Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

10 vạn câu hỏi vì SAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 179 trang )

10 vạn câu hỏi vì sao? Đảo Sip thuộc châu Á
hay châu Âu?
- Thuộc châu Á. Hòn đảo ở Địa Trung Hải này bị Thổ Nhĩ Kỳ và Hy lạp chiếm đóng mỗi bên một
nửa (9250 km2 , 735000 dân)
•Lục địa nào được phát hiện gần đây nhất?
-Châu Úc. Người Anh đã tìm ra châu lục này thế kỷ thứ 17. Người Úc chủ yếu gốc Anh, họ sống ở
những vùng ven biển trù phú còn sâu trong đất liền phẩn lớn là sa mạc.
• Quốc gia nào nhỏ nhất thế giới về diện tích?
- Toà thánh Vaticanđược thành lập năm 1929 chỉ rộng 0,44 km2 và có khoảng 1000 dân, nằm giữa thủ
đô Roma của Italia.
•Thành phố châu Âu nào được gọi là thành phố vĩnh cửu?
-Thành phố Roma, thủ đô Italia, được xây dựng từ 750 tr. CN (còn gọi là La mã). Từ một thành phố
nhỏ bé nó đã trở thành một vương quốc La mã khổng lồ chiểm miền bắc Phi, xung quanh Địa Trung
Hải, và Nam Âu làm thuộc địa.
•Vĩ tuyến 38 chia bán đảo nào làm đôi và cho biết tên của hai quốc gia hình thành?
-Nó chia bán đảo Triều tiên năm 1945 thành Bắc Triều tiên và Hàn quốc.
•Đảo Korsika(Cooc) thuộc nước nào?
-Thuộc Pháp, đây là quê hương của Napoleon, người hùng ngự trị châu Âu thế kỷ 18.
• Cảng nào lớn nhất Đông Á?
-Cảng Thượng hải của Trung quốc.
•Hồ nội địa nào sâu nhất thế giới?
-Hồ Bai can, hồ nước ngọt của Nga gẩn biên giới Mông cổ, sâu 1700 m.
•Bạn hãy cho biết tên của ba đại dương!
Thái bình dương (180 triệu km2, Đại tây dương (106 triệu km2) Ấn độ dương (75 triệu km2)
•Đảo St. Helenanằm ở đâu?
-Nằm giữa Đại tây dương , khoảng 3000 kmcách bờ biển phía tây của Angola. Napoleon bị đẩy và
chết ở đây.
• Người ta gọi vùng rừng vành đai Siberi là gì?
' Rừng Taiga. Thực vật ở đây chủ yếu là cây lá kim. Rừng này có kích thước rất lớn 4800km X 1000
km.
•Thành phố Venedigcủa Ý gồm bao nhiêu đảo?


-118 đảo. Đó là một thành phố đặc biệt vì đường phố là kênh rạch sông ngòi , phương tiện giao thông
là tàu thuyền chứ không phải ô tô.
•Năm 79 tr. CN thảm ho ạ núi lửa và động đất đã phá hu ỷ hoàn toàn hai thành phố La mã. Tên
hai thành phố ấy là gì?
'''- Pompeji và Herculaneum.
'• Tại sao người ta gọi dân da đỏ là Indianer?
- Columbusdẫn chiến thuyền đến Ấn độ để tìm châu báu, nhưng ông đã tìm ra một châu lục khác mà
không biết. Ông vẫn đinh ninh đó là Ấn độ nên ông gọi thổ dân ở đó là Indianer (người Ấn).
•Tên của thành phố Köln thời La mã là gì?
-Colonia Agippina. Hồi đó Köln và Bonnbây giờ là thuộc địa của La mã. Năm 9 sau CN người
Germanenđại thắng quân La mã và Kölnđược giải phóng từ đấy.
•Hãy kể tên 4 nước lớn nhất về diện tích!
-Liên bang Nga, Trung quốc, Canada, Brazil.


Babylon nằm ở đâu?
Bên bờ sông Euphratphía nam thành phố Batđa (Irak). Babyloncó một thời văn minh vào loại bậc nhất
thế giới , song song với các nền văn minh Ai cập cổ đại.
• Chim cánh cụt (Pinguin) sống ở đâu?
-Ở châu Nam cực, còn ở Bắc cực có gấu trắng.
•Brazilnói tiếng gì?
-Họ nói tiếng Bồ đào nha. Phẩn lớn các nước khác ở Nam Mỹ nói tiếng Tây ban nha.
•Nước nào nằm giữa Pháp và Tây ban nha?
-Nước Andora (DT: 453 km2, 65000 dân)
• Sông nào dài nhất châu Âu?
- Sông Volga của Nga, dài 3700 km, đổ ra biển Kaspie.
• Thành phố Istabul trước kia có tên là gì?
- Konstantinopel và Byzanz thời còn là thuộc địa của La mã. Thành phố này cũng là thủ đô của vương
quốc Đông La mã. La mã hồi đó quá rộng lớn nên phải chi thành đông và tây La mã để chiến đấu
chống quân Nguyên từ Mông cổ sang và quân Germanentừ phương bắc xuống.

•Khi mới thành lập, thành phố NewYork của Mỹ có tên là gì?
- New Amsterdam.Lúc đẩu người Hà lan chiếm và đặt tên theo thủ đô của mẫu quốc. Sau này bị quân
Anh chiếm lại và đổi thành New York.
•Đỉnh núi cao nhất dãy An pơ tên là gì?
-Đó là đỉnh MontBlanc, cao 4007 m , nằm giữa biên giới Pháp và Ý.
•Đỉnh núi cao nhất thế giới tên là gì?
- Everest (Nepal) cao 8840 m trên dãy Himalaya. Người ta gọi vùng này là nóc nhà thế giới.
•Kinh tuyến gốc (kinh tuyến số 0) đi qua Greenwich. Địa danh này nằm ở đâu? 'Nó là một quận
của thủ đô Luân đôn.
•Nước nào có nhiều núi lửa nhất thế giới?
-Nước Ai xơ len (Island) giữa Đại tây dương. Phẩn lớn những ngọn núi là núi lửa. Ngoài ra ở đây còn
có những mạch nước nóng phun lên từ lòng đất (Geysir). Người ta tận dụng nguồn nhiệt tự nhiên này
để trông rau và sưởi ấm.
•Trước năm 1868, thủ đô Nhật tên là gì?
- Kyoto, từ 1868 chuyển về Tokyo.
•Biển nào mặn nhất thế giới?
-Biển Hồng hải (Rotes Meer) với hàm lượng muối 4%. Đặc biệt biển chết (Totes Meer) mặn gấp 10
lẩn nước ở Địa Trung Hải nên không sinh vật nào sống nổi (biển chết). Người không biết bơi vẫn nổi
trên mặt nước. Người ta dùng bùn ướp muối hàng tỷ năm về trước để đắp lên cơ thể, chữa được một
số bệnh.
• Châu lục nào nhỏ nhất thế giới?
-Châu Úc (9 triệu km2), châu Âu nhỏ thứ hai (10 triệu km2)
• Tỷ lệ đất liền chiếm bao nhiêu phần trăm bề mặt trái đất?
-Đất 30%, biển 70%
•Tên của con sông dài nhất thế giới là gì?
- Sông Nilở châu Phi, dài 6600 km, bắt nguồn từ Trung phi và đổ ra Địa trung hải. Con
sống này là món quà của thiên nhiên tặng cho Ai cập.
• Cho biết tên sa mạc lớn nhất thế giới!
'Sa mạc Sahara ở miền bắc châu Phi (chiếm 174 diện tích châu Phi). Cứ khoảng 50 năm, sa mạc này



lại tiến chừng 200 kmxuống phía nam.
•Bán đảo nào lớn nhất thế giới?
-Bán đảo A rập. Trên bán đảo này có các nước A rập xê út, Jemen, Oman, CH A rập thống nhất, Cô
oét)
•Đường xích đạo dài bao nhiêu?
-Đường xích đạo dài khoảng 40.000 kmchia trái đất thành bắc bán cẩu và nam bán cẩu.
•Băng đảo có diện tích bao nhiêu?
-2175600 km2. Đảo này thuộc Đan mạch, quanh năm tuyết phủ. Nơi đây xuất hiện núi băng, trượt
xuống biển gây nguy hiểm cho tàu thuyền (Titanic là một ví dụ)
•Thành phố nào nằm giữa hai lục địa?
-Thành phố Istanbulcủa Thổ nhĩ kỳ nằm giữa châu Á và châu Âu. Hai lục địa được nối với nhau bằng
những chiếc cẩu qua eo biển chỉ rộng khoảng 150m.
• Sông nào có lượng nước nhiều nhất thế giới?
- Sông Amazonasở Nam Mỹ, nó cũng là con sông rộng nhất thế giới, có những chỗ đến 300 km.
•Sri Lankatrước kia có tên là gì?
- Ceylon. Đó là một đảo ở vịnh Băng ga len (Ấn độ dương).
•Mũi cực nam của Argentina tên là gì?
-Đất lửa. Người ta gọi nơi này là tận cùng của thế giới. Phía đông là quẩn đảo Falkland (Anh) nơi xảy
ra chiến sự tranh chấp 1982 giữa Anh và Argentina. Trên đảo có 2000 dân, bà Thủ tướng Anh
Thatcher đã gửi 5000 thuỷ quân lục chiến để lấy lại đảo.
• Sa mạc Victorianằm ở đâu?
-Nằm ở miền nam nước Úc.
•Washington nằm bên bở sông nào?
'- Sông Potomac
• Quảng trường Wenzelnằm ở thành phố nào?
'Thành phố Praha của Tiệp khắc. Đây là quảng trường biểu tượng của thủ đô.
•Thành phố nào có Cung điện mùa đông?
-Thành phố St. Petersburg ( Leningradxưa kia). Tên St. Petersburgđược công nhận sau khi Liên xô sụp
đổ.

'• Capitolcó ở thành phố nào?
-Ở Roma (Italia) và Washington(Mỹ)
•Thành phố nào lớn nhất nước Úc?
- Sydney, thành phố tuyệt đẹp bên bờ biển.
•Sông Themse đổ ra biển nào?
'Biển bắc (Nordsee), sông này chảy qua Luân đôn.
•Diện tích bề mặt trái đất bao nhiêu?
-510 triệu km2
•Hồ nước ngọt lớn nhất thế giới có tên là gì?
- Lake Superior ở bắc Mỹ (biên giới Canada và Mỹ)
•Tên của rặng núi cao nhất Nam Mỹ là gì?
'Rặng Andenchạy dọc bở biển Thái bình dương từ Trung Mỹ đến Đất lửa.
•Hãy cho biết tên con sông dài nhất châu Á!
-Sông Trường giang ở Trung quốc.
•Hãy cho biết tên con sông dài nhất bắc Mỹ!


'- Sông Mississippiở Mỹ.
•Tên của sa mạc lớn nhất châu Á là gì?
'Sa mạc Go bi ở Mông cổ.
•Tên của đỉnh núi nổi tiếng ở Hy lạp là gì?
-Đỉnh Olymp, Người Hy lạp cổ đại coi đây là chỗ ở của các vị thẩn.
Tại sao trên lá cờ Olympic lại có năm vòng tròn?
Đại hội thể dục thể thao long trọng và có quy mô lớn nhất trên thế giới là Thế vận hội Olympic.
Mỗi khi khai mạc Thế vận hội Olympic, trên hội trường bao giờ cũng phải kéo lên lá cờ Thế vận hội.
Vì trên lá cờ này có in năm cái vòng, cho nên nó cũng được gọi là cờ “năm vòng tròn”.
Lá cờ năm vòng tròn đã được thiết kế năm 1913, theo ý kiến của Chủ tịch Uỷ ban Olympic Quốc
tế, ông Cubectanh. Năm 1914, nó đã được sử dụng lẩn đẩu tiên tại Đại hội Đại biểu Olympic cử hành
ở Paris, nước Pháp. Lá cờ Olympic làm bằng vải màu trắng không viền, thêu năm vòng tròn với ba
vòng bên trên màu xanh, đen, đỏ, còn hai vòng bên dưới màu vàng và màu lục, lẩn lượt xếp từ trái

sang phải.
Ông Cubectanh đã chọn năm màu này vì đây là màu quốc kỳ của các nước tham gia cuộc vận động
Olympic thời bấy giờ.
Về sau ngời ta lại có một cách giải thích khác về màu sắc của năm cái vòng, cho rằng năm cái
vòng này tượng trưng cho năm lục địa trên thế giới: màu xanh tượng trưng cho châu Âu, màu vàng
tượng trưng cho châu Á, màu đen tượng trưng cho châu Phi, màu lục tượng trưng cho châu Đại Dương,
còn màu đỏ tượng trưng cho châu Mỹ.
Vì tính rằng người ta có thể có những cách giải thích khác nhau về lá cờ năm cái vòng, cho nên
năm 1979 tờ tạp chí Olympic, Uỷ ban Olympic Quốc tế đã chính thức nêu rõ rằng dựa theo hiến
chương Olympic, ý nghĩa của năm cái vòng này là tượng trưng cho sự đoàn kết giữa năm lục địa, đồng
thời tượng trưng cho tinh thẩn thi đua công bằng thẳng thắn và hữu nghị giữa các vận động viên toàn
thể thế giới đến tập trung tại Thế vận hội Olympic.
Bắt đẩu Thế vận hội Olympic lẩn thứ 7, khi khai mạc Thế vận hội Olympic, bao giờ cũng cử hành
nghi thức đại biểu thành phố chủ nhà của Thế vận hội lẩn này đem lá cờ Olympic trao cho thị trưởng
thành phố tổ chức Thế vận hội Olympic lẩn sau. Tiếp đó thành phố này sẽ giữ lá cờ tại phòng chính
của toà thị chính, rồi bốn năm sau sẽ lại cử hành một nghi thức như thế.
Vạn Lý Trường Thành có đúng là một vạn dặm hay không?
Trường Thành là một trong những công trình vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới và cũng là niềm tự
hào của nhân dân Trung Quốc. Trường Thành gọi đẩy đủ là Vạn Lý Trường Thành. Vậy có thật nó dài
một vạn sặm không?
Thật ra Vạn Lý Trường Thành gồm nhiều đoạn Trường Thành nối liền với nhau do các nước chư hẩu
đã xây dựng hơn hai ngàn năm trước đây.
Trong hai thời Chiến Quốc và Xuân Thu, chiến tranh luôn luôn nổ ra, các nước chư hẩu muốn
chống lại lẫn nhau đã xây dựng những đoạn Trường Thành tại các nơi có hình thế hiểm yếu nhằm
phòng vệ cũng như ngăn chặn sức tấn công từ các nước khác.
Đến năm 251 trước Công nguyên, Tẩn Thuỷ Hoàng thống nhất toàn cõi Trung Quốc, một mặt ông ra
lệnh phá bỏ các bức tường thành trước kia dựng lên giữa các nước; mặt khác, nhằm ngăn chặn kỵ binh
Hung Nô ở miền Bắc xâm lược xuống miền Nam, ông ra lệnh nối liền các đoạn Trường Thành ở
phương Bắc của ba nước Tẩn, Triệu, Yên. Ngoài ra còn củng cố và kéo dài để hoàn thành bức Trường
Thành của nhà Tẩn, bắt đẩu từ phía Tây từ Lâm Thao (nay là huyện Mân ở tỉnh Cam Túc), phía Đông

kéo dài tới Liêu Đông, với chiều dài hơn một vạn dặm Trung Quốc, về sau được gọi là Vạn Lý Trường
Thành. Công trình này đã được tiến hành với quy mô cực kỳ lớn. Thời bấy giờ đã điều động tới hơn


