TIỂU LUẬN
MÔN: PHƯƠNG PHÁP LUẬN SỬ HỌC
Đề tài:
VĂN BẢN TƯ LIỆU VÀ SỬ DỤNG VÀO
NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
Học viên thực hiện :
Lớp
: Cao học LSĐ
Hà Nội, 6/2014
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Muốn tiến hành nghiên cứu lịch sử người ta phải nắm chắc các
tri thức lịch sử, các phương pháp mà sử học thường phải sử dụng để
nhận thức lịch sử. Ngoài các tri thức chung, người nghiên cứu lịch sử
phải am hiểu các ngành học được coi là các khoa học bổ trợ cho sử
học như: văn bản học, văn thư học, lưu trữ và thư viện học, môn địa
học, gia hệ học, cổ tin học, sử liệu học....Các khoa học này tuy có đối
tượng cụ thể khác nhau, nhưng tất cả đều có một nhiệm vụ giúp nhà sử
học nhận thức các nguồn sử liệu: hiểu sử liệu, xác định địa điểm và
thời gian tạo thành sử liệu (thay thế sự kiện) cũng như phê phán đánh
giá sử liệu.
Tìm hiểu một bộ môn khoa học, cũng như bất cứ một sự kiện lịch
sử nào, bao giờ cũng xem xét theo quan điểm biện chứng mà Lênin đã
nêu ra: từ đâu mà có, đã trải qua những giai đoạn phát triển nào để trở
thành như ngày nay và tương lai sẽ đi đến đâu.
Bất cứ người nghiên cứu lịch sử nào cũng phải đặt và giải quyết
những vấn đề phương pháp luận theo quan điểm của một giai cấp nhất
định. Trong ý nghĩa và mức độ nhất định, phương pháp luận là một
nhân tố quan trọng, có tính quyết định đối với sự thành công của
người nghiên cứu, học tập lịch sử, tức là đạt được chân lý khách quan
về hiểu biết một cách tương đối quá khứ.
Tuy nhiên, việc nắm vững và vận dụng các nguyên tắc phương
pháp luận phải rất sáng tạo, khắc phục những sai sót, về mặt công
thức, giáo điều, chủ quan phiến diện. Bởi vì, chúng ta đã xác định
rằng, phương pháp luận mácxít – lêninnit được xây dựng chủ yếu trên
2
cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử, song không đồng nhất phương pháp
luận lịch sử với duy vật lịch sử. Ngoài những kiến thức cơ bản về duy
vật lịch sử, phương pháp luận còn bao gồm nhiều kiến thức về logic
học, nhận thức luận… đòi hỏi sự hiểu biết sâu rộng về lịch sử. Những
vấn đề lịch sử cụ thể vừa là cơ sở để nhận thức phương pháp luận sử
học, vừa là thể hiện kết quả của việc vận dụng các nguyên tắc phương
pháp luận vào tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử.
Hơn nữa, để hiểu biết sâu rộng về lịch sử, hiểu về những vấn đề
lịch sử cụ thể, người nghiên cứu cần phải dựa trên những tư liệu lịch
sử, những nguồn lịch sử tin cậy và khoa học. Do vậy, tư liệu lịch sử là
một trong những cơ sở đánh giá mức độ thành công của công trình
nghiên cứu lịch sử. Và như vậy, tư liệu lịch sử có vai trò vô cùng quan
trọng trong công tác nghiên cứu lịch sử. Trong đó, văn bản tư liệu
cũng là một trong những tư liệu lịch sử được ghi chép lại dưới dạng
thành văn, có vai trò là nguồn cơ sở, là “vật liệu” để xây dựng nên
những công trình lịch sử có giá trị.
Với những lý do như trên, em đã chọn đề tài tiểu luận là: “Văn
bản tư liệu và sử dụng vào nghiên cứu lịch sử”.
