Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự việt nam ( trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.18 KB, 98 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

CAO TRNG THY

MộT Số VấN Đề Lý LUậN Và THựC TIễN
Về NHữNG TRƯờNG HợP GIảM NHẹ TRáCH NHIệM HìNH Sự
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2010 - 2014)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

CAO TRNG THY

MộT Số VấN Đề Lý LUậN Và THựC TIễN
Về NHữNG TRƯờNG HợP GIảM NHẹ TRáCH NHIệM HìNH Sự
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2010 - 2014)

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: GS.TSKH. Lấ VN CM



H NI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn vẫn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Cao Trọng Thủy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục những từ viết tắt trong luận văn
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHỮNG TRƯỜNG
HỢP GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .......................................................... 13

Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của những trường hợp
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ......................................................... 13
1.1.1. Khái niệm những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự............. 13
1.1.2. Các đặc điểm của các trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ......... 29
1.1.

Sự hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình
sự Việt Nam về những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự (Từ sau pháp điển hóa lần thứ nhất năm 1985 đến trước
khi thông qua Bộ luật Hình sự hiện hành năm 1999) ................... 33
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 38
1.2.

Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ NHỮNG TRƯỜNG
HỢP GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
TUYÊN QUANG GIAI ĐOẠN 2010 – 2014 .................................. 39
Thực trạng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ........................ 39
2.1.1. Nội dung của những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 .............................. 39
2.1.2. Nội dung của các trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
được áp dụng theo Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 ....... 61
2.1.


Thực tiễn áp dụng những trường hợp giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh
Tuyên Quang giai đoạn 2010 - 2014) .............................................. 64

2.2.1. Thực tiễn xét xử một số vụ án có những trường hợp giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật
hình sự năm 1999................................................................................ 64
2.2.2. Thực tiễn xét xử một số vụ án có những trường hợp giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự được quy định tại Khoản 2 Điều 46 Bộ
luật Hình sự năm 1999 ........................................................................ 68
2.3.
Những hạn chế và bất cập trong việc áp dụng những
trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự .................................... 75
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 77
2.2.

Chương 3: NỘI DUNG HOÀN THIỆN CÁC QUY PHẠM CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 HIỆN HÀNH VỀ NHỮNG
TRƯỜNG HỢP GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ............. 78
3.1.
Một số yêu cầu đặt ra trong việc hoàn thiện Bộ luật Hình
sự năm 1999 hiện hành về những trường hợp giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự .......................................................................... 78
3.2.
Nội dung hoàn thiện một số quy định về những trường hợp
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Bộ luật hình sự năm
1999 hiện hành .................................................................................. 80
3.2.1. Hoàn thiện các quy định chung của pháp luật hình sự Việt
Nam về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ................. 80
3.2.2. Hoàn thiện các quy định riêng của pháp luật hình sự Việt Nam
về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định
tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 ................................. 80
3.2.3. Quy định chi tiết áp dụng khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự
năm 1999 ............................................................................................ 81

3.2.4. Một số giải pháp .................................................................................. 82
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 86


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

KHP

: Khung hình phạt

PLHS

: Pháp luật Hình sự

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

: Trách nhiệm hình sự


VKSNDTC

: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Thống kê số lần sử dụng những trường hợp giảm nhẹ
TNHS được quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS 1999
dựa trên cơ sở nghiên cứu 150 bản án

65

Bảng 2.2. Thống kê số lần sử dụng những trường hợp giảm nhẹ
TNHS được quy định tại Khoản 2 Điều 46 BLHS năm
1999 được hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP
dựa trên cơ sở nghiên cứu 150 bản án

69


Bảng 2.3. Thống kê việc áp dụng những trường hợp giảm nhẹ
TNHS do Tòa án tự ghi nhận trong bản án theo quy định
tại Khoản 2 Điều 46 BLHS dựa trên cơ sở nghiên cứu
150 bản án