năm mươi vạn dân công và phải mất hơn mười năm mới hoàn thành, rất nhiều nhân công đã chỉ có đi
mà không có về.
Truyền thuyết về nàng Mạch Khương khóc đổ Trường Thành chính là đã nảy sinh trong thời kỳ này.
Về sau nhiều triều đại đã tu sửa và xây dựng thêm Trường Thanh, trong đó hai triều đại Hán và Minh
tiến hành với quy mô lớn nhất. Trường Thành mà ngày nay chúng ta trông thấy là Trường Thành xây
dựng vào đời Minh, nó bắt đẩu từ Sơn Hải
Quan thuộc tỉnh Hà Bắc, chạy ngang qua Hà Bắc, Bắc Kinh, Sơn Tây, Nội Mông, Thiểm Tây, Ninh Hạ,
Cam Túc, tổng cộng bảy tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc, kéo dài sáu ngàn bảy trăm kmtức là
hơn mười ba ngàn dặm Trung Quốc
Thế giới có bao nhiêu dân tộc?
Trung Quốc có 56 dân tộc. Có người cho rằng Trung Quốc có thể là quốc gia có nhiều dân tộc nhất
thế giới, kỳ thực không phải như thế. Ở châu Á, nếu tính các quốc gia có hơn 50 dân tộc thì còn có An
Độ, Philippin, Indonesia. Nghenói Indonesia có 150 dân tộc. Quốc gia có nhiều dân tộc nhất thế giới
là Nijenia, có tới 250 dân tộc lớn nhỏ với hơn 80 triệu người, chiếm 1/8 tổng số dân tộc trên thế giới.
Nói tóm lại trên thế giới có bao nhiêu dân tộc? Theo những thống kê chưa đẩy đủ, con số chừng 2000.
Số lượng nhân khẩu của các dân tộc trên thế giới khác nhau rất xa. Dân tộc lớn nhất lên tới nghìn
triệu, dân tộc nhỏ nhất chỉ có vài chục người. Bảy dân tộc có tổng số nhân khẩu lên tới quá 100 triệu
người là người Hán, người Inđuxtan, người Mỹ người Bănggan, người Nga, người Nhật, người Braxin,
60 dân tộc có nhân khẩu từ 10 triệu, 92 dân tộc có nhân khẩu từ mười vạn đến một triệu. Nhân khẩu
các dân tộc khác không có đủ mười vạn.
Tổng số các dân tộc ở châu Á là trên một nghìn, đại khái chiếm nửa tổng dân số trên thế giới, châu
Á là đại lục có nhiều dân tộc nhất trên thế giới, châu Âu ước tính có 170 dân tộc, khoảng 20 quốc gia
cơ bản chỉ có một dân tộc.
“Chiến tranh lạnh” là gì?
Sau khi Chiến tranh thế giới II kết thúc, trong tình hình chính trị thế giới đã xảy ra một sự thay đổi
rất lớn: phe tư bản chủ nghĩa phương Tây do các nước Mỹ, Anh, Pháp đứng đẩu và phe xã hội chủ

nghĩa phương Đông do Liên Xô cũ đứng đẩu, vì có niềm tin chính trị khác nhau, cho nên có thái độ thù
địch với nhau. Nhưng sức mạnh quân sự của cả hai bên đều hết sức to lớn. Với vài triệu quân và vài
ngàn đẩu đạn hạt nhân, nếu đem sức mạnh quân sự này ra sử dụng thì bên nào cũng có thể tiêu diệt
được đối phương đến vài lẩn, vì thế chẳng có ai dám sử dụng sức mạnh quân sự để phát động chiến
tranh. Tuy nhiên bên nào cũng muốn làm cho đối phương bị suy yếu, đi tới tan vỡ, cho nên tất cả các
thủ đoạn bên ngoài phạm vi quân sự đều được sử dụng.
Các thủ đoạn này bao gồm: phong toả kinh tế, không để cho các tài liệu kinh tế quan trọng lọt vào tay
đối phương, cản trở sự phát triển kinh tế của đối phương; tấn công về chính trị, vận dụng mọi công cụ
để tuyên truyền để tấn công vào các điểm yếu của đối phương, đánh vào lòng dân của đối phương; phá
hoại, lật đổ, đào tạo gián điệp tiến hành các hoạt động phá hoại; chạy đua trang bị quân sự, không
ngừng tăng cường các hoạt động quân sự, ra sức phát triển các vũ khí mũi nhọn, luôn luôn muốn làm
cho sức mạnh quân sự của mình hơn được đối phương.
Tuy cả hai phe đều chưa trực tiếp nổ súng, nhưng thật ra cả hai phe đều đang nằm trong một trạng
thái chiến tranh, chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Thượng nghị sỹ Mỹ Becna Baluc đã mệnh
danh trạng thái này là chiến tranh lạnh, để phân biệt với chiến tranh nóng trong đó có dùng pháo thật
và đạn thật.
Đẩu những năm 90 của thế kỷ XX, Liên Xô cũ tan rã, do đó các nước Đông Âu trải qua những biến
động to lớn, cái gọi là phe phương Đông không còn tồn tại nữa. Từ đấy trở đi chiến tranh lạnh cũng đã
kết thúc.


Tại sao vĩ tuyến 38 trở thành đường phân giới giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc?
Cuối thế kỷ XIX, Nhật Bản đem quân xâm lược chiếm Triều Tiên. Năm 1910, Nhật Bản cưỡng bức
Triều Tiên ký “Điều ước Hàn Nhật”, quy định toàn bộ chủ quyền của Triều Tiên vĩnh viễn bị chuyển
nhượng cho Nhật Bản. Từ đấy Triều Tiên biến thành thuộc địa của Nhật Bản.
Sau khi chiến tranh thế giới II bùng nổ, Nhật Bản ký kết liên minh với phát xít Đức và Italia, đồng thời
gây ra cuộc chiến tranh ở châu Á và Thái Bình Dương tháng 11 năm 1943, những người đứng đẩu các
nước Trung Quốc, Mỹ, Anh tuyên bố Cairô rằng sẽ đuổi Nhật Bản ra khỏi tất cả các vùng đát mà nước
này xâm chiếm, trong đó có việc làm cho Triều Tiên được độc lập tự do.
Do sự cố gắng chung của các lực lượng chống phát xít ở tất cả các nước, tháng 8 năm 1945, Nhật

Bản tuyên bố đẩu hàng vô điều kiện. Căn cứ vào hiệp định đã ký kết, quân đội Mỹ và quân đội Liên
Xô cũ cùng tiếp thu sự đẩu hàng của quân đội Nhật Bản ở Triều Tiên. Còn về khu vực tiếp thu sự đẩu
hàng thì hồi bấy giờ đã quyết định lấy vĩ tuyến 38 độ Bắc làm đường phân giới: quân đội Nhật Bản ở
phía Nam vĩ tuyến này sẽ đẩu hàng quân đội Mỹ, còn quân đội Nhật Bản ở phía Bắc thì sẽ đẩu hàng
quân đội của Liên Xô cũ.
Hồi bấy giờ việc xác định vĩ tuyến 38 độ Bắc làm đường phân giới không có ý nghĩa chính trị hay
quân sự gì cả, chẳng qua chỉ vì vĩ tuyến này nằm ở trung bộ nước Triều Tiên, làm cho hai khu vực tiếp
thu lại đẩu hàng của quân đội Nhật Bản đại khái bằng nhau mà thôi. Ngoài ra căn cứ vào hiệp nghị thì
sau khi tiếp thu đẩu hàng, Mỹ và Liên Xô phải tổ chức một Uỷ ban Liên hợp giúp cho Triều Tiên thành
lập một chính phủ lâm thời, nhưng vì giữa hai nước Mỹ và Liên Xô vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề quan
trọng chưa nhất trí, cho nên đến năm 1948 vẫn chưa thành lập được chính phủ lâm thời của Triều Tiên.
Tháng 8 năm 1948, tại miền Nam Triều Tiên thành lập nước Dân quốc Đại Hàn. Tháng 9 năm ấy, ở
miền Bắc Triều Tiên thành lập nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Vì đây là hai chính phủ
có tính chất không giống nhau cho nên khó cử hành được cuộc phổ thông đẩu phiếu toàn dân tộc.
Tháng 6 năm 1950, cuộc nội chiến ở Triều Tiên bùng nổ, quân Liên hiệp quốc do Mỹ đứng đẩu,
đem ngọn chiến tranh đốt lên bờ sông áp Lục. Quân Chí nguyện nhân dân Trung Quốc và Quân đội
nhân dân Triều Tiên cùng đánh cho bè lũ xâm lược phải lui về vĩ tuyến 38.
Đến năm 1953, trên vĩ tuyền 38 đã ký kết hiệp định đình chiến và ở hai bên vĩ tuyến 38 lập nên
khu phi quân sự rộng 2 km. Thật không ai có thể ngờ rằng đường phân giới tiếp thu sự đẩu hàng năm
đó của quân đội Nhật Bản lại có thể trở thành giới tuyến chia cắt lâu dài Bắc Triều Tiên và Nam Triều
Tiên.
Người Ixraen có phải là người Do Thái không?
Nhắc đến Ixraen, người ta thường nghĩ đến người Do Thái hoặc các mâu thuẫn và xung đột giữa
người Do Thái và người Ả Rập. Xu thế chung thường thống nhất với người Ixraen với người Do Thái.
Điều này hoàn toàn không đúng.
Ixraen vốn là một nước Tây Á. Cũng như tất cả các quốc gia khác trên thế giới, những người đến tụ
tập sinh sống trên lãnh thổ Ixraen không thuộc về một dân tộc hay chủng tộc nàođó. Ixraen có khoảng
80% người Do Thái và chừng 20% người Ả Rập.
Có lẽ bạn sẽ hỏi tại sao người Ixraen và người Ả Rập thường đánh nhau mà nước Ixraen lại có những
người quốc dân là người Ả Rập?

Sở dĩ như vậy là vì Ixraen nằm trên vùng đất Palextin thuộc bán đảo Ả Rập. Trước công nguyên
nơi này đã từng là vương quốc của người Do Thái, nhưng bắt đẩu từ thế kỷ XVII sau Công nguyên, lại
trở thành một bộ phận của đế quốc Ả Rập. Người Ả Rập tràn sang và đã đời đời kiếp kiếp sống trên
vùng đất này. Tháng năm năm 1948, người Do Thái quay về và thành lập nhà nước Ixraen. Người Do
Thái đã thành lập quốc gia trên vùng đất cư trú của người Ả Rập, vì thế không thể không giữ lại một
bộ phận người Ả Rập.


Lịch sử đã dạy cho chúng ta biết rằng các cuộc chiến tranh từ xưa đến nay đều là thủ đoạn tranh
quyền đoạt vị giữa các tập đoàn thống trị, vì thế hoàn toàn không thể nói rằng người
Do Thái và người Ả Rập không thể tiếp cận được với nhau.
Tại sao bọn Quốc xã muốn tiêu diệt dân tộc Do Thái?
Trong cuộc chiến tranh thế giới II, Đức Quốc xã âm mưu thống trị toàn thế giới, một mặt sử dụng
vũ lực, một mặt tuyên truyền chủ nghĩa chủng tộc, tức là học thuyết về dân tộc siêu đẳng. Chúng cho
rằng dân tộc Germandòng dõi chính thống của người Arian thượng đẳng, còn người Do Thái là chủng
tộc hạ đẳng nhất. Do đó Đức Quốc xã coi việc tiêu diệt người Do Thái là một mục tiêu chủ yếu.
Tại sao người Do Thái lại bị coi là chủng tộc hạ đẳng nhất? Trên phương diện lịch sử người Do
Thái cũng như tất cả các dân tộc khác, có nền văn hoá rực rỡ và lâu đời. Những năm 63 trước Công
nguyên, người Do Thái xâm lược. Từ đó phẩn lớn người Do Thái bị xua đuổi, phải sống lưu lạc khắp
nơi trên thế giới.
Người Do Thái có mặt đông nhất ở châu Âu. Nơi đây họ bị coi là những kẻ vô gia cư, lang bạt và bị
khinh rẻ.
Khi sống lang bạt khắp nơi như vậy, người Do Thái phẩn nhiều vẫn giữ được bản sắc dân tộc cả về tín
ngưỡng tôn giáo lẫn ngôn ngữ và phong tục tập quán.
Giai đoạn Trung thế kỷ, người Do Thái sống tại các quốc gia Thiên Chúa giáo bị coi là dân dị giáo,
phải chịu nhiều sự bức hại rất tàn khốc
Sang thời kỳ cận đại, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự phát triển của chủ nghĩa Tư
bản, trong dân tộc Do Thái đã xuất hiện những nhân vật kiệt xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính,
công thương và văn hoá. Vì thế nên mức độ nhất định, họ đã cải thiện được hoàn cảnh sống của mình.
Với bọn Quốc xã theo thuyết chủng tộc thượng đẳng thì điều này là không thể chấp nhận được. Theo

chúng, dân tộc Do Thái vĩnh viễn là lũ người hạ đẳng. Những năm 30 của thế kỷ XX, cùng với sự bành
trướng của chủ nghĩa đế quốc, việc người Do Thái bị bức hại đã đạt tới mức khủng khiếp. Thật ra
cách nói của bọn Quốc xã về cái gọi là dân tộc thượng đẳng chỉ là cái cớ hết sức hoang đường nặn ra
để nhằm tiêu
diệt người Do Thái mà thôi.
Tổng thống Mỹ có phải do nhân dân Mỹ trực tiếp bầu ra hay không?
Chúng ta đọc báo thấy cứ bốn năm một lẩn, mỗi khi có đợt bẩu cử Tổng thống thì những ứng cử
viên thuộc Đảng Dân chủ và Đản Cộng hoà đều phải tới các bang trong toàn quốc để phát biểu vận
động tranh cử, và cuối cùng còn phải có một cuộc bỏ phiếu tuyển cử trong toàn quốc. Vì thế người ta
cho rằng Tổng thống Mỹ là nhân dân Mỹ trực tiếp bẩu ra. Thực ra tình hình lại không phải như thế.
Theo một luật tuyển cử, cử tri Mỹ chỉ trực tiếp bẩu ra hai loại người. Một là nghị viện Quốc hội và hai
là những người được gọi là người tuyển cử.
Nhân dân Mỹ bỏ phiếu trực tiếp bẩu ra các nghị viên Quốc hội, tức là những người tổ chức hình
thành Quốc hội, Quốc hội này là một cơ cấu hoạt động thường trực. Điều này có điểm giống như Đại
hội Đại biểu Nhân dân của Trung Quốc, nhưng giữa hai bên có một sự khác nhau về bản chất. Vì Quốc
hội và Tổng thống Mỹ có một mối quan hệ quyền lực song song, chế ước lẫn nhau, còn Đại hội Đại
biểu Nhân dân của Trung Quốc là cơ quan quyền lực tối cao của nhân dân toàn quốc, chủ tịch quốc gia
là do Đại hội Đại biểu Nhân dân của Trung Quốc bẩu ra, hai bên có mối quan hệ cấp trên cấp dưới.
Vì giữa Quốc hội và Tổng thống Mỹ có mối quan hệ đặc thù như vậy, cho nên đã có một biện pháp
khác để tuyển cử Tổng thống, đó tức là chế độ những người tuyển cử.
Sau khi ứng cử viên hai đảng đã tranh cử xong, các bang dựa theo tỷ lệ nhân khẩu, tổ chức các cử
tri bỏ phiếu bẩu ra một số người tuyển cử. Sau đó, những người tuyển cử này (trong toàn quốc có
khoảng hơn bốn trăm người) tổ chức một đoàn tuyển cử tập trung tới Thủ đô Washingtonđể bỏ phiếu


