Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Giải pháp tăng cường mối liên kết giữa nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu trên địa bàn huyện kim bảng, tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 112 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi Nguyễn Hồng Hạnh, là tác giả của bài nghiên cứu này.
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu này do chính bản thân tôi thực hiện,
không sao chép hay góp nhặt của các công trình nghiên cứu của một tổ chức hay
cá nhân nào khác. Các số liệu thu thập đều là khách quan và trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu có sự tranh chấp
hay bị phát hiện có hành vi không trung thực liên quan đến nội dung đề tài
nghiên cứu này.
Hà nội, ngày 20 tháng 05 năm 2010
Sinh viên

Nguyễn Hồng Hạnh

1


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin tỏ lòng biết ơn tới cô Phạm Thanh Lan
Bộ môn Kinh tế Tài nguyên- Môi trường, khoa KT&PTNT, trường Đại
học Nông nghiệp Hà Nội đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo cho tôi trong quá trình
hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này. Đồng thời tôi cũng trân trọng cảm ơn các
thầy cô giáo trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã dìu dắt chỉ bảo tôi trong
suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh chị em cán bộ thuộc các
phòng Nông nghiệp và PTNT, phòng Thống kê huyện Kim Bảng, Công ty
TNHH Yên Cường và các hộ sản xuất dưa chuột xuất khẩu trên địa bàn huyện
đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập tại địa bàn.
Tôi cũng xin cảm ơn cha mẹ, anh chị em tôi đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi hoàn thành bản luận văn này. Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn tất cả bạn bè tôi
đã cùng tôi chia sẻ những khó khăn trong suốt quá trình học tập.
Do năng lực có hạn, bài báo cáo của tôi khó tránh khỏi những sai sót vì


vậy tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến dạy bảo của các thầy cô giáo và các
bạn để báo cáo của tôi được hoàn thiện hơn.
Hà nội, ngày 20 tháng 05 năm 2010
Sinh viên

Nguyễn Hồng Hạnh

2


TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nông nghiệp, nông dân và
nông thôn, ngành nông nghiệp của huyện Kim Bảng cũng như các ngành kinh tế
khác đã có những thành tựu quan trọng góp phần ổn định và phát triển kinh tếxã hội của huyện. Để đạt được những thành tựu trên, một trong những giải pháp
đó là thực hiện có hiệu quả mối liên kết giữa: nhà nông, nhà kinh doanh và nhà
khoa học với sự tham gia của nhà nước Như vậy, thực tế sự liên kết “ba nhà” ở
đây đã có những tác động đến sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu như thế
nào? Cần phải có những giải pháp gì để phát triển mối liên kết đó? Từ đó có được
những đề xuất nhằm hoàn thiện và nhân rộng mô hình về mối liên kết giữa nhà
nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất
khẩu trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam nói riêng và sản xuất nông nghiệp
trong toàn huyện nói chung, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp tăng
cường mối liên kết giữa nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp trong sản
xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà
Nam”.
Đề tài sử dụng các phương pháp thu thập thông tin thông qua phong vấn
bằng bảng hỏi đối với các đối tượng nghiên cứu,… . Bên cạnh đó là dùng phân
tích ma trận SWOT để phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách
thức của mối liên kết “ba nhà” trong sản xuất tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu trên
địa bàn huyện. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các hệ thống các chỉ tiêu đánh giá

thực trạng sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu (Số hộ sản xuất dưa chuột
xuất khẩu, diện tích dưa chuột xuất khẩu, năng suất các loại dưa chuột xuất
khẩu, Sản lượng dưa chuột xuất khẩu), chỉ tiêu phân tích liên kết sản xuất và tiêu
thụ dưa chuột xuất khẩu (số lượng các tác nhân tham gia liên kết, hình thức liên

3


kết trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu, số lượng hợp đồng liên kết
sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu)
Trên cơ sở phân tích thực trạng liên kết “ba nhà” trong sản xuất và tiêu
thụ dưa chuột xuất khẩu trên địa bàn huyện tôi rút ra được một số nhận xét sau:
Với sự quyết tâm chỉ đạo, sự cố gắng nỗ lực của các xã trong huyện và
quá trình hợp tác thông qua hợp đồng với các công ty thu mua sản phẩm dưa
chuột xuất khẩu trên địa bàn huyện Kim Bảng đã đạt được những kết quả tốt về
phát triền mở rộng diện tích, chất lượng, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đến nay,
diện tích đã đạt gần 300 ha, tạo được vùng sản xuất tập trung, bao tiêu sản phẩm
và cơ sở chế biến.. Chất lượng sản phẩm dưa xuất khẩu được quan tâm chú
trọng, sản phẩm chế biến từ dưa chuột đã trở thành hàng hoá có giá trị xuất
khẩu.
Từng bước nâng cao nhận thức của người dân về liên kết trong sản xuất
và áp dụng theo hướng sản xuất hàng hoá, phù hợp với CNH- HĐH nông nghiệp
nông thôn.
Để hoàn thiện và nhân rộng mô hình liên kết giữa các nhà (nhà nông, nhà
khoa hoc, nhà doanh nghiệp) cũng như khắc phục những mặt còn tồn tại thì các
bên tham gia liên kết cần phải thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, Cần thực hiện
tốt các giải pháp như: Giải pháp đối với phía chính quyền địa phương, tăng
cường cán bộ chuyển giao kỹ thuật và khoa học công nghệ, giải pháp về phía
công ty và giải pháp về phía hộ nông dân.