70


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là một nhiệm vụ tiếp tục được Đại
hội XI của Đảng kế thừa và phát triển, đồng thời tư tưởng chỉ đạo đó đã
được hiến định một cách đầy đủ tại Hiến pháp năm 2013, tại Hiến pháp
năm 2013 quy định: “... Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân” [35, Điều 2, Khoản 1]. Muốn thực hiện được nhiệm vụ đó
chúng ta cần phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tăng cường pháp chế.
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, định hướng đó đòi hỏi thực hiện nghiêm
chỉnh nguyên tắc pháp chế nhằm đưa pháp luật vào đời sống xã hội. Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng đã chỉ rõ:
Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, đảm
bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người [2, tr.2-3].
Trong pháp luật hình sự, các tình tiết có vai trò quan trọng trong việc
xác định và xử lý tội phạm. Được sử dụng để phân biệt các tội phạm khác

nhau; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của các trường hợp phạm tội
trong cùng loại tội phạm; làm rõ mức độ nguy hiểm cũng như mức độ TNHS
của các trường hợp phạm tội cụ thể. Đồng thời còn được áp dụng làm căn cứ
để định tội cũng như quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Nếu thiếu

1


những tình tiết cụ thể, những căn cứ xác đáng có thể dẫn đến việc định tội
danh không đúng, không phù hợp, làm cho hình phạt không đạt được mục
đích khi áp dụng đối với người phạm tội. Trong số đó, các trường hợp giảm
nhẹ TNHS là cơ sở để giảm nhẹ TNHS cho người phạm tội và giữ một vai
trò hết sức quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt, thực
thi đúng các quy định này là bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế. Đây
cũng là một trong những nội dung quan trọng trong việc sửa đổi Bộ luật
Hình sự năm 1999.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp của nước ta cho thấy quy định về những
trường hợp giảm nhẹ TNHS đã tồn tại từ khá lâu trong lịch sử. Ngay từ thời
phong kiến, trong Quốc triều hình luật đã có những quy định về những trường
hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình. Cho đến BLHS năm 1985, những trường hợp
giảm nhẹ TNHS được ghi nhận chính thức như là những chế định độc lập
trong pháp luật hĩnh sự một cách chi tiết và khá hoàn thiện. Đến khi pháp điển
hóa pháp luật hình sự Việt Nam lần thứ hai với việc thông qua BLHS năm
1999, các quy định về những trường hợp giảm nhẹ TNHS cũng đã được sửa
đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện. Tuy nhiên, lần pháp điển hóa thứ hai và đã
được sửa đổi bổ sung năm 2009 thì BLHS vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về
mặt lập pháp đối với chế định này, cũng như thực tiễn áp dụng nó. Chẳng hạn,
cả hai BLHS năm 1985 và năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) vẫn không
đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê những trường hợp giảm nhẹ hình phạt trong
Khoản 1 Điều 46 và quy định Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết

giảm nhẹ trong Khoản 2 Điều 46 BLHS. Điều đó dẫn đến cách hiểu và áp
dụng pháp luật có những bất cập nhất định. Việc nghiên cứu những trường
hợp giảm nhẹ TNHS theo Luật Hình sự Việt Nam không chỉ có ý nghĩa về
mặt nhận thức khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng trong việc
áp dụng các trường hợp giảm nhẹ TNHS.

2


Theo quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung
một số điều năm 2009), thì những trường hợp giảm nhẹ TNHS là một trong
những căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt, vai trò của những trường hợp
giảm nhẹ TNHS rất quan trọng trong việc quyết định hình phạt:
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa làm cho tội
phạm đã thực hiện và nhân thân của người phạm tội ít nguy hiểm
hơn so với những trường hợp phạm tội mà không có tình tiết giảm
nhẹ đó, đồng thời khi có nó người phạm tội được Tòa án áp dụng
loại và mức hình phạt ít nghiêm khắc hơn... [67, tr. 3].
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, vấn đề áp dụng những trường hợp
giảm nhẹ TNHS đang còn có một số vướng mắc, sai sót cần được tháo gỡ.
Bởi lẽ theo Nghị quyết 49 đã nêu:
Thực tiễn cho thấy, phạm vi áp dụng của các tình tiết giảm
nhẹ TNHS tương đối rộng. Lạm dụng hoặc thờ ơ đối với việc áp
dụng chúng có thể gây nên tác hại nhất định, hậu quả có thể quyết
định hình phạt quá nhẹ, dẫn đến giảm hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Sự thờ ơ với việc áp dụng các quy định về các tình
tiết giảm nhẹ TNHS có thể đưa đến việc quyết định hình phạt quá
nghiêm khắc, dẫn đến phản tác dụng cho quá trình cải tạo, giáo dục
người phạm tội [2, tr.2].
Hơn nữa, việc áp dụng chính xác những trường hợp giảm nhẹ TNHS