Tổng thống.
Tuy nhiên, những người tuyển cử cũng không bỏ phiếu tuỳ theo ý nguyện bản thân mình, họ phải
dựa theo ý nguyện của cử tri trong bang của mình, trước hết phải trình bày với cử tri là sẽ bỏ phiếu
cho ai, sau đó mới đi Washington.
Nếu như người tuyển cử không muốn dựa theo ý muốn của cử tri để bẩu phiếu thì họ sẽ bị bãi miễn, vì

thế phương pháp tuyển cử gián tiếp này mang tính sâu sát rất cao, cho nên nó cũng gẩn như là tuyển cử
trực tiếp.
Dù là những đại biểu được dân trực tiếp bẩu ra, song những người tuyển cử sau khi lựa chọn xong
Tổng thống sẽ hết quyền lực và kết thúc sứ mệnh của họ
Tại sao trong quân đội Mỹ không có quân hàm nguyên soái? Dapan
Trong quân đội Mỹ, quân hàm cao nhất là đại tướng năm sao chứ không có quân hàm nguyên soái.
Trong cuộc Chiến tranh Thế giới II, một số tướng lĩnh có chiến công cao nhất như MarshalAixenhao...
đến sau chiến tranh cũng chỉ được đại tướng năm sao. Tại sao vậy?
Vốn là sau khi Chiến tranh Thế giới II kết thúc, ở nước Mỹ người ta cùng đã từng dự tính phong
cho một số tướng lĩnh cao cấp nổi tiếng nhất quân hàm nguyên soái lục quân, thế nhưng các cơ quan
hữu quan lại phát hiện thấy rằng danh từ nguyên soái (Marshal)lại hoàn toàn giống như tên họ của tham
mưu trưởng lục quân Mỹ Marshal. Nếu được phong hàm nguyên soái thì nguyên soái Marshalgọi theo
tiếng Anh sẽ là Marshal Marshalnghe quá lạ tai.
Các cơ quan hữu quan cảm thấy vấn đề này rất khó khăn để giải quyết, cho nên sau khi thảo luận
nhiều lẩn đã trình bày với Tổng thống Rudơven. Cuối cùng người ta thấy tốt nhất là không đặt hàm
nguyên soái nữa. Do đó cấp tướng năm sao đã trở thành quân hàm cao nhất trong quân đội Mỹ. Và
những người như Marshalcũng chỉ được phong quân hàm tướng năm sao.
Trong lịch sử nước Mỹ, đã nhiều người được phong hàm nguyên soái lục quân, đó là Tổng thống
đẩu tiên Washingtonvà Phanxing. Sau khi Phanxing qua đời thì quân hàm nguyên soái không bao giờ
được sử dụng nữa.
Tại sao Hitler sử dụng hình chữ “Vạn” làm biểu tượng cho đảng Quốc Xã? Trong thời kỳ
nước Đức chịu quyền thống trị của Hitler, hìnhchữ “Vạn” ở đâu cũng có, nó không những tượng trưng
cho nền thống trị chuyên chế phát xít của nước Đức theo đảng Quốc Xã, mà còn tạo ra những nỗi đau
khổ vô tận cho nhân dân Do Thái, cũng như nhân dân tất cả các nước bị nước Đức Quốc Xã xâm lược.
Chữ “Vạn” còn được gọi là chữ thập ngoặc. Nó đã có lịch sử rất xa xưa. Ngay từ hơn bốn ngàn
năm trước Công nguyên, hình chữ “Vạn” đã xuất hiện. Ở nước Ấn Độ thời cổ đại, nó biểu hiện hạnh
phúc tối cao. Ở Trung Quốc nó đã được lưu hành hồi Võ Tắc Thiên năm chính quyền, bà đã định âm
chữ này là “Vạn”. Trước thời Hitler,một số người Đức đã từng sử dụng hình tượng trưng cho chữ
“Vạn” này rồi.
Mùa hè năm 1920, Hitler cảm thấy rằng Đảng Quốc Xã cẩn một biểu tượng tượng trưng có thể thu

phục được lòng người. Sau nhiều suy nghĩ, hắn thiết kế một lá cờ với một vòng tròn trắng, ở giữa vẽ
chữ “Vạn” màu đen và hắn đã cảm thấy hết sức đắc ý về lá cờ này. Theo cách giải thích của hắn thì
mẩu đen tượng trưng cho ý nghĩa xã hội trong cuộc vận động của bọn hắn, mẩu trắng tượng trưng cho
tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, còn chữ Vạn thì tượng trưng cho sứ mệnh chiến thắng của giống người
Arian. Thực ra thì Hitler tuyên truyền cho chủ nghĩa chủng tộc cực đoan, coi người Arian là chủng tộc
cao quý nhất. Về sau dưới là cờ chữ “Vạn”, đảng Quốc Xã đã không ngừng khuếch trương thế lực.
Đến năm 1933, đảng Quốc Xã lên chấp chính, chữ “Vạn” lại trở thành hình tượng trưng cho nước
Đức Quốc Xã, nhưng dưới con mắt của nhân dân thế giới, nó chỉ tượng trưng cho tội ác mà thôi.
Tại sao các hoàng đế của nước Nga được gọi là Sa hoàng?
Về vấn đề này, đẩu tiên phải nói tới nhà độc tài của thành La Mã thời cổ đại Cesar. Năm 45 trước


Công nguyên, Viện Nguyên Lão La Mã đã dựa vào chiến công của Cesar cũng như quyền thế và tài sản
cực lớn của ông ta để tuyên bố Cesar là nhà độc tài trọn đời. Tuy rằng hồi bấy giờ, La Mã theo thể chế
cộng hoà cổ đại, nhưng quyền lực cá nhân của Cesar đã lên tới đỉnh cao.
Sau khi ông chết đi, tên của ông đã trở thành từ tượng trưng cho kẻ độc tài, cho kẻ quân chủ chuyên
chế, vì thế nhiều tay quân chủ chuyên chế ở các nước phương Tây đã dùng Cesar làm danh hiệu của
mình, để nói lên quyền thế và uy lực tối cao của mình.
Ngày 16 tháng giêng năm 1547, hoàng đế IvanĐệ Tứ của nước Nga (cũng gọi là Ivan Hung Bạo)
lên nắm quyền. Tước hàm chính thức của ông là Đại công tước Moxcva và toàn cõi Nga. IvanĐệ Tứ
đã không thoả mãn với cái tước hiệu Đại công tước, vì thế lúc đội mũ miện, ông tự xưng là Sa hoàng.
Chữ Sa là chuyển âm của từ La tinh Cesar, tức là ông ta tự coi mình là Cesar và tỏ ý rằng mình sẽ trở
thành độc tài của toàn cõi Nga, xây dựng lại một đế quốc cường thịnh như La Mã xưa. Từ đó Sa hoàng
trở thành danh hiện của các quân vương ở Nga. Còn nước Nga trở thành “Nước Nga của Sa hoàng”.
Năm 1721, Pitotr Đại Đế đổi danh hiệu là Hoàng đế, nhưng nói chung người ta vẫn gọi ông là Sa
hoàng và có khi dùng cả Sa hoàng lẫn Hoàng đế.
Tại sao coi chim bồ câu là biểu tượng của hoà bình?
Trong Kinh Thánh có đoạn như thế này: “Thượng đế Jehova tạo ra người nam là Adam, rồi lại lấy
một cái xương sườn của Adamtạo ra con người nữ Eva, nhờ đó con cháu của họ sinh sôi nảy nở và
làm ăn sinh sống rất hưng thịnh.

Nhưng trong nhân loại lại sản sinh ra những kẻ tham đồ hưởng lạc, không nghĩ tới chuyện cẩn cù
lao động, vì thế mới nảy sinh những tội lừa bịp, hủ hoá và bạo lực, phong khí đạo đức của nhân loại
bắt đẩu hủ hoại. Thượng đế nổi giận, quyết định dùng nạn hồng thuỷ để huỷ diệt thế giới này
Nhưng cháu đời thứ chín của Adamlà Noe, tộc trưởng của tộc Hebrơ là một người hết sức trung
thành với Thượng Đế. Ông chủ trương giữ trọn chính nghĩa, căm ghét sâu sắc các điều ác trong loài
người.
Một hôm Thượng Đế bảo Noe rằng mặt đất sắp bị hồng thuỷ nhấn chìm. Noe phải lập tức làm một con
thuyền hình vuông có ba tẩng để tránh nạn. Noe tuân theo lời căn dặn của Thượng Đế, làm xong chiếc
thuyền hình vuông, đưa tất cả mọi người trong gia đình cùng với gia súc, gia cẩm trong nhà đưa lên
thuyền
Hồng thuỷ kéo dài 150 ngày, ngập chìm tất cả núi cao và nhà cửa, làm chết vô số ngời, chỉ riêng
có gia đình Noe được an toàn vô sự. Đến khi nước sắp sửa rút, Noe quyết định thả con chim bồ câu
cho nó đi thám thính, nhưng con chim chỉ lượn hết một vòng rồi bay về. Noe biết rằng khắp các nơi
vẫn còn là nước, cho nên con chim không có chỗ nào để đậu. Vài ngày sau, Noe lại thả chim bồ câu.
Lúc con bồ câu trở về, trên mỏ nó ngậm nhánh trám mẩu lục, Noe nhìn thấy thế hết sức sung sướng, và
điều này chứng tỏ nước lụt đã rút để lộ ra những nhánh cây non nhô lên khỏi mặt nước, thế là ông đưa
tất cả gia đình trở về lục địa, bắt đẩu xây dựng một cuộc sống mới”.
Chuyện con chim bồ câu và nhánh trám báo trước cuộc sống hoà bình và an ninh đã theo Kinh
Thánh mà được phổ biến ra toàn thế giới. Đến những năm 30 thế kỷ XVII, ở châu Âu nổ ra một cuộc
chiến tranh kéo dài hơn 30 năm trời, làm cho châu Âu, đặc biệt là nhân dân Đức chìm trong đau
thương trẩm trọng. Thời bấy giờ, tại một số thành thị ở nước Đức, lưu hành một thứ khăn kỷ niệm, trên
vẽ hình con chim bồ câu ngậm một nhành trám, phản ánh nguyện vọng mong chờ hoà bình của nhân
dân, vì thế con chim bồ câu và nhánh trám đã tượng trưng cho hoà bình.
Sau cuộc Chiến tranh thế giới II, nhà hoạ sỹ lớn Picassođã vẽ một con chim bồ câu trắng đang bay,
gửi tặng Đại hội Hoà bình toàn thế giới, người ta gọi con chim bồ câu này là Chim bồ câu hoà bình.
Tại sao trận Oateclo trở thành điều tượng trưng cho thất bại trong cuộc đời con
■ ■ ■ o o ■ o■


người?

Ngày 20 tháng sáu năm 1815 tại ngoại ô Thành phố Oateclo cách thủ đo Brucxen nước Bỉ 23 km về
phía nam, liên quân chống Pháp đã phát động một cuộc tiến công mãnh liệt vào quân đội Pháp do
Napoleon chỉ huy.
Thật là một trận chiến long trời lở đất, trước sự tấn công ồ ạt của liên quân, quân đội Pháp đã tan
vỡ không còn một mảnh giáp, thống soái Napoleon chỉ còn cách giẫm chân thở dài rồi bỏ quân đội mà
chạy thục mạng.
Napoleon xuất thân từ một gia đình quý tộc đã sa sút trên đảo Coóc. Năm 1793, ông 24 tuổi, bắt
đẩu xuất đẩu lộ diện. Trong hơn mười năm trời, ông đánh Đông dẹp Bắc, không trận nào là không
chiến thắng, không những chỉ xưng hùng trên đại lục châu Âu mà còn chinh phục được Ai Cập cùng
nhiều vùng đất ở Địa Trung Hải, làm cho vô số vương công phải cúi đẩu xưng thẩn, và nhiều quốc gia
nhỏ biến thành phiên thuộc của nước Pháp.
Dù cho các nước mạnh ở châu Âu không can tâm chịu thất bại, liên tục tổ chức nhiều nhóm đồng
minh chống Pháp, nhưng trước một tay thiện chiến như Napoleon, họ hẩu như không tìm ra được một
đòn nào đáng kể.
Năm 1804, Napoleon xưng làm hoàng đế, đội vương miện do chính tay giáo hoàng đặt lên đẩu. Có
thể nói rằng mọi thứ vinh quang trong cuộc đời một con người Napoleon đều đã được tận hưởng.
Người ta từng gọi Napoleon là đứa con yêu của Thượng đế, vị Thẩn Chiến tranh.
Nhưng từ năm 1808 về sau, cuộc đời Napoleon bắt đẩu xuống dốc. Trên chiến trường ông bị thất
bại nhiều lẩn. Dù cho năm 1814, liên quân chống Pháp đã xông vào Paris, bắt Napoleon phải thoái vị,
nhưng ông vẫn còn sáng tạo được một kỳ tích của kẻ thất bại. Ông bỏ chạy khỏi nơi đi đày là đảo Enbơ
và lại đội vương miện.
Song xu thế thất bại đã không có cách nào xoay chuyển được nữa rồi, cuối cùng ông đã đặt cược
tất cả vào trận Oateclo. Đối với Napoleon mà nói thì chiến dịch này có tính chất quyết định. Sau đó
ông ta không còn có cơ hội chỉnh đồn binh mã để có thể lại tiếp tục làm mưa làm gió, vì thế chiến dịch
Oateclo thường được dùng để tượng trưng cho thất bại trong cuộc đời con người.
Trên thế giới có bao nhiêu thứ tiếng?
Hiện nay trên thế giới có khoảng sáu tỉ con người, chia nhau sống trên năm lục địa và phân ra
khoảng hai trăm quốc gia. Phẩn lớn các con người không chỉ khác nhau về phong tục tập quán mà còn
dùng những ngôn ngữ khác nhau.
Theo bản điều tra báo cáo của UNESCO Liên Hiệp Quốc thì trên thế giới có hai nghìn bảy trăm

năm mươi thứ tiếng. Nhưng một số nhà xã hội học ở Nga và Đức lại nói rằng trên thế giới có năm
nghìn sáu trăm năm mươi mốt thứ tiếng. Nói chung trên thế giới có hai nghìn đến ba nghìn thứ tiếng.
Nhưng trong các thứ tiếng phong phú này, thì có trên một nghìn bốn trăm thứ tiếng hoặc không
được công nhận là thứ tiếng độc lập, hoặc sắp bị tiêu vong. Có khoảng hai mươi thứ tiếng hẩu như
ngày nay không còn ai biết nói nữa, ba phẩn tư các thứ tiếng trên thế giới còn chưa có chữ viết. Chỉ có
khoảng 500 thứ tiếng đã được người ta nghiên cứu tương đối đẩy đủ.
Trên thế giới có khoảng mười ba thứ tiếng mà số người sử dụng lên tới trên năm mươi triệu. Trong
số đó tiếng Hàn, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga đều có trên một trăm triệu người trên thế
giới sử dụng. Tiếng Pháp tuy có số người sử dụng không tới một trăm triệu nhưng lại có đến 26 quốc
gia lấy tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức. Camơrun là một nước nhỏ ở miền Tây châu Phi, nghe nói
nước này có trên một nghìn thứ tiếng. Trên thế giới thứ tiếng có số người sử dụng ít nhất là Oat, chỉ có
50 người nói.
Lại có một thứ tiếng nhân tạo đó là Quốc tế ngữ. Quốc tế ngữ là một thứ tiếng bổ trợ trên thế giới. Các
nước trên thế giới đều có người biết sử dụng.


