Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

một số giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa công nghiệp phụ trợ và sản xuất dệt may tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.53 MB, 94 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA
KINH
TẾ VÀ
KINH
DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH
KINH
TẾ
ĐỐI
NGOẠI

EO
ca oa —
KHÓA
LUẬN
TỐT NGHIỆP
Đế tài:
MỘT
SỐ
GIAI
PHÁP TÂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA
CỒNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ SẢN XUẤT DỆT MAY
TAI
VIÊT NAM
Sinh viên thực hiện
Lớp
Khóa
Giáo viên hướng dẫn
Mai


Thúy
Dung
Anh 4
45A
PGS.TS.
Phạm
Thu Hương
Ị THƯ ViỄl

Nội,
tháng
5
năm 2010
IM
-C46
i
:c

MỤC
LỤC
CÁC KÝ
HIỆU
VIẾT
TệT
DANH
MỤC BẢNG HÌNH
LỜI
NÓI ĐẦU Ì
CHƯƠNG ì: Cơ SỞ LÝ THUYẾT VÈ MÓI QUAN HỆ GIỮA CÔNG
NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ SẢN XUẤT 6

ì. KHÁI QUÁT VÈ CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ 6
Ì. Công nghiệp phụ trợ là gì 6
2. Vai trò của công nghiệp phụ trợ
đối
với nền kinh tế 10
li.
KHÁI QUÁT VÈ MÓI QUAN HỆ GIỮA CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ
VÀ SẢN XUẤT 12
Ì. Khái niệm về hợp tác và thiếu họp tác 12
2. Những trở ngại
trong
việc xây
dựng
mối
quan
hệ giữa công nghiệp phụ
trợ và sản xuất 13
2.1.
Trờ ngại về động cơ 13
2.2. Trở ngại về
chia
sẻ thông tin 13
2.3.Trờ
ngại về hành vi 14
3. Những đòn bẩy cơ bản để tăng cường mối
quan
hệ giữa công nghiệp
phụ trợ và sàn xuất 15
3.1.
Thống

nhất
về mục tiêu và động cơ 15
3.2. Cải thiện độ chính xác của thông tin 15
3.3. Xây
dựng
mối
quan
hệ đối tác và tin cậy chiến lược 16
ni.
TÀM QUAN TRỌNG CỦA MÓI QUAN HỆ GIỮA CÔNG NGHIỆP
PHỤ TRỢ VÀ SẢN XUẤT ĐỐI VỚI
HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÀNH 26
Ì. Một sổ giả thuyết của mô hình 26
2. Xây
dựng
mô hình hồi quy 27
3.
Kiếm
định giả thuyết và sai lầm của mô hình 29
i
3.1.
Kiểm
định nguyên vật
liệu
có ảnh hường đến giá trị sản xuất công
nghiệp
của ngành hay không? 29
3.2.

Kiểm
định phương sai sai số
thay
đổi 29
3.3. Kiêm định tự tương
quan
31
4. Kết luận về mô hình 32
KÉT
LUẬN
CHƯƠNG ì 33
CHƯƠNG
li:
THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA CÔNG NGHIỆP
PHỤ TRỢ VÀ SẢN XUẤT DỆT MAY TẠI
VIỆT
NAM
34
ì. TỒNG QUAN VÈ VỊ TRÍ NGÀNH DỆT
MAY
TRONG NÊN
KINH

34
Ì. Cấu trúc
theo
chiều dọc của ngành dệt may 34
2. Vai trò của ngành dệt may đối với nền kinh tế 35
li.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ

SẢN XUẤT TRONG NGÀNH DỆT MAY 36
Ì. Công
nghiệp
phụ trợ (Khu vực thượng
nguồn)
36
1.1. Sợi bông 36
1.2. Sản
phẩm
dệt 39
Ì
.3. Nhuộm, in và hoàn tất 42
2. Sản xuất dệt may (Khu vực hạ
nguồn)
44
ni.
THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỌ
VÀ SẢN XUẤT TRONG NGÀNH DỆT
MAY
48
Ì. Tương
quan
về cơ sờ vật
chất,
thiết bị 48
2.
Thực
trạng
cung
ứng nguyên phụ

liệu
50
2.
Ì.
Những tồn tại
trong
hoạt
động
cung
ứng nguyên phụ
liệu
50
2.2. Những cải thiện
trong
hoạt
động
cung
ứng nguyên phụ
liệu
55
2.3. Mô hình hợp
nhất
theo
ngành dọc
thay
cho sụ liên kết giữa công
nghiệp
phụ trợ và sản xuất
trong
ngành Dệt May 56

KÉT
LUẬN
CHƯƠNG li 60
CHƯƠNG IU:
GIẢI
PHÁP TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA
CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ SẢN XUẤT DỆT MAY TẠI
VIỆT
NAM
61
li
ì. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VÀ CÔNG
NGHIỆP PHỤ TRỢ ĐÓI
VỚI
NGÀNH DỆT
MAY
61
Ì. Quy
hoạch
phát
triển
ngành công
nghiệp
dệt may
Việt
Nam đến năm
2015,
định
hướng đến năm
2020

61
1.1.
Quan
diêm phát
tri
én 61
Ì
.2.
Mục tiêu phát
triển
62
1.3. Quy
hoạch
phát
triển
sản
phẩm
và bố trí quy
hoạch
63
2.
Định
hướng phát
triển
ngành công
nghiệp
phụ trợ
đối
với
ngành dệt may. .65

2.1.
Định
hướng phát
triển
chung
ngành công
nghiệp
phụ trợ đối với
ngành dệt may 65
2.2.
Định
hướng phát
triển
cụ thể ngành công
nghiệp
phụ trợ đối với
ngành dệt may 66
li.
ĐÈ XUẤT
GIẢI
PHÁP TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA
CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ SẢN XUẤT DỆT MAY TẠI
VIỆT
NAM
70
Ì. Nhóm
giải
pháp vi mô đối với ngành dệt may 70
1.1. Xây
dựng

mối
quan
hệ dựa trên sự tin
tường
lẫn
nhau
70
Ì
.2.
Cải thiện quá trình
chia
sẻ thông tin 71
Ni
1.3. Chuyên
dịch
mô hình hợp nhát
theo
ngành dọc
sang
mô hình hợp
tác ngành dọc 73
1.4. Cải thiện năng lực sản xuất của khu vực thượng
nguồn
74
1.5. Khu vục thượng
nguồn
cần
chuyển
dịch
cơ cấu sản xuất từ gia

công
sang
FOB 76
2. Nhóm
giải
pháp vĩ mô đối với các cơ
quan
chức
năng 76
2.
ì. Đối với Hiệp hội Dệt May
Việt
Nam 76
2.2. Đối với các cơ
quan
chức
năng khác 77
KÉT LUÂN CHƯƠNG IU 80
KẾT
LUẬN
81
DANH
MỤC TÀI
LIỆU
THAM
KHẢO 83
PHỤ LỤC ì 86
iii
CÁC KÝ
HIỆU