2. Đối tượng nghiên cứu, mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Với đề tài tiểu luận như trên, tiểu luận của
em có đối tượng nghiên cứu là:
- Nghiên cứu về văn bản tư liệu
- Vận dụng văn bản tư liệu trong nghiên cứu lịch sử
Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu về văn bản tư liệu, vai trò và việc vận dụng văn bản tư
liệu trong nghiên cứu lịch sử.
3
3. Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Tìm hiểu khái niệm văn bản tư liệu
+ Phân tích vai trò của văn bản tư liệu trong nghiên cứu lịch sử
+ Sử dụng văn bản tư liệu trong nghiên cứu lịch sử
- Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành tiểu luận, em đã sử dụng các phương pháp sau:
phương pháp chung của duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các
phương pháp sưu tầm, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, phương
pháp lịch sử, phương pháp lôgíc….
4. Bố cục tiểu luận: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần danh
mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của tiểu luận được trình bày
theo 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về văn bản tư liệu
Chương 2: Sử dụng văn bản tư liệu trong nghiên cứu lịch sử
4
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VĂN BẢN TƯ LIỆU
1.1. Khái niệm về văn bản tư liệu
Việc xác định khái niệm tư liệu lịch sử nói chung và văn bản tư
liệu nói riêng là một trong những vấn đề đầu tiên và quan trọng nhất
của phương pháp luận sử học cũng như sử liệu học nó giúp ta phân
biệt các tư liệu lịch sử vì nếu lầm lẫn sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng
đồng thời giúp ta sử dụng được tất cả các nguồn tư liệu khác nhau và
làm cho nguồn tư liệu không bị bỏ sót
Khoa học lịch sử có nguồn sử liệu hết sức phong phú và đa dạng.
Tùy theo nội dung phản ánh và tính chất của sử liệu người ta thường chia
tư liệu lịch sử thành 7 nhóm: Tư liệu thành văn (văn bản tư liệu); tư liệu
vật chất; tư liệu truyền miệng dân gian; tư liệu ngôn ngữ; tư liệu dân tộc
học; tư liệu phim ảnh và tư liệu băng ghi âm.
Nguồn văn bản tư liệu: Nguồn sử liệu này chiếm khối lượng lớn
và đặc biệt quan trọng đôi khi chiếm chủ yếu trong các nguồn sử liệu.
Cung cấp cho ta những thông tin được ghi lại bằng các kí tự trên
những kênh thông tin khác nhau. Kênh thông tin gồm: giấy, sương, đá,
mai rùa, vỏ cây…
Ưu điểm của nó là cho ta một bức tranh toàn diện đầy đủ, được
soi sáng bởi quan điểm rất rõ ràng. Nhưng nhược điểm là thường chịu
tác động của các quy luật nhiều nhất. Do đó, khi sử dụng phải thận
trọng hơn.
Nguồn tư liệu vật chất: Là những sản phẩm trong quá trình hoạt
động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Tư liệu vật chất
5
cực kì phong phú và đa dạng và luôn luôn có tư liệu mới. Nó phản ánh
thời gian rất dài của lịch sử phản ánh tương đối khách quan trung thực
hơn so với nguồn sử liệu khác. Khi đã có chữ viết nhưng sử liệu vật
chất vẫn có giá trị là giá trị bổ sung về mặt nhận thức làm cho nhận
thức của chúng ta chính xác hơn đầy đủ hơn, bổ sung nguồn sử liệu
chữ viết mới, có giá trị kiểm tra các tài liệu chữ viết, đúng hay không
đúng, đúng ở mức độ nào.
Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm: Nó là nguồn sử liệu câm đặc
biệt trong lĩnh vực kinh tế chính trị, buộc người ta phải sử dụng
phương pháp liên ngành thì chúng mới phát huy tác dụng.