4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Diễn giải nội dung

BQ

Bình quân

CC

Cơ cấu

CNH- HĐH

Công nghiệp hoá- hiện đại hoá

DN

Doanh nghiệp

DVNN

Dịch vụ nông nghiệp

GTGT


Giá trị gia tăng

GTSX

Giá trị sản xuất

HTX

Hợp tác xã

KHKT

Khoa học kỹ thuật

KHCN

Khoa học công nghệ

KTTB

Kỹ thuật tiến bộ

NXB

Nhà xuất bản

NN

Nông nghiệp


NN & PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

Tr.đ

Triệu đồng

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Ủy ban nhân dân

PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Huyện Kim Bảng nằm ở phía tây bắc tỉnh Hà Nam, phía Bắc giáp huyện
Ứng Hòa (TP Hà Nội), phía Tây giáp huyện Mỹ Đức (TP Hà Nội), phía Nam

5


giáp huyện Thanh Liêm, phía Đông giáp TP Phủ Lý và huyện Duy Tiên. Tổng
diện tích đất tự nhiên 18.543,23 ha, với dân số 194.378 người.
Nằm trong vùng bán sơn địa, Kim Bảng có địa hình đa dạng bao gồm
vùng đồi núi, nửa đồi núi và vùng đồng chiêm trũng. Đi lên từ kinh tế thuần
nông, lợi thế sẵn có của Kim Bảng là bề giày kinh nghiệm và tư duy sáng tạo
trong sản xuất nông nghiệp. Bởi vậy đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp là

nhiệm vụ hàng đầu trong phát triển kinh tế của huyện. Thực hiện Nghị quyết
03/NQ-TU ngày 21- 05- 2001 của tỉnh ủy Hà Nam và kế hoạch 365/KH- UB
ngày 12- 06- 2001 của UBND tỉnh về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
phát triển ngành nghề dịch vụ ở nông thôn, trong 10 chương trình kinh tế- xã hội
trọng tâm của huyện có 3 chương trình tập trung về công nghiệp hóa hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn, theo tinh thần “Tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng đa canh, tích cực đưa các giống cây trồng vật nuôi có
năng suất cao và sản xuất, nhằm tăng năng suất và sản lượng cây hàng hóa”.
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nông nghiệp, nông dân và
nông thôn, ngành nông nghiệp của huyện Kim Bảng cũng như các ngành kinh tế
khác đã có những thành tựu quan trọng góp phần ổn định và phát triển kinh tếxã hội của huyện. Để đạt được những thành tựu trên, một trong những giải pháp
đó là thực hiện có hiệu quả mối liên kết giữa: nhà nông, nhà kinh doanh và nhà
khoa học với sự tham gia của nhà nước (nhà quản lý).
Mục đích liên kết là để có được những sản phẩm nông nghiệp chất lượng
cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường, bảo đảm sức khỏe người tiêu dùng, tạo ra
môi trường kinh doanh văn minh, lành mạnh, an toàn trong giai đoạn đầu hội nhập
kinh tế quốc tế. Muốn vậy phải có sự trợ giúp của các nhà khoa học về mặt kỹ
thuật, chuyên môn, kể cả việc dự báo thị trường, thời tiết. Nhà doanh nghiệp sẽ tổ

6


chức thu gom, xử lý, chọn lựa theo tiêu chuẩn để phân phối cho thị trường. Nhà
nông phải bảo đảm cung cấp đầy đủ hàng hóa đạt chất lượng
Là một huyện nghèo của tỉnh, Kim Bảng đã có những bước đi đúng hướng
trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Cùng với những cây trồng chính như lúa, đậu
tương trong những năm qua cây dưa chuột xuất khẩu đã giúp người dân Kim
Bảng xoá đói giảm nghèo, nó đã góp phẩn làm tăng thu nhập của người dân.
Thành công của mô hình này được đánh giá là có sự hợp tác, liên kết chặt chẽ của
“ba nhà” với sự tham gia của nhà nước. Như vậy, thực tế sự liên kết “ba nhà” ở

đây đã có những tác động đến sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu như thế
nào? Cần phải có những giải pháp gì để phát triển mối liên kết đó? Từ đó có được
những đề xuất nhằm hoàn thiện và nhân rộng mô hình về mối liên kết giữa nhà
nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất
khẩu trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam nói riêng và sản xuất nông nghiệp
trong toàn huyện nói chung, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp tăng
cường mối liên kết giữa nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp trong sản
xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà
Nam”.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng liên kết giữa nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu trên địa bàn huyện Kim
Bảng, tỉnh Hà Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường mối
liên kết giữa “ba nhà”.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
1) Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về liên kết trong sản xuất và

7


tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
2) Đánh giá thực trạng liên kết giữa nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu trên địa bàn huyện Kim
Bảng, tỉnh Hà Nam.
3) Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường mối liên kết giữa nhà nông,
nhà khoa học, nhà doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu
trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu giải pháp tăng cường mối liên kết giữa nhà nông, nhà

khoa học, nhà doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dưa chuột xuất
khẩu trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
Đối tượng tham gia liên kết gồm :
- Nhà Khoa học: có sự tham gia của cán bộ các Viện, Trường, Trung tâm
nghiên cứu.
- Nhà Doanh nghiệp: có sự tham gia của các Công ty bao tiêu sản phẩm
dưa chuột trên địa bàn huyện.
- Nhà nông: gồm tất cả các hộ tham gia trồng dưa chuột xuất khẩu trên địa
bàn huyện.
Đối tượng hướng tới của đề tài là mối liên kết giữa nhà nông với doanh
nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu trên địa bàn huyện Kim
Bảng.