Thế giới có bảy kỳ quan nào?
Hai thế kỷ trước Công nguyên, thành La Mã có một tác giả lữ hành gia tên là Antơbat. Sau khi đi chu
du ở các nước trên thế giới, ông đã nêu lên bảy nơi danh thắng lớn phản ảnh được trình độ khoa học và
văn hoá của toàn thể các vùng chung quanh biển Địa Trung Hải. Ngày nay người ta gọi bảy nơi danh
thắng này là “Bảy kỳ quan thế giới”. “Bảy kỳ quan thế giới” gồm có:
1. Kim tự tháp cổ Ai Cập: Đó là công trình kiến trúc cổ xưa nhất trong lịch sử của bảy kỳ quan, đã
được người đời xưa xây dựng trước đây khoảng 4.600 năm, cho tới nay vẫn còn gìn giữ hoàn hảo.
2. Vườn treo ở Babilon: Là một đài đắp bằng đất có bốn tẩng, cao 25 mét, trên mỗi tẩng có trồng
những hoa cỏ kỳ lạ, nhìn từ xa thì nom cứ như là một vườn hoa đẹp treo trên cao. Tương truyền vườn
hoa này là do Quốc vương Babilon đã cho xây dựng để an ủi bà Vương phi sống xa cố hương.
3. Đền thờ nữ thẩn Artemix ở Ephdo: Đền thời này cao 120 mét, rộng 65 mét, xung quanh có 127
cột trụ bằng đá. Trên các cột đá này mang những hình điêu khắc thể hiện các chuyện thẩn thoại
4. Tượng Thẩn Dớt ở Olympia đặt trong đền thờ Thẩn Dớt trên núi Olympia ở miền Nam Hy Lạp:
Tượng cao 15 mét, thân bằng gỗ đen, trang sức bằng vàng, ngà voi và đá quý. Tay phải của Thẩn giơ

ra bức tượng nữ thẩn Chiến thắng, còn tay trái nắm chiếc gậy tượng trưng cho quyền uy của mình, thẩn
thái rất là trang nghiêm. Tiếc rằng trong thế bức tượng này đã bị huỷ hoại.
5. Lăng mộ Halicacnax ở Thổ Nhĩ Kỳ: Thế kỷ IV trước Công nguyên, quốc vương Calia ở tiểu
Asia đã xây dựng khu lăng mộ này cho vương hậu. Lăng mộ được dựng lên bằng đá hoa hình chữ nhật,
phía trên có 24 hình kim tự tháp. Trên đỉnh có tạc tượng vua Halicacnax ngồi cùng với vương hậu trên
chiến xa. Đến thế kỷ XV, lăng mộ này đã bị huỷ hoại. 6.Tượng thẩn Mặt trời trên đảo Rôt ở Địa Trung
Hải: Bức tượng này đã được sáng tác để kỷ niệm sự kiện đảo Rôt thoát khỏi cuộc vây hãm kéo dài.
Tượng được đúc bằng đồng thau, cao tới 39 mét, đặt ở cửa hải cảng của đảo này. Năm 224 trước
Công nguyên bức tượng đã bị phá huỷ trong một trận động đất.
7. Cây đèn biển ở Alecxandria làm trên đảo Phalax bên ngoài cửa hải cảng Alecxandria nước Ai
Cập: cao 122 mét. Trên đỉnh tháp có bức tượng thẩn Apolon lớn. Đến đêm trên đỉnh tháp đốt một ngọn
nến rất ta, chỉ dẫn cho tàu bè đi lại. Tương truyền kể lại rằng các tàu bè ở cách xa 40 kmcũng có thể
trông thấy ánh đèn trên đỉnh tháp. Ngọn đèn biển này còn được giữ cho tới thế kỷ XII sau Công nguyên.
Tại sao Beethoven được tôn vinh là “Nhạc Thánh”? Dapan
Trên thế giới có một số nhạc sỹ đạt tới thành tựu cao đều có thêm một danh hiệu tôn xưng đặt trước
tên mình. Trong số đo riêng một mình nhà soạn nhạc Áo nổi tiếng Beethoven có được cái danh hiệu
“Nhạc Thánh”
Beethoven từ nhỏ đã sống trong cảnh bẩn cùng, ông phải vừa làm việc kiếm tiền vừa học tập và
nhờ đó mới có được tri thức mới và tư tưởng mới. Cuộc sống gian khổ đã mài giũa ý chỉ của ông. Vì
thế trong các tác phẩm của ông luôn luôn thấy nổi lên chủ đề đấu tranh chống lại số phận.
Beethoven không bao giờ chiều theo thói đời, không bao giờ a dua với thời thế. Nhờ tài năng xuất
chúng và với phẩm cách bất khuất của mình, ông đã được tất cả các đồng nghiệp tôn kính, được người
đời khâm phục.
Năm 1815, ông 45 tuổi, hai tai bỗng nhiên đều bị điếc, nhưng ông dựa vào những cố gắng kiên cường,
dù cho tai điếc vẫn soạn ra được những tác phẩm kiệt xuất, trong số đó có bản “Giao hưởng hợp
xướng” (cũng gọi là bản Giao hưởng số 9).
Nếu nh các “thánh nhân” thường có trí tuệ và phẩm cách siêu phàm, thoát tục, thì trong cái danh hiệu
“Nhạc Thánh” của Beethovenkhông những chỉ bao hàm nội dung nói trên, mà lại còn hàm ý cả phong
cách tư tưởng và thể nghiệm độc đáo.
Chúng ta có thể tìm trong bản Giao hưởng Định mệnh (cũng gọi là bản Giao hưởng số 5) mà nghe

thấy cái tâm thanh như một triết nhân muốn tìm hiểu ý nghĩa chân chính của đời sống con người, cũng


có thể dựa vào bản Giao hưởng Anh hùng (cũng có tên là bản Giao hưởng số 3) để nghe thấy những gì
Beethoven ca ngợi và tỏ lòng tôn kính các anh hùng, càng có thể dựa vào bản Giao hưởng Điền viên
(cũng còn được gọi là bản Giao hưởng số 6) để nghe thấy những lời âu yếm hướng vọng tới thiên
nhiên của ông.
Trong các tác phẩm của Beethovenđã đúc hợp các khổ nạn của ông, dũng khí của ông, niềm hoan
lạc của ông và cả nỗi bi ai của ông. Lãnh vực nghệ thuật và lãnh vực tư tưởng mà ông đạt tới thì cả
thời bấy giờ lẫn cho tới ngày nay chưa có một người nào khác vươn tới được. Có thể nói
Beethovenkhông hổ thẹn với danh hiệu “Nhạc Thánh” mà người ta tặng cho ông.
Tại sao con đường thông thương cổ đại được gọi là “Con đường tơ lụa”?
■ooo■■o■o■

Dưới triều nhà Hán, Trung Quốc đã mở được một con đường thông thương buôn bán có khởi điểm
là Thủ đô Trường An thời bấy giờ (nay là Tây An) và vắt ngang qua đại lục châu Á, chạy thẳng tới Địa
Trung Hải rồi vượt biển, đạt tới điểm cuối cùng là thành La Mã. Thông qua con đường thông thương
kéo dài hơn bảy ngàn kilômet, liên kết ba lục địa châu Á, châu Phi và châu Âu, dân tộc Hán đã chuyển
tới toàn thế giới nền kỹ thuật nông nghiệp, thủ công nghiệp tiên tiến, bao gồm cả bốn phát minh lớn của
Trung Quốc.
Ngược lại nhiều sản vật và văn hoá độc đáo của phương Tây như sư tử, lạc đà, nho, dưa chuột, cả đến
Phật giáo của Ấn Độ, hội hoạ của Hy Lạp cũng được truyền nhập vào Trung Quốc. Nền kinh tế và văn
hoá của hai miền Đông Tây, nhờ có Con đường thông thương này đã được giao lưu, đem lại ảnh hưởng
rất lớn cho sự phát triển của nền văn minh thế giới. Trên con đường buôn bán này, hối bấy giờ thứ
hàng được trở đi nhiều nhất là tơ lụa, một đặc sản của Trung Quốc. Vì thế con đường này đã được gọi
là “Con đường tơ lụa”. Nghe nói khi một vị hoàng đế La Mã lẩn đẩu tiên mặc bộ quẩn áo bằng tơ lụa
do Trung Quốc sản xuất để đi xem hát đã gây chấn động cả kinh thành La Mã.
Năm 139 trước Công nguyên, Trương Khiên xuất phát đi Tây Vực, nhưng chẳng bao lâu ông bị
quân Hung Nô bắt. Sau 11 năm bị giam giữ, ông trốn thoát và đến năm 126 trước Công nguyên thì trở
về được Trường An. Dưới sự chỉ đạo của quân Hung Nô, khống chế được khu vực Hà Tây thông tới

Tây Vực. Năm 119 trước Công nguyên, một lẩn nữa Hán Vũ Đế lại sai Trương Khiên đi sứ Tây Vực.
Ông tới trước Ô Tôn (Nay thuộc vùng sông Y Lê và hồ Y Tắc Ư lại sai phó sứ đến các nước Đại
Nguyệt Thị, An Tức (nay là Iran), Quyên Độc (Ấn Độ thời cổ). Sau đó đến năm 115 trước Công
nguyên thì trở về Trường An.
Do những hạn chế của điều kiện lịch sử, sứ thẩn Hán chưa thể theo Con đường thông thương này
mà tới được đế quốc La Mã của phương Tây. Nếu không, theo lời các sử gia, lịch sử của thế giới sẽ
phải viết lại.
Tại sao Vạn Lý Trường Thành không được đưa vào “Bảy kỳ quan thế giới”?
Vạn Lý Trường Thành là một công trình kiến trúc vĩ đại cổ xưa nhất trên thế giới. Nom nó như một
con rồng khổng lồ uốn khúc từ trên xuống, kéo dài liên miên tới 6.700 km. Cùng với kim tự tháp Ai
Cập, Vạn Lý Trường Thành được coi là hai kỳ tích có tính chất tiêu biểu nhất trên Trái đất này. Tuy
nhiên tên của kim tự tháp Ai Cập thì được đặt lên hàng đẩu của “Bảy kỳ quan thế giới”, còn Vạn Lý
Trường Thành ở Trung Quốc lại bị gạt ra ngoài bảy kỳ quan ấy. Đó là sao vậy?
“Bảy kỳ quan thế giới” gồm có: Kim tự tháp của Ai Cập, vườn treo Babilon, lăng mộ Halicanax ở
Thổ Nhĩ Kỳ, tượng Thẩn Dơt trên núi Olympia ở Hy Lạp, đền thờ thẩn Artêmix ở Ephedow,ngọn đèn
thẩn Phalax ở Ai Cập, bức tượng tạc hình thẩn Apolon ở đảo Rôt. “Bảy kỳ quan thế giới” này đã được
nhà thơ Antơbat nêu lên trong thế kỷ II trước Công nguyên. Hồi ấy nhà thơ này sống tại thành Xidon ở
Phenixi trên bờ biển phía Đông của Địa Trung Hải, mà trong thời kỳ ấy thì còn chưa khai thông con
đường tơ lụa từ Trung Quốc sang tới bờ biển phía Đông Địa Trung Hải. Vì thế nhà thơ nói trên còn


chưa được biết rằng ở phương Đông có một toà Trường Thành hùng vĩ. Bởi vậy ông đã không đưa toà
Trường Thành ấy vào một trong “Bảy kỳ quan thế giới” và đó là điều có thể hiểu được.
Cho tới thời kỳ cận đại, cách nói về “Bảy kỳ quan thế giới” lại có những nội dung khác. Hiện nay,
“Bảy kỳ quan thế giới” mà người ta nói chỉ có: Đấu trường cổ hình tròn ở thành La Mãnước Italia, đèn
biển Phalax ở Alecxandria nước Ai Cập, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, các công trình kiến
trúc bằng đá xếp hình vòng tròn trên biển Xư Khân ở nước Anh, ngọn tháp nghiêng Pixa ở Italia, Tháp
Lưu Ly ở Nam Kinh Trung Quốc, Nhà thờ Xôphi ở Ixtambun Thổ Nhĩ Kỳ.
Tại sao trong tiếng Nhật lại có nhiều chữ Hán đến như thế?
Nhật Bản là một nước láng giềng của Trung Quốc, trong thời cổ đại nước này đã có nhiều mối quan hệ

trao đổi với Trung Quốc.
Dưới triều nhà Tùy và nhà Đường, nền kinh tế của Trung Quốc phồn vinh, văn hoá phát triển hưng
thịnh. Nhật Bản trước sau đã cử đi mười ba nhóm “Khiển Đường Sứ” (sứ giả phái đến nhà Đường) tới
triều đình nhà Đường để học tập, nhóm đông nhất lên tới hơn sáu trăm người. Một số kẻ đọc sách và
hoà thượng Nhật Bản ùn ùn kéo đến thủ đô nhà Đường và Trường An để học tập các loại kiến thức văn
hoá cùng các sách kinh điển của đạo Phật. Sau khi học tập thành công, một số người còn ở lại Triều
đình nhà Đường để làm quan, nhưng phẩn lớn đã về nước rồi tích cực truyền bá văn hoá của triều đại
nhà Đường.
Cả đến Thiên hoàng của nước Nhật thời bấy giờ cũng mời những danh sư sang bên ấy để có thể
học tập văn hoá của nhà Đường, đồng thời Thiên hoàng cũng bổ nhiệm một số lưu học sinh từ triều nhà
Đường trở về trao cho họ trách nhiệm mô phỏng theo các chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá của nhà
Đường để tiến hành cải cách trong nước. Chuyện này được lịch sử ghi lại với cái tên là “Đại hoá cách
tân”.
Những người có học của Nhật Bản tới lưu học tại triều đình nhà Đường đã tinh thông văn hoá Trung
Quốc, họ sử dụng thể chữ thảo và những bộ của chữ Hán nhằm sáng tạo ra một thứ văn tự để viết tiếng
Nhật gọi là “binh giả danh” (Katakana)và “phiến giả danh” (Hiragana). Trong số các chữ này có
những chữ Hán được hoàn toàn để nguyên, chỉ có cách đọc bị đổi khác mà thôi.
Trong thời kỳ cận đại, Nhật Bản tiếp thu kinh nghiệm tiên tiến của các quốc gia phát triển ở
phương Tây để tiến hành cải cách, nhờ đó họ phát triển rất nhanh về văn hoá và đã vượt Trung Quốc.
Từ cuối thế kỷ XIX, một số phẩn tử trí thức ở Trung Quốc lại kéo nhau sang Nhật để học tập kinh
tế, và văn hoá của Nhật Bản. Vì trong ngôn ngữ Nhật Bản có nhiều chữ Hán, cho nên khi xuất dương
những người này không phải học ngữ văn tự mà vẫn nhanh chóng thích nghi được. Chẳng hạn như
Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, hai vị này vừa tới đất Nhật đã có thể đối thoại giao lưu ngay với
những người có học ở Nhật Bản, tất cả đều dựa vào ảnh hưởng của truyền thống văn hoá Trung Quốc
với Nhật Bản.
Tại sao một số kỷ lục cao nhất trên thế giới được gọi là “Kỷ lục thế giới Guiness”?
Guiness vốn là tên một xưởng làm rượu. Xưởng này đã có tới hơn 200 năm lịch sử. Nó vốn sản
xuất một thứ rượu gọi là rượu Guiness. “Làm rượu” và “nhất thế giới” tất nhiên là hai chuyện hoàn
toàn khác nhau, nhưng đã có một cơ hội ngẫu nhiên làm cho hai điều này có thể gắn bó với nhau.
Năm 1951 viên quản lý xưởng này tên là Piphây, trong khi đi săn bỗng nhiên nảy ra một ý nghĩ mới

lạ: con chim có màu lông óng vàng phải chăng là loài chim bay nhanh nhất châu Âu? Ông ta bèn tìmhỏi
tất cả các cơ quan tư vấn, lục lọi rất nhiều tư liệu sách vở, nhưng cuối cùng cũng chẳng có ai trả lời
được cho ông ta câu hỏi này.
Vì thế ông ta mới bắt đẩu biên soạn một cuốn sách chuyên môn trả lời những câu hỏi đại loại như
thế của tất cả mọi người. Piphây thu thập các tư liệu về vấn đề này, đồng thời cùng với một người anh
em là Maiaot hợp tác thành lập một cơ quan chuyên môn thu thập tài liệu về những gì “nhất trên thế


giới”.
Năm 1955 đã xuất bản cuốn sách lớn về các kỷ lục thế giới Guiness. Chỉ t rong ba tháng, sách đã
bán hết không còn cuốn nào và trở thành một trong các cuốn sách được khách hàng tranh cướp.
Về sau ban biên tập của cuốn sách này năm nào cũng phải bỏ rất nhiều thời gian để thẩm tra, phân
tích, sửa chữa các tài liệu có liên quan để xuất bản một cuốn sách mới. Đến đẩu những năm 90 thế kỷ
XX, cuốn sách về kỷ lục thế giới Guiness đã được dịch thành hàng chục thứ tiếng. Tổng số lượng phát
hành lên tới vài chục triệu bản.
Tất cả những cái gì “nhất thế giới” đều được ghi lại trong bộ sách về kỷ lục thế giới Guiness, bao
quát đủ các mặt trong thế giới tự nhiên và thế giới con người, lớn thì đến vũ trụ và các thiên thể, nhỏ
thì cho đến các loài côn trùng, cỏ hoa, tảo, nấm... Nhờ có những chủ trương là “thú vị” và “mới lạ”,
nó được độc giả ở tất cả các nước hết sức hoan nghênh, và được coi là “thư viện những cái nhất thế
giới”. Vì thế tất cả các kỷ lục nhất thế giới được thu thập vào trong sách này đều được người ta gọi là
“kỷ lục Guiness”.
Thư viện thế giới lớn nhất thế giới ở đâu?
Thư viện Quốc hội Mỹ là thư viện lớn nhất thế giới. Nó được xây dựng ở thủ đô Washington tại
một nơi tao nhã, phong cảnh rất đẹp. Thư viện này được sáng lập năm 1800. Sau đó nó hai lẩn bị đốt
cháy trong chiến tranh rồi đến 1888 lại được xây dựng lại và chín năm sau công trình mới được hoàn
thành.
Thư viện Quốc hội Mỹ là một công trình kiến trúc cao năm tẩng ở trên một hình vuông diện tích tới 3
vạn m2. Trung tâm của hình vuông ấy là một phòng đọc cực to hình bát giác, đủ chỗ cho 250 người
đọc, bốn chung quanh chia làm phòng đọc cho nghị viện, phòng đọc báo, phòng hội hoạ và phòng đọc
cho người mù. Tổng số chỗ ngồi là 1500 chỗ.