Nguồn tư liệu truyền miệng: Gồm tất cả các thể loại ca dao dân ca,
vè, truyện thần thoại.Ví dụ: Truyền thuyết về An Dương Vương và Mỵ
Châu - Trọng Thuỷ, về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam sơn. Đặc điểm
của truyền thuyết là sáng tạo nghệ thuật, được đặt lên trên sự kiện và
con người có thực. Và, truyền thuyết không chỉ được tạo ra trong cả
thời cổ, nó có thể được sáng tạo cả ở thời đại hiện nay.
Vè (lịch sử và thế sự) cũng chú trọng tới người thật, việc thật.
Những bài vè: Chàng Lía, bà Ba cai vàng, kinh đô thất thủ, Tán thuật,
Đề Thám, Xô viết - Nghệ tĩnh…phản ánh phần nào sự thật lịch sử chứ
không phải là những sáng tạo nghệ thuật đơn thuần.
Thần thoại: (Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Lạc Long Quân và Âu Cơ,
Quả bầu tiên…), sử thi (Đẻ đất đẻ nước, Xinh Nhã, Đam San…),
truyện cổ tích (Tấm Cám, Sự tích trầu cau…) là các thể loại của văn
học dân gian, phản ánh quan niệm của người xưa về nguồn gốc dân
tộc, về cuộc đời con người và quan hệ xã hội của họ, về tín ngưỡng
tôn giáo, về trình độ thẩm mỹ và khả năng nhận thức thế giới, nhận
thức xã hội của con người.
6
Trước đây người ta cho đây là nguồn sử liệu không đáng tin cậy nhưng
ngày nay nó vẫn còn nhiều giá trị. Nhược điểm là thiếu chính xác về không
gian thời gian và những sự kiện phản ánh trong đó. Ưu điểm là các câu
chuyện thường mang tính hợp lý nếu biết khai thác gạn đục khơi trong thì có
thể tìm thấy trong đó nhiều sử kiện có giá trị.
Nguồn sử liệu băng ghi âm: Ngày nay trong thời đại khoa học kĩ
thuật nguồn sử liệu này cũng đạng bị các nhà nghiên cứu nghi ngờ vì
dễ bị xuyên tạc làm giả vì thế độ tin cậy của nguồn sử liệu sẽ cao hơn
nếu được kết hợp với băng ghi âm ghi hình.
Như vậy, văn bản tư liệu là một trong những bộ phận của tư liệu
lịch sử. Quá trình xác định văn bản tư liệu là gì có rất nhiều quan điểm
khác nhau. Ngay trong vấn đề xác định tư liệu là gì cũng đã có nhiều ý
kiến tranh luận
Có người quá mở rộng khái niệm này nhà sử học người Nga Chikhơ-mi-rốp cho rằng tư liệu là tất cả những gì còn lại của cuộc sống đã
qua.
Quan niệm này có chỗ đúng nhưng vẫn còn có hạn chế: Đúng vì
tất cả những gì của cuộc sống đã qua đều phản ánh một phần lịch sử.
Sai vì tất cả những gì của cuộc sống đã qua nó có thể là tư liệu cũng
có thể là tài liệu; không phải tất cả những gì còn lại của cuộc sống đã
qua đều phản ánh cuộc sống con người, đều có sự tác động của bàn tay
con người, các hiện tượng tự nhiên không thể coi là tư liệu lịch sử.
Trong phương diện triết học Lapađanhiepxki định nghĩa là: Tư
liệu là khái niệm phản ánh đặc tính của hiện vật có thể được để thu
nhận tri thức của hiện vật khác
Theo phương diện xã hội: Tư liệu là một phương tiện xã hội để
bảo tồn lưu giữ, truyền bá. Rê-bans cho rằng tư liệu là tổng hợp thành
7
quả từ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương diện xã hội.
Quan niệm này đúng nhưng vẫn còn hạn chế: Đúng là các phương
diện xã hội có tác dụng lưu giữ và truyền bá.
