Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

vấn đề sử dụng ngôn ngữ tiếng việt trong sinh viên hiện naythực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.97 MB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG

VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT
TRONG SINH VIÊN HIỆN NAYTHỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP .
S

K

C

0

0

3

9

5

9

MÃ SỐ: T2011 - 111

S KC 0 0 3 3 0 6



Tp. Hồ Chí Minh, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG

VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT
TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

MÃ SỐ: T2011-111

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: ThS. ĐẶNG THỊ MINH TUẤN

TP. Hoà Chí Minh, 2011


1
DANH SÁCH NHỮNG THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN
CỨU ĐỀ TÀI
1. ThS. Đặng Thị Minh Tuấn
2. ThS. Trương Thị Mỹ Châu
3. CN. Nguyễn Thị Thủy



2
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng số 1.1: Độ tuổi
Bảng số 1.2: Nghề nghiệp
Bảng số 1.3: Trình độ học vấn
Bảng số 2.1: Độ tuổi
Bảng số 2.2: Giới tính
Bảng số 2.3: Ngành học
Bảng số 3: Nhận định về mức độ sử dụng các yếu tố trong tiếng Việt
Bảng số 4: Nhận định về sử dụng tiếng Việt trong sinh viên hiện nay
Bảng số 5: Tỷ lệ sinh viên các ngành sử dụng đúng từ ngữ, ngữ pháp,
chính tả, phong cách văn bản trong tiếng Việt
Bảng số 6: Đánh giá mức độ phổ biến của việc sử dụng tiếng nước
ngoài trong sinh viên hiện nay
Bảng số 6.1: Lý do sử dụng tiếng nước ngoài trong sinh viên
Bảng số 7: Nhận định về loại hình ngôn ngữ “teen”
Bảng số 7.1: Lý do sinh viên chọn loại hình ngôn ngữ “teen”
Bảng số 7.2: Đánh giá về mức độ sử dụng ngôn ngữ “teen” trong sinh
viên
Bảng 7.3: Thói quen sử dụng ngôn ngữ “teen” của sinh viên
Bảng số 8: Nhận định về hiện tượng lai căng, pha trộn, biến đổi ngôn
ngữ trong sinh viên hiện nay
Bảng số 9: Thái độ với giữ gìn và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trong
sinh viên hiện nay
Bảng số 10: Ý kiến về việc thực hiện điều chỉnh, chuẩn hóa cách sử
dụng tiếng Việt trong sinh viên hiện nay



3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

................................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 4
3.1. Mục đích của đề tài ............................................................................................................. 4
3.2. Nhiệm vụ của đề tài ............................................................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ......................................................................... 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài ......................................................................................... 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................................................ 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ............................................................ 5
5.1. Cơ sở lý luận

................................................................................................................ 5

5.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài .................................................................................... 5
6. Đóng góp mới của đề tài ........................................................................................................ 5
7. Kết cấu của đề tài ................................................................................................................ 6
Chương 1: TIẾNG VIỆT VÀ NHỮNG YÊU CẦU CHUNG CỦA VIỆC SỬ
DỤNGTIẾNG VIỆT ................................................................................................................. 7
1.1. Đặc điểm của tiếng Việt...................................................................................................... 7
1.1.1. Các đơn vị tiếng Việt. ..................................................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt ..................................................................................... 12
1.2 Những yêu cầu chung của việc sử dụng tiếng Việt ............................................................. 15
Chương 2: SỬ DỤNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT TRONG
SINH VIÊN HIỆN NAY ........................................................................................................... 18

2.1. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT TRONG SINH VIÊN HIỆN
NAY

................................................................................................................ 18

2.1.1. Sinh viên và các biểu hiện sử dụng ngôn ngữ trong sinh viên ........................................ 18
2.1.2. Thông tin chung về phương pháp nghiên cứu, địa bàn và đối tượng khảo sát
2.1.2.1. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 22
2.1.2.2. Địa bàn khảo sát ............................................................................................................ 23
2.1.1.3 Đối tượng khảo sát ......................................................................................................... 23


4
2.2. NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA
TIẾNG VIỆT TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY ..................................................................... 29
2.2.1. Nguyên nhân của sự biến đổi về sử dụng tiếng Việt trong sinh viên hiện nay................ 29
2.2.2. Một số giải pháp giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong sinh viên hiện nay ............
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................................... 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................................... 41

33


5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiếng Việt của người Việt Nam là một ngôn ngữ phong phú, giàu và
đẹp. Ngay từ xa xưa, người Việt Nam đã có ý thức quý trọng tiếng mẹ đẻ của
mình cũng như luôn chú ý trau chuốt, đề cao cái hay, cái đẹp trong lời ăn
tiếng nói. Điều đó đã trở thành tư tưởng có tính chất chính thống trong thâm

tâm của bao thế hệ người Việt. Hết thế hệ này đến thế hệ khác đã ra sức vun
đắp, bảo vệ, nâng niu tiếng nói, chữ viết của dân tộc. Đó là vua Trần Duệ
Tông xuống chiếu cho quân dân không được bắt chước tiếng nói của nước
Chiêm, nước Lào; đó là Nguyễn Trãi với chủ trương người nước ta không
được bắt chước ngôn ngữ và y phục của nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm và
Chân Lạp để làm ngôn ngữ và y phục nước ta; đó là vua Quang Trung Nguyễn Huệ muốn đưa tiếng Việt và chữ Nôm lên làm ngôn ngữ và văn tự
chính thức quốc gia thay thế chữ Hán … Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng khẳng định: “tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu
của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng
khắp”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt và luôn nhắc nhở việc giáo dục nhân dân phải làm cho
tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại.
Ngày nay, quá trình hội nhập với sự phát triển của thế giới, sự giao thoa
văn hóa xã hội đòi hỏi ngôn ngữ phải có những thay đổi để đáp ứng các nhu
cầu giao tiếp mới. Đứng trước những biến đổi của xã hội, tiếng Việt cũng dần
dần xuất hiện những hiện tượng mới mẻ. Những từ ngữ, cách diễn đạt mới
được hình thành để thêm vào những khái niệm, ngữ nghĩa mà trong vốn tiếng
Việt trước đây còn thiếu vắng.
Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập, toàn cầu hóa, quốc tế hóa, bùng nổ
công nghệ thông tin và kỹ thuật số như hiện nay, bên cạnh những mặt tích


