Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA NỀN VĂN MINH LA MÃ CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.41 KB, 33 trang )

LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA NỀN VĂN MINH
LA MÃ CỔ ĐẠI

Lời mở đầu

La Mã cổ đại hay Rome cổ đại là một nền văn minh phồn thịnh, bắt đầu trên
bán đảo Ý từ TK VIII TCN. Trải dài qua Địa Trung Hải, và với trung tâm Roma,
La Mã cổ đại là một trong những nền văn minh lớn nhất thế giới trong thời kỳ cổ
đại. Nền văn minh này ra đời muộn màng nhưng phát triển nhanh chóng và có ảnh
hưởng tới nhiều quốc gia khác. Trong suốt 12 thế kỷ tồn tại của nền văn minh, qua
các cuộc chinh chiến và đồng hóa, La Mã cổ đại đã thống trị các khu vực Nam Âu,
Tây Âu, Tiểu Á, Bắc Phi và một phần của Đông Âu. Đây là nền văn minh quyền
lực nhất trên lãnh thổ Địa Trung Hải.


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
Thừa hưởng thành tựu của những người đi trước, nhất là những giá trị văn hóa của
người Hy Lạp, người La Mã đã sáng tạo ra nền văn hóa của mình. Vì vậy ảnh
hưởng của văn hóa thể hiện khá rõ trên nhiều lĩnh vực.Những

thành tựu

chủ yếu của nền văn minh La Mã cổ đại
I.

Điều kiện hình thành
1. Điều kiện địa lý
- La Mã ( Roma) là tên một quốc gia cổ đại mà nơi xuất nguyên là bán
đảo Ý ( Italia)
- Là một bán đảo dài hẹp ở Nam Âu, hình chiếc ủng, vươn ra Địa Trung


Hải
- Diện tích khoảng : 300.000 km2 ( gấp 5 lần bán đảo Hi Lạp)
- Vị trí :
+ phía Bắc có dãy Anpơ
+ phía Nam có đảo Xixin
+ phía Tây có đảo Coocxơ và đảo Xacđenhơ
- Địa hình :+ có nhiều đồng bằng và đồng cỏ => thuận lợi phát triển
nông nghiệp, chăn nuôi gia súc
+ bờ biển phía Nam có nhiều vùng vịnh và cảng => thuận lợi
cho việc giao lưu và tạo quan hệ sớm với Hi Lạp
- Tài nguyên thiên nhiên : có nhiều kim loại như đồng, sắt,chì => chế
tạo vũ khí và công cụ lao động
- Sau khi làm chủ bán đảo Ý, La Mã tiếp tục xâm lược ra bên ngoài mở
rộng lãnh thổ bao gồm vùng đất đai của cả 3 châu Âu, Á, Phi nằm bao
quanh Đại TRung Hải
2. Điều kiện cư dân
- Chủ yếu là người Ý ( hay còn gọi là người Italotes) và cũng là thành
phần cư dân có sớm nhất. Trong đó, một bộ phận người Latinh( người
sống ở Latium) về sau dựng lên thành La Mã bên bờ sông Tibrơ, gọi là
người La Mã
- Ngoài ra, còn có người Gôloa ( sống ở miền Bắc bán đảo), người
Êtơrucơ ( sống ở miền Bắc và Trung bán đảo), người Hi Lạp ( sống ở các
thành phố ven biển p.Nam và đảo Xixin)

II. Sơ lược lịch sử La Mã cổ đại
2
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại

Lịch sử La Mã có thể chia làm 2 thời kì lớn là thời kì cộng hòa và thời kì
dân chủ
1. Thời kì cộng hòa ( từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ I TCN)
• Sự thành lập chế độ cộng hòa
- Theo truyền thuyết thì năm 753 TCN thành La Mã được vua Romulus
xây dựng
- Nhưng thực tế thì nhà nước La Mã ra đời vào giữa thế kỉ VI TCN do
cuộc cải cách của vua Xecviut Tuliut
- Đến khoảng năm 510 TCN người La Mã nổi dậy lật đổ vua Taccanh
=> ra đời chế độ cộng hòa
- Tuy nhiên do sự cách biệt lớn giữa quý tộc và bình dân nên bình dân
đã nổi dậy đấu tranh trong suốt 200 năm và đã giành thắng lợi => chế độ
cộng hòa được dân chủ hóa thêm một bước mới
• Sự thành lập đế quốc La Mã
- Từ thế kỉ IV TCN La Mã không ngừng xâm chiếm bên ngoài và đến
thế kỉ thế III TCN đã chiếm được bán đảo Ý
- Trong công cuộc xâm chiếm, La Mã gặp Cactagiơ ( là một đế quốc
rộng lớn và hung mạnh với mưu đồ bành trướng thế lực) và xảy ra mâu
thuẫn
- Từ năm 264-146 TCN La Mã và Cactagiơ xảy ra ba lần chiến tranh ác
liệt (chiến tranh Punich). La Mã giành được thắng lợi hoàn toàn
- Giữa thế kỉ II TCN Makêđôniabị thâu tóm
- Sang thế kỉ I TCN bờ Đông Địa Trung Hải bị chiếm
- Năm 30 TCN Ai Cập bị xâm chiếm
- Tù binh, nô lệ rất đông (do chiến tranh) bị bóc lột tàn bạo để làm nổ ra
nhiều cuộc nổi dậy, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Xpactacut năm 73-71
TCN => đưa La Mã lún sâu vào khủng hoảng
b. Thời kì quân chủ
• Quá trình chuyển từ chế độ cộng hòa sang chế độ quân chủ
- Từ thế kỉ I TCN chế độ cộng hòa dần được thay thế bằng chế độ độc