giúp cho việc đánh giá tính chất vụ án, tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi của người phạm tội được chính xác, trên cơ sở đó mới có thể quyết
định loại và mức hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Đồng thời việc áp dụng đúng những trường hợp giảm nhẹ TNHS đảm bảo cho
việc thống nhất trong chính sách hình sự của Nhà nước ta trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm [1, tr.14]. Trong khi đó, việc áp dụng không

3


chính xác những trường hợp giảm nhẹ TNHS sẽ đưa đến hậu quả là Tòa án sẽ
quyết định một bản án thiếu công minh, không chính xác, không đúng pháp
luật, vì bản án đó không phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội
phạm cũng như nhân thân người phạm tội và công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Với những nhận định nêu trên, cả về lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự
Việt Nam. (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Tuyên Quang giai
đoạn 2010 - 2014)” để nghiên cứu và viết luận văn tốt nghiệp.
Tuy nhiên, đúng như tên gọi và nội dung chủ yếu của đề tài, dưới
góc độ nhận thức khoa học có thể khẳng định rằng: Bản chất của những
trường hợp giảm nhẹ TNHS theo luật Hình sự Việt Nam trong đề tài này
bao gồm: Nhóm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46
BLHS năm 1999 và các tình tiết trong các văn bản hướng dẫn áp dụng
pháp luật và do Toà án cân nhắc, theo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS
năm 1999. Vì vậy, trong phạm vi của một Luận văn thạc sĩ luật học tác
giả chỉ đề cập đến nhóm các tình tiết đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những trường hợp giảm nhẹ TNHS được quy định tại BLHS, trong các

văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và do Toà án cân nhắc, xem xét quyết
định trong quá trình xét xử các vụ án cụ thể, phản ảnh chính sách nhân đạo,
khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội. Trường hợp giảm nhẹ
TNHS là những biểu hiện về các điều kiện, hoàn cảnh, tình huống có ảnh
hưởng đến việc thực hiện tội phạm, qua đó phản ánh mức độ nguy hiểm ít hơn
của hành vi phạm tội và là cơ sở để người phạm tội có thể chịu hình phạt ở
mức thấp hơn, có cơ hội được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước.

4


Khi đề cập đến tình hình nghiên cứu có thể khẳng định trong những
năm qua đã có những công trình khoa học, các sách, các giáo trình và các bài
nghiên cứu đăng trên tạp chí khoa học mà ở các mức độ khác nhau có đề cập
đến một số vấn đề cơ bản liên quan đến luận văn này. Đó là:
2.1. Các sách (Sách chuyên khảo, sách tham, sách hướng dẫn và các
giáo trình)...
1) Đinh Văn Quế (2000), “Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự”, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội.
2) GS - TSKH Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam, quyển 1,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
3) Đinh Văn Quế (2009), “Bình luận khoa học về các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”, tái bản lần 2, NXB thành phố Hồ Chí Minh.
4) Tập thể tác giả do GS-TSKH Lê Cảm chủ biên (2001), “Giáo trình
Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung)”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội,
5) Tập thể tác giả do TS Uông Chu Lưu chủ biên (2001), “Bình luận
khoa học BLHS Việt Nam năm 1999 (Phần chung)”, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
6) Tập thể tác giả do PGS-TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên (2001),
“Trách nhiệm hình sự và Hình phạt”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

7)Tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (2001), “Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung)”, ĐH Huế, NXB Giáo dục.
8) Kiều Đình Thụ, Tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
2.2. Các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học
1) GS-TSKH Lê Cảm (2000), “Chế định trách nhiệm hình sự trong Bộ
luật hình sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số 4).
2) GS-TSKH Lê Cảm - TS Trịnh Tiến Việt (2002), “Nhân thân người
phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2002.