6
cực, sự trong sáng, giàu đẹp của ngôn ngữ Việt gặp phải tác động không nhỏ
của những biểu hiện tiêu cực. Không ít cách nói, cách viết khác lạ làm mất đi
ít nhiều bản sắc vốn có của tiếng Việt, đặc biệt là trong giới trẻ. Hiện tượng
sử dụng không đúng ngữ pháp, chính tả và hiện tượng lai căng tiếng nói, chữ
viết của nước ngoài ngày một tăng trong giới trẻ đã gióng lên hồi chuông
cảnh báo đối với ngôn ngữ Việt. Thậm chí, có người còn lo ngại rằng, đến lúc
tiếng Việt bị biến thể trong tư duy của những người trẻ.

Tiếng mẹ đẻ vốn là một đặc trưng sống còn của một dân tộc. Một quốc
gia hoàn toàn tự do độc lập thì ngôn ngữ của quốc gia ấy cũng phải độc lập,
không được pha trộn, lai tạp với ngôn ngữ của các quốc gia khác. Để có một
cái nhìn toàn diện hơn về sự biến đổi của ngôn ngữ tiếng Việt trong giai đoạn
hiện nay, nhất là đối với sinh viên và góp phần khẳng định sự trong sáng, giàu
đẹp của tiếng Việt với tất cả lòng tự hào của người con đất Việt, nhóm tác giả
chọn đề tài: “Vấn đề sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sinh viên hiện nay
- thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề sử dụng, bảo vệ và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt là vấn đề
được khá nhiều học giả, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu từ nhiều năm nay.
Đặc biệt là trong những năm gần đây, khi đất nước ta mở cửa hội nhập với thế
giới, hiện tượng sử dụng không đúng ngữ pháp, chính tả và hiện tượng lai
căng tiếng nói, chữ viết nước ngoài ngày một tăng. Từng chữ, từng âm, từng
cách viết, cách đọc đều bị thay đổi một cách kỳ lạ mà người ta vẫn biện minh
theo suy nghĩ của mình là “đa dạng hóa” tiếng Việt. Chính điều này càng làm
cho các tác giả, các nhà khoa học quan tâm sâu sắc hơn đến vấn đề sử dụng,
bảo vệ và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trong nhân dân đặc biệt là trong giới
trẻ với nhiều khía cạnh khác nhau.


7
Nghiên cứu tiếng Việt ở góc độ ngôn ngữ học và thực hành ngôn ngữ
có những công trình như: Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa của tác giả Cao Xuân Hạo, Nxb. Giáo dục, Hà nội, 2007; Ngữ pháp
tiếng Việt tập 1 và tập 2 của tác giả Diệp Quang Ban, Nxb. Giáo dục, Hà nội,
2006 - 2007.
Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp nhằm sử dụng tiếng Việt chính
xác, hiệu quả, có những công trình của tác giả Lê Trung Hoa như: Mẹo luật
chính tả, Nxb. Sở Văn hóa - Thông tin Long An, 1984 và được Nxb. Trẻ tái

bản năm 1994, 1998, 2001, 2004; Sổ tay mẹo luật chính tả, Nxb, Trẻ, Hà nội,
1986, tái bản năm 1995, 2001, 2003, 2005; Sửa lỗi ngữ pháp, Nxb. Giáo dục,
1990; Làm thế nào để viết đúng hỏi, ngã?, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, 2001.
Nghiên cứu sự bảo vệ và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trong các giai
đoạn lịch sử có các công trình như: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về
mặt từ ngữ của thủ tướng Phạm Văn Đồng, Hội thảo khoa học năm 1979 ở Hà
nội và một số bài báo của các tác giả khác như Hoàng Cúc, Vũ Khúc …
Gần đây nhất là hội thảo khoa học toàn quốc Giữ gìn và phát triển sự
trong sáng của tiếng Việt trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay được tổ
chức ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 với 91 báo cáo và tham luận từ 25
tỉnh thành, cơ sở đào tạo và nghiên cứu phản ánh những tình cảm thiết tha,
lòng quý trọng tiếng Việt cũng như sự bức xúc, nỗi lo lắng về tình trạng thiếu
lành mạnh trong sinh hoạt ngôn ngữ ở không ít người đang diễn ra trong xã
hội; đồng thời phản ánh chiều sâu của tư duy khoa học về tiếng Việt và góp
phần cải tạo thực tiễn lệch lạc của việc sử dụng tiếng Việt với mong muốn
tiếng Việt được phát triển bền vững trong một môi trường nhiều thách thức
như hiện nay.
Tuy nhiên, trong tình hình phát triển hiện nay, vấn đề sử dụng, bảo vệ
và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trong giới trẻ, đặc biệt là trong sinh viên vẫn