VIẾT
TệT
Ký hiệu
viết
tắt Tên tiếng Anh
Tên tiếng
Việt
BPG
Breusch
-
Pagan
Godírey
Tên của một
loại
kiêm
định
trong
mô hình hồi
quy
BSID
Bureau
of
Supporting
Industries
Development
Văn phòng phát
triển
công
nghiệp
phụ trợ

Thái Lan y
FDI
Foreign
Direct
Investment
Đầu tư
trực
tiếp nước
ngoài
IPV
Industrial
Production
Value
Giá trị sản xuất công
nghiệp
MAI
Materials/
Accessories
Import
Nhập
khâu nguyên vật
liệu
METI
Ministry of
Economy,
Trade
and
Industry
Bộ
Kinh Te, Thương

Mại
và Công Nghiệp
Nhật Bản
v
MUI
Ministry of
International
Trade
and
Industry
Bộ
Công Nghiệp và
Thương Mại
Quốc
Te
Nhật Ban
POS
Point
of
Sales
Diêm bán hàng
SOFRECO
Société
Franẹaise
de
Réalisation
d'Etudes
et
de
Conseil

Công ty Tư vấn Phát
Triển
Nông Nghiệp -
Cộng
Hòa Pháp
TBIC
Trade
and
Business
Iníòrmation
Center
Trung
Tâm Thông Tin
Kinh
Doanh
và Thương
Mại
Vinatex
The
Vietnam
National
Textile and
Garment
Group
Tổng
công ty Dệt May
Việt
Nam
iv
DANH

MỤC
BẢNG HÌNH
Bảng
Ì:
Tương
quan
công
nghệ
ngành dệt
may
năm
2008
(Đơn vị: %)
48
Bảng 2:
So
sánh năng lực
sản
xuất năm
2008 - 2009 49
Bảng
3:
Mục tiêu
của
ngành dệt
may 62
Bảng 4: Mục tiêu
sản
xuất dệt thoi
69

Hình
Ì:
Các yếu tố cấu thành khả năng
cạnh
tranh
ngành công
nghiệp
12
Hình
3:
Ảnh hưởng
của sự
tương
thuộc
lên mối
quan
hệ giữa các khâu
21
Hình 4: Quy trình phát
triển
mối
quan
hệ hợp tác
23
Hình
5:
Hàm hồi
quy
giữa
hai

biến Y và
X 27
Hình
6:
Đồ thị các giá
trị của
biến phụ
thuộc
Y 28
Hình
7:
Hàm hồi
quy
giữa
hai
biến ej

Ỳ,
2
30
Hình
8:
Hồi
quy
tuyến tính
trong
kiếm
định BG
32
Hình

9:
Giá trị
sản
xuất công
nghiệp
sản
phẩm
dệt
giai đoạn
1996 - 2007
(Đơn vị:
tỷ
đồng)
40
Hình 10: Giá trị
sản
xuât công
nghiệp
của
Sản phàm hàng
may mặc
giai đoạn
từ
1996 - 2007
(Đơn vị:
tỷ
đồng)
44
Hình
11:

Kim
ngạch
xuất khẩu hàng
dệt
may
Việt
Nam giai đoạn 1998
-
2009
46
Hình 12: Cơ câu xuât khâu
theo
mặt hàng
2009 47
Hình 13:
Nhập
khẩu bông
theo
tháng giai đoạn
2007 - 2009 50
Hình 14:
Nhập
khẩu xơ
theo
tháng giai đoạn
2007 - 2009 51
Hình 15:
Nhập
khẩu sợi
theo

tháng giai đoạn
2007 - 2009 52
Hình 16:
Nhập
khẩu vải
theo
tháng giai đoạn
2007 - 2009 52
Hình 17: Giá trị
nhập
khẩu phụ
liệu
của
ngành Dệt May giai đoạn
từ 2000 -
11 tháng đầu năm
2009
(Đơn vị:
triệu
USD)
55
V
LỜI
NÓI ĐẦU
ì. TÍNH CÁP
THIẾT
CỦA ĐÈ TÀI

Việt
Nam, dệt may là một

trong
những
ngành được chú trọng phát
triển
trong
kế
hoạch
công nghiệp hóa,
hiện
đại hóa đất nước. Với
những
un
thế
về nguồn nhân công dồi dào
cộng
với
những
chính sách ưu đãi hợp lý của
nhà nước, ngành dệt may
Việt
Nam
trong
những
năm gần đây đã có sự phát
triển
đáng kể với tốc độ trên
dưới
20%/năm,
tham
gia vào nhóm

những
mặt
hàng xuất khẩu có kim
ngạch
xuất khẩu trên Ì tỷ USD của
Việt
Nam, chiếm
15% kim
ngạch
xuất khẩu của cả nước. Sự phát
triển
ấn tượng của ngành dệt
may đã góp phần đưa
Việt
Nam trờ thành một
trong
chín nước xuất khâu
hàng may mặc lớn
nhất
trong
số 153 nước xuất khâu hàng dệt may trên toàn
thế
giới.
Tuy nhiên, nếu xét
trong
chuỗi giá trị toàn cầu, ngành dệt may
Việt
Nam đang tự đặt mình vào vị trí đáy của
hoạt
động tạo ra giá trị khi sản xuất

gia công
1
, khâu sản xuất có tỷ
suất
lợi
nhuận
thấp
nhất
chiếm
khoảng
5 -
10%, lại chiếm tỷ lệ lớn
nhất
khoảng
70 - 80%
trong
hoạt
động của ngành.
Thực
tế này đang đẩy ngành dệt may phải đối mặt với
những
nguy
cơ giảm
sút tỷ
suất
giá trị gia tăng trên giá trị sản xuất công nghiệp. Một
trong
những
nguyên nhân sâu xa cho
nghịch

lý này là do sự kém phát triên của công
nghiệp phụ trợ và mối
quan
hệ "lỏng lẻo" giữa công nghiệp phụ trợ và sản
xuất
trong
ngành dệt may, làm cho các
doanh
nghiệp sản xuất không thể chủ
động được nguồn nguyên phụ
liệu,
do đó không thể phát
triển
được sản xuất
hàng FOB
2
.
'
Sàn
xuất
gia
công:

quá
trinh
tạo
thêm
giá
trị
thặng


cho sàn
phẩm
nhưng không
làm
thay
đồi
đặc
tính
vật

hoặc
hóa
học
cơ bàn
cùa
sàn phàm
2
Sàn
xuất
FOB:
doanh
nghiệp
trực
tiếp
tham
gia
vào
tất
cà các

khâu,
từ
nhập
khẩu
nguyên
liệu,
thiết
kế
mẫu
cho
đến
tiêu
thụ
thành
phẩm

chỉ
xong
trách
nhiệm
khi
hàng
được
giao
lẽn
tàu.
Ì
Nhận thấy vai trò
quan
trọng của ngành dệt may đối với sự phát triên

