Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

HỘI NHẬP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ VÀ CÁC RỦI RO TIỀM ẨN ĐẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.4 KB, 7 trang )

HỘI NHẬP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ VÀ CÁC RỦI RO TIỀM ẨN ĐẾN
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM. MỘT VÀI KHUYẾN NGHỊ
Phạm Tiến Đạt
Nguyễn Thanh Chinh
Thị trường tài chính giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình huy động
và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự phát triển của thị
trường tài chính là một yếu tố đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong
những xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Thế giới ngày nay đang
diễn ra quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ. Quá trình này thể hiện không
chỉ trong lĩnh vực thương mại mà cả trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính,
đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường với các hình thức đa
dạng và mức độ khác nhau. Hội nhập tài chính quốc tế mang đến nhiều cơ hội
nhưng cũng có nhiều thách thức đối với thị trường tài chính Việt Nam.
Bài viết tập trung trình bày thực trạng thị trường tài chính Việt Nam và các
rủi ro đối với thị trường tài chính Việt Nam trong quá trình hội nhập tài chính quốc
tế. Từ đó nêu một số khuyến nghị để phát triển lành mạnh thị trường tài chính.
1. Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam hiện nay.

Trong những năm gần đây, thị trường tài chính đã phát triển mạnh mẽ về cả
chiều rộng lẫn chiều sâu, đặc biệt là các thị trường như hệ thống ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính, thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu,
thị trường bảo hiểm.
-

Hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính.

Hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính giữ vai trò quan
trọng của thị trường tài chính Việt Nam, vì đây là thị trường cung cấp vốn chủ yếu
cho các doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng tín dụng ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ


tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, nước ta đang có 01 NHTM Nhà nước (Agribank), 04
ngân hàng TMCP Nhà nước chiếm cổ phần chi phối (Vietcombank, Vietinbank,
BIDV, MBB); 34 ngân hàng TMCP; 01 Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương (TDND),
968 Quỹ TDND cơ sở, 2 TCTC vi mô; 04 ngân hàng liên doanh; 50 chi nhánh ngân
hàng nước ngoài; 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài; 49 văn phòng đại diện của
các ngân hàng nước ngoài; 18 công ty tài chính và 12 công ty cho thuê tài chính.
Tính đến cuối quý I năm 2016, tổng tài sản của toàn hệ thống các TCTD đạt hơn 7,5


triệu tỷ đồng, tăng 2,53% so với cuối năm 2015; Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
quý I năm 2016 tăng 3% so với dư nợ tại thời điểm cuối năm 2015.
Về lãi suất, tính đến cuối tháng 2/2016, lãi suất cho vay của các TCTD hiện
phổ biến ở mức khoảng 6-9%/năm đối với kỳ hạn ngắn; 9-11%/năm đối với trung,
dài hạn; giảm khoảng 0,2-0,5%/năm so với đầu năm 2015, trong đó lãi suất cho
vay trung dài hạn giảm 0,3- 0,5%/năm, bằng 50% mặt bằng cuối năm 2011 và
thấp hơn giai đoạn 2005- 2006 là giai đoạn kinh tế tăng trưởng ổn định, qua đó
tiếp tục hỗ trợ tích cực cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên sang năm 2016, trong
bối cảnh thị trường tài chính quốc tế có nhiều biến động theo hướng không thuận
lợi, áp lực huy động vốn trái phiếu chính phủ tiếp tục tăng cao và nhu cầu tín dụng
trung dài hạn gia tăng thì áp lực lên mặt bằng lãi suất là rất lớn.
Về điều hành tỷ giá và giá vàng, sau khi bắt đầu áp dụng cách thức điều hành
tỷ giá mới, tỷ giá giao dịch trên thị trường giảm nhanh, thấp xa so với mặt bằng tỷ
giá cuối năm 2015, tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ giảm mạnh, thanh khoản
của thị trường tốt. Quan trọng hơn, diễn biến tích cực này của thị trường ngoại hối
trong nước diễn ra trong bối cảnh thị trường tài chính thế giới có nhiều biến động
mạnh theo chiều hướng bất lợi. Từ ngày 4-7/1/2016, đồng Nhân dân tệ liên tục
mất giá lên tới xấp xỉ 1,1%. Đồng thời, chỉ trong vòng 1 tuần đầu năm mới, thị
trường chứng khoán Trung Quốc đã hai ngày (4/1 và 7/1) phải ngừng giao dịch do
lao dốc trên 7%, kéo theo sự sụt giảm trên một loạt các thị trường chứng khoán
lớn, giá dầu phiên ngày 7/1 chạm mức đáy (32.16 USD/thùng) trong hơn một thập