Về khái niệm văn bản tư liệu có trường phái mở rộng có trường
phái thu hẹp. Trong Bách khoa toàn thư văn bản tư liệu là những gì
phản ánh trực tiếp quá khứ được ghi lại thành văn ( chỉ là những tư
liệu nào ra đời gần với thời gian xảy ra sự kiện ấy, gần với nơi xảy ra
sự kiện đó thì mới được gọi là văn bản tư liệu. Trước đó và sau đó
không được gọi là tư liệu ) Có mặt sai vì có những tư liệu ra đời gần
với thời gian sự kiện mà lại là tài liệu chứ không phải là tư liệu.
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm văn bản tư liệu. Song
ta có thể hiểu văn bản tư liệu là những di tích của quá khứ, xuất hiện
như sản phẩm của quan hệ xã hội nhất định, mang trong mình nó
những dấu vết của quan hệ ấy phản ánh trực tiếp và trừu tượng hóa
một mặt hoạt động nào đó của con người và được chủ thể tiếp nhận và
ghi lại bằng ngôn ngữ nhất định.
Văn bản tư liệu lịch sử là những di tích của quá khứ là sản phẩm
của hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn của con người vì vậy nó
mang dấu ấn của thời đại và lịch sử con người, nó phản ánh trực tiếp
và trừu tượng một mặt nào đó của hiện thực cuộc sống đã qua.
Văn bản tư liệu lịch sử chứa đựng các sự kiện tư liệu vì thế nó
cũng có đặc điểm riêng biệt giống như các sự kiện tư liệu. Văn bản tư
liệu lịch sử cũng là sản phẩm của hoạt động con người, nó xuất hiện
như một hiện tượng xã hội nhằm phục vụ cho mục đích nhu cầu nào đó
của xã hội đương thời và tồn tại như những dấu tích của hoàn cảnh
lịch sử cụ thể đã qua. Văn bản tư liệu lịch sử cũng giống như sự kiện
8
lịch sử vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan, vừa phản
ánh trực tiếp vừa phản ánh trừu tượng .
1.2. Vai trò của văn bản tư liệu.
Văn bản tư liệu cũng có tầm quan trọng đặc biệt như tư liệu lịch
sử. Nó là một trong những thành phần cấu tạo nên tư liệu lịch sử. Do
đó, tư liệu lịch sử nó đóng góp như thế nào cho nghiên cứu lịch sử thì
văn bản tư liệu cũng đóng góp như vậy.
Văn bản tư liệu có tầm quan trọng đặc biệt với khoa học lịch sử
nói chung và đối với các công trình nghiên cứu lịch sử cũng như việc
học tập lịch sử nói riêng.
Khoa học lịch sử tồn tại được trên cơ sở các sự kiện lịch sử mà các
sự kiện lịch sử lại là những tế bào cấu thành lịch sử mà các tế bào đó là
từ các tư liệu lịch sử. Do đó không có văn bản tư liệu lịch sử thì không
có khoa học tư liệu lịch sử. Tư liệu lịch sử tồn tại cho khoa học lịch sử
và ngược lại khoa học lịch sử không thể thiếu nó.
Sự kiện lịch sử xảy ra trong quá khứ và không lặp lại nếu có sự
lặp lại cũng chỉ lặp lại ở một trình độ khác, mức độ khác, thời gian
khác và không gian khác. Vì vậy các sự kiện lịch sử chỉ còn lại trong
các tư liệu lịch sử, các văn bản tư liệu ( không thể tìm thấy trong tự
nhiên ). Các ngành khoa học tự nhiên có thể dựng lại thí nghiệm để
xem tính chất, hiện tượng thực tế nhưng khoa học lịch sử thì không, nó
không thể dựng lại mà chỉ qua một con đường duy nhất là tư liệu lịch
sử, thông qua các văn bản tư liệu hay các tư liệu lịch sử khác để giúp
ta hình dung lại những sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ.