8
cần thiết được tiếp tục nghiên cứu, góp phần bảo tồn và tôn vinh những giá trị
tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam bằng chính tiếng nói, chữ viết của dân tộc
trong giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở khái quát đặc điểm của tiếng Việt và những yêu cầu của
việc sử dụng tiếng Việt, đề tài đi vào nghiên cứu thực trạng sử dụng tiếng
Việt trong sinh viên hiện nay, trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp nhằm

giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đồng thời phát huy vai trò tích cực của
ngôn ngữ trong tư duy của sinh viên nói riêng và giới trẻ nói chung.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài tập trung vào thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: trình bày khái quát đặc điểm của tiếng Việt và những yêu cầu
chung của việc sử dụng tiếng Việt làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực
trạng sử dụng tiếng Việt trong sinh viên hiện nay.
Thứ hai: làm rõ thực trạng sử dụng tiếng Việt trong sinh viên hiện nay.
Thứ ba: phân tích nguyên nhân và đề xuất các giải pháp giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt trong sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt của sinh viên
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Thực trạng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sinh viên hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi đề tài đã chọn, nhóm tác giả nghiên cứu thực trạng sử
dụng ngôn ngữ trong sinh viên hiện nay. Tuy nhiên, vì những lý do khách
quan và chủ quan, chúng tôi không có tham vọng điều tra thực trạng sử dụng


9
tiếng Việt trong sinh viên tất cả các trường đại học và cao đẳng trên cả nước
mà chỉ chọn một số trường tiêu biểu ở thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện những yêu cầu trên, đề tài chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận
ngôn ngữ học và tiếng Việt và quan điểm phát triển văn hóa xã hội của Đảng
cộng sản Việt Nam; đồng thời có kế thừa những kết quả của một số công trình
nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời với từng
nhiệm vụ đề ra, đề tài sử dụng những phương pháp cụ thể tương ứng:
Nhiệm vụ 1: sử dụng phương pháp lịch sử và logic, nghiên cứu tài liệu;
Nhiệm vụ 2: sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, điều tra giáo
dục, so sánh - đối chiếu, phân tích - tổng hợp để xử lý số liệu thu thập được từ
phiếu điều tra ở một số trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ 3: sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp kinh nghiệm
giáo dục, tham khảo tài liệu, quy nạp - diễn dịch, phương pháp chuyên gia,
phương pháp giả thuyết…
6. Đóng góp mới của đề tài
Kết quả điều tra thực trạng sử dụng tiếng Việt trong sinh viên hiện nay
ở một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh (trong đó có thực trạng sử
dụng tiếng Việt trong sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM)
giúp cho sinh viên sử dụng đúng tiếng nói, chữ viết, ngữ pháp, văn phong
tiếng Việt; đồng thời giúp cho Ban Giám hiệu, Phòng CTCT - QLSV, Đoàn
TNCS, Hội Liên hiệp sinh viên Việt Nam các trường có cái nhìn toàn diện về
sử dụng, bảo vệ và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trong sinh viên, từ đó có


10
những nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp nhằm phát huy vai trò tích
cực của ngôn ngữ trong tư duy, giao tiếp và phát triển văn hóa cho sinh viên.
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
nghiên cứu, học tập môn học Tiếng Việt thực hành và các môn học thuộc lĩnh
vực khoa học xã hội và nhân văn.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm có hai chương và bốn tiết:



11
Chương 1
TIẾNG VIỆT VÀ NHỮNG YÊU CẦU CHUNG
CỦA VIỆC SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT
1.1. Đặc điểm của tiếng Việt
Như các hệ thống ngôn ngữ của loài người nói chung, tiếng Việt cũng
được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định mà trong đó, hai nguyên tắc có
sức chi phối lớn nhất là nguyên tắc hệ thống và nguyên tắc tín hiệu. Tuy
nhiên, đặc điểm nổi bật của Tiếng Việt là tính đơn lập được thể hiện ở tất cả
các mặt ngữ âm và ngữ pháp.
1.1.1. Các đơn vị tiếng Việt.
Trước hết cần chú ý tới đơn vị mà xưa nay vẫn gọi là tiếng. Về mặt ngữ
âm thì tiếng tức là âm tiết. Xét về mặt ngữ âm, mỗi tiếng là một âm tiết, có
cấu trúc chặt chẽ và luôn luôn mang thanh điệu. Xét về mặt chữ viết, mỗi âm
được ghi bằng một chữ. Âm tiết bao gồm những đơn vị ở bậc thấp hơn gọi là
âm vị. Ở dạng tối đa, mỗi âm tiết có một phụ âm đầu, một âm đệm, một âm
chính, một âm cuối và một thanh điệu. Ở dạng tối thiểu, mỗi âm tiết có một
âm chính (luôn luôn là nguyên âm) và một thanh điệu. Hệ thống âm vị trong
tiếng Việt phong phú và có tính cân đối, tạo ra tiềm năng của ngữ âm tiếng
Việt trong việc thể hiện các đơn vị có nghĩa. Xét về mặt ngữ nghĩa thì tiếng là
đơn vị nhỏ nhất có thể có nghĩa. Đơn vị ngữ âm ở bậc thấp nhất là âm vị thì
trong tư cách đó không thể có nghĩa. Nhưng nếu kết hợp lại thành tiếng hoàn
chỉnh thành âm tiết thì có thể trở thành đơn vị nhỏ nhất có thể có nghĩa. Như
vậy, có những loại tiếng khác nhau:
Loại tiếng tự nó có nghĩa, có thể dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng và
có thể được dùng làm từ - đơn vị ở bậc trực tiếp cao hơn (từ một tiếng).