của nền kinh tế nói
chung,
Bộ Công Thương đã phê duyệt và ban hành Quyêt
định số 42/2008/QĐ-BCT về Phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Công
nghiệp Dệt May
Việt
Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.
Trong
đó,
phát
triển
hoạt
động sản xuất được gắn
chặt
với việc phát triên khu vực
công
nghiệp
phụ trợ. Đây
cũng

tiền
đề cho
những
văn bản pháp luật khác
về định hướng phát
triển
các ngành công
nghiệp
phụ trợ
phục

vụ cho
hoạt
động sản xuất dệt may, như Quyết định số 29/QĐ-TTg về Phê duyệt Quy
hoạch Phát triển
Cây
Bóng Vải
Việt Nam
đèn năm 2015, định hướng đèn năm
2020; Quyết định số 43/2008/QĐ-BCT về Phê duyệt Chương trình sản xuất
vải dệt thoi phục vụ xuất khâu đèn năm 2015.
Với
tất cả
những
lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài "Một so giải pháp
tăng cường moi quan hệ giữa công nghiệp phụ trợ và sản xuất dệt may tại
Việt
Nam" làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp
năm 2010.
Trong
đó, ngoài
những
đánh giá
mang
tính
chất
định lượng, khóa luận còn lượng hóa mối
quan
hệ
giữa hai khu vực thông qua mô hình hồi quy tuyến tính

nhằm
đưa lại một
công cụ hiệu quả không chi đối với ngành mà còn đôi với các định hướng
phát
triển
của chính phủ đối với ngành.
li.
MỤC TIÊU VÀ
NHIỆM
vụ NGHIÊN cứu
1.
Mục tiêu nghiên cứu:
Vận
dụng
lý thuyết về xây
dựng
mối
quan
hệ hiệu quả giữa còng
nghiệp
phụ trợ và sản xuất, từ đó đề xuất
giải
pháp
nhằm
tăng cường,
củng
cố
mối
quan
hệ giữa công

nghiệp
phụ trợ và sản xuất
trong
ngành dệt may.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu lý thuyết xây
dựng
mối
quan
hệ hiệu quả giữa công
nghiệp
phụ trợ và sản xuất, phân tích
thực
trạng
hoạt
động của từng khâu
2
trong
ngành, đánh giá mức độ của mối
quan
hệ hiện tại giữa hai khu vực, từ
đó đề xuất
giải
pháp tăng cường mối
quan
hệ giữa hai khu vực này
trong
ngành dệt may
Việt
Nam.

HI.
ĐÓI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN cứu
1.
Đối tượng nghiên cứu:
Đối
tượng nghiên cứu của đề tài là mối
quan
hệ giữa công nghiệp phụ
trợ và sản xuất dệt may.
2.
Phạm
vi nghiên cứu
Không
gian
nghiên cứu là
Việt
Nam.
Thòi
gian
nghiên cứu tập
trung trong
khoảng
từ năm
2000
đến năm
2009.
Giới
hạn đối tượng nghiên cứu: mối
quan
hệ giữa công nghiệp phụ trợ và

sản xuất dệt may sẽ được nghiên cứu
dưới
góc độ nhu cầu về nguyên phụ
liệu

khả
năng
cung
ứng nguyên phụ
liệu.
3. Những giả định nghiên cứu
Những giả định sau đây chủ yếu được áp
dụng
trong
mô hình hồi quy
tuyến tính:
- Mối
quan
hệ giữa biến độc lập và biến phụ
thuộc
là mối
quan
hệ tuyến
tính.
- Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành dệt may được giả thuyết phản
ánh được hiệu quả
hoạt
động của ngành.
- Công nghiệp phụ trợ chưa phát
triển,

đến nay vẫn phải
nhập
khẩu hơn
70% nguyên vật
liệu
đầu vào cho sản xuất của khu vực sản xuất. Vì thế,
kim
ngạch
nhập
khẩu nguyên vật
liệu
ngành dệt may được giả thuyết
có tính đại diện cho mối
quan
hệ giữa hai khu vực.
- Do ý tưởng thiết kế vẫn là khâu yếu
nhất
của ngành may mặc
Việt
Nam, nên mô hình giả thuyết giá trị sản xuất của ngành Dệt May chỉ
3
bao gồm giá trị do công đoạn gia công tạo ra. Do đó, mô hình không
xét đến tác động của khâu ý tưởng thiết kế vào hiệu quả
hoạt
động của
ngành.
IV.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
Đề
tài áp

dụng
phương pháp nghiên cứu ứng
dụng.
Bên
cạnh
đó, các
phương pháp nghiên cứu phân tích, phương pháp so sánh
cũng
được sử
dụng
nêu bật
những
ưu điểm của mô hình hợp tác ngành dọc dựa trên mối
quan
hệ
giữa hai khu vực phụ trợ và sản xuất
trong
ngành so với mô hình hợp
nhất
hóa
theo
ngành dọc.
V.
NGUỒN SÒ
LIỆU
Nguồn số
liệu
thứ cấp
trong
các năm, chủ yếu từ

2000
đến nay được
thu
thập
từ: Tập đoàn Dệt May
Việt
Nam (Vinatex), Hiệp hội Dệt may
Việt
Nam (VITAS), Bộ Công Thương,
Tổng
Cục
Thống
Kê và các Quyết định
định hướng phát triên ngành.
VI.
CÁC HƯỚNG MỞ RỘNG NGHIÊN cứu TIẾP THEO
Bên
cạnh
yếu tố
cung
cầu nguyên phụ
liệu,
việc đánh giá hiệu quả mối
quan
hệ giữa hai khu vực phụ trợ và sản xuât
trong
ngành dệt may có thê
được mờ rộng xem xét
những
khía

cạnh
khác như về mức độ tồn kho, mức độ
và hiệu quả hợp tác thông
tin
Bản thân mô hình hồi quy được xây
dựng
cũng
có thê được mờ rộng
bằng
cách đưa thêm các biến khác và có liên
quan
đến hiệu quả
hoạt
động của
ngành vào mô hình và
kiểm
nghiệm tính đúng đắn của mô hình mới.
VU.
KÉT CẤU ĐÈ TÀI
Ngoài Mục lục, Các ký hiệu
viết
tắt,
Danh
mục các
bảng
biếu số
liệu,
Lời
nói đầu, Kết luận, Phụ lục và
danh

mục tài
liệu
tham
khảo, đề tài được kết
4
cấu thành ba chương như sau:
Chương
Ì: Cơ sở lý thuyết về mối
quan
hệ giữa công nghiệp phụ trợ và sản
xuất.
Chương
2:
Thực
trạng mối
quan
hệ giữa công nghiệp phụ trợ và sản xuât dệt
may tại
Việt
Nam.
Chương
3:
Giải
pháp tăng cường mối
quan
hệ giữa công nghiệp phụ trợ và
sản xuất dệt may
tại Việt
Nam.
5