Nói đến nghiên cứu khoa học, việc đầu tiên là phải nói đến các tư
liệu. Vì đó là nền tảng, nguyên vật liệu để xây dựng nên công trình
khoa học. Khoa học tự nhiên, “nguyên vật liệu” ấy là kết quả các cuộc
thí nghiệm, quan sát, là kết quả thừa nhận các công trình của những
9
người đi trước. Trong nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và khoa
học lịch sử nói riêng, công tác sử liệu cuãng đi trước một bước. Muốn
phát hiện ra được bí mật của tự nhiên, xã hội hay nói rõ hơn, muốn
phát hiện được quy luật của tự nhiên và xã hội, nhà khoa học phải dựa
hoàn toàn vào tư liệu, vào thí nghiệm để nghiên cứu và kết luận. Các
công trình, các dự báo Mác, Ăngghen, Lênin đều dựa trê n những nguồn
tư liệu, tài liệu dồi dào, phong phú khổng lồ. Bởi vậy, các kết luận của
các ông đều đạt tới chân lý và trở thành kinh điển.
Vì nó quan trọng như vậy cho nên bước tìm tư liệu được xúc tiến
ngay sau khi đã xác định đề. Công tác tư liệu là một công việc khó
nhọc có khi được thực hiện ở thư viện, ở các cục lưu trữ Trung ương
Đảng, cục lưu trữ Nhà nước, ở các viện Bảo tàng, có khi nhà nghiên
cứu phải điền dã, lăn lội trên thực địa, điều tra nghiên cứu di tích lịch
sử, tiếp xúc, phỏng vấn trực tiếp các nhân chứng lịch sử còn sống để
ghi chép, chụp ảnh lại. Công tác điền dã là một công việc khó nhọc,
tốn kém, mất nhiều thời gian và công sức.
Thực tế cuộc sống luôn đặt ra những vấn đề mới cho ta nghiên
cứu nhưng vấn đề mới đó có đủ tư liệu cho ta nghiên cứu hay không
và khi có đủ tư liệu thì công trình đó như thế nào là phụ thuộc vào
quan điểm và thế giới quan của nhà nghiên cứu. Nếu quan điểm và thế
giới quan khác nhau thì đạt được kết quả nghiên cứu khác nhau, khả
năng và phương pháp nghiên cứu của các tác giả khác nhau thì dẫn tới
kết quả khác nhau. Điều đó nói lên rằng văn bản liệu lịch sử không thể
thiếu đối với khoa học lịch sử song nó hoàn toàn bị động và bị chế
biến thành các sản phẩm khác nhau.
Văn bản tư liệu lịch sử như một cầu nối nối nhà nghiên cứu với
quá khứ nói cách khác nó như một thứ nguyên vật liệu để chế tạo ra
sản phẩm – đó là các công trình nghiên cứu hay các tác phẩm nghiên
cứu lịch sử.
10
CHƯƠNG 2:
SỬ DỤNG VĂN BẢN TƯ LIỆU TRONG NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
2.1. Không nên tuyệt đối hóa vai trò của văn bản tư liệu.
Văn bản tư liệu lịch sử có vị trí vô cùng quan trọng trong việc
nghiên cứu và học tập lịch sử tuy nhiên không nên tuyệt đối hóa văn bản
tư liệu lịch sử có nghĩa là không nên coi lịch sử là những gì có trong tư
liệu nếu như vậy thì lịch sử sẽ cực kì nghèo nàn.
Ví dụ: Nếu chỉ ghi vua Nguyễn cuối đời ăn chơi sa đọa thì quá
đơn điệu. Cần nghiên cứu xem vua Nguyễn ăn chơi như thế nào? Phải
lấy được những ví dụ điển hình về cuộc sống ăn chơi truỵ lạc của vua
Nguyễn cuối đời.
Văn bản tư liệu lịch sử bao giờ cũng nghèo nàn và kém phong
phú hơn bản thân hiện tượng lịch sử, vì văn bản tư liệu lịch sử không
phải là bản thân lịch sử, nó chỉ là lăng kính phản ánh lịch sử. Vì vậy
nhà sử học không nên coi lịch sử là những gì có trong văn bản tư liệu
lịch sử. Trong khi cố gắng dựng lại toàn cảnh bức tranh quá khứ nhà
nghiên cứu lịch sử không những phải sử dụng nhiều nguồn sử liệu
khác nhau mà còn phải biết khái quát tổng hợp hóa và đôi khi phải sử
dụng cả khả năng phán đoán, tưởng tượng, tư duy logic.