Đến năm 1939 ở phía Đông thư viện chính lại xây dựng một thư viện phụ sáu tẩng. Ngoài kho sách
có thể tàng trữ 10 triệu cuốn, còn có phòng đọc, phòng mục lục... Số sách mà Thư viện Quốc hội Mỹ
lưu trữ thì hết sức phong phú, số lượng có trên tám mươi triệu sách, hình vẽ và các thứ tư liệu, hơn 33
triệu bản thảo của danh nhân. Tại đây có cả bài diễn văn nhận thức của Washington, vị Tổng thống thứ
nhất của nước Mỹ và những bài diễn thuyết khi tranh cử của Tổng thống Mỹ qua các khoá.
Có những cuốn sách cổ xuất bản trước thế kỷ XVI. Lại có những tư liệu hội hoạ hiện đại đẩy đủ
nhất của nước Mỹ, những cuộn băng thu gọn những tư liệu ghi âm, những bản nhạc, những phim điện
ảnh và những sách in cho người mù, cũng như những sách có âm thanh.
Nếu như đem các giá sách trong thư viện xếp liên tiếp với nhau thì sẽ có chiều dài hơn 500 km.
Thư viện Quốc hội Mỹ dùng phương pháp quản lý hiện đại. Giữa thư viện chính, thư viện phụ và toà
nhà lớn của Quốc hội đều có những phương tiện cơ giới để đưa sách đi, chỉ cẩn 45 giây là sách có thể
được đưa tới tay độc giả. Tính trung bình cứ 10 giây lại có một cuốn sách hay một bản tư liệu được
đưa tới toà nhà lớn của thư viên và cứ khoảng hai giây lại có một cuốn sách được nhập vào kho của
thư viện từ trên thế giới.
Tại sao giải thưởng Nobeltrở thành giải thưởng cao quý nhất trên thế giới?
Giải thưởng Nobelđã được đặt ra theo di chúc và với di sản của nhà hoá học người Thuỵ Điển tên
là Nobel. Từ khi giải này được trao vào đẩu năm 1901, bao giờ nó cũng được coi là giải thưởng đem
lại vinh dự cao nhất cho các nhà khoa học trên thế giới. Giải Nobel có thể trở thành giải thưởng đem
lại vinh dự cao nhất trên thế giới chủ yếu là do mấy nguyên nhân chính sau đây:
- Đẩu tiên là món tiền của giải thưởng này nằm ở mức cao nhất được cấp định kỳ, tính trong số các
giải thưởng về học thuật và hoà bình. Các món tiền thưởng này được lấy ra trong một phẩn di sản của
Nobel. Di sản này gồm khoảng chín triệu hai trăm nghìn đô la. Mỗi năm lấy ra khoảng hai mươi vạn
đô la tiền lãi để dùng làm phẩn lớn.


- Hai là các giải Nobelđược chia ra làm năm hạng mục vật lý, hoá học, sinh học hay y học, văn
học và sự nghiệp hoà bình, đều dùng để thưởng cho các nhân vật có cống hiến cao nhất trong năm ấy
về các lĩnh vực nói trên.
Danh sách các nhân vật được thưởng phải thông qua các chuyên gia về các bộ môn thuộc viện
khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển. Viện nghiên cứu Calalinxca Thuỵ Điển, Viện Văn học Thuỵ Điển và

Quốc hội Na Uy xác định, sau khi sưu tẩm rất nhiều tư liệu và cân nhắc nhiều lẩn. Trong gẩn một trăm
năm nay, sau khi giải Nobelđã được đặt ra, một số được giải thực đã có những cống hiến vĩ đại và độc
đáo đối với nhan loại trong lĩnh vực của mình.
Chẳng hạn, năm 1901, Rơnghen là người đẩu tiên được giải về vật lý đã phát hiện quang tuyến X
là những tia giúp cho có thể nhìn xuyên các vật và cho đến nay vẫn còn được ứng dụng rộng rãi trong
cả y học và khoa học.
Lại như bà Quyri được giải hoà bình năm 1911 đã phát hiện nguyên tố hoá học có tính phóng xạ
Rađiom
Lại như giải thưởng văn học năm 1964 được dành cho tác giả người Pháp Sactrơ. Các sáng tác của
ông có tư tưởng phong phú tràn ngập tinh thẩn tự do và đi tìm chân lý, có ảnh hưởng rất sâu xa đến
thời đại của chúng ta.
Người trên thế giới ngày càng thừa nhận uy tín, tính khoa học và nghiêm túc của giải Nobel. Vì thế giải
Nobelđã trở thành điều tượng trưng cho vinh dự tối cao và cũng là điều khích lẹ tối cao đối với người
thành công.
Tại sao lại nảy sinh cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cu-ba?
Cuba là một đảo quốc nằm trên vịnh Ca-ribê, nằm vào khoảng giữa Bắc Mỹ và Nam Mỹ, cách
bang Flo-rida của Mỹ chỉ vài chục hải lý. Nơi đây rừng và tài nguyên khoáng sản rất phong phú, nổi
tiếng nhất là ngành mía đường.
Năm 1959 sau khi cách mạng Cu -ba thành công, Caxtơ-rô tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội,
giao đất cho nông dân, quốc hữu hoá các xí nghiệp mà vốn dĩ trước đây là của các nhà tư bản Mỹ.
Trước sự đe doạ trả đũa về kinh tế của Mỹ, Mỹ tuyên bố cấm nhập đường của Cu-ba. Cuba đã tìm đến
sự giúp đỡ về viện trợ kinh tế của Liên Xô.
Sau thắng lợi của Cu-ba ở vịnh Con Lợn. Cu-ba lo ngại Mỹ sẽ có hành động với quy mô lớn hơn nên
đã đề nghị Liên Xô hỗ trợ và giúp đỡ về quân sự. Liên Xô đồng ý giúp đỡ và bí mật dùng hai tẩu vận
tải đưa tên lửa chiến lược sang Cu-ba.
Ngày 14 tháng 10 năm 1962, máy bay trinh sát U2 của Mỹ đã chụp được hình ảnh các căn cứ tên
lửa chiến lược của Liên Xô tại Cu-ba. Nhà trắng nhận định: tên lửa của Liên Xô đặt tại Cu- ba có thể
phóng cùng một lúc 40 đẩu đạn hạt nhân. Chỉ cẩn sau 2 3 phút, nhiều mục tiêu trên nước Mỹ sẽ bị tấn
công. Sau nhiều lẩn đắn đo cân nhắc tìm đối sách tốt nhất, cuối cùng Ken- nơ-đi đã xác định phương
án khả thi.

Chiều ngày 22 tháng 10, Ken -nơ-đi tuyên bố trên truyền hình nước Mỹ rằng: “Mỹ tiến hành phong
toả Cu-ba bằng đường biển. Bất cứ tàu thuyền nào đi qua vòng phong toả đều bị tiêu diệt”. Đồng thời
Mỹ cử 180 chiến hạm bao vây chặt Cu-ba, ngoài ra còn có250.000 bộ binh, 95.000 quân lính thuỷ
đánh bộ và lính dù sẵn sàng tấn công Cu-ba.
Liên Xô tuyên bố sẵn sàng chiến đấu và sẽ bắn chìm bất cứ chiếc tàu nào của Mỹ muốn ngăn cản
tàu của Liên Xô, tiếp theo là 25 chiếc tẩu buôn hành quân đi về hướng Cu-ba. Khoảng trưa ngày 24,
đội tàu buôn của Liên Xô đi tới tuyến phong toả của Mỹ. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh có thể xảy ra.
Thời gian trôi đi từng phút, từng phút một. 10 giờ sáng đúng, các tàu chiến hạm và tàu ngẩm của
Mỹ sẵn sàng nhả đạn. Đến 10 giờ 32 phút, một bộ phận tàu buôn của Liên Xô chững lại không đi tiếp
và quay đẩu trở lại, còn mấy chiếc sau khi quân Mỹ lên kiểm tra xác nhận không chở vũ khí tấn công,


cho phép qua tuyến phong toả. Ngày hôm sau Khơ- rutxôp gửi cho Ken-nơ-đi một bức thư đề nghị:
“Chỉ cẩn Mỹ đảm bảo không tấn công Cu- ba, Liên Xô sẽ rút hết tên lửa ra khỏi lãnh thổ Cu-ba. Đồng
thời yêu cẩu Mỹ rút hết tên lửa đặt tại Thổ Nhĩ Kỳ”.
Sau 13 ngày khủng hoàng tên lửa ở Cu -ba, cuối cùng Liên Xô cũng đồng ý rút hết tên lửa khỏi Cuba. Liên Xô đã đưa tàu vào rút hết tên lửa đi dưới sự giám sát của quân Mỹ. Ngày 20 tháng 11, Mỹ
tuyên bố giải toả Cu-ba.
Tại sao lại diễn ra cuộc chiến tranh Nga Thổ?
■■■o

Nước Nga là một nước Đại lục, đến thế kỷ XVII, mặt phía Tây và phía Nam mới có đường ra
biển. Sa hoàng nước Nga muốn chiếm được lối ra biển để giành quyền kiểm soát trên biển. Họ định kế
hoạch: một là Tây tiến, giành lối ra biển Fa-rô, thông biển nước Nga với Đại Tây Dương; hai là xuống
phía Nam, chiếm lấy lối ra Hắc Hải, kiểm soát eo biển Hắc Hải để Hạm đội Nga có thể đi về phí Tây
vào Địa Trung Hải.
Để chiếm lối ra Hắc Hải, nước Nga đã tuyên chiến với Thổ Ôt -tôman nhiều lẩn. Năm 1735 1739,
nước Nga đánh chiếm A-xut hai bên liên tiếp đánh nhau, quân Thổ bị thua liền nhiều trận phải ký với
Nga các hoà ước chịu để cho Nga chiếm cửa sông Đông và các vùng Cap-cadơ ven biển Hắc Hải.
Đế quốc Ôt -tôman Thổ Nhĩ Kỳ oai phong một thời trong lịch sử nhưng đến cuối thế kỷ XVIII lâm
vào khủng hoảng nghiêm trọng. Đế quốc xuyên 3 châu lục Âu, Á, Phi này trở thành chú cừu để người ta

xâu xé. Các nước mạnh ở châu Âu đều biết rõ, ai chiếm được “di sản” của Thổ Nhĩ Kỳ người đó sẽ
giành được uu thế tuyệt đối. Bởi vậy Nga, Anh, Pháp đều lao vào cuộc đấu quyết liệt.
Những năm 40 của thế kỷ XIX, một trận phong ba nổi lên từ “Thánh địa” Giê-ru-xalem. Ở thành
Jerusalemnày có rất nhiều Thánh điện, Giáo đường và các gác chuông to lớn của đạo Cơ Đốc. Nắm
được vật tin này là nắm được chiếc chìa khoá vàng còn được gọi là “chìa khoá lăng tẩm của Thượng
đế”, có nghĩa là có quyền lợi tối thượng đối với các tín đồ Cơ đốc giáo Ôt-tôman. Vào thế kỷ XVIII,
chiếc chìa khoá này nằm trong tay giáo hội chính thống phương Đông, do đó nước Nga cũng thuộc giáo
hội chính thống phương Đông đã chiếm được ưu thế. Nhưng vào năm 1850, Vua Pháp là Lu-y Bônapac đã đề cập đến chuyện này, cho rằng phải để cho giáo hội Thiên chúa nắm giữ chiếc chìa khoá
đó, vì vậy đất bằng đã nổi phong ba. Vua Thổ Nhĩ Kỳ Ap-đun Mai-chet vẫn ấm ức vì bị Nga chiếm
đất, ông định nhờ thế lực của Anh, Pháp để giành lại đất đai bị mất. Do đó quyết tâm ngả về phía Anh,
Pháp và trao chìa khoá cho giáo hội Thiên chúa.
Sa hoàng Ni-côla I được tin đã vô cùng tức giận. Chẳng bao lâu, quân Nga đã có mặt ở ngay ngưỡng
cửa Thổ Nhĩ Kỳ, dàn mười lăm vạn quân ở tư thế tấn công. Hai nước Anh, Pháp cũng vội đưa hạm đội
vào biển ÊPháp cũng vội đưa hạm đội vào biển Ê1853, quân Nga đột nhiên vượt sông tấn công nước
Thổ. Tháng mười năm đó quân Thổ cũng tuyên chiến với quân Nga. Chiến tranh đồng thời nổ ra trên
sông Đông ven Hắc Hải và Cap-cadơ. Tháng 11, tại bờ Nam Hắc Hải thuộc phía Bắc Thổ Nhĩ Kỳ,
quân Thổ thua to. Thấy tình hình nguy ngập, hạm đội của Anh, Pháp phải lao vào ngay Hắc Hải. Tháng
3 năm 1854, Anh và Pháp chính thức tuyên chiến với Nga. Cuộc chiến tranh Nga -Thổ diễn biến thành
đại chiến châu Âu. Quân Nga buộc phải lui khỏi bán đảo Ban-căng. Chiến tranh Nga -Thổ đánh rồi lại
ngừng, ngừng rồi lại đánh kéo dài hơn 180 năm. Cuối cùng Nga chiếm được lối ra Hắc Hải, thực hiện
được ý đồ bành trướng.
Tại sao Giáo hoàng La Mã có Thập tự quân?
Mùa xuân năm 1095, Giáo hoàng La Mã triệu tập một Hội nghị Giáo hội, thì có sứ giả của Đông La
Mã đến xin gặp đưa tin khẩn cấp của Hoàng đế La Mã A-lê-xiut Đệ nhị, cẩu mong Giáo hoàng ra quân
cứu viện, thánh địa Giê-ra-xa-lem (Jerusalem) bị các giáo đồ I- xlam (Ixlam) chiếm mất rồi.
Giáo Hoàng Uyêcbanh đệ nhị vốn đã muốn phát triển thế lực sang phương Đông từ lâu, lập tức đồng ý


chấp nhận đề nghị cử binh sang giúp Đông La Mã.
Đến tháng 11, Uyêc -banh triệu tập Đại hội động viên Thập từ quân đông chinh. Giáo hoàng kêu