1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phạm vi về nội dung

8


Đề tài nghiên cứu giải pháp tăng cường mối liên kết giữa nhà nông, nhà
khoa học, nhà doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dưa chuột xuất
khẩu. Những phân tích về thực trạng, về lợi ích và tồn tại khi tham gia liên kết
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dưa chuột xuất khẩu.
1.4.2 Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam
1.4.3 Phạm vi về thời gian
- Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 11/01/2010 đến ngày 21/05/2010.
- Số liệu phục vụ nghiên cứu tổng quan về điều kiện tự nhiên, điều kiện
kinh tế xã hội, kết quả đầu tư sản xuất kinh doanh toàn huyện được thu thập
trong 3 năm từ năm 2007 đến năm 2009.

- Số liệu phục vụ nghiên cứu thực trạng liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
dưa chuột xuất khẩu được lấy là kết quả năm 2009.

PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Lý thuyết về liên kết
2.1.1.1 Khái quát chung về liên kết

9


Theo quy luật phát triển của xã hội, đoàn kết tạo nên sức mạnh và theo tác
động của quy luật kinh tế cơ bản, việc tích luỹ, tập trung hoá trong sản xuất để
sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn vốn xã hội đồng thời đẩy nhanh quá trình
xã hội hoá sản xuất. Các hoạt động này diễn ra theo hai phương pháp: Cưỡng
bức (thôn tính nhau qua cạnh tranh đi tới hợp nhất, sát nhập) và tự nguyện liên
hiệp liên kết với nhau. Đó là xu hướng phát triển của bất kỳ nền kinh tế nào. Sự
liên kết phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, không gò ép, cùng có
lợi, quản lý dân chủ và hoạt động từ thấp lên cao. Sau đây là một số quan điểm
về liên kết kinh tế.
Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học của viện nghiên cứu và phổ biến tri
thức bách khoa thì “Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác phối hợp hoạt động do
các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển theo hướng có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước. Mục tiêu
của liên kết kinh tế là tạo ra sự ổn định của các hoạt động kinh tế thông qua các
quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất, khai thác tốt các tiềm năng
của các đơn vị tham gia liên kết để tạo ra thị trường chung, bảo vệ lợi ích cho
nhau”.
Theo điều 1 Quyết định số 38 HĐBT ngày 10/04/1989 của Hội đồng Bộ

trưởng về liên kết kinh tế trong sản xuất, lưu thông, dịch vụ: “Liên kết kinh tế là
những hình thức phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành
để cùng nhau bàn bạc và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công
việc sản xuất, kinh doanh của mình, thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng có
lợi nhất”.
Liên kết kinh tế diễn ra khi một trong các bên tham gia liên kết không thể
tự mình hoạt động, hoặc nếu có hoạt động thì hiệu quả hoạt động không cao nên
cần phải có sự tham gia hành động của nhiều bên.
2.1.1.2 Mục tiêu và nguyên tắc khi tham gia liên kết kinh tế

10


* Mục tiêu của liên kết kinh tế: Tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông
qua các hợp đồng kinh tế hoặc quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản
xuất chuyên môn hóa và hiệp tác hóa, nhằm khai thác tốt tiềm năng của từng
đơn vị tham gia liên kết, hoặc để cùng nhau tạo thành thị trường chung, phân
định hạn mức sản lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản
phẩm nhằm bảo vệ lợi ích của nhau, cũng như tăng thu ngân sách nhà nước.
(Quyết định số 38 HĐBT, 1989)
* Các nguyên tắc khi tham gia liên kết kinh tế: theo Quyết định số 38
HĐBT ngày 10/04/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về liên kết kinh tế trong sản
xuất, lưu thông, dịch vụ:
Một là, phải đảm bảo sản xuất kinh doanh của các chủ thể tham gia liên
kết phát triển và có hiệu quả ngày càng tăng.
Hai là, phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện và tự chịu trách nhiệm giữa
các bên tham gia liên kết.
Ba là, phải đảm bảo sự thông nhất hài hòa lợi ích kinh tế giữa các bên
tham gia liên kết.
Bốn là, phải được thực hiện trên cơ sở những rằng buộc pháp lý giữa các

bên tham gia liên kết.
2.1.1.3 Nội dung của liên kết
* Chủ thể tham gia liên kết
Chủ thể tham gia liên kết có thể là các đơn vị, tổ chức kinh tế thuộc các
thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, tổ chức chính trị xã hội, hộ gia đình và cá
nhân tự nguyện cùng tham gia một hoạt động nào đó để đạt được lợi ích chung
và lợi ích riên cho mình.
Về số lượng: có thể là hai hoặc nhiều chủ thể cùng tham gia liên kết kinh tế.
* Các loại hình liên kết

11


Mỗi liên kết trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa các chủ
thể là những pháp nhân độc lập rất đa dạng và bao gồm cả liên kết dọc và liên
kết ngang đan xen lẫn nhau.
Nếu dựa theo vai trò, quan hệ kinh tế giữa các tác nhân từ sản xuất đến
tiêu dùng, người ta phân thành liên kết ngang và liên kết dọc
- Liên kết dọc: (là liên kết giữa các tác nhân trong cùng một ngành hàng
mà trong đó mỗi tác nhân đảm nhận một bộ phận hoặc mốt số công đoạn nào
đó) là liên kết được thực hiện theo trật tự các khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh (theo dòng vận động của sản phẩm). Kiểu liên kết theo chiều dọc toàn
diện nhất bao gồm: các khâu sản xuất đến thu gom và tiêu thụ sản phẩm. Trong
liên kết này mỗi tác nhân vừa là khách hàng của tác nhân kế trước, vừa bán hàng
cho tác nhân kế sau trong chuỗi ngành hàng. Kết quả của liên kết dọc là hình
thành chuỗi ngành hàng làm giảm chi phí vận chuyển, giảm chi phí trung gian.
- Liên kết ngang: (liên kết giữa các tác nhân trong cùng ngành hàng) là
hình tức liên kết giữa các chủ thể nhằm mục đích làm chủ thị trường sản phẩm.
Hình thức liên kết này có nhiều dạng: hội nghề nghiệpcác cơ sở liên kết với
nhau là những cơ sở độc lập nhưng có quan hệ với nhau và thông qua bộ máy