kỷ qua. Đồng tiền nhiều nước châu Á giảm giá mạnh: đồng Won Hàn Quốc giảm giá
2,8%, Đô la Singapore giảm 1,6%, Đô la Đài Loan giảm 0,97%. Việc thị trường
ngoại tệ diễn biến ổn định trong bối cảnh thị trường thế giới có nhiều biến động
mạnh là một xu hướng trái ngược hẳn so với những tháng cuối năm 2015. Diễn
biến này cho thấy điểm thành công nhất trong cách thức điều hành tỷ giá mới đã
giúp thị trường ngoại tệ hấp thu tốt hơn các cú sốc bên ngoài, giảm thiểu tác động
bất lợi tới tỷ giá. Mặt khác, cách thức điều hành tỷ giá mới cũng làm giảm động cơ
đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, khuyến khích tổ chức và cá nhân bán ngoại tệ ra lấy VND
để hưởng lợi tức lớn hơn, giải phóng lượng ngoại tệ được đầu cơ, găm giữ trong
thời gian qua.
-

Thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán chỉ mới hình thành và phát triển trong hơn một
thập kỷ nhưng đã xây dựng được khuôn khổ pháp lý, cơ cấu và quy mô thị trường
khá đầy đủ, phù hợp với các thông lệ quốc tế. Về khuôn khổ pháp lý, thị trường
chứng khoán được điều chỉnh bởi Luật Chứng khoán năm 2006; Luật sửa đổi, bổ
sung Luật Chứng khoán năm 2010; Nghị định số 58/2012/NĐ-CP và các thông tư
hướng dẫn đối với các vấn đề của thị trường chứng khoán như niêm yết, giao dịch,
công ty chứng khoán, quản lý quỹ, công bố thông tin, hoạt động của nhà đầu tư
nước ngoài. Về quy mô, cơ cấu thị trường, thị trường chứng khoán hiện có 02 sàn
giao dịch chứng khoán với 662 công ty niêm yết, 89 công ty chứng khoán còn hoạt


động môi giới, 41 công ty quản lý quỹ và 21 quỹ đầu tư chứng khoán (trong đó có
11 quỹ mở, 8 quỹ thành viên, 20 văn phòng đại diện).
Mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, song thị
trường chứng khoán Việt Nam vẫn đạt được những kết quả khả quan. Theo thống
kê từ Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh(HOSE), trong Quý I/2016 chỉ số VN

index đã giảm 13,19 điểm so với quý trước (Quý IV/2015). Mặc dù giảm điểm nhẹ
nhưng thị trường lại có những tín hiệu tích cực về khối lượng giao dịch cũng như
giá trị giao dịch. Mức vốn hóa thị trường chứng khoán đạt khoảng 1.325 nghìn tỷ
đồng, tương đương 34% GDP năm 2015. Về hoạt động huy động vốn, tổng giá trị
huy động vốn 11 tháng đạt hơn 204 nghìn tỷ đồng, giảm 9% so với cùng kỳ năm
2014. Đăng ký giao dịch mới cho 72 công ty trên UPCoM (gấp 2 lần so với năm
2014) nâng tổng số mã cổ phiếu giao dịch lên 243 mã, với tổng giá trị 47.574 tỷ
đồng, tăng 97% so với năm 2014. Số lượng tài khoản nhà đầu tư đạt khoảng 1,5
triệu tài khoản, tăng 7% so với cuối năm ngoái. Giá trị danh mục tính đến cuối
tháng 10 đạt 15,15 tỷ USD, tăng 12,5% so với cuối năm ngoái.
-

Thị trường bảo hiểm

Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường 2 tháng đầu năm 2016 ước
đạt 11.529,45 tỷ đồng, tăng 27,42% so với cùng kỳ năm 2015, trong đó doanh thu
phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 5.959 tỷ đồng, tăng 19,49% so với cùng kỳ năm
2015 và doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt 5.570,45 tỷ đồng tăng 37,15% so
với cùng kỳ năm 2015. Số lượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có hiệu lực (hợp đồng
chính) đạt 5.148.659 hợp đồng, tăng 2,32% so với cùng kỳ năm 2015. Tổng doanh
thu phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt 5.570,45 tỷ đồng tăng 37,15% so với cùng kỳ
năm 2015. Tính doanh thu phí theo từng nghiệp vụ thì nghiệp vụ bảo hiểm hỗn hợp
vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn cả với 46,7%, tiếp theo là nghiệp vụ bảo hiểm liên kết
đầu tư 42,04%. Thị phần tổng doanh thu phí bảo hiểm cụ thể như sau: Bảo Việt
nhân thọ 27,7%, Prudential 24,4%, Manulife 11,2%, AIA 10,8%, Dai-ichi 8,2%, PVI
Sunlife 7,3%, ACE 3,6%, Generali 2,3%, Hanwha 1,9%, các doanh nghiệp còn lại
chiếm thị phần nhỏ dưới 1%.
Có thể thấy, Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ vị trí quan trọng của thị
trường tài chính trong quá trình đổi mới và hội nhập, nên đã chú trọng đặc biệt đến
việc phát triển một cách đầy đủ, toàn diện thị trường này. Mục tiêu bao trùm cho