CHƯƠNG ĩ: Cơ SỞ LÝ THUYẾT VÈ MÓI QUAN HỆ GIỮA
CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ SẢN XUẤT.
ì. KHÁI QUÁT VÈ CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ
1.
Công
nghiệp
phụ trợ là gì
"Công
nghiệp
phụ trợ"
(supporting
industry)
là một khái niệm xuât
phát từ Nhật Bản, được sử
dụng
trong
thực
tiễn
hoạt
động của các
doanh
nghiệp
Nhật Bản trước khi được sử
dụng
một cách chính
thức.
Cùng với việc
chuyển
dịch
chuỗi giá trị

sang
các nước châu Á, với sức ảnh hường của
nguồn
đầu tư
trực
tiếp nước ngoài (FDI) từ Nhật Bản, công
nghiệp
phụ trợ được các
nước đang phát
triển
tiếp
nhận
trong
xây
dựng
và điều
chinh
các chiến
lược
về công nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm "công
nghiệp
phụ trợ" vẫn đang được
hiểu
theo
nhiều cách khác
nhau.
Cách tiếp cận khái niệm công
nghiệp
phụ trợ
theo

những
đặc thù cơ
bản được
chia
ra thành hai
quan
diêm trái ngược
nhau:
-
Quan
điếm của các lý thuyết kinh tế phát
triến
về công
nghiệp
thượng
nguồn
và hạ nguôn cho răng: Công
nghiệp
phụ trợ có đặc tính thâm
dụng
vốn,
có độ phủ rộng
phục
vụ và
chia
sẻ với nhiều ngành sản xuất.
Trong
khi
các ngành sản xuất ra sản phàm cuối cùng có thế cần nhiều nhân lực
phổ thông, thì các thiết bị, linh

kiện,
sản
phẩm
hỗ trợ được sản xuất với sự
đầu tư tốn kém về máy móc và
nguồn
nhân lực kỹ
thuật
cao. Chính vì vậy,
công
nghiệp
phụ trợ là
những
ngành thâm
dụng
vốn, đòi hòi cao về
chất
lượng lao động. Mặt khác, công
nghiệp
phụ trợ có độ phủ rộng, sản
phẩm
có thể sử
dụng
chung
cho nhiều ngành, do đó phải đáp ứng được
những
yêu cầu nghiêm
ngặt
về công
nghệ

và tiêu
chuẩn
kỹ
thuật.
Cả hai đặc tính
này khiến công
nghiệp
phụ trợ ở các nước đang phát
triển
kém tính
cạnh
tranh.
Các
doanh
nghiệp
vừa và nhỏ tại các nước đang phát
triển
thường
6
không đủ
nguồn
lực về vốn
cũng
như về lao động kỹ
thuật
cao đê có thê
phát huy vai trò của công
nghiệp
phụ trợ khi
tham

gia chuỗi giá trị.
-
Trong
khi đó,
những
quan
điểm về công
nghiệp
phụ trợ gắn với
doanh
nghiệp
vừa và nhỏ lại có một cách hiểu khác về công
nghiệp
phụ trợ. Bộ
Công Nghiệp và Thương Mại
Quốc
tế Nhật Bản (Min, sau đó đổi thành
METI
vào năm
2001),
trong
báo cáo năm 1985, đã
khẳng
định vai trò của
doanh
nghiệp
vừa và nhỏ
trong
công
nghiệp

phụ trợ, thông qua việc sản
xuất linh
kiện
để tạo lập hạ tầng công
nghiệp
vững
mạnh
tại các quôc gia
Đông Nam Á
trong trung
và dài hạn.
Trong
tập sách
"Biến
động kinh tê
Đông Á và con đường công
nghiệp
hóa
Việt
Nam"
(2006),
Trần Văn Thọ
cũng
chia
sẻ
quan
điểm tương tự khi gắn khái niệm "công
nghiệp
phụ trợ"
với

toàn bộ
những
sản
phẩm
công
nghiệp
có vai trò hỗ trợ cho việc sản
xuất các thành
phẩm
chính và
những
sản
phẩm
trung
gian,
những
nguyên
liệu
sơ chế.
Theo
đó, sản phàm công
nghiệp
phụ trợ thường được sản xuất
với
quy mô nhỏ,
thực
hiện bởi các
doanh
nghiệp
nhỏ và vừa. Do đó,

những
ngành sản xuất thâm
dụng
vòn như
quan
diêm trên sẽ không được
tính là công
nghiệp
phụ trợ.
Trong
các văn bản cấp
quốc
gia, khái niệm công
nghiệp
phụ trợ lại
được nhìn
nhận
theo
ngành:
- Định
nghĩa
chính
thức
của
quốc
gia về công
nghiệp
phụ trợ được Bộ Kinh
tế,
Thương mại và Công

nghiệp
Nhật Bản (METI) đưa ra vào vào năm
1993: Cóng
nghiệp
phụ trợ là các ngành công nghiệp cung cấp các yếu tắ
cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh kiện và vắn cho các ngành công
nghiệp lắp ráp (bao gồm ó tô, điện và điện tử).
Cũng
theo
cách này,
Phòng Năng lượng Hoa Kỳ
trong
ấn
phẩm
năm
2004
với tên gọi "Các
ngành công
nghiệp
phụ trợ: công
nghiệp
của tương lai", đã định
nghĩa
công
nghiệp
phụ trợ là
những
ngành sử
dụng
nguyên vật

liệu
và các quy
trình cần thiết để định hình và chế tạo ra sản
phẩm
trước khi chúng được
7
lưu thông đến ngành công
nghiệp
sử
dụng
cuối cùng
(end-use
indutries).
Tuy khái niệm của Phòng Năng lượng Hoa Kỳ đưa ra rất tổng quát nhưng

quan
này,
trong
phạm
vi
chức
năng của mình, tập
trung
chủ yếu vào
mục tiêu
tiết
kiệm
năng lượng. Do đó, công
nghiệp
phụ trợ

theo
quan
điểm
của cơ
quan
này là
những
ngành tiêu tốn nhiều năng lượng như
than,
luyện kim, thiết bị nhiệt, hàn, đúc
- Định
nghĩa
của Văn phòng phát
triển
công
nghiệp
phụ trợ Thái Lan
(Bureau
of
Supporting
Industries
Development
- BSID): Cóng
nghiệp
phụ
trợ là các ngành công nghiệp cung cáp linh
kiện,
phụ
kiện,
mảy

móc,
dịch
vụ đóng gói và dịch vụ kiêm tra cho các ngành công nghiệp cơ bản (nhân
mạnh các ngành cơ khí, máy móc, linh kiện cho ô tô, điện và điện tử là
những ngành công
nghiệp
phụ trợ
quan
trọng).
- Hội đồng đầu tư Thái Lan phân
loại
các ngành công
nghiệp
sản xuất thành
phàm thành 3 bậc: lắp ráp, sản xuất linh
kiện
và phụ
kiện,
và các ngành
công
nghiệp
phụ trợ. Năm sản
phẩm
chính của ngành công
nghiệp
phụ trợ
là gia công khuôn mẫu, gia công áp lực, đúc, cán và các gia công nhiệt.
Nếu
tiếp cận
theo