12
Loại tiếng tuy có nghĩa nhưng không dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng
mả chỉ dùng để cấu tạo những đơn vị ở bậc trực tiếp cao hơn (từ hai tiếng).
Loại tiếng không tự nó có nghĩa nhưng có tác dụng tạo nghĩa cho đơn
vị ở bậc trực tiếp cao hơn (từ hai tiếng).
Từ tiếng, người ta tạo ra các đơn vị từ vựng và câu. Nói cách khác,
tiếng là đơn vị nhỏ nhất để hình thành ngữ pháp. Ngữ pháp là hệ thống các
quy tắc để cấu tạo từ, cấu tạo câu.
Về sự dùng tiếng để cấu tạo từ, nếu xét theo số lượng tiếng thì từ bao
gồm từ một tiếng và từ nhiều tiếng.
Từ một tiếng là một tiếng dùng làm một từ, có thể dùng từ một tiếng
này để tạo câu. Từ nhiều tiếng là từ hai (hay nhiều) tiếng trở lên kết hợp với
nhau, gắn bó tương đối chặt chẽ. Việc tạo ra từ hai (hay nhiều) tiếng chủ yếu
dựa vào phương thức ghép và phương thức láy.
Ghép là sắp đặt tiếng thành từng đôi, kế cận nhau sao cho có phối hợp
ngữ nghĩa. Sự phối hợp ngữ nghĩa là quy luật tạo nên nghĩa của từ ghép. Từ
ghép có những kiểu khác nhau. Thứ nhất, là kiểu từ ghép trong đó các tiếng
có nghĩa được kết hợp với nhau bình đẳng để tạo nên nghĩa của cả từ. Ở kiểu
này, trật tự tiếng của từ có thể thay đổi vì khi thay đổi trật tự thì sự phối hợp
ngữ nghĩa để tạo nên nghĩa của từ không thay đổi. Thứ hai, là kiểu từ ghép
trong đó tiếng thứ nhất có nghĩa và tiếng thứ hai nói chung cũng có nghĩa
nhưng trong sự kết hợp để tạo nên nghĩa của từ thì có tiếng chính, tiếng phụ.
Ví dụ: xe đạp, nhà nghỉ, bánh đa, … Ở kiểu này, trật tự chính trước phụ sau
giữa các tiếng không thể thay đổi vì nếu thay đổi trật tự thì sự phối hợp ngữ
nghĩa cũng thay đổi hoặc không còn có sự phối hợp nữa. Hiện nay, trong
tiếng Việt, phương thức ghép là phương thức chủ yếu để sản sinh ra các yếu
tố cấu tạo từ thuần Việt hay vay mượn từ các ngôn ngữ khác để tạo ra các từ,
ngữ mới.



13
Láy là sắp đặt các tiếng thành đôi, kế cận nhau sao cho có phối hợp ngữ
âm. Sự phối hợp ngữ âm là quy luật tạo nên nghĩa của từ láy. Từ láy cũng có
nhiều nghĩa khác nhau như từ ghép. Thứ nhất, là kiểu từ láy trong đó các
tiếng đều không tự nó có nghĩa, qua phối hợp ngữ âm thành nghĩa của cả từ.
Ví dụ: lủng củng, chập chờn, … Kiểu này tiêu biểu cho phương thức láy. Thứ
hai, là kiểu từ láy trong đó có một tiếng có nghĩa còn một tiếng thì không có
nghĩa và nghĩa của từ là nghĩa mới được hình thành qua phối hợp ngữ âm. Ví
dụ: làm lụng, nhỏ nhen, loanh quanh, … Trong các kiểu từ láy, trật tự sắp đặt
các tiếng không thay đổi vì nếu thay đổi trật tự thì có thể không còn có phối
hợp ngữ âm và do đó, từ sẽ không còn có nghĩa.
Từ là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu. Để nói, để viết, để suy ngĩ, chúng ta
dùng từ chứ không phải dùng tiếng. Từ có nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn
định. Có thể dễ dàng nhận thấy đặc điểm này ở từ một tiếng. Còn đối với từ
hai tiếng và từ nhiều tiếng, cấu tạo ổn định làm cho nghĩa hoàn chỉnh và
ngược lại nghĩa hoàn chỉnh thì cấu tạo ổn định. Với tính hoàn chỉnh về nghĩa
và tính ổn định về cấu tạo, từ trở thành một đơn vị đặc biệt quan trọng khi
người ta xét tới mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, giữa ngôn ngữ và văn
hóa. Trong tiếng Việt, về mặt ngữ âm, khi hình thành từ hai tiếng hay từ nhiều
tiếng thì mỗi tiếng không có sự biến đổi âm hay thanh. Về mặt chữ viết, theo
quy tắc chính tả hiện nay, mỗi tiếng được ghi thành một chữ rời, cho nên, từ
có bao nhiêu tiếng thì viết thành bấy nhiêu chữ rời nhau. Trên mỗi dòng chữ,
ví dụ: “chúng tôi hết sức vui mừng được gặp các đồng chí”, các khoảng trống
giữa các chữ là để đánh dấu ranh giới giữa các tiếng và những từ gồm hai
tiếng như chúng tôi, vui mừng, đồng chí đều được viết thành hai chữ rời nhau.
Từ là đơn vị nhỏ nhất dùng làm thành phần cấu tạo câu. Từ và câu là
hai đơn vị khác nhau. Từ có sẵn trong kho từ vựng còn câu phải do mỗi người
dùng từ mà cấu tạo nên. Trong ngôn ngữ, câu là đơn vị bậc cao nhất và cũng