những năm tới là tiếp tục hướng tới hoàn chỉnh về cấu trúc vận hành theo các
thông lệ quốc tế, có khả năng liên kết với các thị trường khu vực và quốc tế; phấn
đấu đưa thị trường tài chính trở thành kênh huy động và dẫn vốn hiệu quả cho nền
kinh tế. Sau gần 30 năm nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) năm 2007, đến nay, các bộ phận của thị trường tài chính Việt


Nam cơ bản được hình thành. Hệ thống các định chế tài chính đã phát triển cả về số
lượng và chất lượng.
Khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển của thị trường tài chính ngày càng
được hoàn thiện trên cơ sở tiếp cận gần với thông lệ quốc tế. Quản lý nhà nước đối
với thị trường tài chính được thể chế hóa từng bước; các cơ quan quản lý nhà nước
đối với hoạt động của thị trường tài chính có sự phối hợp trong kiểm tra, giám
sát…Cụ thể, thị trường tài chính Việt Nam đã được thiết lập tương đối đầy đủ các
chuyên ngành dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm
toán và tư vấn tài chính. Hình thành được một hệ thống khuôn khổ pháp lý cần
thiết cho sự vận hành của thị trường, từng bước đa dạng hóa các sản phẩm và
không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ. Công tác quản lý nhà nước đối với thị
trường tài chính ngày càng được hoàn thiện. Song song với hoàn thiện thể chế về
thị trường tiền tệ, việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách về
thị trường chứng khoán cũng được đẩy mạnh. Cùng với sự phát triển của thị
trường tài chính, số lượng các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường (công ty
chứng khoán, công ty quản lý quỹ…) gia tăng; thị trường trái phiếu có những tín
hiệu tích cực; thị trường bảo hiểm phát triển cả về quy mô và phạm vi hoạt động,
các loại sản phẩm bảo hiểm được phát triển đa dạng, phong phú với các sản phẩm
bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ.
2. Các rủi ro đối với hệ thống tài chính trong quá trình hội nhập quốc tế.

Bên cạnh những điểm đã đạt được, việc hội nhập tài chính quốc tế cũng tạo

ra rủi ro đến hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Thứ nhất, với việc Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương TPP sẽ có nhiều Tập đoàn, Ngân hàng lớn của 11 Quốc gia trong
khối TPP có dịch vụ tài chính ngân hàng phát triển nhất thế giới như Mỹ, Nhật Bản
sẽ tham gia thị trường. Nếu các tổ chức không có chiến lược kinh doanh hợp lý, các
tổ chức này sẽ phải đối ặt với sự cạnh tranh gay gắt, không cân sức. Đối với các
nước đang phát triển như Việt Nam, việc dần xóa bỏ các điều kiện thị trường lại rở
thành thách thức do hệ thống ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế, việc tiếp cận dịch
vụ ngân hàng tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn rất thấp so với các nước trong
khu vực và thế giới. Điều này làm tăng cơ hội cho các ngân hàng nước ngoài tại thị
trường Việt Nam. Các ngân hàng nước ngoài với uy tín và thương hiệu lớn trên thị
trường sẽ có khả năng thu hút khách hàng hơn so với các ngân hàng trong nước.
Cùng với các dịch vụ chất lượng cũng như công nghệ tiên tiến hơn so với Việt Nam,
các ngân hàng trong nước sẽ khó cạnh tranh được.
Thứ hai, việc hội nhập quốc tế cũng tạo ra nhiều bất ổn tiềm tàng đối với
Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam sẽ phải phụ thuộc nhiều hơn vào vốn ngoại. Với tỷ
lệ nợ nước ngoài ngày một tăng lên, cộng với tầm quan trọng của tỷ trọng FDI trên
cán cân thanh toán và sự mở cửa hơn nữa của thị trường chứng khoán Việt Nam,
chúng ta đang ngày càng phụ thuộc vào vốn ngoại. Trong bối cảnh đó, khi thị
trường tài chính toàn cầu gặp những cú sốc lớn khiến dòng vốn quốc tế biến động
mạnh, nền kinh tế Việt Nam sẽ càng dễ tổn thương. Một cú sốc khiến vốn ngoại