chuỗi giá trị, từ góc độ
doanh
nghiệp, công
nghiệp
phụ trợ được hiểu gồm ba
dạng
doanh
nghiệp:
- Các nhà
cung
ứng linh
kiện,
thiết bị, máy móc ở nước ngoài (import)
- Các nhà
cung
ứng linh
kiện,
thiết bị, máy móc nước ngoài ờ thị trường
trong
nước (íoreign
supplier)
- Các nhà
cung
ứng linh
kiện,
thiết bị, máy móc ờ nội địa
(dosmetic
suppliers)
Tuy nhiên, một điều dễ
nhận

thấy
trong
các định
nghĩa
khái niệm "công
nghiệp
phụ trợ" ở trên đều gắn nó với các ngành cơ khí, máy móc, điện và
điện
tử, do đó chưa bao quát được hết độ rộng của khái niệm "công
nghiệp
phụ trợ"
trong
các ngành công nghiệp.
Trong
những
nghiên cứu về công
nghiệp
phụ trợ,
Trung
Tâm Thông Tin Kinh
Doanh
và Thương Mại (TBIC),
8
Việt
Nam đã đưa ra một định
nghĩa
tổng quát
3
cho tất cả các ngành công
nghiệp:

"Công
nghiệp
phụ trợ
(supporting
industry)
là ngành công
nghiệp
sản
xuất
những
sản
phẩm
trung
gian
có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất một
loại
sản phàm cuối cùng
nhất
định."
Tuy từng
loại
sản
phẩm
cụ thế cần sản xuất,
những
sản phàm
trung
gian
có thế bao gồm nguyên
liệu,

vật
liệu,
linh
kiện,
phụ tùng, các bộ
phận
chi
tiết
lẻ,
phụ
liệu,
bao bì, nhãn mác,
thuốc
nhuộm, .Những sản
phẩm
trung
gian

một
loại
yếu tố "đầu vào" của quá trình sản xuất công nghiệp. Do tính
phức
tạp của mối liên hệ sản xuất giữa các ngành công nghiệp, việc xác định
loại
hình công
nghiệp
phụ trợ của một ngành nào đó
cũng
chỉ
mang

tính
chất
tương
đối.
Mỗi
ngành công
nghiệp
đều phát
triển
theo
chuỗi giá trị riêng biệt,
song
đều có một điểm
chung
là được hình thành từ sự liên kết giữa 2 khu vực: khu
vực thượng
nguồn
(upstream)
và khu vực hạ
nguồn
(downstream).
Trong
đó,
khu vực thượng
nguồn
thường được gọi là công
nghiệp
phụ trợ, làm nền tảng
cơ sờ đế phát
triển

khu vực hạ
nguồn.
Ngược
lại,
khu vực hạ
nguồn
là ngành
công
nghiệp
chính, chi có thế phát
triến
khi khu vực thượng
nguồn
phát
triển,
và khi khu vực hạ
nguồn
đã phát
triển
sẽ tạo "động lực" thúc đẩy phát
triển
khu vực thượng
nguồn.
Mặc dù khái niệm công
nghiệp
phụ trợ có thể được định
nghĩa
theo
nhiều cách khác
nhau,

tùy vào sự lựa chọn cách tiếp cận như thế nào.
Trong
giới
hạn nghiên cứu của bài luận văn, do công
nghiệp
phụ trợ được đặt
trong
mối
quan
hệ với sản xuất, nên tác giả lựa chọn cách tiếp cận khái niệm công
nghiệp
phụ trợ
theo
quan
điểm của TBIC với việc phân
chia
hai khu vực:
thượng
nguồn
và hạ
nguồn.
5
Trung Tâm Thông Tin Kinh Doanh và Thương Mại 2008, Công nghiệp phụ trợ ngành Dệt May Việt Nam -
Thực trạng và nhưng khuyến nghị,
pp.
3
9
2. Vai trò của công
nghiệp
phụ trợ

đối
vói nền kinh tế
Thứ nhất, công
nghiệp
phụ trợ là điều
kiện
quan
trọng đảm bảo tính
chủ động và nâng cao giá trị gia tăng của ngành sản xuất sản
phẩm
của khu
vực hạ
nguồn.
Trong
tống giá trị tạo ra của sản
phẩm
cuối cùng, các sản phàm
trung
gian
đóng góp
phần
giá trị lớn
nhất
(từ 80 - 90% đối với các ngành cơ
khí, máy móc và hơn 70% đối với ngành dệt may),
phần
giá trị còn lại là từ
khâu sản xuất, lắp ráp. Xét
trong
mối

quan
hệ giữa ngành sản xuất và công
nghiệp
phụ trợ, nhà sản xuất thường chỉ đảm nhiệm
những
khâu trọng yêu
nhất
rồi sử
dụng
nguyên
liệu,
vật
liệu,
phụ tùng, chi
tiết
của các
doanh
nghiệp
vệ tinh
trong
khu vực thượng
nguồn
để lắp ráp, hoàn thiện thành phàm
và nắm giữ hệ
thống
phân phối. Nói cách khác, nếu thiếu đi một ngành công
nghiệp
phụ trợ
mạnh,
nhà sản xuất sẽ bị phụ

thuộc
vào
nguồn
nguyên vật
liệu
nhập
khẩu. Điều này sẽ góp
phần
làm tăng chi phí vận chuyên
quốc
tế và gia
tăng thời
gian
từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc một chu trình sản xuất, do đó
giảm sức
cạnh
trạnh đối với
những
đối thủ mà có khả năng tiếp cận
nhanh
chóng
nguồn
cung
nguyên
liệu.
Thứ
hai,
góp
phần
khai thác các

nguồn
lực
trong
nước, giảm xuất khâu
các sản
phẩm
thô và
nhập
khẩu nguyên phụ
liệu,
nâng cao sức
cạnh
tranh
của
sản
phẩm
và đẩy
nhanh
quá trình công
nghiệp
hoa
theo
hướng vừa mờ rộng
(broadening)
vừa chuyên sâu
(deepening).
Thứ
ba,
phát huy ảnh hưởng của tác động "lan toa"
trong

phát
triển
hệ
thống
công nghiệp. Hệ
thống
này có thế liên kết
theo
chiều dọc
hoặc
chiều
ngang,
tạo thành các cụm công
nghiệp
có mối
quan
hệ hữu cơ mật thiết với
nhau.
Do vậy, sự phát
triển
của một ngành công
nghiệp
trong
hệ
thống
đó sẽ
có tác động
mạnh
mẽ đến các ngành công
nghiệp

khác, kích thích các ngành
này
cũng
phát
triển
theo
sao cho đáp ứng được yêu cầu của thời kì mới.
10
Thứ tư, góp
phần
tạo thêm việc làm và thu
nhập
cho
người
lao động,
thu hút lao động dư
thừa,
đặc biệt là
trong
những
ngành sử
dụng
nhiêu lao
động thủ công, giản đơn như dệt may, chế biến nông
sản
Thứ năm, mở rộng khả năng thu hút đầu tư
trực
tiếp nước ngoài vào
phát
triển