tài. Đồng thời làm nổ ra nhiều cuộc tranh chấp chính trị.
- Năm 82 TCN Xila giành được quyền và tuyên bố độc tài suốt đời
nhưng đến năm 78 TCN Xila ốm và chết
- La Mã xuất hiện chính quyền tay ba sau khởi nghĩa Xpactacut gồm
Cratxut, Pompê và Xêda
- Năm 54 TCN Cratxut tử trận.Pompê trừ khử Xêda nhưng thất bại và
bị truy kích sang Ai Cập (chuyện nữ hoàng Clêôpat )
3
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
- Năm 45 TCN Xêda trở thành người đứng đầu La Mã ( sau khi đánh
bại mọi thế lực chống đối) nhưng đến năm 44 TCN bị ám sát
- Năm 43 TCN hình thành thế lực tay ba tiếp theo, và quyền lực rơi vào
tay Ôctavianut .Năm 29 TCN ông trở thành kẻ thống trị La Mã với danh
hiệu Ôgut
 La Mã chuyển sang chế độ quân chủ chuyên chế
• Sự suy vong của đế quốc La Mã
- Xuất hiện tầng lớp xã hội mới gọi là lệ nông – tiền thân của nông nô
thời trung đại sau này
- Thế kỉ thứ III, công thương nghiệp suy sụp nhanh chóng, La Mã suy
yếu
- Thế kỉ IV, người Giecmanh ( gồm các tộc Tây Gốt, Đông
Gốt,Văngđan , Phrăng, Ănglô Xắcxông, Buốcgôngđơ) di cư ồ ạt sang La
Mã, sống trong xh nguyên thủy nên còn gọi là Man tộc. thế kỉ V họ lập
vương quốc ở Tây La Mã
- Đến thập kỉ 70 thê kỉ V chính quyền đế quốc Tây La Mã rơi vào tay
người Giecmanh
- Năm 476 lật đổ hoàng đế cuối cùng

- Năm 1453 Đông La Mã bị Thổ Nhĩ Kì tiêu diệt
II.

Những thành tựu chủ yếu
1. Chữ viết:
Ở La Mã, chữ viết xuất hiện vào khoảng thế kỉ VIII – VII TCN nhưng
đến hiện giờ người ta vẫn chưa đọc được loại chữ này. Theo nhiều nguồn
tài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn
gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La Mã đã bổ
sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta
quen gọi là chữ Latinh.

4
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại

Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng
trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La
Mã. Chữ Latinh chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu Âu hiện đại
(Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp…Người La Mã còn để lại hệ thống
chữ số mà ngày nay người ta vẫn thường dùng và quen gọi là chữ số La
Mã.
Có thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày
nay được sử dụng làm ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học, nghệ thuật…mang
mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn
2. Văn học: Là lĩnh vực chịu ảnh hưởng rõ nhất của văn minh Hy lạp,
song ngườki LM đã sáng tạo nên nền văn học riêng cho họ.

+ Gồm nhiều thể loại: sử thi, thơ trữ tình, thơ trào phúng, văn
xuôi, kịch...
a. Thần thoại:
Người La Mã hầu như tiếp thu hoàn toàn kho tàng thần thoại và hệ thống
các thần của Hy Lạp. Chỉ có một điều khác là người La Mã đặt lại tên
cho các vị thần đó.
Ví dụ:
Thần Dớt của Hy Lạp trở thành thần Giupite của La Mã.
Thần Hêra, vợ thần Dớt thành thần Giunông vợ của Giupite.
Thần Đêmête, thần nghề nông của Hy Lạp trở thành thần Xêrét, thần ngũ
cốc, thần bảo vệ mùa màng của La Mã.
5
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
Thần Aphrôđit, thần sắc đẹp và tình yêu của Hy Lạp thành thần Vênút
của La Mã.
Thần Pôđêiđông, thần biển của Hy Lạp thành thần Néptun của La Mã.
Thần Hécmét, thần buôn bán của Hy Lạp thành thần Mécquya của La
Mã.
Thần Hêraclét của Hy Lạp, biểu tượng của sức mạnh thành thần Héccun
của La Mã v.v...
hầu như các vị thần chính là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn,
nhà thơ, nhà soạn kịch.
Thần thoại của La Mã hầu như là những câu chuyện rất hấp dẫn về các vị
thần và các anh hùng với những tính cách, khát vọng tình cảm gần gủi
với con người.
b. Thơ
Người La Mã vốn từ sớm đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp. Đặc

biệt sau khi đánh chiếm thành phố Tarentơ của Hy Lạp ở trên bán đảo Ý
vào năm 272 TCN, La Mã bắt đầu tiếp xúc với văn học Hy Lạp, do đó đã
chịu ảnh hưởng của văn học Hy Lạp
Thời cộng hòa, La Mã đã có nhiều thi sĩ và nhà soạn kịch, ví dụ,
Anđrônicút đã dịch Ôđixê ra tiếng La tinh, Nơviút viết sử thi Cuộc chiến
tranh Puních, Catulút đã sáng tác nhiều bài thơ trữ tình.
Nói về tình yêu của ông với nàng Clôđia, em quan bảo dân Côđiút, nhà
thơ viết:
"Anh vừa giận vừa yêu,
Có thể em sẽ hỏi vì sao anh như vậy
Anh chẳng biết nhưng anh cảm thấy
Đau khổ vô cùng vì vừa giận vừa yêu."
Thời kỳ phát triển nhất của thơ ca La Mã là thời kỳ thống trị của
Ôctavianút. Để phục vụ cho chế độ chính trị của Ôctavianút, nhóm tao
đàn Mêxen được thành lập. Mêxen là một người thân cận của Ôctavianút,
là Mạnh Thường Quân của La Mã đã đứng ra bảo trợ các thi nhân văn sĩ.
Trong nhóm này có những nhà thơ nổi tiếng như Viếcgiliút, Hôratiút,
Ôviđiút.
Viếcgiliút (70-19 TCN)
6
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại

Viếcgiliút (70-19 TCN) là nhà thơ lớn nhất của La Mã, sinh ra trong một
gia đình nông dân khá giả ở miền Bắc Ý.
Tác phẩm đầu tiên đồng thời là tác phẩm làm ông bắt đầu có tiếng tăm là
tập Những bài ca của người chăn nuôi. Với những bài thơ rất đẹp, tác
phẩm này được Mêxen chú ý, và qua Mêxen, được Ôctavianút chú ý.