kiểm soát chung.
Như vậy, liên kết kinh tế có thể diễn ra ở mọi ngành sản xuất kinh doanh,
thu hút được sự tham gia của tất cả các chủ thể kinh tế có nhau cầu của mọi
thành phần kinh tế và không bị giới hạn bởi phạm vi địa lý.
* Nội dung liên kết bao gồm:
- Sự thỏa thuận hay cam kết giữa các bên trong quá trình sản xuất - tiêu
thụ sản phẩm. Các cam kết này phải được công nhận là sự hợp tác giữa các bên
tham gia chứ không phải là quan hệ cạnh tranh hay bóc lột giữa bên này với bên
kia.

12


- Cam kết phải có điều kiện ưu đãi: Ưu đãi này phải được xây dựng trên
quan hệ cung cầu thị trường, hay nói cách khác các bên đều được hưởng lợi từ
cam kết.
- Trách nhiệm của mỗi bên khi thực hiện cam kết: các bên có trách nhiệm
thực hiện đúng, đủ và nghiêm túc theo cam kết.
Đánh giá mức độ liên kết hay độ sâu của liên kết - mức độ quan hệ chặt
chẽ giữa các tác nhân trong việc tiếp cận thị trường như cung ứng nguồn lực đầu
vào, đầu ra và đặc biết là công tác quản lý từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
Các mối quan hệ liên kết này được thể hiện thông qua các hình thức với các nội
dung cơ bản sau:
- Mua bán tự do trên thị trường: Mua bán trên thị trường tự do là hình
thức giao dịch trực tiếp giữa người mua và người bán. Người mua thấy được số
lượng, chất lượng hàng hóa mình cần, người bán sau khi thỏa thuận được giá cả
sẽ bán và thu được tiền mặt đáp ứng được yêu cầu sản xuất và đời sống. Việc
mua bán được thực hiện trên thị trường theo quan hệ cung cầu. Bất kỳ bên mua
hoặc bên bán hàng hóa nào, nếu thoả thuận được với nhau thì hoạt động giao
dịch được diễn ra. Thị trường có vai trò là người định giá.

Đặc điểm của hình thức giao dịch này, mỗi tác nhân độc lập và tự do trao
đổi hàng hóa của mình với các tác nhân khác; Giá cả được định đoạt tại mỗi thời
điểm giao dịch. Thị trường tự do phản ánh cung cầu của thị trường, do đó trong
một số trường hợp thương mại thị trường tự do không cho hiệu quả khi nó gây
các khó khăn trong điều hành hoạt động của thị trường và giữa các tác nhân.
Một ví dụ đơn giản khi thị trường khủng hoảng thiếu nguyên liệu, giá cả tăng
lên có thể gây đình trệ sản xuất của xí nghiệp. Trong trường hợp này, hiệu quả
của thị trường tự do bị nghi ngờ và các mối liên kết chủ động có thể giúp giải
quyết các hạn chế của thị trường tự do.

13


Những nhu cầu về sự khác biệt sản phẩm từ cấp độ sản xuất đã được áp
lực lên các mối quan hệ thị trường tự do và có thể dẫn tới hình thức liên kết
dạng hợp đồng giữa các giai đoạn chủ chốt trong hề thống thị trường hoặc hình
thức hợp nhất dọc.
- Hợp đồng miệng (thỏa thuận miệng): Hợp đồng miệng là các thỏa thuận
không được hợp đồng bằng văn bản giữa các tác nhân cam kết cùng nhau thực
hiện một số hoạt động, công việc nào đó. Hợp đồng miệng cũng được hai bên
thống nhất về số lượng, giá cả, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng. Cơ sở của
hợp đồng miệng là niềm tin, độ tín nhiệm, trách nhiệm cam kết thực hiện giữa
các tác nhân tham gia hợp đồng. Hợp đồng miệng thường được thực hiện giữa
các tác nhân có quan hệ thân thiết (họ hàng, anh em ruột thịt bạn bè...), hoặc
giữa các tác nhân đã có quá trình hợp tác liên kết sản xuất - kinh doanh với nhau
mà trong suốt thời gian hợp tác luôn thể hiện được nguồn lực tài chính khả năng
tổ chức và trách nhiệm giữ chữ tín với các đối tác.
Tuy nhiên hợp đồng miệng thường chỉ là các thỏa thuận trên nguyên tắc
về số lương, giá cả, điều kiện giao nhận hàng hóa. Hợp đồng miệng cũng có thể
có hoặc không có đầu tư ứng trước về tiền vốn, vật tư cũng như các hỗ trợ và

giám sát kỹ thuật. So với hợp đồng bằng văn bản thì hợp đồng miệng lỏng lẻo và
có tính chất pháp lý thấp hơn.
- Hợp đồng bằng văn bản (hợp đồng): Liên kết theo hợp đồng là quan hệ
mua bán chính thức được thiết lập giữa các tác nhân trong việc mua nguyên liệu
hoặc bán sản phẩm. Liên kết dạng hợp đồng là hình thức một công ty cam kết
mua hàng hóa từ nhà sản xuất với một mức giá được xác định trước khi mua.
Mối quan hệ hợp đồng giữa nhà sản xuất và nhà chế biến chỉ sự điều chỉnh của
những văn bản thỏa thuận cá nhân mang tính pháp lý, những giao dịch này có
thể về giá mua bán, thị trường, chất lượng và số lượng nguyên liệu đầu vào, các