ngưng vào hoặc chảy ra sẽ tác động khó lường tới sức ép phá giá ngoại tệ và sự ổn
định của hệ thống tài chính. Sức ép bị thâu tóm và chi phối có thể tăng mạnh đối với
lĩnh vực ngân hàng.
Nguy cơ không cạnh tranh được, mất thị trường vào tay các ngân hàng nước
ngoài, điều đó sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy trong hoạt động quản lý nhà nước đối với thị
trường. Đó là hiện tượng chuyển giá sẽ ngày càng gia tăng và khó có thể quản lý vì
các ngân hàng nước ngoài thường đi theo các doanh nghiệp nước họ khi đầu tư ra

nước ngoài. Sẽ rất khó khăn cho Việt Nam trong đối phó các vấn đề tiêu cực của
đầu tư trực tiếp nước ngoài như chuyển giá, bất ổn về an ninh tiền tệ, gây thất thu
cho ngân sách nhà nước.
Thứ ba, sự gia tăng dòng vốn, nhất là từ nước ngoài vào cũng làm gia tăng
nguy cơ về bong bóng tài sản và sự rút vốn đột ngột có thể sẽ gây mất ổn định cho
quốc gia nhận vốn. Tuy nhiên, việc hội nhập quốc tế cũng tạo điều kiện cho các dòng
vốn luân chuyển gián tiếp giữa các quốc gia với nhau.
Thứ tư, hiện tại vấn đề quản trị rủi ro tại các ngân hàng Việt Nam còn nhiều
bất cập và nợ xấu của hệ thống ngân hàng có xu hướng gia tăng. Một số ngân hàng
có năng lực quản lý yếu kém, vi phạm các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp và
quản trị rủi ro sẽ phải đối mặt với các nguy cơ lớn hơn nếu như không có các
phương pháp quản trị phù hợp.
3. Một số khuyến nghị

Việc thực thi các cam kết theo TPP trong thời gian tới là cơ hội đối với Việt
Nam nói chung và ngành dịch vụ tài chính nói riêng, nếu tận dụng được các lợi thế
do TPP mang lại. Song, đó cũng có thể trở thành những thách thức lớn nếu không
tận dụng hiệu quả, nhất là sau khi gia nhập WTO và các FTA đang thực hiện đã thể
hiện rõ những thua thiệt của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, cụ thể như thị trường
trong nước rơi vào tay các doanh nghiệp nước ngoài, tăng trưởng GDP chủ yếu do
các doanh nghiệp FDI, hiện tượng chuyển giá và gian lận thương mại diễn ra phổ
biến gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Ngành dịch vụ tài chính, huyết mạch của
nền kinh tế cần phải cẩn trọng, có sự chuẩn bị nguồn lực nhằm tận dụng cơ hội và
ngăn ngừa những rủi ro trong thời gian tới. Nhằm ngăn chặn rủi ro và phát triển
lành mạnh thị trường tài chính trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế, trong thời
gian tới cần tập trung vào một số giải pháp để phát triển thị trường tài chính, cụ
thể như sau:
Đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính:
- Thứ nhất là đổi mới và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý về hoạt động
ngân hàng. Cụ thể, ban hành chuẩn mực an toàn vốn phù hợp với Basel II; sửa đổi,

bổ sung quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập; hoàn thiện các văn bản
hướng dẫn Luật Bảo hiểm tiền gửi và Luật Phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố;