Tác phẩm tiếp theo là Khuyến nông. Tác phẩm này được sáng tác thể
theo ý muốn của Mêxen. Mục đích chính trị của tác phẩm là tuyên truyền
cho sự phát triển nông nghiệp đã bị nội chiến làm cho suy tàn.
Tập thơ này có bốn phần: phần 1, nói về nông nghiệp. Phần 2 nói về nghề
trồng vườn. Phần 3, nói về nghề chăn nuôi ong. Tác giả đã bỏ ra 7 năm
để hoàn thành tập thơ này. Thế nhưng ông đã được đền đáp xứng đáng:
Ôctavianút rất thích tập khuyến nông, đến nỗi, năm 31 TCN, sau khi
đánh bại Antôniút ở Hy Lạp trở về, ông đã nghe ngâm bài thơ này trong
14 ngày liền.
Với những tác phẩm trên, thiên tài thơ ca của Viếcgiliút đã được xác
nhận. Nhưng tác phẩm ưu tú nhất làm ông trở thành ngôi sao sáng nhất
trong số các nhà thơ La Mã là Ênêit (Eneide). Đó là một tập thơ tự sự
gồm 12 bài. Viếcgiliút đã sáng tác tập thơ này trong 10 năm, nhưng cho
đến khi ông chết, tác phẩm này vẫn chưa hoàn thành. Hơn nữa, ông đã
dặn lại sau khi ông chết thì hủy tập thơ này, nhưng Ôctavianút đã ra lệnh
công bố tập thơ và giữ nguyên văn bản như khi ông bị chết bất ngờ.
7
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
Về chủ đề, kết cấu, tình tiết, ngôn ngữ của tập thơ Ênêit đều phỏng theo
sử thi Hôme. Mục đích của tác phẩm là ca ngợi sự anh dũng của nhân
dân La Mã và dòng họ Ôctavianút.
Nội dung của tập sử thi Ênêit như sau:
Thành Tơroa bị quân Hy Lạp thiêu hủy. Ênê mang xác cha mình cùng với
một số cư dân thành Tơroa sống sót chạy sang đất Ý. Nhưng khi đoàn
thuyền sắp đến nơi thì vì thần Giunông ghét người Tơroa nên nổi giông
bão, đoàn thuyền bị giạt sang Cáctagiơ. ở đây, Ênê được nữ hoàng
Điđông góa chồng ân cần đón tiếp. Cuộc gặp gỡ đã thổi bùng lên ngọn

lửa yêu đương trong trái tim cô đơn của nàng Điđông góa bụa. Thế
nhưng số phận đã bắt Ênê phải từ biệt nàng để sang Ý thành lập một
vương quốc mới. Trong cơn đau khổ giày vò, Điđông đã tự sát bằng
thanh kiếm do Ênê tặng. Ênê đến Xixin và tại đây, chàng đã mai táng cha
mình. Tiếp đó, nhờ có một nhà nữ tiên tri đưa đường, Ênê đã xuống âm
phủ để gặp cha và được cha cho biết một trong những người thuộc dòng
dõi của chàng là Ôgút (tức Ôctavianút) sẽ tạo ra thời đại hoàng kim cho
thế giới và lập nên một đế quốc rộng lớn mà biên giới kéo dài đến tận ấn
Độ. Đến Ý, người Tơroa được vua Latinh vui mừng đón nhận, hơn nữa
còn hứa gả con gái của mình là Lavini cho Ênê. Nhưng trước đó Lavini
đã được hứa gả cho vua Tuốcnút của người Rutun, vì vậy chiến tranh
giữa người Tơroa và cư dân địa phương đã nổ ra. Kết quả Ênê giành
được thắng lợi... Tập thơ đến đây đã bị bỏ dở.
Qua Ênêit, Viếcgiliút đã ca ngợi sự phồn vinh của La Mã dưới thời thống
trị của Ôctavianút, khẳng định sứ mệnh của người La mã là thống trị cả
thế giới.
Với Ênêit, tên tuổi của Viếcgiliút đã trở thành bất hủ. Ngay lúc sinh thời
ông đã được mọi người kính trọng. Tương truyền rằng, khi ông xuất hiện
ở nhà hát, khán giả đã đứng dậy vỗ tay hoan nghêng nhiệt liệt. Cũng
chính vì vậy, sau này, đến thời phục hưng, trong tác phẩm Thần khúc của
Đantê, Viếcgiliút đã được chọn làm người dẫn đường cho nhà thơ đi xem
địa ngục và tĩnh thổ.
Hôratiút (65-8 TCN)

8
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại


Hôratiút (65-8 TCN), vốn là con một người nô lệ được giải phóng, được
nhận một mảnh đất ở Nam Ý, Ông đã từng được sang học ở Aten, chịu
ảnh hưởng sâu sắc của triết học và thơ trữ tình Hy Lạp. Về sau, với tư
cách là quan Bảo dân, ông tham gia quân đội, nhưng trong một trận chiến
đấu, vì sợ chết, ông đã vứt thuẫn, chạy trốn khỏi chiến trường. Mảnh đất
của ông bị tịch thu, bản thân ông phải sống lưu vong ngoài đất Ý. Sau khi
được ân xá, Ông mới trở về La Mã làm một viên thư kí. Những bài thơ
đầu tiên của ông đã làm cho Mixen chú ý nên được Mêxen mời ra nhập
nhóm tao đàn Mêxen và được Mêxen tặng một trang viên nhỏ.
Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là tập thơ ca ngợi gồm 103 bài thơ. Tập
thơ này đã thể hiện chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời cũng thể hiện thái độ
của ông đối với cuộc sống là chủ nghĩa hưởng lạc. Hơn nữa, đến
Hôratiút, vần luật thơ tiếng Latinh đã đạt đến chỗ hoàn mĩ. Đánh giá sự
nghiệp thơ ca của mình đối với đời sau, Hôratiút đã viết bài Bia kỷ niệm,
trong đó có câu:
Tôi dựng lên một cái bia kỷ niệm
So với đồng còn vững bền hơn
Và cũng cao hơn kim tự tháp của quốc vương...
Ngoài ra, Hôratiút còn có những đóng góp quan trọng về lý luận thơ ca
và nghệ thuật kịch. Đặc biệt qua bài "Nghệ thuật thơ", ông dã tổng kết lý
9
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
luận mỹ học của Hy Lạp mà chủ yếu là dựa vào ý kiến của Arixtốt.
Ôviđiút (43 TCN- 17 CN)

