phòng quản lí xuất bản – Cục xuất bản chưa đến 10 người
làm nhiệm vụ kiểm tra nội dung xuất bản phẩm lưu chiểu, trong khi năm 2010 xuất
bản 25.769 tên sách. Với số lượng người như vậy thì chỉ điểm tên sách cũng đã
không đủ thời gian, chưa nói đến công việc chính của phòng là kiểm tra nội dung
xuất bản phẩm.
- Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ còn
chậm đổi mới. Đây chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.

- 24 -


Chương III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Phương hướng đề ra nhằm nâng cao vai trò của quản lí nhà nước đối
với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, quản lí nhà nước vè xuất bản ở nước ta hiện nay phải bảo đảm:
xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa – tư tưởng.
Hoạt động xuất bản bất kì là của cơ quan Nhà nước, chính đáng, đoàn thể
nhân dân hay của tư nhân đều không phải là hoạt động có tính chất đơn thuần kinh
doanh mà là một hoạt động văn hóa có ảnh hưởng nhiều đến việc giáo dục tư
tưởng cho nhân dân. Quan điểm này đã được ghi nhận trong Luật Xuất bản 1993,
và hiện nay là Luật Xuất bản 2004.
Quản lí nhà nước về xuất bản phải coi xuất bản là một bộ phận của văn hóa,
xuất bản chịu sự chi phối của các quy luật phát triển văn hóa. Lao động xuất bản là
lao động chất xám, công cụ lao động của họ cũng là tư duy. Đó là bản thảo những

tác phẩm đạt yêu cầu về giá trị tư tưởng, khoa học và nghệ thuật. Mục đích của
xuất bản hướng tới việc cảm hóa con người, cải tạo con người, cải tạo thiên nhiên
và xã hội vì mục đích của con người.
Thứ hai, quản lí nhà nước về xuất bản phải dựa trên cơ sở quan điểm: sản
phẩm của xuất bản là những hàng hóa đặc biệt.
Là một loại sản phẩm của quá trình sản xuất vật chất, xuất bản cũng như các
sản phẩm khác, là kết quả của lao động sống và lao động quá khứ được vật hóa. Vì
vậy, xuất bản phẩm cũng có giá trị sử dụng, giá trị trao đổi giống như các sản phẩm
vật chất khác. Khi đưa vào lưu thông, nó trở thành hàng hóa. Nhưng xuất bản nói
chung và sách nói riêng là một loại hàng hóa đặc biệt, nó còn có giá trị đạo đức,
giá trị thẩm mĩ, giá trị văn hóa… Người tiêu dùng sách sẽ hài lòng khi tiếp thu các
- 25 -


×