hoàn thiện các quy định về cấp phép thành lập tổ chức tín dụng; sửa đổi, bổ sung hệ
thống kế toán của các tổ chức tín dụng phù hợp hơn với chuẩn mực kế toán quốc tế;
đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt.
- Thứ hai là tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả thanh tra, giám sát ngân hàng
thông qua việc hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Cơ quan Thanh tra,
giám sát ngân hàng; phát triển hệ thống giám sát theo tiêu chuẩn CAMELS - hệ
thống đánh giá tình trạng vững mạnh của các tổ chức tài chính và cảnh báo sớm
trong hoạt động ngân hàng.
- Thứ ba là tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng sáp nhập, hợp nhất, mua lại
thông qua tìm kiếm, giới thiệu đối tác, cung cấp thông tin cho các tổ chức tín dụng
có nhu cầu tham gia, hỗ trợ về kỹ thuật, pháp lý và thủ tục.
- Thứ tư là điều hành chủ động, linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền
tệ, tỷ giá, lãi suất theo nguyên tắc thị trường để bảo đảm an toàn hệ thống ngân
hàng; giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế, đồng thời góp phần kiểm soát lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững;
- Thứ năm là tiếp tục hiện đại hóa và phát triển đồng bộ hệ thống công nghệ ngân
hàng. Đặc biệt, hệ thống thông tin quản lý của Ngân hàng Nhà nước và hệ thống
thanh toán ngân hàng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các hệ thống thanh
toán trọng yếu của Ngân hàng thanh toán quốc tế.
Đối với thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua đã có những chuyển
biến khả quan, nhờ vào những tín hiệu ổn định kinh tế vĩ mô và các giải pháp tích
cực trong lĩnh vực chứng khoán. Để đẩy mạnh hơn nữa, thời gian tới cần tiếp tục
triển khai các giải pháp sau:
- Thứ nhất, rà soát, đánh giá hệ thống văn bản pháp luật nhằm đẩy nhanh tiến
trình tái cấu trúc và phát triển thị trường chứng khoán, tiếp tục hoàn thiện các đề

án như đề án thị trường chứng khoán phái sinh; nghị định về thị trường chứng
khoán phái sinh; đề án thành lập Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam và quyết định
về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt
Nam.
- Thứ hai, thực hiện tái cấu trúc cơ sở hàng hóa, nâng cao chất lượng doanh nghiệp
niêm yết, tăng cường tính minh bạch trên thị trường chứng khoán, đẩy nhanh cổ
phần hóa, đấu giá cổ phần các doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo hàng hóa có chất
lượng cao cho thị trường.
- Thứ ba, thực hiện tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư và tái cấu trúc các tổ chức kinh
doanh chứng khoán. Trên cơ sở phân loại và nâng cao chất lượng dịch vụ chứng
khoán, nâng cao năng lực tài chính, quản trị công ty, quản trị rủi ro, cho phép nhà
đầu tư nước ngoài sở hữu các tổ chức kinh doanh theo các cam kết của Tổ chức
Thương mại thế giới, khuyến khích các tổ chức tài chính quốc tế có uy tín tham gia;


- Thứ tư, tiếp tục tái cấu trúc tổ chức quản lý thị trường, xây dựng và hoàn thiện đề
án, quyết định về tổ chức và hoạt động của Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam
trên nguyên tắc thống nhất về chức năng như bộ máy quản lý và quản trị hoạt
động; củng cố mô hình hoạt động độc lập của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt
Nam theo hướng bổ sung chức năng đối tác thanh toán trung tâm.
Đối với thị trường bảo hiểm:
Trong những năm gần đây, thị trường bảo hiểm được định hướng phát triển
an toàn, hiệu quả và bền vững; tiếp cận các chuẩn mực quốc tế; nâng cao khả năng
đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cho các lĩnh vực kinh tế và dân cư; góp phần ổn định nền
kinh tế - xã hội. Theo đó, giải pháp áp dụng nhằm phát triển thị trường bảo hiểm
trong thời gian tới cụ thể gồm:
- Thứ nhất, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho
sự phát triển của thị trường bảo hiểm; bổ sung các quy định về bảo hiểm bảo lãnh;
ban hành tiêu chí đánh giá, xếp loại doanh nghiệp bảo hiểm; ban hành quy định
triển khai bảo hiể nhân thọ qua ngân hàng; sửa đổi, bổ sung chế độ bảo hiểm bắt

buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; phê duyệt các quy chế quản lý, sử dụng
Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm; nghiên cứu xây dựng chính sách phát triển bảo
hiểm nhân thọ dành cho người có thu nhập thấp.
- Thứ hai, tiếp tục thực hiện các giải pháp tái cấu trúc doanh nghiệp bảo hiểm theo
đúng lộ trình; tăng cường công tác quản lý, giám sát, đảm bảo mức độ an toàn vốn
của các doanh nghiệp bảo hiểm phù hợp với quy mô hoạt động, cơ cấu đầu tư và
khả năng thanh toán theo quy định của pháp luật; tổ chức kiểm tra hoạt động chi
trả, giải quyết quyền lợi cho khách hàng của các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Thứ ba, mở rộng, phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm, đồng
thời, triển khai thí điểm bảo hiểm hưu trí tự nguyện. Đặc biệt là tăng cường hợp
tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm, khắc phục tình trạng trục lợi bảo hiểm và
cạnh tranh không lành mạnh; củng cố bộ máy tổ chức, nâng cao vai trò và hiệu quả
hoạt động của Hiệp hội bảo hiểm...

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

/> /> /> />


×