Ôviđiút (43 TCN- 17 CN) xuất thân trong một gia đình kỵ sĩ giàu có. Sau
khi hoàn thành việc học tập, ông đã đi du lịch ở Hy Lạp và Tiểu Á. Tuy

mộng làm quan không được thực hiện nhưng nhờ có người vợ xuất thân
quý phái của mình, ông được tiếp xúc với giới thượng lưu của La Mã.
Hoạt động văn học của Ôviđiút chia làm ba thời kỳ.
Thời kỳ thứ nhất: bao gồm các tập thơ nói về yêu đương tình ái, thậm chí
có một số mang tính chất sắc tình quá phóng túng. Các tác phẩm tiêu biểu
của thời kỳ này là:
Tình ca (3 tập).
Nữ anh hùng: Tập thư tình của các nữ anh hùng trong thần thoại gửi
người yêu của họ.
Nghệ thuật yêu đương: Phương pháp quyến rũ người yêu.
Thời kỳ thứ hai: Trong thời kỳ này, thi nhân ngày càng trở nên nghiêm
túc, hơn nữa Ôctavianút không thích lối văn đầy sắc tình của ông, vì vậy
ông đã chuyển hướng sáng tác. Các tác phẩm thời kỳ này là:
Các ngày lễ: nói về các ngày lễ và nguồn gốc của nó.
Biến hình là tác phẩm xuất sắc nhất của ông, gồm 15 chương. Nội dung
nói về sự biến đổi từ người thành cây cối, thành động vật và phi sinh vật
theo thần thoại. Kết thúc tập thơ là nói về Xêda biến thành ngôi sao theo
10
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
truyền thuyết lúc bấy giờ.
Trong tập thơ này có nhiều truyện thú vị như:
- Con trai của mặt trời yêu cầu cha giao xe ngựa lửa cho mình quản lý
nhưng vì thiếu kinh nghiệm nên suýt nữa thì đốt cháy cả trái đất.
- Nhà điêu khắc yêu bức tượng cô gái bằng ngà voi của mình.
- Bay lên trời lần đầu tiên bằng đôi cánh do mình chế tạo v.v...
Tập thơ Biến hình đã nêu ra được những hình tượng phong phú, sinh
động biểu hiện trí tuệ và óc tưởng tượng tuyệt vời của tác giả. Chính vì

vậy, ngay từ khi Ôviđiút còn sống, tác phẩm này đã rất nổi tiếng.
Thời kỳ thứ ba: năm 8 CN, theo mệnh lệnh của Ôctavianút, Ôviđiút bị
đày đến vùng Hắc Hải. Nguyên nhân của việc đi đày này tới nay chưa rõ.
Căn cứ theo một vài điều do Ôviđiút lộ ra có thể đoán rằng Ôviđiút có
liên quan đến những chuyện tình với cháu gái của Ôctavianút. Cô này từ
năm 7 CN đã bị trục xuất ra khỏi La Mã.
Trong cơn tuyệt vọng, Ôviđiút đã đốt bản thảo của tập Biến hình. Tuy
vậy, nguyên tác của tập thơ này nhờ có các bản sao để truyền nhau lúc
bấy giờ, nên tác phẩm vẫn được giữ lại.
Sau khi bị đi đày bản thân ông, vợ con và bạn bè đều xin Ôctavianút ân
xá cho ông nhưng không được, vì vậy ông phải ở chỗ lưu đày cho tới khi
chết.
Trong thời kỳ này ông có viết hai tập thơ: Những bài thơ buồn và Thư về
kinh. Tuy trong những tập thơ này cũng có những bài thơ hay như: Đêm
cuối cùng ở La Mã, Cảnh giông bão trên đường đi đày v.v... nhưng nói
chung trong thời kỳ này, cảnh lưu đày đã làm tài năng của ông giảm sút
nhiều. Mặc dù vậy Ôviđiút vẫn là nhà thơ có địa vị cao trong các thi nhân
La Mã.
c. Kịch
Ở La Mã, các nhà thơ Anđrônicút, Nơviút, Enniút, Plantút, Têrexiút
cũng là những nhà soạn bi kịch và hài kịch. Năm 240 TCN, ở La Mã bắt
đầu diễn kịch. Anđrônicút là người đầu tiên được giao nhiệm vụ chuẩn bị
kịch bản cho các buổi biểu diễn ấy. Từ đó các nhà soạn kịch La Mã
thường dịch bi kịch và hài kịch Hi Lạp, đồng thời phỏng theo kịch Hi
Lạp để soạn những vở kịch lịch sử của La Mã hoặc cải biến vở kịch Hi
Lạp thành các vở kịch La Mã.
3. Sử học
11
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5



Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
Từ khoảng cuối thế kỉ V TCN, ở La Mã đã có những tài liệu tương tự như
lịch sử biên niên gọi là Niên đại kí (Annales), nhưng nền sử học thật sự của
La Mã đến cuối thế kỉ III TCN mới xuất hiện.
Người được coi là nhà sử học đầu tiên của La Mã cũng là nhà soạn kịch
Nơviút. Ông đã tham gia cuộc chiến tranh Puních lần thứ nhất, nhờ đó ông
đã viết tập sử thi Cuộc chiến tranh Puních, nhưng tác phẩm này chỉ còn lại
một số đoạn.
Người đầu tiên viết lịch sử La Mã bằng văn xuôi là Phabiút (sinh năm
254 TCN). Ông viết lịch sử La Mã từ thời thần thoại cho đến thời kì của
ông. Ngôn ngữ ông sử dụng trong tác phẩm là tiếng Hi Lạp, điều đó chứng
tỏ rằng văn xuôi La Mã chưa xuất hiện.
Người đầu tiên dùng văn xuôi Latinh để viết sử là Catông (234-149
TCN). Tác phẩm của ông nhan đề là Nguồn gốc, gồm 7 chương, trong đó có
3chương đầu ghi chép các truyền thuyết của Hi Lạp và các địa phương khác
nói về La Mã. Các chương tiếp theo viết lịch sử La Mã cho tới thời kì của
ông.Phương pháp viết sử của ông là không theo niên đại mà trình bày theo
vấn đề. Vì vậy có thể coi ông là nhà sử học thực sự đầu tiên của La Mã. Tác
phẩm của ông nay chỉ còn một số đoạn.
Từ Catông về sau, La Mã có nhiều nhà sử học xuất sắc, Pôlibiút, Titút
Liviút, Atxitút, Putác.
Pôlibiút (205-125 TCN) là người Hi Lạp, bị đưa sang La Mã làm con
tin. Tác phẩm của ông là bộ Thông cử gồm 40 quyển viết về lịch sử Hi Lạp,
La Mã và các nước phía Đông Địa Trung Hải từ năm 264-146 TCN. Trong
tác phẩm, ông có ý thức chú ý đến tác dụng giáo dục của sử học đối với cuộc
sống. Ông nói: “Sử học là một thứ triết học lấy sự việc thật để dạy người
đời”. Ngày nay tác phẩm của Pôlibiút không còn giữ lại được đầy đủ.
Titút Liviút (59 TCN-17CN) là nhà sử học xuất sắc của La Mã trong
thời kì trị vì của ông Ôctavianút. Tác phẩm sử học lớn nhất của ông là “Lịch

sử La Mã từ khi xây thành tới nay”. Sách này gồm 142 chương, trình bày
lịch sử La Mã từ đầu đến năm 9 TCN.
Đặc điểm của phương pháp sử học của Liviút là:
- Nêu cao chủ nghĩa yêu nước trong việc viết sử, đề cao quá khứ vinh
quang của La Mã, ca ngợi sự anh hùng của nhân dân La Mã.
- Chú ý đến tác dụng giáo dục của sử học: nhấn mạnh các phong tục tốt
đẹp từ ngày xưa, đem những tập quán tốt đẹp ấy đem so sánh với hiện tượng
đồi phong bại tục lúc bấy giờ.
12
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
Tác phẩm của Liviút nay chỉ còn lại 35 chương, trong đó giá trị lớn là
10 chương đầu, vì nhờ phần này mà đời sau biết được lịch sử liên tục của La
Mã.
Taxitút sống vào cuối thế kỉ I đầu thế kỉ II. Tác phẩm của ông là Lịch
sử biên niên viết về lịch sử thời kì đầu của đế quốc La Mã. Trong tác phẩm
này, tác giả đã vạch trần sự thối nát của chính thể chuyên chế ở La Mã.
Plutác, người Hi Lạp, sống cùng thời với Taxitút. Tác phẩm quan trọng
của ông là Tiểu sử so sánh, trong đó ông đã so sánh từng đôi một các danh
nhân Hi Lạp và La Mã.
Phương pháp sử học của ông: làm cho độc giả có thể tìm thấy những
chỗ đáng học tập và những chỗ đáng tránh trong các truyện kí của ông. Khi
đánh giá con người ông cho rằng không phải dựa vào địa vị xã hội mà phải
dựa vào phẩm chất và hành động của họ. Chính vì vậy, trong tác phẩm của
mình ông đề cao Xpactacút, thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa của nô lệ ở
La Mã.
Tác phẩm của Plutác viết theo thể truyện kí vừa có giá trị sử học vừa có
giá trị văn học.

Những thành tựu nói trên của sử học Hi Lạp và La Mã đã góp phần
quan trọng vào sự phát triển của nền sử học thế giới.
4. Nghệ thuật
a. Kiến trúc:
Thành tựu về kiến trúc La Mã rất rực rỡ.Các công trình kiến trúc của La
Mã bao gồm tường thành, đền miếu, cung điện, rạp hát…Những công
trình này từ thời cộng hoà đã có, nhưng đặc biệt phát triển từ thời
Augustu. Chính Augustu đã tự hào nói rằng ông đã biến La Mã bằng gạch
thành La Mã bằng đá cẩm thạch. Các công trình kiến trúc nổi tiếng nhất
là đền thờ Pantheon, đấu trường Colosseum (biểu hiện sự hùng cường- đá
cẩm thạch), nhà tắm Caracalla (người La mã rất phóng khoáng trong vấn
đề tình dục, do vậy không chỉ là nhà tắm mà đó còn là nơi quan hệ tình
dục, gặp gỡ giao lưu, đọc sách…nhà tăm giống như là một công trình văn
hóa lớn.
Đặc điểm của công trình

13
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại

Đấu trường La Mã:

Bên ngoài

Colisée (bên trong)
Kích thước của Colosseo: cao 48, dài 189 m, rộng 156 m.
Không giống như các đấu trường trước đó, công trình này là một cấu trúc
đứng tự do, được xây trên một mặt đất bằng phẳng chứ không phải dựa