gọi các giáo đồ từ mọi nơi kéo đến: “Thượng đế yêu cẩu chúng ta giải cứu anh em Cơ đốc của chúng
ta ở phương Đông, giành lại thánh địa Giê-ra-xalem, ở phương Đông có vô vàn vàng bạc.
Diễn văn của Uyên-banh đã kích động tình cảm tôn giáo cuồng nhiệt của giáo dân.
Sau hội nghị, họ tranh nhau lấy giá chữ thập bằng vải đỏ khâu vào trang phục của mình để biểu
trưng là Thập tự quân. Giáo hoàng định ngày 15biểu trưng là Thập tự quân. Giáo hoàng định ngày
151096 là ngày xuất chinh, lấy Công- xtang-tinôp làm nơi tập kết. Từ đó bắt đẩu một cuộc thập tự
chinh về phương Đông kéo dài đến hai trăm năm. Vì đạo Ix-lam lấy biểu tượng là trăng lưỡi liềm nên
cuộc chiến tranh này còn gọi là “Cuộc chiến giữa thập tự và lưỡi liềm”.
Trong thập tự quân vừa có những giáo sĩ trung thành, vừa có cả bọn lưu manh. Có người chiến đấu
vì Chúa, có kẻ cẩu mong sự cướp bóc vơ vét vùng đất bị chinh phục, có những người mong rằng qua
cuộc Đông chinh, sẽ rửa sạch được tội lỗi.
Mùa xuân năm 1096, một cánh Thập tự quân do các nông dân Pháp, Đức hợp thành, khoảng một
vạn người, do sự kích động tôn giáo vội vã đến Tiểu Á đánh trận đẩu tiên. Những con người đáng
thương này vừa thiếu vũ khí, lại không có kiến thức quân sự, kết quả đã bị quân Thổ Nhĩ Kỳ đánh cho
tan tác.
Lẩn thất bại này không làm nguôi đi bẩu máu cuồng nhiệt chiến tranh. Mùa xuân năm sau, một cánh
quân Thập tự quân khoảng 3 vạn người do các Chúa phong kiến Pháp, Đức, Ý chỉ huy đã chia làm
nhiều đường tiến vào Công-xtan-tinôp. Tháng 6 năm 1099, Thập tự quân bao vây Giê-ru-xa-lem.
-ru-xa-lem.
7, sau một hồi hỗn chiến, thành Giê-ru-xalem đã bị chiếm và đã bị tắm trong máu. Thập tự quân trả
thù, tàn sát không thương tiếc. Thây người ngổn ngang, máu chảy thành sông. Hơn một vạn người vào tị
nạn trong đền thờ Ô-ma bị giết hết, họ đều là những người già, phụ nữ và trẻ em.
Thập tự quân lấy Giê -ru-xa-lem (Jerusalem) làm thủ đô, xây dựng nên Vương quốc Giê- ruxalem.
Công tước Gô-đơ-froa đơ Bui-ông (Godefroyde BuoiUon), người Pháp được đưa lên làm vua. Ngoài
ra, người ta còn lập nên Công quốc An-tiôt, Bá quốc Ê-đet-xa và Bá quốc Tri-pô-li, về danh nghĩa ba
nước này đều phụ thuộc vào Vương quốc Giê-ru-xa- lem. Nhưng cuộc chiến giữa Chữ thập đỏ và Lưỡi
liềm vẫn chưa kết thúc.
Giáo dân Ixlam chiếm lại Giê-ru-xalem và các thị thành khác. Thập tự quân muốn chiếm lại những
phẩn đất đã mất. Năm 1203, Thập tự quân Đông chinh một lẩn nữa, nhưng lẩn này họ đánh cướp thủ đô
Đông La Mã, Công-xtan-tinôp, giết hại chính những người anh em Cơ Đốc của họ. Từ đó sự cuồng

nhiệt Đông chinh của Thập tự quân mới chấm dứt. Thập tự quân Đông chinh tất cả 8 lượt. Giáo hoàng
cũng muốn tổ chức lẩn thứ 9, nhưng không còn ai nghe theo nữa. năm 1291, Ai Cập thu hồi nốt của
Thập tự quân cứ điểm cuối cùng, thành Acco, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của Thập tự quân.
Giấy và nghề in được phát minh như thế nào?
Thời cổ đại, trước khi phát hiện ra giấy và nghề in, tổ tiên chúng ta đã phải dùng những thanh tre,
thanh gỗ để ghi chép lại và truyền bá văn hoá tri thức cho mọi người.
Vào thời Tây Hán, Trung Quốc đã bắt đẩu phát minh ra giấy. Vì phương pháp sản xuất còn thôsơ,
giấy hồi đó vẫn chưa được dùng để viết sách.
Đến thời Đông Hán, nhà phát minh Sái Luân, trên cơ sở của giấy Tây Hán, vào năm 105, đã cải tiến
nghề làm giấy. Ông dùng vỏ cây, dây đay, vải rách... để làm nguyên liệu sản xuất giấy. Loại giấy này
trong các sách cổ gọi là “Giấy Sài hẩu”.
Sau khi giấy được phát minh và sử dụng rộng rãi, dẩn dẩn thay thế cho các thanh tre, thanh gỗ và
các tấm vải để dùng viết sách. Nhưng thời đó, vẫn chưa phát minh ra nghề in. Một cuốn sách muốn trở


thành nhiều cuốn khác phải tốn rất nhiều công sức, thời gian, ảnh hưởng đến việc phổ cập và truyền bá
văn hoá. Tổ tiên ta đã tích cực tìm cách, mày mò sáng tạo, cuối cùng đã hoàn thành công trình truyền
bá văn hoá -nghề in đã được phát minh.
Khởi nguồn của nghề in, trước hết phải nói đến là các con dấu và bia khắc. Con dấu là các hình và
chữ khắc trên ngọc, gỗ hoặc đá. Chúng xuất hiện sớm nhất vào thời Xuân thu Chiến quốc. Theo “Sử
Ký”, sau khi Tẩn Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, muốn chiến công của mình được lưu lại muôn
đời, ông đã cho khắc vào bia đá ở nhiều nơi.
Năm 175, theo đề nghị của nhà học giả Sái Ung, Hoàng đế đã sai khắc “Ngũ kinh” của đạo Nho vào
bia đá, để các học sinh viết theo. Hai trăm năm sau, có người đã phát minh ra phương pháp “vỗ” vào
bia đá, tạo ra ấn phẩm đẩu tiên trên thế giới.
Việc sử dụng con dấu và đá khắc lâu dài đã tạo điều kiện cho nghề in ra đời. Tổ tiên ta khi sử dụng
con dấu, vẫn phải bôi lên mặt con dấu một lớp bùn in mỏng, gọi là “phong nê” (phủ bùn). Từ sự gợi ý
của con dấu, người ta khắc những trang sách lên tấm gỗ giống như khắc những con dấu, rồi đem in.
Bản in cổ nhất theo cách này còn lưu lại đến bây giờ là cuốn “Kinh Kim Cương” vào năm Hàm Thông
thứ 9 đời nhà Đường, tức năm 868.

Phát minh in bằng bản khắc đã đưa nghề in tiến bộ thêm một bước lớn, nhưng việc in một cuốn
sách vẫn mất quá nhiều thời gian, và cẩn phải cải tiến. Trải qua rất nhiều cố gắng của nhiều người, đến
đời Tống, Tất Thăng đã phát minh ra lối in chữ rời. Ông đã lấy keo đất làm thành các phôi theo cùng
một quy cách. Mỗi đẩu khắc chữ ngược, bỏ vào lò nung cho cứng lại, thế là thành các chữ rời (bằng
sứ). Chữ rời được xếp thành bảng, dùng một khung ván bằng sắt, trước hết quét lên ván sắt một lớp
sáp và nhựa thông, sau đó nhặt một chữ rời xếp vào trong khung. Xếp đẩy một khung làm thành một
bản. Sau đó hơ lên lửa, sáp và nhựa thông sẽ chảy ra, người ta lại lấy mặt ván phẳng ép lên, sáp và
nhựa thông đông cứng lại, chữ rời sẽ bám chặt vào ván sắt, lúc này chúng ta có thể quét mực đặt giấy,
lăn ép để in. Phát minh này sau đó đã được cải tiến lên với các chữ rời bằng đồng, bằng chì.
Nghề in của Trung Quốc phát minh đã góp phẩn đẩy mạnh sự phát triển văn hoá trên toàn thế giới.
Ngày nay, nghề in càng hoàn thiện cùng với trình độ khoa học hiện đại.
Tần Thuỷ Hoàng đốt sách chôn nhà nho là chuyện như thế nào?
Năm 213 trước Công nguyên, Tẩn Thuỷ Hoàng ban yếu trong cung điện của thành Hàm Dương cho
các quận thẩn. Sau ba tuẩn rượu, viên quan phó xạ Chu Thanh Thẩn đứng dậy nói lên lời chúc rượu, ca
ngợi Tẩn Thuỷ Hoàng đã đem các nước chư hẩu vốn dĩ tách rời nhau chuyển thành các quận huyện,
làm cho thiên hạ thái bình, công lao ấy của Tẩn Thuỷ Hoàng thật là bất hủ.
Nhưng học sỹ Thuẩn Vu Việt đứng dậy công kích chế độ quận huyện. Hơn nữa ông ta còn yêu cẩu dựa
vào thể chế của đời xưa cắt đất phong hẩu cho các đệ tử.
Lúc bấy giờ thừa tướng Lý Tư đứng lên bác bỏ các luận điểm của Thuẩn Vu Việt, rồi lại mượn vấn
đề này để nói rộng ra rằng những kẻ đọc sách chỉ quen luận bàn Thi Thư, dùng những chuyện đời xưa
để bài bác công việc ngày nay, gây mê cảm, làm hỗn loạn lòng người, vì thế nhất định phải đem họ ra
mà trừng trị thật nghiêm mới được.
Tẩn Thuỷ Hoàng nghe nói như thế, đã xuất phát từ nhu cẩu phải tăng cường chuyên chế, thống trị và
đàn áp tư tưởng, tiếp thu kiến nghị của thừa tướng Lý Tư, ra lệnh đốt hết các sách sử không thuộc về
nước Tẩn cùng tất cả các sách Thi Thư đang tàng trữ trong dân gian, kể cả các trước tác của Bách Gia
Chư Tử. Hoàng đế lại quyết định từ nay về sau, hễ kẻ nào còn dám bàn luận về Thi Thư thì sẽ bị chặt
đẩu, kẻ nào dùng các chuyện cổ xưa để bài bác việc đời nay thì sẽ bị chém cả nhà.
Vì thế cho nên vô số các điển tích văn hoá đã bị đốt ra thành tro. Sau khi đốt sách đến năm thứ hai,
các nho sinh càng thêm bất mãn. Ở sau lưng hoàng đế, họ mắng chửi Tẩn Thuỷ Hoàng là tham nắm
quyền thế, tàn bạo thành tính. Sau khi nhận được những tin cáo giác mật, Tẩn Thuỷ Hoàng lập tức phái



người đi điều tra, bắt giữ các nho sinh trong thành Hàm Dương để thẩm vấn. Vì các nho sinh này tố
cáo lẫn nhau, cho nên Tẩn Thuỷ Hoàng lên cơn thịnh nộ, đã đem tất cả 460 nhà nho có liên can đến vụ
này chôn sống hết.
Đó tức là sự kiện “Phân thư thanh nho” (đốt sách và chôn nhà nho) đã được ghi trong lịch sử.
Việc Tẩn Thuỷ Hoàng đốt sách và chôn nhà nho đã kìmhãm các tư tưởng chống đối, nhưng đồng
thời việc này cũng đã huỷ diệt nền văn hoá lịch sử. Về sau, tuy rằng hoàng đế này có được nghe những
lời ca tụng, nhưng trong mỗi lời ca ngợi đều có hàm ý báo trước sự diệt vong cuối cùng
Trong lịch sử, Đài Loan đã được quy về Trung Quốc như thế nào?
Các hòn đảo quý Đài Loan từ cổ tới nay đã là lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng trong lịch sử nó đã
hai lẩn bị nước ngoài xâm lược và chiếm cứ. Trải qua những cuộc chiến đấu chung của nhân dân hai
bên bờ biển, Đài Loan cũng đã được quy về Trung Quốc.
Năm 1624, bọn thực dân Hà Lan xâm chiếm Đài Loan, nhân dân Đài Loan đã không ngừng khởi nghĩa
chống lại quyền thống trị thực dân của chúng.
Năm 1661, anh hùng dân tộc là Trịnh Thành Công đã chỉ huy nhiều vạn tướng sĩ bắt đẩu thu phục
Đài Loan. Họ đổ bộ lên cảng Hoà Liêu (trong địa phận Đài Loan), do có được sự ủng hộ rất to lớn của
nhân dân Đài Loan, họ tiến tới vây đánh thành Xích Khảm là nơi có tổng đốc phủ Hà Lan. Sau tám
tháng chiến đấu, bọn thực dân Hà Lan cuối cùng cũng phải đẩu hàng.
Trịnh Thành Công thu phục Đài Loan không được bao lâu thì mắc bệnh qua đời. Con trai ông là Trịnh
Kinh lên thay ông cai quản Đài Loan.
Khi đó người làm chủ về chính trị trên Đại Lục là hoàng đế Khang Hy của triều đình Mãn Thanh,
đối với Đài Loan ông ta áp dụng phương châm: “dỗ dành làm cho quy phục” và đã từng sai người
vượt biển sang Đài Loan để đàm phán hoà bình với Trịnh Kinh. Nhưng hối Trịnh Thành Công còn
sống, ông đã từng được vị hoàng đế lưu vong triều Nam Minh ban cho họ Chu kèm theo danh hiệu
“Quốc Tính Da”, vì thế hai bố con họ Trịnh giữ thái độ chống đối đến cùng với chính phủ nhà Thanh,
và các cuộc đàm phán hoà bình chẳng đem lại kết quả gì cả.
Năm 1681, Trịnh Kinh qua đời, người lên kế vị là con thứ của ông ta mới mười hai tuổi tên làTrịnh
Khắc Sảng.
Đến thời kỳ này, hoàng đế Khang Hy quyết định xuất quân thu phục Đài Loan. Ông ra lệnh cho đại

tướng Thi Lang chỉ huy. Thi Lang vốn là tướng cũ của quân Trịnh quy hàng. Qua bảy ngày đêm kịch
chiến, Thi Lang chiếm được 36 hòn đảo Bành Hồ. Trịnh Khắc Sảng thấy quyết tâm của quân đội phân
tán bèn sai người đi cẩu hoà.
Năm 1684, Trịnh Khắc Sảng vâng mệnh hoàng đế Khang Hy về kinh và được phong làm nhất đẳng
công tước, đồng thời Khang Hy cố hết sức lấy lòng của quẩn chúng, đặt ra Đài Loan phủ ở Đài Loan
thuộc về tỉnh Phúc Kiến.
Từ đó quan hệ của Đài Loan với lục địa ngày càng thêm mật thiết, kinh tế và văn hoá cũng ngày
một phát triển.
Năm 1895, Đài Loan lại bị đế quốc Nhật xâm chiếm. Mãi đến năm 1945, nhân dân Trung Quốc đã
chiến đấu rất gian khổ và dũng cảm, mới giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh kháng chiến
chống Nhật. Vì thế Đài Loan mới trở về với Trung Quốc nhưng lại bị chia
cắt. Ngày nay, nhân dân hai bên bờ biển cùng mong ngóng sớm có ngày được đoàn viên. Tại sao
người Do Thái lưu lạc khắp nơi trên thế giới?
Trên thế giới, người Do Thái là một dân tộc hiếm có, vì họ sống tản mác trên khắp thế giới nhưng
vẫn còn lưu giữ được các đặc điểm của dân tộc mình. Trong lịch sử, người Do Thái đã phải trải qua
nhiều khổ ải trẩm trọng. Trong Chiến tranh Thế giới II, họ đã bị Đức Quốc xã giết hại hơn sáu triệu
người, để lại một trang sử đẫm máu trong lịch sử nhân loại