14
là đơn vị quan trọng nhất xét về vai trò của ngôn ngữ trong sự giao tiếp xã
hội. Nói gì, viết gì, người ta đều phải nói, viết thành câu.
Trước hết, câu có nghĩa hoàn chỉnh. Nghĩa hoàn chỉnh của câu khác với
nghĩa hoàn chỉnh của từ. Tính hoàn chỉnh về nghĩa của từ biểu thị những khái
niệm hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng còn tính hoàn chỉnh của câu là tính
hoàn chỉnh của cả một quá trình tư duy, quá trình thông báo diễn ra trong một
hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Quá trình này thường được biểu thị bằng một
cấu tạo ngữ pháp bao gồm hai thành phần là chủ ngữ và vị ngữ. Hai thành
phần này xác định lẫn nhau. Câu phải xác định được đối tượng nói về gì, đó là
vai trò của chủ ngữ. Đồng thời, câu phải xác định đó là gì, như thế nào, đó là
vai trò của vị ngữ. Hai thành phần này gắn bó với nhau thành một cấu tạo ngữ
pháp chặt chẽ, gọi là “nòng cốt” của câu với trật tự: chủ ngữ trước, vị ngữ
sau. Trong đó, các từ cũng như các tiếng trong cấu tạo của những từ đó không
biến đổi hình thức ngữ âm của chúng.
Tuy nhiên, câu không chỉ có thành phần nòng cốt mà còn có cấu tạo đa
dạng. Với cấu tạo ngữ pháp như đã phân tích ở trên thì đó là loại câu bình
thường nhất, gọi là câu đơn. Nhưng ngay cả câu đơn, cấu tạo ngữ pháp của nó
cũng có thể thay đổi rất đa dạng. Ngoài câu đơn bình thường còn có câu đơn
ít bình thường hơn gọi là câu đơn đặc biệt và câu có tính chất phức tạp gọi là
câu ghép. Khi nói, khi viết, dù sử dụng loại câu nào, chúng ta cũng phải đảm
bảo tính nòng cốt của câu.
Trong phạm vi cấu tạo câu, tiếng Việt sử dụng những đơn vị ngữ pháp
là trật tự từ, hư từ và ngữ điệu. Trật tự sắp đặt các từ là phương tiện chính để
biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa các từ trong một câu. Quan hệ ngữ pháp quan
trọng nhất là quan hệ thuyết tính - tức là quan hệ giữa phần chủ ngữ và vị ngữ
trong một nòng cốt câu. Thuyết tính là mối liên hệ giữa câu với thực tại trong
một hoàn cảnh cụ thể. Mối liên hệ ấy là kết quả của một quá trình tư duy và



15
như vậy, nó có tác dụng thông báo. Quan hệ thuyết tính không có biến đổi
hình thức ngữ âm mà được biểu thị chủ yếu bằng trật tự sắp đặt các thành
phần chủ ngữ, vị ngữ.
Một quan hệ ngữ pháp quan trọng khác trong câu là quan hệ chính phụ.
Quan hệ này là một cấu tạo ngữ pháp không có giá trị câu như quan hệ thuyết
tính mà chỉ là một ngữ. Ngữ bao gồm một yếu tố chính và một yếu tố phụ.
Khi các từ cùng loại kết hợp với nhau theo quan hệ chính phụ thì từ đứng
trước giữ vai trò chính và từ đứng sau giữ vai trò phụ. Quan hệ này cũng được
biểu thị bằng trật tự và cũng không biến đổi hình thức ngữ âm. Nhờ trật tự kết
hợp của từ mà “củ cải” khác với “cải củ”, “tình cảm” khác với “cảm tình” …
Hư từ là những từ dùng để biểu thị một số quan hệ ngữ pháp nhất định
và không có nghĩa thực. Mặc dù vậy, nó vẫn có sắc thái nhất định về nghĩa.
Nhờ hư từ mà tổ hợp “anh và em” khác với “anh của em” hay “anh vì em”.
Hư từ cùng với trật tự từ cho phép tiếng Việt tạo ra nhiều câu có cùng nội
dung thông báo cơ bản như nhau nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm. Cách
dùng hư từ trong tiếng Việt có tính chất tùy nghi, có thể dùng hoặc không
dùng hư từ, có thể dùng hư từ này hoặc có thể dùng hư từ khác sao cho thích
hợp với hoàn cảnh. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tùy tiện thế nào
cũng được mà mỗi cách dùng đều có sắc thái riêng của nó.
Ngoài trật tự từ và hư từ, tiếng Việt còn sử dụng phương thức ngữ điệu.
Ngữ điệu bao gồm sự ngừng và lên hay xuống giọng. Đây là phương tiện ngữ
pháp quan trọng khi nói, khi đọc. Ngữ điệu có vai trò làm rõ thêm tư cách ngữ
pháp của đơn vị ngôn ngữ và biểu hiện quan hệ cú pháp của các yếu tố trong
câu, nhờ đó nhấn mạnh hay phân biệt nội dung muốn thống báo, diễn đạt.
Trên văn bản, ngữ điệu thường được biểu hiện bằng dấu câu. Ví dụ: khi nói
“người khách ấy đã đến rồi” thì ngữ điệu không nổi lên thành phương tiện
quyết định nhưng khi nói “khách” thì ngữ điệu là phương tiện có tác dụng



16
quyết định. Hay nội dung thông báo trong câu “đêm hôm qua, cầu gãy” sẽ
khác với “đêm hôm, qua cầu gãy”.
Cùng với những đặc điểm trên, tiếng Việt còn có một hệ thống các quy
tắc thuộc về các phương diện khác nhau: quy tắc cấu tạo từ, kết hợp thành
câu, quy tắc cấu tạo câu và liên kết câu thành các đơn vị cao hơn, các quy tắc
biểu hiện các nội dung ý nghĩa khác nhau và sắc thái tình cảm khác nhau …
1.1.2. Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt
Thứ nhất, thể hiện về mặt ngữ âm, đặc điểm đơn lập của tiếng Việt
được phát huy trong cấu tạo từ và cả trong cấu tạo câu.
Trong phạm vi cấu tạo từ, đặc điểm ấy được phát huy chủ yếu trong
cấu tạo của từ láy – là những từ mà giữa các tiếng có phối hợp ngữ âm. Tiêu
biểu là những từ trong đó có phối hợp giữa những âm vị nhất định, những
thanh nhất định của những tiếng không có nghĩa riêng. Những nghĩa mới sinh
ra từ sự phối hợp này là nghĩa hình tượng, sinh động do chất nhạc ngữ âm mà
có. Ví dụ: nghĩa hình tượng về những hình dạng, kích thước như: khẳng khiu,
đẫy đà, mênh mông …; về những dáng vẻ, điệu bộ như: tha thướt, đủng đỉnh,
khúm núm …; về những trạng thái như: quạnh quẽ, đìu hiu …; về những tâm
tư như: ngậm ngùi, bâng khuâng … Nghĩa của những từ láy như thế này
thường khó giải thích và khó tìm thấy từ tương đương về nghĩa trong các
ngôn ngữ khác. Để hiểu được nghĩa của chúng, người ta phải thực hiện sự liên
hệ với thực tế bằng cảm quan thính giác nhưng không phải chủ quan mà theo
các quy tắc phối hợp ngữ âm. Điều này cho thấy, từ láy và số lượng từ láy khá
nhiều trong tiếng Việt là nét đặc sắc mà không phải thứ tiếng nào cũng có.
Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt ở mặt ngữ âm còn được phát huy
trong cấu tạo của loại đơn vị gọi là dạng láy của từ (từ một tiếng và từ hai
tiếng, từ láy hay từ ghép).