14
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
vào đồi hay chỗ lõm tự nhiên. Tường bên ngoài thoạt đầu có chu vi 545
m và cần phải dùng 100.000 m3 đá travertine được giữ với nhau bằng
300 tấn vòng kẹp sắt. Nó có thể chứa tới 50.000 dến 80.000 người, và
được thiết kế tốt đến nỗi mỗi người có thể ra khỏi tòa nhà này trong vòng
mấy phút. Bí mật nằm trong việc sử dụng tài tình các mái vòm cuốn, các
hành lang và các bậc lên xuống dẫn tới chỗ ngồi. Các mái vòm bên trên
tầng trệt tạo ra 80 lối vào chỗ đông người, mỗi lối vào có đánh số giúp
khách tìm thấy chỗ ngồi của họ. Một tấm vải bạt khổng lồ che nắng che
mưa thường được căng ra bên trên để che nắng và trong các buổi trình
diễn đêm, một đèn chùm bằng sắt khổng lồ treo lơ lửng bên trên đấu
trường. Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, nó đã bị hư hỏng do thiên nhiên tác
động (động đất). Chu vi phía bắc của Đấu trường vẫn còn nguyên với dấu
vết trùng tu của thế kỷ 19. Phần còn lại của Coloseo ngày ngày nay là
bức tường gốc như lúc đang xây.
Đấu trường La Mã (hay Đại hý trường La Mã) được biết đến đầu tiên
dưới cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinhhoặc AnfiteaTọa
độ: 41°53′24.61″B, 12°29′32.17″Đtro Flavio tiếng Ý, sau này gọi là
Colosseum hay Colosseo, là một đấu trường lớn ở thành phố Roma.
Công suất chứa lúc mới xây xong là 50.000 khán giả. Đấu trường được
sử dụng cho các võ sĩ giác đấu thi đấu và trình diễn công chúng. Đấu
trường được xây dựng khoảng năm 70 và 72 sau Công Nguyên dưới thời
hoàng đế Vespasian. Đây là công trình lớn nhất được xây ở Đế chế La Mã
được hoàn thành năm 80 sau Công Nguyên dưới thời Titus, với nhiều
chỉnh sửa dưới thời hoàng đếDomitian.
Đấu trường Colosseum vẫn được sử dụng gần 500 năm với những bằng

chứng ghi chép được về trận đấu thế kỷ 6 - rất lâu sau khi Đế chế La Mã
sụp đổ năm 476. Ngoài sử dụng làm nơi đấu của võ sỹ, nơi đây còn được
dùng làm biểu diễn công chúng, tập trận giả trên biển, săn thú, kịch cổ
điển. Công trình này dẫn dần thôi được sử dụng làm nơi giải trí thời
Trung Cổ. Sau này, đấu trường được sử dụng làm nhà ở, cửa hàng, tôn
giáo, pháp đài...
Dù hiện nay bị hoang phế nhiều do động đất và nạn cướp đá, Colosseum
vẫn từ lâu được xem là biểu tượng của Đế chế La Mã và là một trong
những mẫu kiến trúc La Mã đẹp nhất còn sót lại. Đây là điểm tham quan
hấp dẫn của Roma và vẫn còn nhiều liên hệ với Giáo hội Công giáo.
15
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
Hằng năm vào Thứ sáu Tuần Thánh, giáo hoàng vẫn chủ sự nghi lễ Đàng
Thánh Giá tại Colosseo.
Nhà tắm Caracalla (tiếng Ý: Terme di Caracalla) tại Roma nước Ý là
nhà tắm công cộng (tiếng Latinh: thermae) nổi tiếng nhất cả về mặt tiện
nghi lẫn về quy mô đồ sộ đứng hàng thứ hai của Đế quốc La Mã được
xây dựng ở kinh thành Roma từ năm 212 đến217, dưới thời trị vì của các
Hoàng đế Septimius Severus và Caracalla.

Chris Scarre còn cho biết thời gian xây dựng dài hơn, khoảng năm 211217. Dựa theo nguồn sử liệu ghi chép lại cho thấy ý tưởng về nhà tắm đã
có từ thời Septimius Severus và chỉ được hoàn thành hoặc khai trương
dưới triều đại của Caracalla, đó cũng chính là lý do mà nhà tắm này lấy
tên ông. Điều này cho phép một khung thời gian xây dựng dài hơn.
Người La Mã đã phải dùng đến hơn 2.000 tấn nguyên liệu mỗi ngày với
hàng vạn nhân công trong vòng sáu năm mới hoàn thành công trình trong
thời gian này. Hiện nay đây là một trong những địa điểm thu hút khách

du lịch từ khắp nơi trên thế giới.
Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, mẫu thiết kế nhà tắm Caracalla lại được
sử dụng như là nguồn cảm hứng cho một số công trình hiện đại, bao gồm
Hội trường St George ở Liverpool và Ga Pennsylvania tại thành phố New
York. Tại Thế vận hội Mùa hè năm 1960, đây là địa điểm tổ chức các sự
kiện môn thể dục dụng cụ. Nhà tắm còn là địa điểm khảo cổ duy nhất ở
Roma bị một trận động đất gần L'Aquila làm hư hại vào năm 2009.
Đặc điểm
16
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
Nhà tắm Caracalla là một công trình đồ sộ nằm trên một khu đất hình
vuông, mỗi cạnh là 350m, tổng diện tích là 14.000 hécta. Trong tòa nhà
chính dài 228m rộng 115m, các phòng tắm bố trí đối xứng qua trục chính.
Những phòng này đều có sảnh vào riêng rẽ với những hàng cột để đảm
bảo tốt cho việc đi lại. Phòng chính ở giữa được lợp bởi ba chiếc vòm
lớn, có những cửa lấy ánh sáng ngay dưới sát những cung cuốn của vòm,
làm cho nội thất của tòa sảnh lớn này tràn ngập ánh sáng, soi rõ những
hoa văn trên đầu cột theo kiểu cột Corinth và ở những múi trần của vòm
cuốn. Các phòng được xây rất rộng, tường rất dày và chắc. Nhà tắm này
cao 35m cho đến nóc vòm.
Cấu trúc nhà tắm gồm: phòng gửi quần áo, phòng tắm nước ấm
(tepidarium), phòng tắm nước nóng (caldarium) hay tắm hơi và phòng
tắm nước lạnh (frigidarium). Nhà tắm có sức chứa tới 3.000 người đến
tắm một lúc. Khu vực bên trong nhà tắm được trang trí nhiều đá cẩm
thạch, khảm trên các tường, đài phun nước, đặc biệt là những bức tượng
về các vị thần trong thần thoại Hy Lạp rất sống động và có giá trị nghệ
thuật cao. Bên ngoài nhà tắm có những phòng thi đấu thể dục thể thao