Người Do Thái là con cháu dân Hebrơ (Hebreux) sống trên vùng đất Palextin ngày nay từ 3500
năm trước. Khoảng năm 1021 trước Công nguyên, nơi đây đã hình thành một vương quốc thống nhất,
định đô tại Jerusalem. Đến thế kỷ X trước Công nguyên, vương quốc này chia thành hai nước là Ixaren
ở miền Bắc và Juda ở miền Nam. Sau đó (khoảng thế kỷ VIII trước Công nguyên) hai vương quốc này
bị người Asyri (ở vùng Đông Bắc Irắc ngày nay) xâm chiếm.
Thế kỷ VI trước Công nguyên, Jerusalembị vương quốc Babilon (Irắc ngày nay) tiêu diệt. Dân
chúng bị bắt làm tù binh đưa đến Babilon và trở thành nô lệ. Đây là thời kỳ hình thành đạo Do Thái.
Về sau, những người Do Thái đã được phóng thích lại quay về Jerusalem và lập nên quốc gia của
mình là quốc gia Juda.
Trong thế kỷ I trước Công nguyên, họ lại bị người La Mã chinh phục. Người Do Thái đã tổ chức
hai cuộc khởi nghĩa lớn để chống lại người La Mã nhưng đều bị đàn áp. Phẩn lớn người Do Thái bị

giết, còn tất cả những người may mắn sống sót đều bị xua đuổi. Từ đó, người Do Thái phiêu bạt khắp
nơi đất khách quê người.
Rất nhiều người Do Thái, sau khi di cư đến châu Âu, bị nhà cẩm quyền theo Cơ Đốc giáo coilà kẻ
phản bội Chúa Cứu thế Jesusnên đã bị bức hại, không được quyền sở hữu đất đai. Vì thế, dân Do Thái
chủ yếu sống dựa vào buôn bán. Nhưng khi tích luỹ được một số tài sản, họ lại bị giai cấp thống trị nơi
đến cư trú tìm cách cướp đoạt, giết hại và xua đuổi. Vậy người Do Thái chỉ còn cách rời đến ở nơi
khác. Vì lý do đó, hàng ngàn năm nay, dân tộc Do
Thái đã dẩn dẩn phiêu bạt, tản mát khắp nơi trên thế giới.
Châu Phi đã bị chia cắt như thế nào?
Châu Phi trong con mắt của người châu Âu hàng nghìn năm nay vẫn là mảnh đất thẩn bí. Ngay từ
thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, trong sách của Hê-rôtđơ-tôt (Herodotus), nhà sử học Hy Lạp cổ
vẫn được mệnh danh là “Cha đẻ của lịch sử” đã mô tả sa mạc, sông lớn và rừng rậm của châu Phi.
Nhưng người châu Âu hiểu biết về châu Phi quá ít, trong một thời gian dài châu Phi chỉ được coi là
một dải bờ biển, chứ không phải là một châu lục. Khi đó người châu Âu vẽ trên bản đồ, phẩn đất của
châu Phi vẫn bỏ trống. Trên đó chỉ vẽ mấy con sông lớn. Ngoài ra chỉ có những con voi.
Đẩu thế kỷ XV, thực dân châu Âu bắt đẩu đặt chân lên mảnh đất thẩn kỳ này. Năm 1415, người Bồ
Đào Nha đi qua eo biển Gi-bơ-ran-ta (Gibraltar)chiếm thành Xơ-ta (Centa) của Ma Rốc, xây dựng
một căn cứ điểm thực dân đẩu tiên ở châu Phi. Tháng 3 năm 1488, Đi- at (Baratolomeu Dias) là người
Bồ Đào Nha cùng với thuỷ thủ của ông đổ bộ lên cực Nam của bờ biển châu Phi. Nơi đây được quốc
vương Bồ Đào Nha đặt tên là mũi Hảo Vọng có nghĩa là miền đất mang lại “những hy vọng tốt đẹp”,
nhưng nó đã mang lại cho châu Phi tai họa hàng mấy trăm năm về sau. Song song với con đường biển
mới khai phá, thực dân châu Âu bắt đẩu xâm lược châu Phi.
Năm 1602 Hà Lan thành lập công ty Đông Ấn, năm 1626 lại thành lập công ty Tây Ấn. Chính phủ
Hà Lan quy định lấy sông Ka-phu-ê (Kafue)làm gianh giới. Phía Đông thuộc về công ty Đông Ấn, phía
Tây thuộc về công ty Tây Ấn. Đến nửa sau thế kỷ XVII, Anh và Pháp tăng cường xâm lược châu Phi.
Hẩu như toàn bộ vùng ven biển châu Phi đều bị thực dân phương Tây chiếm lĩnh.
Sau khi bọn thực dân cướp xong vùng ven biển, chúng bắt đẩu xâm nhập vào nội địa với quy mô
lớn. Đến năm 1876, Anh đã chiếm xong Nam Phi, Zambia, Sieraleono, Ghana và vùng ven biển Nigieria; Pháp chiếm Senegal, Algeria, Guinea, Bờ Biển Ngà (Ivory Coast), DahoMe nay là Bê-nanh
(Benin);Bồ Đào Nha chiếm một phẩn sa mạc Sahara.
Đến cuối thế kỷ XIX, cùng với bước quá độ sang chủ nghĩa đế quốc, các nước phương Tây tăng cường

xâu xé mảnh đất châu Phi. Năm 1876 họ triệu tập họp địa lý quốc tế ở Bruc- xen (Bỉ), sau khi hội nghị
kết thúc họ vội vã bắt tay ngay vào hành động.
Dã tâm xâm chiếm và xâu xé lục địa châu Phi của bọn đế quốc chủ nghĩa đã gây nên những trận


đấu đá triền miên, khi thì đao búa súng gươm, khi thì ngoại giao ngọt nhạt, ký kết hiệp ước này đến
hiệp ước kia để chuyển nhượng các vùng đất thuộc địa.
Mãi đến cuối thế kỷ XIX đẩu thế kỷ XX các nước phương Tây mới ăn chia xong châu lục lớn thứ
nhì thế giới này. Trong đó Pháp chiếm 10.790.000 km2, 35,6% diện tích châu Phi; Anh chiếm
8.860.000 km2, 29% châu Phi; Đức chiếm 2.340.000 km2, 7,7% châu Phi; Bỉ chiếm 2.340.000, 7,7%
châu Phi; Italia chiếm 2.333.000 km2, 7,75%; Bồ Đào Nha chiếm 2.000.000 km2, 7%; Tây Ban Nha
chiếm 300.000 km2, 1% diện tích châu Phi.
Sang đẩu thế kỷ XX, trên lục địa châu Phi chỉ còn Ê-ti-ô-pia và Li-bêria là còn độc lập về danh nghĩa.
Còn tất cả các miền đất khác đều bị các nước châu Âu chia nhau hết
Liên Hợp Quốc được thành lập như thế nào?
Trong đại chiến thế giới lẩn thứ hai, một cuộc chiến tranh quy mô lớn nhất trong lịch sử thế giới,
61 nước và khu vực bị cuốn vào cuộc chiến, cướp đi sinh mạng hàng triệu người dân vô tội, biết bao
thành phố biến thành tro tàn. Trước những thảm cảnh do bọn phát xít gây ra, người ta suy nghĩ tìm cách
làm sao để tránh được tai hoạ tương tự sau này, từ đó dẩn hình thànhý niệm: xây dựng một tổ chức
quốc tế để bảo vệ hoà bình và an toàn thế giới.
Năm 1942 khi ngọn lửa chiến tranh do chủ nghĩa phát xít gây ra đang bùng cháy ở mọi nơi, khát
vọng chính nghĩa của nhiều dân tộc là đoàn kết lại cùng chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít. Nhân dân
Mỹ cũng mong muốn chính phủ thuận lòng dân, đi theo trào lưu phát triển của lịch sử, đóng góp vào
hoà bình thế giới. Tháng 1 năm 1942, tổng thống Mỹ Ru- doven, đề xướng mời đại biểu cấp cao của
26 nước đến họp tại thủ đô Oa-sinhtơn để thảo luận xây dựng một mặt trận thống nhất chống phát xít.
Các đại biểu đã nhất trí cho rằng cẩn huy động toàn bộ lực lượng quân sự và tài nguyên kinh tế của
nước mình để chống lại các nước phát xít Đức, Ý, Nhật. Đại biểu các nước đã ra một bản tuyên bố
chung. Theo đề nghị của Tổng thống Ru-dơ-ven đặt tên cho bản tuyên ngôn là: “Tuyên ngôn của Quốc
gia Liên hợp”, các đại biểu của 26 nước tán thành và cùng ký vào bản tuyên ngôn.
Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1944, các hội nghị giữa Mỹ, Anh, Liên Xô rồi Mỹ, Anh, T rung Quốc

tổ chức tại Oa-sinhtơn, quyết định thành lập một tổ chức quốc tế sau chiến tranh, nhất trí vẫn dùng cụm
từ “Quốc gia Liên Hợp Quốc” mà 26 nước đã ký vào bản tuyên bố chung, nhưng sửa lại một chút
thành Liên Hợp Quốc. Hội nghị cũng thảo luận về tôn chỉ, nguyên tắc và bộ máy, hình thành một bộ
khung hoàn chỉnh của Liên Hợp Quốc.
Tháng 2 năm 1945, hội nghị I -anta ở Crưm, Liên Xô giữa thủ tướng Anh Sơc-sin, tổng thống Mỹ
Ru-dơ-ven và Xtalin quyết định cùng với Trung Quốc thành lập Liên Hợp Quốc và đến ngày 5 tháng 3
chính thức gửi thư mời các nước chống phát xít tham gia.
Ngày 25 tháng 4, 51 đoàn đại biểu các nước gồm 856 người đến họp tại San-phran-xi-cô, Mỹ. Đây là
một hội nghị quốc tế lớn nhất chưa từng có trong lịch sử.
Ngày 26 tháng 6, Hội nghị thông qua “Hiến chương Liên Hợp Quốc”, có 153 đại biểu của 51 nước ký
tên.
Ngày 24 tháng 10, Liên Hợp Quốc chính thức tuyên bố thành lập. Cho đến nay, Liên Hợp Quốc đã
bao gồm 185 nước và khu vực thành viên. Liên Hợp Quốc vẫn đang phát huy tác dụng to lớn của nó
trong các công việc quốc tế.
Thành Vaticăng nằm ở đâu?
Góc Tây Bắc thàn Rôm nước Ý có một ngọn đồi gọi là Va -ticăng. Trên ngọn đồi có một nhà thờ
lớn nhất thế giới, gọi là nhà thờ Xanh Pi-tơ, quanh đó có một số cung điện to đẹp đàng hoàng, người ta
gọi là cung giáo hoàng. Ngọn đồi Va-ticăng nhỏ bé đó lại là một quốc gia có chủ quyền độc lập hẳn
hoi. Tên chính thức của đất nước này là “Thành quốc Va-ticăng”. Lãnh thổ chỉ vẻn vẹn có 0,44 km2,
chỉ bằng cố cung của Trung Quốc. Dân số cũng chỉ hơn 1.000 người... Nhưng có đủ cả bưu điện, phát


thanh, truyền hình, ngân hàng và một đội quân thường trực gồm 100 vệ sỹ người Thuỵ Sỹ, giáp trụ
nghiêm chỉnh. Nước này cũng thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới. Mặc dù vậy,
nhà vua, tức giáo hoàng La Mã của thành Va-ticăng vẫn than thở: “Thời thế đổi thay, nay không còn
như xưa nữa”.
Tại sao vậy? Năm 754, Quốc vương của vương quốc Lông -bacđi chiếm cứ phía Bắc I- talia là Axtônphơ (Astolfe) đem quân đánh xuống phía Nam, tấn công vào La-vi-ni-um, trung tâm thống trị của
đế quốc La Mã tại Ý, bao vây thành Rôm, nơi ở của Giáo hoàng. Giáo hoàng Xtêphan II đã phải cẩu
cứu vua Pháp là Pê-panh giải cứu thành Rôm.
Năm 754, Pê -panh đánh bại người Lông-bacđi, giải vây cho thành Rôm. Pê- panh dâng tặng Đức

Giáo hoàng miền Trung nước Ý dành được trong chiến tranh, bao gồm vùng La- vi-nium và vùng phụ
cận thành Rôm. Từ đó Giáo hoàng lập nên một nước của Giáo hoàng ở miền Trung nước Ý, thành Rôm
trở thành thủ đô của nước Giáo hoàng.
Từ năm 926 trở đi, nước Giáo hoàng trở thành một bộ phận của đế quốc La Mã thẩn thánh. Năm
1198 Anh-nôxăng III đăng quang lên chức Giáo hoàng, ông nêu cao quyền lực của Giáo hoàng, ép vua
các nước châu Âu phải cúi đẩu nghe lệnh. Quyền lực của Giáo hoàng đạt đến đỉnh cao.
Cu ối thế kỷ XVIII, quân đội Na-pô-lêông quét ngang châu Âu, chiếm Rôm, Giáo hoàng Pi- e VI bị
mất quyền lực thế tục, chịu mất lãnh thổ của nước Giáo hoàng. Nước Giáo hoàng thành lập nước Cộng
hoà Rôm. Mặc dù nước Giáo hoàng sau này được phục hồi, nhưng khôngcòn được như xưa nữa.
Phong trào thống nhất nước Ý sôi nổi năm 1870, nhân dân Ý tấn công vào nước Giáo hoàng và nước
Giáo hoàng sáp nhập vào vương quốc I-talia. Tên nước Giáo hoàng không còn nữa.
Năm 1929, Mut -xô-lini tên đẩu sỏ phát xít Ý muốn được sự ủng hộ của Giáo hoàng, đã ký với
Giáo hoàng một hiệp định: Italy công nhận Va-ticăng là quốc gia có chủ quyền của Giáo hoàng. Giáo
hoàng công nhận sự diệt vong của nước Giáo hoàng. Italy tách Va- ticăng ra khỏi thành Rôm, để Giáo
hoàng lập nên một trong một nước, đó là “thành Va-ticăng” (Toà thánh Va-ticăng).
Tại sao cần phải có luật quốc tế?
Từ xa xưa đến nay luôn luôn xảy ra những mắc mớ giữa các nước về mậu dịch và lãnh thổ. Để giải
quyết những mắc mớ đó, người ta phải họp nhau để thống nhất với nhau các hiệp ước và các pháp qui.
Hiệp ước quốc tế cổ nhất còn đến ngày nay là Hoà ước ký giữa La-cônia và Uma (Hai nước thuộc lưu
vực sông Lưỡng Hà, Irắc ngày nay) được khắc vào cột đá theo lối hình chữ nêm, có tên gọi là “Bia Ana-tômu”, hiện còn lưu giữ ở bảo tàng Lu-vơ- rơ.
Thế kỷ XIV, XVII ở châu Âu xuất hiện nhiều quốc gia độc lập, họ có mối quan hệ với nhau, dẩn
dẩn nhận thấy tính quan trọng của việc thừa nhận chủ quyền lãnh thổ. Để giải quyết sự thiếu rõ ràng
trước kia về ranh giới đất đai và những mắc mớ trên vùng biển mà thuyền các nước thường qua lại,
các nước châu Âu đòi hỏi phải có các chuẩn tắc hành vi giữa các nước với nhau. Năm 1625, cuốn
“Luật chiến tranh và hoà bình” của nhà luật học người Hà Lan, ngài Hugô Gơ-rô-tiut ra đời. Sách đề
cập đến 3 nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là “Chủ quyền, hợp tác quốc tế và chủ nghĩa nhân đạo”.
Nêu rõ đặc điểm của luật quốc tế. Ông được người đời sau gọi là “Cha đẻ của luật quốc tế”.
Năm 1648, khi kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm ở châu Âu người ta đã ký “Hoà ước Vet phalen”. Hoà ước này thừa nhận các quốc gia không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng và chế độ xã hội,
đều bình đẳng với nhau, qui định các bên đều phải tuân thủ các điều đã ký trong hoà ước, quốc gia nào
vi phạm sẽ bị các nước khác cùng phản đối. Tinh thẩn chủ yếu của hoà ước này đã có ảnh hưởng quan

trọng đến việc hình thành các luật quốc tế cận đại.
Thế kỷ XIX, các nước châu Âu đã có những cuộc họp quốc tế lặp lại biên giới giữa các nước, luật
quốc tế được thông qua các hội nghị ngày nay càng hoàn thiện. Trong đó có Hội nghị Viên 1814 1815,
chính thức tuyên bố cấm buôn bán nô lệ và chia cấp ngoại giao thành Đại sứ, Công sứ, và Đại diện.