17

Dạng láy của từ không làm xuất hiện một từ mới mà nó là loại đơn vị
có giá trị tương đương với ngữ. Nhưng dạng láy của từ thì được cấu tạo theo
phương thức phối hợp ngữ âm còn ngữ thì được cấu tạo theo phương thức
phối hợp ngữ nghĩa. Ví dụ: hơi nặng là một ngữ chính phụ, nằng nặng là một
dạng láy của từ nặng; rất lúng túng là một ngữ chính phụ, lúng ta lúng túng là
một dạng láy của từ láy lúng túng; đi lại nhiều lần là một ngữ phụ chính, đi đi
lại lại là một dạng láy, dạng láy của từ ghép đi lại. Dạng láy của từ tương
đương với ngữ về mặt nghĩa và cả về vai trò làm thành phần trong câu.
Trong phạm vi cấu tạo câu, đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về ngữ âm
được thể hiện ở ngữ điệu lên xuống nghe trầm bổng, nhịp nhàng. Đặc điểm
này có cơ sở cấu tạo ngữ âm của tiếng, tức là của âm tiết, trong đó thanh là
yếu tố không thể thiếu. Âm tiết phải phát ra với một trong sáu thanh: sắc,
huyền, hỏi, ngã, nặng và bằng. Cho nên, đối với chuỗi âm tiết của một câu
hay một đoạn nhiều câu, sự phối hợp ngữ âm sao cho hài hòa là điều tất yếu.
Tác dụng của sự phối hợp ngữ âm trong cấu tạo câu của tiếng Việt có khi chỉ
làm cho câu nghe êm tai nhưng chủ yếu là tạo nên những sắc thái nghĩa nhất
định trong những hoàn cảnh nhất định.
Thứ hai, thể hiện về mặt ngữ nghĩa, đặc điểm đơn lập của tiếng Việt
được pháy huy chủ yếu trong cấu tạo từ ghép.
Từ ghép là những từ mà giữa các tiếng có phối hợp ngữ nghĩa và sự
phối hợp này tạo nên nghĩa mới cho từ ghép trong đó, nghĩa gốc của từng
tiếng có sự biến đổi. Và nói chung, sự biến đổi nghĩa đó là sự biến đổi theo
phương thức hình tượng hóa. Ví dụ: trong từ đất nước, nghĩa của tiếng đất
cũng như của tiếng nước không còn là nghĩa gốc về những chất liệu, những sự
vật cụ thể trong thiên nhiên mà đã thành nghĩa hình tượng và đó là sự hình
tượng hóa thông qua giá trị biểu trưng của những sự vật ấy, nhờ vậy mà sự
kết đôi đất nước trở thành có nghĩa tổ quốc, khác hẳn với nghĩa của sự kết đôi


18

đất và nước. Hiện tượng biến đổi nghĩa theo phương thức hình tượng hóa này
có thể nhận thấy ở những từ ghép mà các tiếng kết đôi song song với nhau và
cả ở những từ ghép trong đó có tiếng chính tiếng phụ.
Trong phạm vi cấu tạo câu, đơn vị cấu tạo nhỏ nhất về mặt ngữ pháp
cũng như ngữ nghĩa là từ. Tuy vậy, đặc điểm đơn lập ở mặt ngữ nghĩa của các
tiếng trong từ vẫn có thể được phát huy trong một hoàn cảnh nhất định. Đáng
chú ý là khả năng tách một từ hai tiếng thành hai nửa, mỗi nửa vừa là tiếng
vừa là từ và khả năng vừa tách đôi từ, vừa đan chéo các tiếng hay vừa tách
đôi từ vừa láy các tiếng …
Thứ ba, thể hiện về mặt ngữ pháp, đặc điểm đơn lập của tiếng Việt
được phát huy qua yêu cầu cơ bản của ngữ pháp tiếng Việt là nhận ra được
hai loại quan hệ khác nhau: quan hệ giữa các tiếng trong phạm vi cấu tạo từ
và quan hệ giữa các từ trong phạm vi cấu tạo câu. Nghĩa là trong tiếng Việt,
người ta phải phân biệt được những đơn vị ngữ pháp là tiếng, từ và câu đồng
thời cũng phải phân biệt được những đơn vị ngữ pháp khác là dạng ngữ và
dạng láy. Để biểu thị những mối quan hệ ngữ pháp ấy, tiếng Việt không sử
dụng sự biến đổi hình thức ngữ âm của tiếng cũng như của từ. Những tư cách,
những vai trò ngữ pháp khác nhau của tiếng cũng như của từ không biểu hiện
qua hình thức ngữ âm. Một tiếng có thể chỉ là tiếng mà cũng có thể là từ, một
từ có thể chỉ là từ mà cũng có thể là ngữ.
Tóm lại, đặc điểm đơn lập trong tiếng Việt không chứng tỏ một sự thô
sơ nào đó khi so sánh với các loại hình ngôn ngữ khác. Chẳng hạn như loại
hình ngôn ngữ hòa kết hoặc biến hình như tiếng Nga, tiếng Pháp … hay loại
hình ngôn ngữ chắp dính như tiếng Thổ (Thổ Nhĩ Kỳ) … Trong ngôn ngữ hòa
kết hoặc biến hình, sự biến đổi hình thức ngữ âm của từ được sử dụng làm
phương tiện chính để biểu thị các quan hệ ngữ pháp. Còn trong ngôn ngữ
chắp dính, mỗi từ gồm một số yếu tố có nghĩa dính với nhau, các quan hệ ngữ