công nghiệp. Đối với
những
quốc
gia có ngành công
nghiệp
phụ trợ
không phát
triển,
người
sản xuất không thể mở rộng sản xuất do họ không có
lợi
thế về chi phí. Nhưng khi
người
sản xuất duy trì quy mô sản xuất nhỏ, thì
các nhà
cung
cấp nguyên vật
liệu
lại không có động cơ đế đầu tư
hoặc
mở
rộng sản xuất ở
những
khu vực đó do họ không the giảm bớt các chi phí sản
xuất với các đơn hàng nhỏ. Như vậy, có thể thấy công
nghiệp
phụ trợ phải
phát triên mới thu hút FDI, đặc biệt là FDI
trong
những

ngành sử
dụng
nhiêu
máy móc hiện
đại.
Tỷ lệ của chi phí công
nghiệp
phụ trợ cao hơn nhiều so với
chi phí lao động nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng công
nghiệp
phụ trợ không phát triên sẽ làm cho môi trường đâu tư kém hâp
dẫn.Tuy
nhiên,
cũng
không phải công
nghiệp
phụ trợ phát
triển
đồng bộ rồi mới có
FDI.
Có nhiêu trường hợp FDI đi trước và kéo
theo
các công ty khác (kê cả
công ty
trong
và ngoài nước) đâu tư phát triên công
nghiệp
phụ trợ, do đó có
sự
quan

hệ tương hỗ 2 chiều giữa FDI và công
nghiệp
phụ trợ.
Thứ sáu, là một
trong
những
yếu tố
quan
trọng tạo nên lợi thế
cạnh
tranh
của một ngành công nghiệp, góp
phần
đẩy
mạnh
thực
hiện chiến
lược
hướng về xuất khẩu.
Theo
quan
niệm của
M.
Porter
1990, khả năng
cạnh
tranh
của một ngành công
nghiệp
là khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Khả năng này được

hình thành bởi 4 yếu tố, bao gồm: (1) điều
kiện
các yếu tố sản xuất, (2) điều
kiện
cầu, (3) các ngành công
nghiệp
phụ trợ và các ngành liên
quan,
(4) chiến
lược, cơ cấu và
cạnh
tranh
nội bộ ngành. Cả 4 yếu tố này tác động qua lại lẫn
nhau
tạo thành "mô hình kim cương
Porter"
nhằm
để chi khả năng chịu "va
li
đập" của một
quốc
gia trước môi trường
cạnh
tranh
gay gắt.
Trong
đó, mối
quan
hệ 2 chiều giữa các yếu tố được thể
hiện

qua mô hình sau:
Hình 1: Các yếu tố cấu thành khả năng
cạnh
tranh
ngành công nghiệp
4
Chiến lược, cơ cấu và
cạnh
tranh
nội bộ neành
Điều
kiện
các yếu
tố sản xuất
Các ngành côna
nghiệp
phụ trợ
và các ngành liên
quan
li.
KHÁI QUÁT VÈ MỐI
QUAN
HỆ GIỮA CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ
VÀ SẢN
XUẤT
1.
Khái niệm về hợp tác và
thiếu
hợp tác
Trong

giới
hạn nghiên cứu, chúng ta chỉ xem xét khái niệm về hợp tác

thiếu
hợp tác
trong
mối
quan
hệ giữa khu vực thượng
nguồn
và hạ
nguồn
5
.
Sự hợp tác giữa hai khu vực này đòi hỏi mỗi khâu phải xem xét
những
ảnh
hưởng
trong
hoạt
động của nó đối với các khâu
khác.
Việc
thiếu
hợp tác xuất
hiện
khi các khâu có mâu
thuẫn
về mục tiêu,
định hướng

hoặc
do thông tin được lưu
chuyển
giữa các khâu bị gián đoạn
hoặc
bị bóp méo. Thông thường, mỗi khâu chì tập
trung
tối đa hóa mục tiêu
của bản thân từng khâu mà không xem xét ảnh hưởng lên
những
khâu khác
trong
ngành, do đó
những
mục tiêu
chung
cùa ngành không thể được tối ưu
hóa. Còn thông tin bị bóp méo khi thông tin được truyền đi
trong
chuỗi là
thông tin không hoàn hào, không đầy đủ. Sự sai lệch thông tin này càng được
4
Trung
Tâm Thông
Tin
Kinh
Doanh
và Thương
Mại
2008,

Cóng
nghiệp
phụ trợ ngành Dệt May Việt Nam
-
Thực trạng và những khuyến nghị,
pp.
7
5
Hay

mối
quan
hệ
giữa
công
nghiệp
phụ
trợ
và sàn
xuất.
Khu
vực
thượng
nguồn

hạ
nguồn
phù
hợp
với

cách
hiểu
ve
Công
nghiệp
phụ
trợ

sản
xuất
trong
phạm
vi
bài khóa
luận.
12
khuếch
đại khi chuỗi sản xuất ra một lượng lớn các
chủng
loại
mặt hàng khác
nhau.
Việc gia tăng
chủng
loại
sản
phẩm
khiến cho việc điều phôi thông tin
trao
đôi giữa các khâu với

nhau
trờ nên khó khăn hơn rất nhiều.
2. Những trở ngại
trong
việc xây
dựng
mối
quan
hệ giữa công
nghiệp
phụ
trợ và sản xuất
2.1. Trở ngại về động cơ
Trở ngại vê động cơ là
những
trường hợp mà các khâu
hoặc
các chủ thê
khác
nhau
trong
cùng Ì hệ
thống

những
động cơ khác
nhau,
dẫn đèn
những
hoạt

động làm tăng sự biến động
trong
hoạt
động của toàn bộ hệ
thống

giảm lợi
nhuận
của hệ thống.
Những động cơ mà chi
quan
tâm đến ảnh hường cục bộ của một
hoạt
động sẽ dẫn đen
những
quyết định không làm tối đa hóa lợi
nhuận
của cả hệ
thống. Ví dụ khi các
doanh
nghiệp
cung
ứng nguyên phụ
liệu
cho ngành may
quyết định không
tham
gia vào các
trung
tâm nguyên phụ

liệu
tập
trung

chỉ
tiến
hành mua bán ờ các chợ đầu mối lâu năm,
nhằm
giảm bớt
những
chi
phí
giao
dịch
trong
ngắn
hạn, quyết định này lại làm gia tăng chi phí trước
giao
dịch
(tìm
kiếm
nguồn
cung
nguyên phụ
liệu)
cho các
doanh
nghiệp
sản
xuất hàng may.