14


dịch vụ kỹ thuật, cung cấp tài chính,... được thỏa thuận trước khi bán. Liên kết
dạng hợp đồng tạo ra sự linh hoạt trong việc chia sẻ rủi ro và quyền kiểm soát
giữa các chủ thể tham gia hợp đồng.
2.1.2.4 Vai trò liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là một hình thức đảm bảo đem lại lợi ích chắc chắn cho
các bên liên quan. Liên kết kinh tế thông qua hợp đồng loại bỏ vai trò của các
tầng lớp mua bán trung gian nên trực tiếp bảo vệ được người sản xuất. Liên kết
kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến và hộ nông dân cho phép xóa bỏ độc quyền
đối với các doanh nghiệp trong việc ép cân, ép giá khi mua sản phẩm của người
nông dân. Mặt khác thực hiện liên kết giữa doanh nghiệp chế biến có nguồn
cung cấp nguyên liệu ổn định tăng chất lượng sản phẩm của mình trên thị trường
trong nước và quốc tế.
Thực hiện liên kết về kinh tế thông qua hợp đồng giúp cho các cơ sở chế
biến xuất khẩu có điều kiện mở rộng quy mô hoạt động do có sự đảm bảo ổn
định về số lượng, chất lượng và tiến độ của nguyên liệu nống sản cung cấp cho
sản xuất. (Ngô Thu Thủy, 2004)
2.1.2.5 Ý nghĩa của liên kết kinh tế

Tạo mối ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hoạt động kinh tế
hoặc quy chế hoạt động của từng tổ chức để tiến hành phân công chuyên môn
hóa và hiệp tác hoá, nhằm khai thác tốt tiền năng của từng đơn vị tham gia liên
kết để nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế, thu nhập cho
các bên liên kết, tăng thu ngân sách Nhà nước.
Tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng cho từng đơn vị
thanh viên, giá cả cho từng loại sản phẩm, bảo vệ lợi ích kinh tế của nhau, nhằm
đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.

15


Giúp nhau về kinh nghiệm san xuất, kinh doanh và quản lý, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ kinh tế và cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật, cung ứng vật tư,
tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ vận chuyển, thông tin, xử lý thông tin… thể hiện qua
hợp đồng kinh tế. (Ngô Thu Thủy, 2004)
2.1.2 Liên kết “ba nhà” trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu
Để hiểu rõ hơn liên kết “ba nhà” trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất
khẩu chúng ta phải hiểu các đối tượng tham gia liên kết.
2.1.2.1 Nhà khoa học
Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức
mới, học thuyết mới, về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới
này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp. Thí dụ: Quan
niệm thực vật là vật thể không có cảm giác được thay thế bằng quan niệm thực
vật có cảm nhận. (Lê Hoa, 2003).
Nhà khoa học là những người đã nghiên cứu và khám phá ra những kiến
thức mới và mong muốn những nghiên cứu đó sẽ được áp dụng trong thực tiễn
thay cho những nghiên cứu cũ không còn phù hợp. Nhà khoa học đóng vai trò
vô cùng quan trọng trong việc chuyển tải tiến bộ kỹ thuật (TBKT) của mình ra
thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.

Kỹ thuật tiến bộ trong nông nghiệp là những kỹ thuật được khẳng định là
phù hợp và khả thi về sinh thái, kinh tế và xã hội trên đồng ruộng của nông dân,
góp phần nâng cao hơn hiệu quả sử dụng nguồn lực trong nông nghiệp, tạo điều
kiện phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường cho nông nghiệp và
nông thôn. Chuyển giao KTTB trong nông nghiệp là quá trình giúp nông dân áp
dụng các KTTB để giải quyết được các khó khăn trong nông nghiệp và nâng cao
đời sống, lợi ích của nông dân.

16


Công tác chuyển giao KTTB nhằm giúp nông dân có khả năng tự giải
quyết các vấn đề của gia đình và cộng đồng nhằm đẩy mạnh sản xuất, nâng cao
đời sống và dân trí, góp phần xây dựng và phát triển nông thôn mới thông qua áp
dụng thành công KTTB bao gồm cả những kiến thức và kỹ năng về quản lý,
thông tin và thị trường, các chủ trương chính sách về nông nghiệp và nông thôn.
Chuyển giao KTTB còn phải giúp nông dân liên kết lại với nhau để phòng và
chống thiên tai, tiêu thụ sản phẩm, phát triển ngành nghề, xúc tiến thương mại,
giúp nông dân phát triển khả năng tự quản lý điều hành và tổ chức các hoạt động
xã hội nông thôn ngày càng tốt hơn. (Đỗ Kim Chung, 2005).
2.1.2.2 Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, thực hiện
các hoạt động sản xuất, cung ứng trao đổi hàng hoá trên thị trường, theo nguyên
tắc tối đa hoá lợi ích kinh tế của người chủ sở hữu về tài sản của doanh nghiệp,
thông qua đó tối đa hoá lợi ích của đối tượng người tiêu dùng và kết hợp một
cách hợp lý với những mục tiêu kinh tế xã hội. (Nguyễn Tất Bình, 2000).
Như vậy, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá

trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lời. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp có tốt hay
không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Trong đó có những nhân tố chủ quan
và nhân tố khách quan ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhà quản lý cần phải phân tích cụ thể riêng biệt giữa hai nhân tố tác động này
để có nhứng điều chỉnh cho phù hợp nhất và hiệu quả nhất.
2.1.2.3 Nhà nông