19

pháp được biểu thị rõ ràng bằng những yếu tố như vậy một cách đều đặn.
Ngược lại, với những giá trị của tiếng về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp,
đặc điểm đơn lập của tiếng Việt làm cho cấu tạo của các đơn vị ngữ pháp, đặc
biệt là của từ và câu có tính chất sinh động, uyển chuyển làm nên cái khó mà
cũng là cái độc đáo, cái hay của ngôn ngữ tiếng Việt.
1.2. Những yêu cầu chung của việc sử dụng tiếng Việt
Khi sử dụng tiếng Việt, mỗi người trước hết cần xây dựng một thói
quen, một nếp lựa chọn và thận trọng trong việc dùng từ, đặt câu, chữ viết,
ngữ pháp … đồng thời luôn bồi dưỡng năng lực sử dụng tiếng Việt, coi việc
“học nói”, việc „lựa chọn lời” như một việc làm thiết yếu. Mỗi người tự nâng
cao năng lực sử dụng tiếng Việt bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp khác
nhau với mục đích cuối cùng là nắm vững và sử dụng thành thạo tiếng Việt
theo chuẩn mực nhất định. Sự chuẩn hóa tiếng Việt là công việc của mỗi
người đồng thời là sự nghiệp của toàn xã hội.
Sử dụng tiếng Việt cho trong sáng là sử dụng theo các chuẩn mực của
tiếng Việt. Các chuẩn mực này hình thành trong suốt chiều dài lịch sử của dân
tộc và được cả cộng đồng ngôn ngữ chấp nhận. Đó là cơ sở cho người nói,
người viết tạo lập lời nói hay văn bản và cũng là cơ sở cho người nghe hay
người đọc lĩnh hội được lời nói hay văn bản đó. Vì yêu cầu của việc giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt nên khi sử dụng, chúng ta phải tuân thủ theo các
chuẩn mực: âm thanh, chữ viết, từ ngữ, ngữ pháp, phong cách …
Trước hết là chuẩn mực về âm thanh, chữ viết. Về âm thanh, khi nói
cần tuân thủ theo các chuẩn mực về ngữ âm, ngữ điệu, các cách phát âm. Về
chữ viết, cần viết đúng dạng chữ, kiểu chữ, chính tả, viết hoa, dấu câu, các ký
hiệu chữ viết … Về chính tả, phải nắm được đặc điểm tiếng Việt là ngôn ngữ
phân tiết tính, các âm tiết đều được tách bạch rõ ràng trong chuỗi lời nói. Mỗi
âm tiết đều mang một thanh điệu nhất định, vì vậy, khi viết phải đánh dấu ghi


20

thanh điệu lên âm chính hoặc bộ phận chính (đối với âm chính là nguyên âm
đôi) của âm tiết. Cấu tạo âm tiết của tiếng Việt rất chặt chẽ và ổn định. Ở
dạng đầy đủ, âm tiết tiếng Việt luôn có cấu tạo với phụ âm đầu, vần và thanh
điệu trong đó vần được tạo thành từ âm đệm, âm chính và âm cuối.
Thứ hai, là chuẩn mực về từ ngữ. Chuẩn mực về từ đòi hỏi việc sử
dụng từ trong tiếng Việt phải đạt những yêu cầu về các phương diện: âm
thanh, hình thức cấu tạo, kết hợp ngữ pháp, nội dung ngữ nghĩa, màu sắc
phong cách. Đồng thời khi sử dụng tiếng Việt, chuẩn mực về từ ngữ còn đòi
hỏi phải phát triển vốn từ vựng sao cho vừa giàu có, phong phú lại vừa giữ
vững được bản sắc ngôn ngữ dân tộc, tránh lạm dụng từ nước ngoài khi
không cần thiết.
Thứ ba, chuẩn mực về ngữ pháp. Tiếng Việt bao gồm nhiều từ loại
khác nhau. Mỗi từ loại lại có những đặc điểm ngữ pháp riêng thể hiện ở nội
dung ngữ nghĩa, khả năng kết hợp giữa từ đó với từ khác khi cấu tạo … Vì
vậy, khi sử dụng từ, chúng ta cần phải chú ý đến khả năng kết hợp của từ
trong cấu tạo câu để không dẫn đến mắc lỗi trong dùng từ, đặt câu.
Thứ tư, chuẩn mực về phong cách. Chuẩn mực này xác định đặc điểm
tất yếu của việc sử dụng tiếng Việt trong lĩnh vực hoạt động và các tình huống
giao tiếp khác nhau trong cuộc sống xã hội. Mỗi một lĩnh vực và tình huống
khác nhau có những nhiệm vụ và mục đích giao tiếp nhất định. Do đó, việc sử
dụng tiếng Việt cũng đòi hỏi phải có những phong cách đặc thù như: phong
cách nói, phong cách viết, phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách nghệ
thuật, phong cách nghị luận, phong cách hành chính, phong cách báo chí …
Có những nhân tố và phương tiện ngôn ngữ chỉ sử dụng cho những phong
cách nhất định nhưng cũng có những nhân tố và phương tiện ngôn ngữ có thể
sử dụng chung cho nhiều phong cách.