(palaestra), nơi nghỉ ngơi, phòng đọc sách, phòng trưng bày các tác phẩm
nghệ thuật, nhà ăn, nơi dạo chơi, vườn hoa, cầu dẫn nước... Vì thế, người
La Mã đến đây không chỉ để tắm rửa, mà còn là nơi giải trí, gặp gỡ bạn
bè, đọc sách báo, luyện tập thể dục thể thao...
Thiết bị kỹ thuật của công trình cũng rất đáng chú ý. Bên trong tường của
công trình có những hệ thống đường ống phức tạp để dẫn nước nóng và
hơi ấm. Mặt khác, hệ thống sưởi cho nhà tắm được đặt ở tầng hầm, nên
nước được thường xuyên được cung cấp, đảm bảo cho mọi người có thể
thoải mái thư giãn. Trên khu đất của công trình có bể nước chứa tới
33.000m³ nối liền với thủy kiều (cầu dẫn nước) xây dựng bằng đá phục
vụ cho công trình. Hiện nay, nhà tắm Caracalla chỉ còn là phế tích, nhưng
người đời sau vẫn ngưỡng mộ, vì nó không chỉ là một nhà tắm đầy đủ
tiện nghi, có quy mô đồ sộ, mà còn là một công trình văn hóa nổi tiếng.
Đền Păngtênông:

17
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại

Đền từ cao nhìn xuống

Đền Pantheon là một công trình kiến trúc ở Roma, Ý. Chiếm vị trí nổi bật
nhất trong pho sử đền đài La Mã và thế giới là đền Pantheon - "Ngôi đền
của mọi vị thần" được xây dựng vào năm 118 - 126 dưới triều vua
Hadrianus. Hình thức và quy mô ngôi đền vượt lên tất cả các đền đài có
trước đó.

18

Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại

Mái vòm đền Pantheon.

Mặt bằng đền.
Tòa nhà có khối chính hình tròn, mái hình bán cầu lợp bằng một loại đá
nhẹ. Đường kính mái 43,2m, đúng bằng chiều cao tòa nhà. Độ lớn của
bán cầu này vượt lên mọi loại mái vòm của các công trình được làm từ
trước và sau đó gần 20 thế kỷ (tới tận thế kỷ XIX)[1]. Tường nhà rất dày
(6,3m) với nhiều hốc, vòm ở phần dưới, nhưng khi lên cao thì mỏng dần.
Từ đáy vòm trở xuống nhà được chia làm 2 tầng. Tầng dưới cao 13m
dùng hàng cột thức Coranh. Tầng trên cao 8,7m chỉ dùng các mảng tường
19
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
nảy trụ làm bằng đá cẩm thạch. Những mảng tường nảy trụ này hợp làm
một với 5 hàng ô cờ được khoét lõm trên vòm trần (gọi là kêxon) tạo nên
cảm giác nhẹ nhàng, thư thái. Vòm mái được kết thúc bằng một lỗ tròn
đường kính 8,92m - một giải pháp chiếu sáng gây được ấn tượng rất
mạnh cho con người trong một không gian cao lồng lộng. Khác với loại
đền Hy Lạp - La Mã thông thường (chỉ là chỗ đặt tượng thờ), đền
Pantheon với 1500m2 sàn có sảnh vào sâu tới 14m có 16 cột tròn đường
kính 1,5m, cao 14m, trên lợp mái dốc về hai phía. Hai dốc tròn hai bên
sảnh đặt tượng Hoàng đế và tượng Marcus Agrippa - nhà kiến trúc, kỹ sư
công binh đại tài - bạn của Hoàng đế. Một điều nữa gây được ấn tượng

mạnh là khoảng sân trước đền dài tới 120m, có hàng cột và hiên bao
quanh. Với đoàn người từ ngoài xa tiến vào, hiên này thoạt tiên che khuất
tòa nhà đồ sộ bên trong. Chỉ sau khi đi qua hàng cột cổng, ngôi đền mới
đột ngột hiện ra. Với vật liệu bê tông, gạch nung và đá ốp, bằng những
tính toán thông minh và chính xác, đền Pantheon xứng đáng là đỉnh cao
của tư duy kỹ thuật thời La Mã cổ đại.
a. Điêu khắc:

Laocoon và hai con trai
+ Nghệ thuật điêu khắc La Mã cùng một phong cách nghệ thuật nghệ
thuật Hy Lạp. Chủ yếu thể hiện ở hai mặt: tượng và phù điêu.
+ Nghề điêu khắc của của người La Mã thường chú ý đến nghệ thuật
trong các tác phẩm điêu khắc, chủ yếu là tượng bán thân như vua Caesar
(gương mặt đầy tham vọng); Augustus (thể hiện sự quyết tâm);
Diocletian (thể hiện sự cứng rắn, môi mím chặt và là người có tuổi).
20
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại

Tượng vua Caesar
Để làm đẹp đường phố, quảng trường, đền miếu, La Mã đã tạo ra rất
nhiều tượng. Tượng được dựng ở kháp nơi. Các bức phù điêu thường
khắc trên các côt trụ kỉ niệm chiến thắng của các hoàng đế và trên các
vòm khải hoàn môn. Nội dung các bức phù điêu thường mô tả những sự
tích lịch sử.
c. Hội hoạ:
Các tác phẩm hội hoạ của La Mã cổ đại còn giữ lại chủ yếu là các bức
bích hoạ, trên đó vẽ phong cảnh, các đồ trang sức, tĩnh vật…

5. Khoa học tự nhiên
Thời La Mã, về các lĩnh vực này tuy không phát triển bằng Hy Lạp
nhưng cũng có những thành tựu quan trọng và một số nhà khoa học tiêu
biểu.
- Nhà khoa học nổi tiếng nỗi tiếng nhất và tiêu biểu nhất của La Mã là
Gaius Plinius Secundus ( 23 – 79 AD): là là một tác giả, nhà tự nhiên
học, và triết học tự nhiên La Mã, cũng như các chỉ huy hải quân và quân
đội của Đế chế La Mã giai đoạn đầu, và bạn riêng của hoàng đế Vespasia.
Ông đã giành phần lớn thời gian rảnh rỗi của mình nghiên cứu, viết hoặc
điều tra các hiện tượng tự nhiên và địa lý trong lĩnh vực này, ông đã viết
một tác phẩm bách khoa, Naturalis Historia ("Lịch sử tự nhiên") trong 77
năm. Đây là tác phẩm đầu tiên, duy nhất và cuối cùng mà ông cho xuất
21
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
bản thành sách. Tác phẩm có 37 chương, gồm các lĩnh vực Thực vật học,
Động vật học, Thiên văn học, Nhân loại học, Y học, Địa lý học, v.v. Nó
được coi là tác phẩm chuẩn mực cho thời kì La Mã và những tiến bộ
trong công nghệ và hiểu biết về các hiện tượng tự nhiên tại thời điểm đó,
được coi như bộ Bách thư toàn khoa của La Mã.