Do hạn chế về quan điểm, tri thức của tác giả,văn bản tư liệu lịch
sử có khi phản ánh chính xác khách quan, có khi chủ quan xuyên tạc
sự thật vì thế ta phải nghiên cứu kĩ tư liệu, hiểu những gì nó nói tới cái
gì nó im lặng hoặc xuyên tạc và lý giải điều đó.
2.2. Phải sử dụng nhiều nguồn tư liệu nghiên cứu lịch sử.
Mỗi tư liệu điều có cách phản ánh khác nhau, có tư liệu phản ánh một
mặt có tư liệu phản ánh nhiều mặt, có tư liệu phản ánh được cái quy luật
11
cái cơ bản, cái điển hình, có tư liệu chỉ phản ánh được cái riêng cái đặc
thù. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu tư liệu nhà nghiên cứu
phải biết sử dụng nhiều nguồn tư liệu và chọn lọc tư liệu.
Nhìn chung, để phục vụ cho công trình thì tư liệu bao nhiêu cũng
chưa cho là đủ. Càng nhiều tư liệu càng đảm bảo cho công trình và các
kết luận của các tác phẩm đảm bảo giá trị khoa học cao. Các nhà khoa
học, đặc biệt là các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu
những mẫu mực và tấm gương sáng về phương pháp nghiên cứu khoa
học và sử dụng tư liệu, sưu tầm tư liệu. Những trang viết của bộ Tư
bản của Mác được bảo đảm bằng cả thư viện Xanh ở Luân đôn. Những
trang viết trong cuốn “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh của ăng ghen
được bảo đảm bằng những tư liệu thực tiễn sinh động, những con số
chứng minh cụ thể mà ông sưu tầm từ thực tiễn và báo chí hàng ngày.
Trong học tập và nghiên cứu cần sử dụng nhiều nguồn sử liệu
khác nhau nhằm bổ sung cho tư liệu chính xác hơn đầy đủ hơn. Có
những giai đoạn lịch sử chưa có chữ viết thì phải sử dụng nguồn sử
liệu truyền miệng dân gian, tư liệu vật chất cho có giá trị kiểm tra các
tài liệu chữ viết xem đã chính xác đầy đủ chưa, đúng hay không đúng
ở mức độ nào… Chính vì vậy việc sử dụng nhiều nguồn tư liệu khác
nhau trong nghiên cứu là rất quan trọng.
2.3. Phải chọn lọc tư liệu.
Mỗi văn bản tư liệu điều có cách phản ánh khác nhau, có tư liệu
phản ánh một mặt có tư liệu phản ánh nhiều mặt, có tư liệu phản ánh
được cái quy luật cái cơ bản, cái điển hình, có tư liệu chỉ phản ánh
được cái riêng cái đặc thù. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu
tư liệu nhà nghiên cứu phải biết chọn lọc tư liệu.
12
Trong khi chọn lọc tư liệu cần phải phân loại thành nhiều loại tư
liệu, tư liệu chính thức, tư liệu gốc và tư liệu không chính thức, tư liệu
gián tiếp cần phải tiếp thu một cách có chọn lọc và phê phán. Lại phải
phân ra thành tài liệu có văn bản và nguồn tài liệu do sưu tầm, do điền
dã thực tế mà thu thập được. Loại tài liệu điền dã nhìn chung phải rự
tác giả chọn lọc, thẩm tra phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về độ tin
cậy chính xác.