17


Nhà nông là các hộ nông dân có phượng tiện kiếm sống từ ruộng đất sử
dụng chủ yếu lao động gia đình vào sản xuất luôn nằm trong một hệ thống kinh
tế rộng lớn nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị
trường với mức độ hoàn hảo không cao.
Chủ thể chính trong sản xuất nông nghiệp nước ta chính là kinh tế hộ
nông dân. Kinh tế nông hộ là thực thể tồn tại bền vững trong xã hội việc sản
xuất của nó khác hẳn với các đơn vị kinh tế trong các ngành kinh tế khác, phát
triển và gia tăng thành phần kinh tế này chính là thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Nghiên cứu về sự phát triển của kinh tế hộ nông dân trong sản xuất nônglâm- ngư nghiệp trong những năm vừa qua ở nước ta có thể rút ra một số nét cơ
bản về loại chủ thể này như sau:
Kinh tế hộ là một thực thể tổ chức kinh tế khách quan, tồn tại lâu dài
trong sản xuất nông nghiệp và trong các hoạt động kinh tế khác ở nông thôn,
nhưng không thể phát triển đơn độc, giữ nguyên quy mô nhỏ mà đòi hỏi ngày
càng tăng về quy mô chất lượng và mẫu mã sản phẩm.
2.1.2.4 Ý nghĩa của liên kết “ba nhà” trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất
khẩu
Qua liên kết tăng cường quan hệ hợp tác giữa các bên, giúp cho quan hệ
cung cầu phù hợp và hiệu quả hơn.

* Đối với nhà khoa học
Với sự có mặt của nhà khoa học, kỹ thuật tiến bộ sẽ được cập nhật và áp
dụng thường xuyên trong sản xuất thay thế cho những kỹ thuật lạc hậu không
hiệu quả, giống cây - giống con cho năng suất và hiệu quả thấp.
* Đối với người sản xuất nguyên liệu, đặc biệt là hộ nông dân

18


- Đảm bảo ổn định được thị trường tiêu thụ và giảm rủi ro về giá cả đối
với nông sản sản xuất ra.
- Được hỗ trợ về giống, vốn kỹ thuật về các thông tin về thị trường, nên
khắc phục được nhiều hạn chế của hộ nông dân, đồng thời tạo điều kiện cho hộ
tiếp cận được với công nghệ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến.
- Ổn định và phát triển được sản xuất, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo
cho hộ nôn dân ở địa phương.
* Đối với các doanh nghiệp
- Đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định, với chất lượng cao, đồng
đều, đáp ứng theo yêu cầu kỹ thuật của sản xuất nên có thể mở rộng đuợc quy
mô hoạt động, tăng được chất lượng sản phẩm đầu ra.
- Do có nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định, nên các đơn vị giảm được
chi phí thu mua nguyên liệu, tạo ra nhiều khả năng nâng coa hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
- Giảm thiểu được các rui ro nên các doanh nghiệp có thể lập được kế
hoạch sản xuất kinh doanh lâu dài, ổn định và phát triển sản xuất bền vững.
2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết “ba nhà” trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm dưa chuột xuất khẩu
2.1.3.1 Các yếu tố từ nhà khoa học
Tổ chức khoa học giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình liên kết. Họ
chính là người giúp nông dân ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để

nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng giá bán và tăng sức
cạnh tranh của hàng hoá. Tuy nhiên, cho đến nay, số đông các cơ quan khoa học
vẫn lúng túng khi thực hiện liên kết giữa các nhà.
Vẫn còn thiếu vắng các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu mạnh dạn, chủ
động đưa định hướng liên kết thành một ưu tiên trong việc triển khai các chương

19


trình, dự án nghiên cứu. Ngay cả những hợp đồng được ký kết thông qua hoạt
động liên kết thì quyền lợi vật chất của các cơ quan khoa học hay các nhà khoa
học cũng chưa được xác định rõ ràng.
Nhà nông và nhà khoa học còn có tâm lý coi công việc của nhà khoa học
như một hoạt động cao cấp mà chưa có sự đền bù thoả đáng.
Đồng thời, cũng nảy sinh những trường hợp do thiếu quy chế chặt chẽ dẫn
đến tình trạng lấy mảnh ruộng của người nông dân làm ruộng thí nghiệm của các
nhà khoa học, hay nói cách khác là ''làm thí nghiệm trên lưng người nông dân''.
(Nguyễn Phượng Vĩ, 2009)
2.1.3.2 Các yếu tố từ doanh nghiệp
Đối với DN, nhất là DN tư nhân, họ không chỉ thiếu sự quan tâm, hỗ trợ
của các ''nhà'' khác mà còn phải chịu rủi ro cao khi ứng vốn cho nông dân. Khi
gặp rủi ro do thiên tai hay các nguyên nhân bất khả kháng khác, nông dân không
trả được nợ cho DN, các DN kéo dài thời gian nợ ngân hàng làm tăng lãi suất
vốn vay, giá thành sản phẩm chế biến tăng, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt
động tài chính của DN. Do vậy, các DN khi ký hợp đồng còn ngần ngại đầu tư
cho sản xuất, kinh doanh nông - lâm - ngư nghiệp. (Nguyễn Phượng Vĩ, 2009)
Các cơ sở chế biến thu mua sản phẩm nông sản ổn định nhưng vẫn còn
tình trạng cơ sở chế biến ngừng mua hoặc giảm giá lại không thông báo cho
nông dân, trong khi mua còn gây khó dễ với nông dân... nhất là vào thời điểm
chính vụ nông sản.

Chế tài mà công ty đưa ra để sử phạt các hộ phá vỡ hợp đồng có hiệu lực
chưa cao, mới chỉ dừng lại phạt tiền nên tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn xảy ra
nhất là khi thời vụ nguyên liệu khan hiếm mà giá hơn giá thị trường.