Năm 79, núi lửa Vêduyvơ lại hoạt động. Ông đến gần để nghiên cứu hiện
tượng phun lửa và bị thiêu chết.
- Claude Ptôlémóe (khoảng thế kỷ thứ II) là một nhà Thiên văn học, Toán
học, Địa lí học người Hy Lạp sinh trưởng ở Ai Cập. Trên cơ sở đúc kết
các kiến thức về thiên văn học của Ai Cập, Babilon và Hy Lạp, ông đã
soạn bộ sách tổng hợp – Kết cấu toán học (Composition mathématique),
trong đó ông cũng cho rằng trái đất hình cầu đã giúp không ít các nhà địa

lý tìm ra những miền đất mới. Tuy nhiên, điểm sai lầm của ông khi cho
rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ và quan điểm này đã chi phối châu
Âu trong suốt 14 thế kỉ.

22
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại

Ptôlêmê còn soạn sách Địa lý học gồm 8 chương trong đó có vẽ một bản
đồ thế giới được xem là rất chính xác lúc bấy giờ.
Bản đồ gồm:
+ Vùng Bắc cực là Xcăngđinavi
+ Vùng Nam cực là lưu vực song Nin
+ Phía Tây là Tây Ban Nha
+Phía Đông là Trung Quốc
- Đại biểu xuất sắc nhất về Y học thời bấy giờ là Claudius Galenus (131đầu thế kỉ III).

23
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại

- Ông là một thầy thuốc, nhà triết học nổi tiếng của La Mã cổ đại. Claudius
là người Hy Lạp nhưng đến năm 33 tuổi, ông đến định cư ở Rome sau
một thời gian dài đi nhiều nơi, tiếp xúc với đa dạng học thuyết và phát
kiến y học. Tại đây, ông hành nghề như một bác sĩ, đã phục vụ cho nhiều
quý tộc La Mã. Thậm chí, ông còn là bác sĩ riêng cho vài hoàng đế La

Mã. Trên cơ sở tiếp thu các thành tựu y học trước đó, nhất là của
Hyppocrates, Galenus trở thành tác giả của hơn 400 công trình khoa học
(hiện nay chúng ta tìm được mới hơn 100 tác phẩm, viết bằng tiếng Syria
hay Arab) . Trong các tác phẩm của ông có các nghiên cứu về dịch bệnh,
chẩn đoán và dùng thuốc. Các học thuyết của ông đã chi phối và ảnh
hưởng đến y học phương Tây hơn một thiên niên kỷ Nhiều tác phẩm đến
thời trung đại được dịch thành tiếng Arập, Do Thái và Latinh. Sách
24
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5


Những thành tựu chủ yếu của La Mã cổ đại
“Phương pháp chữa bệnh” được dùng làm sách giáo khoa trong thời gian
dài.
Tóm lại: Cách đây trên dưới 2000 năm, nền khoa học La Mã cổ đại đã có
những thành tựu rất lớn, đã đặt cơ sở cho sự phát triển huy hoàng của nền
khoa học thời cận hiện đại. Đồng thời là một tiền đề quan trọng của sự phát
triển nền triết học.

6 . Triết học:
Kế thừa triết học Hy Lạp, đến thế kỷ thứ I TCN, triết học La Mã cũng tương
đối phát triển.
a.
Triết học duy vật:
Titus Lucretius Carus(98 – 54 TCN) là nhà triết học duy vật xuất sắc
nhất của La Mã. Quan điểm triết học của ông chủ yếu kế thừa quan điểm của
Epicurus – một nhà triết học xuất sắc của Hy Lạp.
Tác phẩm duy nhất ông để lại là tập thơ chưa hoàn thành De Rerum
Nature (Bàn về bản chất của sự vật). Bài thơ gồm 6 phần với 6 nội dung
khác nhau:

+
Các thành phần thường trực của vũ trụ: nguyên tử và khoảng trống.
+
Nguyên tử cấu thành nên sự vật như thế nào.
+
Bản chất của linh hồn.
+
Các hiện tượng của tâm hồn.
+
Vũ trụ và sự tồn vong của nó.
+
Các hiện tượng của vũ trụ.
Qua bài thơ, Lucretius thể hiện quan điểm triết học của mình.

Ông cho rằng con người cũng như vạn vật không phải do thần thánh
sinh ra mà do các nguyên tử cấu thành. Trên cơ sở đó, ông nêu ra luận điểm:
“Từ hư vô chẳng tạo ra được vật gì theo ý của Thượng đế” và “Chẳng vật gì
có thể xuất hiện từ hư vô”. Nguyên tử vĩnh viễn và bất diệt nên vật chất có
tính bảo toàn vĩnh cửu, không bị tiêu hủy hoàn toàn mà chỉ có những hiện
tượng tan rã mà thôi. Lucretius cho rằng nguyên tử của các chất khác thì
khác nhau về hình dạng, nhờ vậy giải thích được tính muôn vẻ của vạn vật.
Ông hình dung các nguyên tử chuyển động hỗn loạn không ngừng. Điều này
được ông nêu lên trong bài thơ như sau:
“Chợt lúc nào, ánh Mặt Trời chiếu rọi vào căn nhà
Và quét sạch đếm đen.
Bạn sẽ thấy vì thế,
Thấp thoáng bày trong ánh hòa quang,
25
Lịch sử văn minh thế giới – Nhóm 5



×