2.4. Phải biết xác minh và phê phán văn bản tư liệu.
Văn bản tư liệu được hiểu theo nghĩa rộng là những sử liệu cho ta
những thông tin về các sự kiện đã xảy ra được ghi lại bằng chữ viết qua
các kênh thông tin. Nguồn tư liệu này chiếm khối lượng lớn và đặc biệt
quan trọng, đôi khi chiếm địa vị chủ yếu trong nguồn sử liệu. Với khối
lượng lớn và hết sức đa dạng như vậy, nên đã có nhà nghiên cứu thử
phân loại tư liệu này thành những nhóm tư liệu khác nhau: có loại mang
tính chất văn học như: sử ký, sử biên niên, hồi ký…; có loại mang tính
chất khế ước như văn tự, luật pháp..
Mọi sự phân loại chỉ mang tính chất tương đối vì nguồn sử liệu
này viết ra không hoàn toàn theo những khuôn khổ nhất định cho mọi
thời kỳ lịch sử. Dù có nhiều cách phân loại khác nhau, nhưng nhìn một
cách tổng thể thì tư liệu văn bản cũng có nhiều ưu điểm nổi bật là
chúng phản ảnh tương đối toàn diện và chi tiết các sự kiện, nhất là về
đời sống chính trị, xã hội.
Mặt khác nguồn sử liệu này cũng bị chi phối bởi những quy luật
hình thành và phản ánh tư liệu lịch sử. Vì vậy, việc tiến hành xác minh
và phê phán văn bản tư liệu là điều đặc biệt quan trọng, nhằm xác định
rõ những sự kiện mà văn bản tư liệu nêu ra, từ đó có sự chọn lọc và xử
lý tư liệu để sử dụng trong quá trình nghiên cứu - tạo ra thành công
của quá trình nghiên cứu lịch sử.
13
C. KẾT LUẬN
Văn bản tư liệu được hiểu theo nghĩa rộng là những sử liệu cho ta
những thông tin về các sự kiện đã xảy ra được ghi lại bằng chữ viết
qua các kênh thông tin. Nguồn tư liệu này chiếm khối lượng lớn và đặc
biệt quan trọng, đôi khi chiếm địa vị chủ yếu trong nguồn sử liệu.
Với đề tài tiểu luận là “Vấn đề văn bản tư liệu và áp dụng vào nghiên
cứu lịch sử”, nội dung tiểu luận của em được kết cấu theo 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về văn bản tư liệu
Chương 2: Vận dụng văn bản tư liệu trong nghiên cứu lịch sử.
Nội dung chương 1 là làm rõ khái niệm về văn bản tư liệu và vai
trò của nó trong nghiên cứu lịch sử. Trên cơ sở hiểu rõ văn bản tư liệu,
phân tích những vai trò của văn bản tư liệu, em đã nêu lên một số
những vận dụng cơ bản văn bản tư liệu trong nghiên cứu lịch sử. Và
đó cũng chính là nội dung chương 2 đề cập đến.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành tiểu luận với sự hướng dẫn của
thầy cô giáo, nhưng do thời gian và trình độ còn hạn chế nên tiểu luận
của em chắc chắn còn có nhiều thiếu xót, kính mong thầy cô giáo đóng
góp ý kiến để tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân
thành cảm ơn!
14
15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Vũ Cao Đàm : Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Nxb. KHKT
Hà Nội; 1996
2.
Phan Ngọc Liên – Trương Hữu Quýnh: Giáo trình Phương
pháp luận sử học, Nxb Đại học sư phạm, 2001.
3.
“Mấy vấn đề về phương pháp luận sử học”: Uỷ ban Khoa học
xã hội - Viện sử học; Nxb Khoa học xã hội; 1970.
4.
Hà Văn Tấn: “Một số vấn đề lí luận sử học”. Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội; 2007
5.
J. Topolski: “Phương pháp luận sử học”; Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội; 1978
6.
Văn Tạo: Phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Nxb. KHXH
Hà Nội; 1995
7.
PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc: Đề cương bài giảng Phương pháp
luận sử học; Hà Nội, 2001.
16
Môc lôc
Trang
17