20


Sự chủ động phối hợp liên kết phục vụ cho sản xuất, quy hoạch vùng
nguyên liệu của các cơ sở chế biến với cấp chính quyền địa phương, với hộ nông
dân chưa cao. (Nguyễn Phượng Vĩ, 2009)
2.1.3.3 Các yếu tố từ hộ sản xuất
Đối với người sản xuất do trình độ hiểu biết còn hạn chế về liên kết, về
hợp đồng, trách nhiệm trong liên kết, họ chỉ nhìn những cái lợi trước mắt mà
không nhìn lâu dài. Họ sợ sự rằng buộc về mặt pháp luật khi kí kết hợp đồng.
Mặt khác, có những hộ sản xuất mặc dù đã kí hợp đồng tiêu thụ với công
ty nhưng nơi nào mua với giá cao hơn họ vẫn bán, thậm chí một số hộ nhiều
nông dân trên cùng một diện tích và sản lượng lại kí hợp đồng tiêu thụ dẫn đến
tình trạng phá vỡ hợp đồng, làm các công ty không chủ động được nguyên liệu.
Một yếu tố ảnh hưởng nữa là mặc dù công ty tạo điều kiện cho người dân
sản xuất bằng cách ứng vốn, mua phân bón, chuyển giao khoa học kỹ thuật, thu
mua với giá đảm bảo ổn định, vậy mà vẫn có những trường hợp nông dân không
“chung thuỷ” với công ty sẵn sàng bán cho công ty khác khi họ trả giá cao hơn.
Một thực tế khó khăn ảnh hưởng đến sự liên kết giữa công ty và hộ sản
xuất đó là hộ sản xuất luôn muốn chất lượng hàng hoá của mình là cao trong khi
đó thực tế lại không đạt như vậy. Vì vậy, dẫn đến tình trạng xảy ra các mâu
thuẫn trong thu mua giữa công ty và hộ sản xuất không bán theo hợp đồng với
công ty mặc dù công ty đã đầu tư ban đầu.
Sản xuất của hộ vẫn tự phát, không tập trung, quy mô kinh tế của hộ rất
nhỏ, diện tích manh mún, không mang tính tập trung, sản xuất hàng hóa. Đã thế
tư tưởng thay đổi phương thức sản xuất của hộ rất ít, hầu như hộ không giám

mạnh dạn đầu tư trong sản xuất của mình, sợ ảnh hưởng mà quyền lợi mà họ
đang có, sợ rủi ro trách nhiệm khi tham gia liên kết.

21


Như vậy, nhận thức của liên kết sản xuất của hộ rất kém, các lý do chính
trên là làm cho việc liên kết còn hạn chế và để liên kết trong sản xuất của hộ
được hiệu quả hơn cần giải quyết tốt các lý do ảnh hưởng trên. (Nguyễn Phượng
Vĩ, 2009)
2.1.3.4 Các yếu tố từ nhà nước
Giữ vai trò quan trọng hơn cả trong liên kết phải kể đến là Nhà nước. Cần
phải thẳng thắn thừa nhận là Nhà nước vẫn chưa tạo ra được một hành lang pháp
lý phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là
hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nhà DN và nhà nông.
Trong một số trường hợp, các bộ, ngành còn lúng túng, chưa có chế tài
phù hợp để hỗ trợ giải quyết tranh chấp hợp đồng thu mua giữa DN và người sản
xuất. Đối với những trường hợp thiệt hại do các nguyên nhân bất khả kháng,
Nhà nước cũng chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ thiệt hại cho các bên tham
gia liên kết. Ngoài ra, một số lãnh đạo địa phương còn không biết hoặc không
hiểu đầy đủ về chính sách liên kết ''4 nhà'' nên chưa có sự hỗ trợ một cách hợp
lý.
Trên đây là những yếu tố ảnh hưởng cơ bản của các bên khi tham gia liên
kết và chính các yếu tố này đã ảnh hưởng đến quá trình liên kết bền vững trong
sản xuất nông sản nói chung và trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột xuất khẩu
nói riêng. Muốn có một quá trình liên kết bền vững thì cần giải quyết tốt các yếu
tố ảnh hưởng trên. (Nguyễn Phượng Vĩ, 2009)
2.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.1 Khái quát về cây dưa chuột xuất khẩu
Dưa chuột là giống cây trồng họ bầu bí, loại cây dễ trồng, có thể trồng

được 2 vụ trong năm. Đây là loại cây cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
Cây dưa chuột xuất khẩu là cây rau thương mại quan trọng, nó được trồng ở

22


nhiều nước trên thế giới và trở thành thực phẩm thông dụng của nhiều quốc gia.
Những nước dẫn đầu về diện tích gieo trồng và năng suất là Trung Quốc, Nga,
Hà Lan… Dưa chuột được trồng từ Châu Á, Châu Phi đến 63 0 vĩ Bắc. Theo
FAO (1993) Diện tích trồng dưa chuột trên thế giới là 1.178.000 ha, năng suất
đạt 15,56 tấn/ha và sản lượng đạt 1.832.968 tấn. Ở nước ta, những năm gần đây
cây dưa chuột nói chung và cây dưa chuột xuất khẩu nói riêng đã trở thành cây
rau quan trọng trong sản xuất.
Sản phẩm của cây dưa chuột xuất khẩu gồm có 3 loại:
* Dưa bao tử:

* Dưa trung tử:

- Kích cỡ chiều dài

4- 6 cm

- Thời gian thu hoạch sau khi trồng

30 ngày

- Kích cỡ chiều dài

9 cm


- Thời gian thu hoạch sau khi trồng

35- 40 ngày

* Dưa quả trung: - Đường kính

2,5- 3 cm

- Thời gian thu hoạch sau khi trồng

35- 40 ngày

2.2.2 Giá trị kinh tế của cây dưa chuột xuất khẩu
Dưa chuột xuất khẩu ngoài ăn tươi, còn chủ yếu dùng để chế biến đồ hộp
như: dưa chuột muối, dưa chuột xuất khẩu dầm dấm,... xuất khẩu được nhiều thị
trường nước ngoài ưa chuộng.
* Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Qua tham khảo tài liệu trên các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy:
Nhu cầu tiêu dùng dưa chuột và các dạng chế phẩm từ dưa chuột đang
tăng mạnh kể từ cuối năm 2008 đến nay. Theo số liệu thống kê của Tổng cục
Hải quan, kim ngạch xuất khẩu dưa chuột và các dạng chế phẩm từ dưa chuột 5
tháng đầu năm 2009 đạt hơn 22,2 triệu USD, tăng 155,6% so với cùng kỳ 2008.
Ước tính tháng 6 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này đạt gần 1,9 triệu USD,

23


nâng tổng kim ngạch xuất khẩu dưa chuột nửa đầu năm 2009 lên 24,1 triệu
USD.
Trong 5 tháng đầu năm 2009, xuất khẩu mặt hàng dưa chuột đến các thị

trường đều tăng. Trong đó, tỷ trọng xuất khẩu sang 3 thị trường là Nga, Nhật
Bản và Rumani chiếm ưu thế vượt trội (chiếm 77,5% tổng kim ngạch).
Có 33 thị trường nhập khẩu dưa chuột từ Việt Nam trong đó Liên Bang Nga đạt
kim ngạch cao nhất với 12,3 triệu USD, tăng 155% so với cùng kỳ. Đây cũng là
thị trường đạt kim ngạch cao nhất kể từ đầu năm 2008 đến nay. Sản phẩm dưa
chuột và các dạng chế phẩm từ dưa chuột được người tiêu dùng Nga khá ưa
chuộng. Trong đó phải kể đến mặt hàng dưa chuột xuất khẩu dầm dấm. Đây là
mặt hàng luôn đạt kim ngạch cao nhất và có mức tăng trưởng xuất khẩu ổn định.
Số liệu thống kê cho thấy kim ngạch xuất khẩu dưa chuột xuất khẩu dầm dấm 5
tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt hơn 9 triệu USD,
tăng 95% so với cùng kỳ. Tiếp đến là mặt hàng Dưa chuột trung tử dầm dấm với
kim ngạch đạt 2 triệu USD; Dưa chuột muối và dưa chuột ngâm với hành, ớt,
tỏi, cà chua đạt 1,2 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu dưa chuột và các dạng chế phẩm từ dưa chuột đã
được mở rộng thêm 10 nước, trong đó chủ yếu là các nước trong khối EU như
Hà Lan, Bồ Đào Nha và khối Asian là Campuchia, Singapore và Malaysia.
2.2.3 Thực tiễn liên kết ở một số quốc gia trên thế giới
Mô hình liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà
nông có thề diễn ra trong nhiều ngành hàng nông nghiệp. Thực tế của các nước
trên thế giới cho thấy đây là mô hình đem lại lợi ích cho các bên tham gia, đặc
biệt là hộ nông dân và mô hình này đã nhanh chóng lan rộng ở các nước đang
phát triển điển hình như là ở Trung Quốc, Kenya...
2.2.3.1 Ở Trung Quốc

24


Hợp đồng sản xuất nông nghiệp ở Trung Quốc phát triển nhanh khoảng
10 năm lại đây. Theo kết quả khảo sát của Trung Quốc thì hầu hết nông dân
được phỏng vấn đồng tình với hình thức sản xuất theo hợp đồng và hưởng ứng

cách làm này. Tuy nhiên, sản xuất theo hợp đồng có xu hướng bỏ qua những
người sản xuất nhỏ. Nông dân xác định được giá cả ổn định và được tiếp cận thị
trường như là những ưu điểm chính của phương thức này để ký hợp đồng với
doanh nghiệp, trong khi đó doanh nghiệp coi việc cải tiến chất lượng sản phẩm
là mấu chốt để đảm bảo cho hợp đồng được thực hiên. Kết quả là sản xuất theo
phương thức này là chất lượng sản phẩm cao hơn, chi phí sản xuất và tiếp thị
thấp hơn. Trong chương trình công nghiệp hóa nông nghiệp, Chính phủ Trung
Quốc có chủ trương hỗ trợ và thúc đảy phương thức hợp đồng sản xuất nông
nghiệp nhằm mục tiêu tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh cho sản xuất nông
nghiệp. Hợp đồng sản xuất nông nghiệp như phương tiện để gắn nông dân sản
xuất nhỏ với các doanh nghiệp chế biến lớn. Chính quyền địa phương đã nhận
thức tiềm năng của sản xuất theo hợp đồng trong việc cơ cấu lại sản xuất và tăng
thu nhập cho nông dân.
Bốn đặc điểm chính có được từ phương thức sản xuất theo hợp đồng là:
- Số hàng hóa nông nghiệp sản xuất theo phương thức này tăng một cách
vững chắc.
- Địa bàn áp dụng phương thức sản xuất này cũng mở rộng, ngay cả đến
những vùng kém phát triển như miền Trung và Tây Trung quốc.
- Quy mô của phương thức sản xuất này cũng mở rộng và số lượng hợp
đồng cũng tăng nhanh.
Kết quả phân tích từ điều tra 1036 hộ nông dân, trong đó có 220 hộ
(chiếm 21%) thực hiện hợp đồng đã chỉ ra những lý do vì sao việc thực hiện hợp
đồng còn khó khăn và có liên quan đến cả hai phía nông dân và doanh nghiệp.

25


×