2.2. Trở ngại về chia sẻ thông tin
Nêu xét một hệ
thống
sàn xuất như một dòng
chảy
vật
chất
thì vật
chất
sẽ được
chảy
từ nhà
cung
ứng nguyên
liệu
đến
người
sản xuất và cuối cùng là
khách hàng, hay dòng
chảy
sẽ được
chảy
từ khu vực thượng
nguồn
đến khu
vực hạ
nguồn
theo
như cách tiếp cận của bài khóa luận. Thông thường các
khâu

trong
cùng một hệ
thống
sẽ lên kế
hoạch
sản xuất dựa vào việc dự đoán
dựa trên số lượng đơn hàng
trong
quá khứ, bất kỳ sự
giao
động nào
trong
số
lượng đơn hàng từ khu vực sản xuất
cũng
góp
phần
làm
thay
đổi kế
hoạch
sản
xuất của khu vực phụ trợ. Mỗi khâu, xét
trong
cùng một hệ
thống
sản xuất, có
vai trò đáp ứng các đon hàng được đặt bởi khâu "hạ
nguồn"
trước đó.

13
Thực
tế, có rất nhiều yếu tố ảnh hường đến đơn hàng từ khâu hạ nguôn
đối
với khâu thượng nguồn. Ví dụ như các chương trình khuyến mãi, chiêt
khấu thương mại tạo động cơ cho khâu hạ nguồn dồn các đơn hàng lại đê đảm
bảo đủ số lượng được hưởng chiết khấu. Do số lượng đặt hàng quá lớn, nên
thay
vì đặt hàng
theo
định kỳ một tháng một lần, các
doanh
nghiệp hạ nguôn
sẽ kéo dài thòi
gian
cho lần đặt hàng tiếp
theo
hoặc
đặt hàng với số lượng rát
ít cho lần đặt hàng tiếp
theo.
Vói sự
thay
đổi này, ghi nhận đơn hàng của khu
vực thượng nguồn đã có sự giảm đi về cầu, từ đó điều chình kế
hoạch
sản
xuất
trong
thời

gian
tới.
Với
sự
phức
tạp về thông tin
trao
đổi,
tuy nhiên, mối
quan
hệ giữa hai
khu vực thượng nguồn và hạ nguồn chì
dừng
lại ở mức độ
giao
dịch
hàng
ngày (như mô tả ờ hình vẽ), tức là
người
cung
ứng nguyên
liệu

người
sản
xuất chỉ tiếp xúc với
nhau
ờ giai đoạn
trao
đối nguyên

liệu
đầu vào cho quá
trình sản xuất, thì rõ ràng
người
cung
ứng nguyên
liệu
không thế nắm bắt
được
những
thay
đối
trong
đơn hàng từ
người
sản xuất.
2.3. Trở ngại về hành vi
Trờ ngại về hành vi đề cập đến
những
vấn đề liên
quan
đến cấu trúc của
hệ
thống và sự
giao
tiếp giữa các khâu khác
nhau.
Một vài trở ngại về hành vi
bao gồm:
-

Mỗi
khâu
trong
cùng một hệ thống có xu hướng xem xét các vấn đề của
mình một cách cục bộ và thường không thể nhận biết được
những
ảnh
hưởng của
những
hành động
đối
với vấn đề đó đối với các khâu khác
- Các khâu khác
nhau
thường tìm cách đối phó cục bộ với
những
"triệu
chứng"
rõ ràng của
những
vấn đề mà họ đang phải đối mặt hơn là tìm
hiểu
nguyên nhân chính của vấn đề đấy.
- Dựa vào các phân tích cục bộ, các khâu khác
nhau
trong
cùng một hệ
thống có xu hướng đổ lỗi cho
nhau
về

những
dao động
hoặc
sự không
14
ăn
khớp
trong
hoạt
động giữa các khâu. Điều này thúc đây các khâu trờ
nên
cạnh
tranh
với
nhau
thay
vì họp tác với
nhau.
- Sự thiếu tin tường lẫn
nhau
giữa các khâu
trong
cùng một hệ thống làm
cho họ trở nên cơ hội đối với các chi phí
trong
hoạt
động
chung
của
toàn hệ thống. Việc thiếu sự tin cậy

cũng
dẫn đến sự dư
thừa
của nhiều
quy trình
hoạt
động, khi các khâu
hoạt
động biệt lập với
nhau
thay

hợp tác với
nhau.
Cũng do thiếu tin tưởng lẫn
nhau
mà thông tin của
các khâu khác
nhau
không được
chia
sẻ
hoặc
bị
phớt
lờ.
3. Những đòn bẩy cơ bản để tăng cường mối
quan
hệ giữa công nghiệp
phụ trọ' và sản xuất

3.1. Thong nhất về mục tiêu và động cơ
Yếu
to mấu chốt đối với việc phối họp các quyêt định với
nhau
là đảm
bảo mục tiêu mà bát kỳ khâu nào
trong
hệ thông sử
dụng
đê ước lượng các
quyết định nên tương thích với mục tiêu
chung
của toàn bộ hệ thống. Tất cả
các quyết định sản xuất nên dựa vào
những
ảnh hường của nó đến khả năng
sinh
lợi của toàn bộ hệ thống, chứ không phải dựa vào tống chi phí
hoặc
tệ
hơn là chi phí cục bộ của một khâu bất kỳ.
3.2. Cải thiện độ chính xác của thông tin
3.2. ỉ. Chia sẻ dữ liêu diêm bán hàng
Xét
trong
mối
quan
hệ giữa khu vực thượng nguồn và khu vực hạ
nguồn, khu vực hạ nguồn chính là điếm tiếp xúc với khách hàng cuối cùng
(có thê là khách hàng cá nhân

hoặc
tô chức). Do các khâu
trong
hệ thông sản
xuất được
hoạt
động dựa trên
những
dự báo từ các đơn hàng
trong
quá khứ,
nên khi đơn hàng ờ mỗi khâu có sự
thay
đổi,
sẽ kéo
theo
sự
thay
đổi
trong
dự
báo kế
hoạch
sản xuất của từng khâu. Trên
thực
tế, toàn bộ
hoạt
động của cả
hệ
thống sản xuất chi nhằm

thoa
mãn nhu cầu của khách hàng cuối cùng. Vì
15
thế,
sự
chia
sẻ dữ
liệu
điểm bán hàng
(POS)
6
sẽ làm giảm sự sai lệch về sô
liệu
những
đơn hàng
trong
quá khứ của từng khâu, giúp
hoạt
động của cả hệ
thống thống
nhất
hơn.
3.2.2. Thực hiên chương trình hợp tác dư
báo
và lên kê hoạch
Khi
các dữ
liệu
POS được
chia

sẻ, các khâu khác
nhau
trong
hai khu
vực phải dự báo và lên kế
hoạch
sản xuất cùng
nhau
thì mới đảm bảo một sự
hợp tác toàn diện. Nếu như không có sự hợp tác
trong
quá trình lên kế
hoạch
sản xuất, thì việc
chia
sẻ các dữ
liệu
POS
cũng
không đảm bảo được sự hợp
tác giữa hai khu vực. Ví dụ khi khâu phân phối
tiến
hành các chương trình
khuyến mãi, làm tăng nhu cầu về lượng hàng
trong
tháng. Nhưng đến tháng
sau khâu phân phối không có kế
hoạch
thực
hiện các chương trình khuyến