Năm 1856, quy tắc trung lập trong “Tuyên ngôn Pari” đã được hẩu hết các nước tiếp thu. Năm 1899 và
1907 diễn ra hai Hội nghị hoà bình La Hay đã thông qua “Công ước La Hay”., đã trở thành pháp qui
quốc tế mọi nước đều tuân theo.
Luật quốc tế là một loại pháp qui chỉ có hiệu lực đối với các nước tham gia ký kết hiệp ước quốc
tế. Trên thế giới không có một cơ quan chấp pháp đứng trên chính quyền các nước, nhưng nếu có một
nước nào vi phạm luật quốc tế, sẽ có thể bị cắt đứt quan hệ ngoại giao hoặc bị phong toả tài sản của
nước đó. Ngoài ra, các tranh chấp giữa nước này với nước kia có thể yêu cẩu toà án quốc tế làm trọng
tài giải quyết.
Toà án quốc tế là cơ quan tư pháp chủ yếu của Liên Hiệp Quốc xây dựng sau chiến tranh thế giới
lẩn thứ hai. Toà án được đặt tại La Hay thuộc Hà Lan gồm có 15 quan toà. Những quan toà này do bẩu
cử, các nước đề xuất. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và Hội đồng bảo an sẽ tiến hành bẩu chọn. Quan
toà có nhiệm kỳ 9 năm, có thể được bẩu nhiều nhiệm kỳ. Người được bẩu làm quan toà của Toà án
quốc tế sẽ đại diện cho toàn thế giới chứ không đại diện cho riêng nước mình.
Luật quốc tế là cách gọi chung những chuẩn tắc điều hoá quan hệ các nước với nhau, cho nên cũng
được gọi là Công pháp quốc tế. Những điều luật giải quyết những mắc mớ của nhân dân trên quốc tế
được gọi là Tư pháp quốc tế.
Buôn bán nô lệ có từ khi nào?
Buôn bán nô lệ là màn khởi xướng của người Bồ Đào Nha. Khi đó bọn thực dân châu Âu xây dựng rất
nhiều trang trại và các mỏ vàng ở châu Mỹ để khai thác tài nguyên nơi đây. Họ cưỡng ép người da đỏ
ở đó lao động. Người da đỏ bị bắt buộc lao động một cách nặng nhọc và bị đối xử một cách tàn nhẫn,
đã kịch liệt chống đối. Kết quả bị tàn sát rất thảm khốc. Các chủ trang trại và chủ mỏ cẩn rất nhiều lao
động. Họ nghĩ đến người da đen châu Phi. Năm 1502 đợt nô lệ da đen đẩu tiên đến đảo Xan-tô, Đômigô (thuộc Haiti) và bị ném về các trang trại. Từ đó việc buôn bán nô lệ ngày càng mở rộng.
Lúc đẩu, bọn thực dân tự mình tổ chức “đội săn người” để đi săn bắt nô lệ. Họ cướp phá dọc bờ biển
Tây Phi, công khai cướp bắt người. Nhưng đội săn người thường bị người da đen trừng phạt. Bọn thực

dân thay đổi phương thức, chúng dùng súng, đạn, rượu ngọt, vải hoa và một số đồ chơi, hối lộ và câu
kết với các tù trưởng bộ lạc để họ tiến hành cuộc chiến tranh săn bắt nô lệ giữa các bộ lạc da đen với
nhau. Sau mỗi cuộc chiến tranh, số nô lệ bắt được được đem bán, thế là nô lệ trở thành chiến lợi phẩm
của tù trưởng.
Những chiến lợi phẩm này được đánh dấu nung đỏ, dưới sự xua đuổi bằng roi vọt, dẫn họ tới bờ
biển. Bọn thực dân mua những thanh niên nam nữ khoẻ mạnh, đem họ nhốt vào những căn hẩm trong
các pháo đài buôn nô lệ ngay bờ biển, đợi tàu buôn đến, các nô lệ chui ra khỏi hẩm và bị lùa xuống
tàu. Họ phải sống thời gian dài trong các nhà tù di động đó, chịu đựng một chuyến đi biển đẩy khổ ải.
Thuyền đi trên biển nhiệt đới rất dài ngày, trong khoang thuyền phân và nước tiểu thải ra bừa bãi,
hôi thối không chịu nổi, đôi khi theo gió lan đi đến mấy cây số trên mặt biển. Nô lệ phẩn lớn bị bệnh,
ăn không no, không được uống nước ngọt, hơi chống đối là bị đánh đập, giết hại. Hàng ngày đều có nô
lệ chết đói, chết khát, chết bệnh hoặc bị đánh chết, xác nô lệ bị quăng xuống biển.
Thuyền buôn đến châu Mỹ, bọn nô lệ bị rao bán cho các chủ trang trại, chủ mỏ, sau đó chất đẩy
hàng hoá do nô lệ làm ra chuyển về châu Âu. Thời bấy giờ, người ta gọi thuyền buôn chất hàng hoá rẻ
mạt sản xuất ở châu Âu chở sang châu Phi là “Xuất chuyển”; đem nô lệ mua được ở châu Phi sang
châu Mỹ là “Trung chuyển”; đem sản vật do nô lệ mang về châu Âu là “Quy chuyển”. Trong hành trình
vận chuyển tam giác này, người nô lệ là hàng hoá thật sự quan trọng. Có người dự tính, trong hơn 300
năm từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, bọn thực dân châu Âu đã cướp từ châu Phi 15 triệu người. Mỗi
người đến châu Mỹ, có 4 -5 người da đen bị chết trong khi săn đuổi hoặc vận chuyển. Nếu kể cả số
người da đen bị đem đến châu Âu, châu Đại Dương và các đảo ở Thái Bình Dương, châu Phi tổn thất


khoảng 100 triệu người. Buôn bán nô lệ tàn nhẫn mang lại sự giàu có kinh khủng cho bọn thực dân
châu Âu, đồng thời mang đến cho nhân dân châu Phi tai hoạ khủng khiếp.
Vì sao tại nước Anh lại nổ ra cuộc chiến tranh Hoa hồng?
■■■o

Vào tháng 8 năm 1453, ở Luân Đôn nước Anh, bỗng lan truyền một tin giật gân: Quốc vương Hen-ri VI
bị bệnh tâm thẩn.
Nghe được tin này, gia tộc Giooc (York) với chiếc gia huy là bông hồng đỏ biết được tin này hết

sức vui mừng. Họ cho rằng gia tộc Lan-caxtơ (Lancaster) với chiếc gia huy là bông hồng đỏ, khống
chế triều đình đã lâu, đồi bại hết sức, cuộc chiến Anh Pháp trăm năm bị thất bại về phía nước Anh,
khiến cho người Anh phải nhục nhã. Bây giờ Quốc vương Hen-ri VI bị bệnh, ăn nói lung tung, hành
động bừa bãi không quản lý được công việc nhà nước. Đây chính là dịp tốt để họ giành lại ngôi vua.
Công tước xứ Giooc là Ri-sơt tích cực hoạt động ngay. Quý tộc miền Nam ủng hộ gia tộc Giooc, các
trưởng giả tư sản hoá cũng rất vui mừng, họ hy vọng công tước Giooc có thể thay thế Hen-ri VI, xây
dựng chính quyền bảo vệ quyền lợi của họ.
Gia tộc Lan -caxtơ chủ yếu đại biểu quyền lợi cho những quý tộc miền Bắc. Vùng này là vùng
phong kiến lạc hậu. Trước tình hình như vậy họ cũng rất lo lắng. Tay chân thân cận nhất của Quốc
vương là Công tước Xa-mai-xaithơ ra lệnh cho thủ hạ bí mật theo dõi hoạt động của gia tộc Giooc.
Vì “Nước không thể một ngày không vua”, nghị viện triệu tập cuộc họp cùng nhau cử Ri-sơt lên làm
“Hộ quốc công”. Ri-sơt lên nắm quyền lực, để quét sạch mọi trở ngại ông đã cho bỏ tù công tước Xamai-xaithơ vì tội danh: “Làm thất thủ Nooc-măng-đi và tham ô của công”. Nhưng chẳng bao lâu, tháng
12 năm 1454, Hen-ri VI bỗng nhiên khỏi bệnh. Ông nắm lại chính quyền và bãi chức Hộ quốc công
của Ri-sơt. Tiếp đó là phục chức cho Xa-mai-xaithơ; mặt khác, theo ý kiến của hoàng hậu Mac-garet,
tìm biện pháp đề phòng sự thoái vị của người anh họ Ri-sơt.
Risơt rất tức giận vội quay về phương Nam. Năm sau ông đã đề nghị thủ tiêu Công tước Xa- maixaithơ tại Kent để loại trừ kẻ xấu bên cạnh Vua. Nhưng Hen-ri VI không đồng ý và chỉ trích ông về
hành vi phản nghịch. Như vậy là cuộc chiến tranh 30 năm đã được châm ngòi. Cuộc chiến tranh giữa
các quý tộc phong kiến giành ngôi báu này được gọi là “Chiến tranh hoa hồng”.
Tháng 5 năm đó, Ri -sơt giương cao ngọn cờ có gia huy dòng học mình là Bông hồng trắng, dẫn
đại quân tiến đánh Vua Hen-ri VI. Hai bên nghênh chiến tại Xanh An-be, kết quả của trận này là quân
Lan-catxtơ đại bại, Công tước Xa-mai-xaithơ bị giết, vua HenriVI bị bắt làm tù binh. Quân Giooc
thừa thắng tiến về Luân Đôn, Ri-sơt lại làm Hộ quốc công, kiểm soát triều chính nước Anh.
Hoàng hậu Mac -garet là công chúa nước Pháp đã cùng con trai mình lãnh đạo quân Lan- catxtơ
tiếp tục chiến đấu với quân Giooc. Tháng 12 năm 1460, trong trận Vec-phenđơ đã đánh bại quân
Giooc, bắt sống Ri-sơt và đem xử tử bêu đẩu trước công chúng.
Cuộc chiến hoa hồng vẫn tiếp tục với mục đích trả thù và chiếm lĩnh ngôi báu giữa các thế hệ liên
tiếp của hai dòng họ Giooc và Lan-catxtơ. Cuộc chiến kéo dài 30 năm mới kết thúc với thắng lợi thuộc
về Hen-ri Tuphơn tức vua Hen-ri VII.
Tại sao bệnh dịch hạch lại trở thành đại hoạ của nhân loại?
Ngày 24 tháng 3 năm 1345, người ta phát hiện thấy trên bẩu trời một hiện tượng kỳ lạ: Thổ tinh, Mộc

tinh, Hoả tinh gặp nhau, chập làm một. Ở châu Âu trong đêm dài trung cổ đẩy mê tín, hiện tượng thiên
văn lạ này khiến cho mọi người kinh sợ. Các nhà chiêm tinh hốt hoảng nói rằng: “Đây là một triệu
chứng xấu nhân loại sẽ bị quỷ thẩn trừng phạt”. Thật không may, các nhà chiêm tinh lại nói đúng, một
nạn lớn đã đến, nhân loại gặp phải một đại hoạ chưa từng có trong lịch sử.
Ngay từ năm 1333, ở châu Á cách xa châu Âu đã sinh ra một thứ bệnh do chuột lây truyền, thứ
bệnh đáng sợ này theo con đường thương mại truyền đến Ấn Độ và một số nước khác, đồng thời nó


cũng hoành hành ở vùng Mê-do-pô-tamia (Lưỡng Hà) và Ai Cập. Đến năm 1347, nó xâm nhập vào
châu Âu một cách mạnh mẽ không có biện pháp nào ngăn chặn được đến tận đảo Xi-xin, Italy, và miền
Nam nước Pháp, Hà Lan, Đức, Ba Lan rồi đổ bộ sang Anh. Các nước không biết đối phó với bệnh này
ra sao, các thẩy thuốc đều bó tay, không phương cứu chữa.
Bệnh dịch hạch hoành hành ở đại lục châu Âu khiến cho nước Anh rất kinh sợ. Họ may mắn được hòn
đảo Ang-lê là phòng tuyến bảo vệ. Chắc tử thẩn không đến được đây. Nào ngờ khoa học chưa phát
triển, chưa tìm ra một biện pháp phòng ngừa dịch bênh, cho nên cuối cùng dịch hạch vẫn đổ bộ sang
Anh.
Người nhiễm bệnh dịch hạch, toàn thân cảm thấy đau đớn, tiếp đến là bị sốt cao, trên tay và mặt
xuất hiện những chấm đen. Người châu Âu khi phát hiện thấy nhà ai có người mắc bệnh này, cả nhà sẽ
bị đuổi đi, nhà bị đốt sạch. Nhưng dịch bệnh vẫn lan rộng, nhà này đốt lại đến nhà kia đốt.
Bệnh dịch hạch tấn công Luân Đôn đã làm chết hơn mười vạn người. Sự lan truyền bệnh dịch hạch
này đã tấn công mạnh mẽ các thành phố Tây Âu, những thành phố phồn vinh bỗng chốc trở nên suy tàn,
hoang vắng.
Những thấy thuốc của các nước đã phải đấu tranh với căn bệnh này. Họ đã cách ly người bệnh, dùng
tất cả các loại thuốc chữa trị các triệu chứng bệnh. Nhiều bác sĩ đã phải hy sinh tính mạng
Bệnh dịch hạch đã giết hại nhiều người, nhưng qua cuộc chiến đấu này, người ta đã biết nhiều
phương pháp phòng chống hữu hiệu. Chính phủ các nước đưa ra các pháp lệnh ngăn chặn dịch hạch lan
truyền. Thành Vơ-nidơ của Italy ban bố lệnh cấm mọi nhà buôn đã nhiễm bệnh hoặc nghi là nhiễm
bệnh đều không được vào thành. Có những nơi quy định thuỷ thủ phải sống ở nơi thoáng khí và đẩy ánh
nắng 30 ngày, rồi mới được vào thành phố của họ. Có nơi đặt trạm kiểm dịch như ngoài cảng như
Mac-xây chẳng hạn. Để quản lý nguồn nước, người ta đặt ra một chức quan chuyên trông coi kiểm soát

nguồn nước. Người ta trao trọng trách cho nhưng người làm công tác y tế.
Nhờ cố gắng đó, bệnh dịch hạch đã được ngăn chặn lại. Những năm 1353, 1362, 1364 tuy vẫn có dịch
ở châu Âu, nhưng tác hại không lớn lắm.
Dịch hạch ở châu Âu vào thế kỷ XIV, đã khiến chi nhiều thành phố trở nên hoang vắng, ảnh hưởng đến
nền kinh tế, làm chết hàng triệu người. Nhưng sau cuộc chiến đấu với tử thẩn dịch hạch đã khiến cho
ngành y tế tiến bộ và phát triển mạnh mẽ. Đế quốc Ôt-tôman ra đời như thế nào?
Giữa thế kỷ XIII, Tiểu Á rơi vào tình trạng hỗn loạn. Đế quốc Đông La Mã hùng bá Tiểu Á mấy
thế kỷ lúc này đang lấy Ni-xê làm cứ điểm đấu tranh giành lại Công-xtan-tinôp bị Thập tự quân chiếm.
Người Tuyêc-xenguc một thời cường thịnh đã bị quân Mông Cổ đánh cho tan tác khi họ xâm nhập Tiểu
Á. Một nhóm thủ lĩnh người Tuyêc chiếm lĩnh các sơn trại, tranh giành lẫn nhau, Tiểu Á trở nên vô
chủ.
Tại miền Bắc Tiểu Á giáp ranh với Đế quốc Đông La Mã, một số võ sĩ theo đạo I -xlam kéo bè kết
đảng tự xưng là các “Ca chi”, họ giương ngọn cờ “Thánh chiến” của đạo I- xlam, nhiều lẩn đánh chiếm
lãnh thổ của Đế quốc Đông La Mã. Một người tên là An-tôcrun, một thủ lĩnh người Tuyêc ở thảo
nguyên Trung Á đã tập hợp được khá nhiều “Ca chi” rất thiện chiến, nhờ đó mà ông đã không ngừng
mở rộng vùng đất. Năm 1282, An-tôcrun tạ thế, con của ông là Ô-man lên kế nghiệp, đã đánh bại Đế
quốc Đông La Mã, chiếm thêm một vùng đất lớn.
Khoảng năm 1300, Ô -xman tuyên bố độc lập, tự xưng là A-mia (nguyên thủ). Quân của Ô- xman
đều được gọi là “Ô-man Tuyêc”. Năm 1317, Ô-xman tiến công thành Pu-ru-xa. Thành này làmột nơi
hiểm yếu của Đông La Mã phía Bắc Tiểu Á, được phòng thủ rất chặt. Sau khi chiếm được thành Pu-ruxa, Ôxman đóng đô tại đây, khống chế eo biển Đac-đa-nen, con đường quan trọng thông sang châu Âu.
Nước mới thành lập này mang tên ông, gọi là đế quốc Ôt-tô-man.
Năm 1926, Ô -xman lìa đời, con của Ô-xman là Unban lên kế vị. Ông xây dựng một đội quân


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×