21
Chuẩn mực về phong cách cũng đòi hỏi khi sử dụng từ thì không nên

dùng những từ sáo rỗng, cũ, mòn. Cách dùng từ sáo rỗng, công thức là lỗi
trong sử dụng tiếng Việt mà nhiều người khi nói, khi viết dùng những từ sẵn,
điệu nói sẵn một cách máy móc, rập khuôn do lười suy nghĩ, không chịu bỏ
công tìm tòi và khả năng ngôn ngữ hạn chế. Việc dùng những từ sáo rỗng dẫn
tới những câu văn “đao to búa lớn” nhưng ý nghĩa nghèo nàn, nhạt nhẽo,
nhàm chán gây khó hiểu và không đủ sức lôi cuốn người nghe, người đọc.
Chuẩn mực về phong cách còn đòi hỏi tránh dùng từ lai căng trong việc
sử dụng tiếng Việt. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng, sự
gia tăng vốn từ vựng tiếng Việt có những mặt tích cực đáp ứng nhu cầu giao
tiếp trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, nghiên cứu khoa học …
Không thể phủ nhận rằng có nhiều từ ngữ mới có yếu tố sáng tạo, chuẩn xác,
tinh tế làm cho tiếng Việt thêm phong phú, giàu đẹp. Tuy nhiên, bên cạnh
những yếu tố tích cực, chúng ta cũng bắt gặp không ít những yếu tố tiêu cực.
Hiện tượng lai căng, sử dụng tiếng nước ngoài một cách vô nguyên tắc tạo ra
xu hướng quái dị, kỳ quặc trong sử dụng ngôn ngữ, thậm chí đi ngược lại với
đạo lý truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thể hiện sự sa sút về
phong cách ngôn ngữ.


22
Chương 2
SỬ DỤNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT
TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT
TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1.1. Sinh viên và các biểu hiện sử dụng ngôn ngữ trong sinh viên
Sinh viên là một tầng lớp của xã hội. Họ là những người tốt nghiệp phổ
thông trung học và được tuyển chọn gắt gao qua các kỳ thi tuyển sinh quốc
gia đang trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp chuyên môn một cách
tập trung, có quy củ ở các trường đại học và cao đẳng để bước vào một bộ

phận xã hội mới là trí thức. Phần đông, sinh viên ở vào độ tuổi còn rất trẻ,
khoảng từ 19 đến 25 tuổi. Là một bộ phận của thanh niên, của các tầng lớp
khác nhau trong xã hội, họ là nhóm người có vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị cho
một đội ngũ trí thức có trình độ và nghề nghiệp tương đối cao cho xã hội. Họ
được coi là nguồn dự trữ chủ yếu, bổ sung cho đội ngũ những trí thức của xã
hội. Các tổ chức chính trị, xã hội, dòng họ, gia đình đều kỳ vọng vào họ. Vì
vậy, sinh viên có vai trò, vị trí xã hội rất rõ rệt.
Là một bộ phận của tầng lớp thanh niên nhưng có uy tín xã hội nổi trội
hơn các thành phần thanh niên khác về mặt học vấn, một bộ phận tương lai
của tầng lớp trí thức, sinh viên là một trong những lực lượng quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Vì rằng “để giải phóng công nhân
còn có những bác sỹ, kỹ sư, nhà hóa học, nông học và các chuyên gia khác, vì
vấn đề không phải chỉ nắm lấy việc quản lý bộ máy chính trị mà còn cả toàn
bộ nền sản xuất xã hội nữa và ở đây còn có tri thức vững chãi…”. Đối với
Đảng ta, sinh viên cũng được đánh giá rất cao trong sự nghiệp cách mạng của
đất nước. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười trong bài phát biểu tại Đại hội sinh


23
viên toàn quốc lần thứ V năm 1993 đã khẳng định: “…đất nước ta bước vào
thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không chủ yếu do
thế hệ thanh niên hiện nay quyết định, trong đó sinh viên là một bộ phận có
vai trò hết sức quan trọng”.
Là người chiếm lĩnh và sở hữu tri thức, sinh viên là đối tượng động,
hằng năm thường xuyên thay đổi về số lượng, nhạy bén trong khả năng tiếp
thu tri thức, tiếp thu cái mới. Đội ngũ sinh viên tốt nghiệp hằng năm sẽ làm
gia tăng vốn quý của quốc gia, sẽ trở thành những người lao động có tay
nghề, có khả năng sáng tạo trên mọi lĩnh vực của xã hội, góp phần đảm bảo
sự phát triển của đất nước. Chính sinh viên sẽ cùng với những tầng lớp thanh
niên khác là người kế tục thực hiện các nhiệm vụ trọng đại và các ước mơ cao

đẹp của các thế hệ trước và cũng chính họ là người kế thừa và phát huy những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trong khi đó, ngôn ngữ là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc
thực hiện quá trình tư duy ở mỗi cá nhân và toàn xã hội. Nhờ có ngôn ngữ mà
con người mới thực sự trở thành Người trong quá trình lao động và xã hội loài
người ngày một phát triển. Hoạt động ngôn ngữ là yếu tố không tách rời của
con người, của mỗi dân tộc và đặc trưng ngôn ngữ thể hiện đặc trưng văn hóa
dân tộc. Trong tiến trình phát triển hiện nay, cùng với tốc độ tăng trưởng kinh
tế, khoa học, văn hóa, xã hội…, tiếng Việt có những biến chuyển phức tạp
nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập của xã hội.
Như các tầng lớp xã hội khác, việc sử dụng tiếng Việt trong sinh viên
cũng đang bị tác động bởi quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế. Vốn từ vựng
tiếng Việt trong sinh viên gia tăng nhanh chóng. Điều này có mặt tích cực là
đã đáp ứng kịp thời nhu cầu giao tiếp trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
đồng thời làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú hơn. Không thể phủ nhận


×