mãi nữa, làm nhu cầu về hàng hóa giảm xuống. Bản thân
người
cung
ứng
nguyên
liệu
cũng
phải biết được kế
hoạch
khuyến mãi này. Nêu không thì cho
dù có sự
chia
sẻ về dữ
liệu
POS, thì vẫn có
những
sai khác
trong
dự báo nhu
câu giữa
người
sản xuât và
người
cung
ứng nguyên
liệu.
Vân đê cót lõi là phải
đảm bảo toàn bộ hệ thống sản xuất cùng
hoạt
động

theo
một dự báo
chung.
3.3.
Xây dựng moi quan hệ đoi tác và tin cậy chiến lược
Một
môi
quan
hệ dựa trên sự tin cậy lẫn
nhau
giữa hai khu vực bao
gồm độ tin cậy giữa hai khu vực và khả năng xây
dựng
niềm tin ờ mỗi khu
vực. Sự tin cậy ở đây có thế hiếu là niềm tin rằng mỗi khu vực đều
quan
tâm
đến
lợi ích của khu vực còn lại và không
thực
hiện kế
hoạch
nào mà không
cân
nhắc
đến
những
ảnh hưởng lên khu vực khác. Họp tác và tin tưởng giữa
các khâu
trong

cùng một hệ thống sản xuất giúp cải thiện
hoạt
động của tất cả
các khâu do:
- Đạt được sự tương thích về mục tiêu và động cơ giữa các khâu sản
xuất. Khi các khâu tin tường lẫn
nhau,
họ có xu hướng xem xét mục
tiêu của các khâu khác
trong
cùng hệ thống khi đưa ra quyết định.
6
POS: point of sales
16
- Các kê
hoạch
hành động ở cấp
quản
lý để xây
dựng
mối
quan
hệ đối tác
giữa các khâu trờ nên dễ dàng hơn. Thông tin được
chia
sẻ đầy đủ giữa
các bên khi có sự tin tưởng lẫn
nhau.
Tương tự, việc
tiến

hành
những
cải thiện
trong
hoạt
động và điều
chỉnh
một chính sách giá hợp lý
cũng
dễ dàng hơn khi các khâu có cùng
lợi
ích.
- Tăng năng
suất
của toàn bộ cả hai khu vực do
loại
bỏ được
những
khâu
sản xuất trùng lặp
hoặc
phân công lao động hợp lý. Ví dụ, một
doanh
nghiệp
sản xuất hàng may
nhận
được nguyên phụ
liệu
từ nhà
cung

ứng
sẽ không phải
kiểm
tra
chất
lượng nguyên phụ
liệu
khi
người
cung
ứng
chia
sẻ các thông tin
kiểm
soát
chất
lượng sản
phẩm.
- Tăng cường
chia
sẻ các thông tin về bán hàng và sản xuất. Việc
chia
sẻ
này cho phép các khâu
trong
hệ
thống
hợp tác với
nhau
trong

các quyết
định về sản xuất và phân phối. Nhờ đó, cả hệ
thống
có thế đảm bảo sự
cân
bằng
cung
- cầu.
Thực
tế, mối
quan
hệ giữa các khâu có thể được xây
dựng
dựa trên sức
mạnh
hoặc
sự tin tưởng.
Trong
mối
quan
hệ dựa trên sức
mạnh,
bên
mạnh
hơn thường áp đặt lợi ích của mình đối với sự hợp tác đó. Việc tận
dựng
sức
mạnh
của một bên so với các bên khác có thê đưa lại lợi thế
trong

ngan
hạn,
nhưng
trong
dài hạn nó
lại
gây ra
những
hậu quả tiêu cực:
- Việc tận
dụng
lợi thế về sức
mạnh
đế xây
dựng
mối
quan
hệ sẽ dẫn đến
tình trạng mối đa hóa lợi
nhuận
ở một khâu, nhưng đồng thời các khâu
khác
cũng
phải trả giá.
- Việc tận
dụng
lợi thế về sức
mạnh
để tạo ra sự nhượng bộ không công
bằng

có thế gây tốn hại cho bản thân
doanh
nghiệp
khi cân bàng về sức
mạnh
của các bên
thay
đôi.
- Khi một khâu
trong
hệ
thống
tìm cách khai thác lợi thế về quyền lực
của mình, thì các khu vực khác tìm cách để
chống
lại lợi thế đó. Điều

ì _
này sẽ dẫn đến việc các mắt xích
trong
cùng một hệ thông không
những
không hợp tác với
nhau
mà còn đối đầu,
cạnh
tranh
với
nhau.
Mặc dù sự hợp tác và tin tưởng lẫn

nhau
trong
cùng một hệ thông là rát
quan
trọng, nhưng việc xây
dựng
và duy trì
những
yếu tố này
trong
môi
quan
hệ
giữa các khâu
trong
cùng một hệ thống sản xuất không phải dễ dàng. Có
hai
quan
điểm về cách xây
dựng
sự hợp tác và tin tường
trong
môi
quan
hệ
giữa các khâu sản xuất:
-
Quan
điểm dựa trên sự cản trờ:
Theo

đó, các bên liên
quan
sử
dụng
nhiều
loại
họp đồng khác
nhau
đế đảm bảo sự hợp tác. Với các họp
đồng có hiệu lực, các bên được giả thuyết là tin tường lẫn
nhau
do lợi
ích của bản thân mỗi bên.
-
Quan
điểm dựa trên quá trình:
Theo
đó, sự tin tưởng và họp tác được
xây
dựng
dần dần
theo
thời
gian,
là kết quà của một chuỗi
những
tương
tác giữa các bên liên
quan.
Tương tác tích cực giúp

củng
cố niềm tin
vào sự hợp tác với bên khác.
Trong mọi trường hợp, thì không có
quan
điểm nào bị
loại
trừ.
Doanh
nghiệp không thể thiết kế một hợp đồng mà tính đến mọi trường họp bất ngờ
có thể phát
sinh
trong
tương lai. Vì vậy, dù các bên có thế chưa tin tường lẫn
nhau
cũng
phải xây
dựng
niềm tin đế
giải
quyết
nhũng
vấn đề không được đề
cập đến
trong
hợp đồng. Ngược
lại,
các bên đã có mối
quan
hệ lâu dài và tin

tưởng lẫn
nhau
vẫn phải trông cậy vào hợp đồng. Trong
những
mối
quan
hệ
cộng
tác hiệu quả, sự kết hợp giữa hai
quan
điểm này được tận dụng. Trong
đó,
thời kỳ đầu thường dựa chủ yếu vào
quan
điểm dựa trên sự cản trở. Qua
thời
gian,
mối
quan
hệ này lại dần chuyển
sang
xu hướng dựa vào
quan
điểm
dựa trên quá trình.
Có hai giai đoạn đối với bất kỳ một mối
quan
hệ hợp tác lâu dài. Trong
giai đoạn thiết kế,
những

nguyên tắc nền tảng được thiết lập để khởi đầu cho
mối
quan
hệ. Trong giai đoạn quản lý, sự tương tác dựa trên
những
nguyên
18

×