5


3) Đỗ Văn Chỉnh (2000), “Những vấn đề cần lưu ý trong xét xử”, Tạp
chí Toà án nhân dân (số 1).
4) TS Trịnh Tiến Việt (2003), “Về các điều kiện cho hưởng án treo
theo quy định của BLHS năm 1999”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9
5) TS Trịnh Tiến Việt (2004), “Về ảnh hưởng của các tình tiết giảm
nhẹ trong việc quyết định hình phạt”, Tạp chí KHPL số 1.
6) Phạm Hồng Hải (2001), “Chế định truy cứu TNHS và vấn đề áp
dụng chế định này trong thực tiễn”, Tạp chí Luật học số 10.
7) Dương Tuyết Miên (2003), “Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng theo
BLHS năm 1999”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 1).
8) Trần Thị Quang Vinh (2005), “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự trong luật hình sự”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặc biệt trong 5 năm trở lại đây, từ 2010 đến 2014 đã có một loạt các
bài viết khoa học đăng trên các tạp chí (Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao) mà ở các mức độ khác nhau có liên quan đến đề tài
này, đó là:
9) Phạm Ngọc Ánh (2014), “Những vướng mắc, bất cập khi áp dụng

điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS”, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ II (tháng 01).
10) Thái Chí Bình (2014), “Tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc khoản 2
Điều 46 BLHS, thực trạng áp dụng và giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Tòa án
nhân dân kỳ II (tháng 1).
11) Đỗ Thị Thanh Huyền và Đỗ hải Yến (2014), “Giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ chứng minh tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự trong điều tra các vụ án giết người”, Tạp chí Kiểm
sát (số 11).
12) Lê Xuân Lục (2014), “Bàn về căn cứ và giới hạn của việc quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định trong Bộ luật Hình sự”. Tạp chí Kiểm sát số
06 (tháng 3).

6


13) Đinh Văn Quế (2010), “Một số vấn đề khi áp dụng tình tiết “tự thú”
và “đầu thú” trong thực tiễn xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 3 (tháng 2).
14) Đỗ Văn Tạo (2011), “Bàn về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ
“người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu
quả” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự”, Tạp chí Tòa án
nhân dân kỳ II tháng 10, (số 20).
15) TS Phạm Minh Tuyên (2012), “Về áp dụng điều 47 Bộ luật Hình
sự khi quyết định hình phạt”, Tạp chí Kiểm sát số 20 (tháng 10).
16) TS Phạm Minh Tuyên (2013), “Một số vấn đề về sửa đổi, bổ sung
phần chung Bộ luật Hình sự năm 1999”, Tạp chí Kiểm sát số 18 (tháng 9).
17) TS Phạm Minh Tuyên(2014), “Một số vấn đề về tổng hợp hình
phạt tù có thời hạn với án treo trong thực tiễn xét xử hiện nay”, Tạp chí Kiểm
sát số 02 (tháng 1).
18) Cao Thị Thu Thắng (2014), “Tăng cường kháng nghị phúc thẩm
hình sự theo Chỉ thị 03/CT-VKSTC-VPT1 của Viện trưởng VKSND tối cao để

đạt hiệu quả cao hơn”, Tạp chí Kiểm sát số 13 (tháng 7).
19) Phạm Văn Thiệu (2010), “Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của khung hình phạt (Kỳ I)”, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ II (tháng 3).
20) TS Trịnh Tiến Việt (2013), “Bảo đảm tính thống nhất khi sửa đổi,
bổ sung Bộ luật Hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số 07(tháng 4).
21) Nguyễn Quốc Việt (2014), “Hoàn thiện chế định loại trừ trách
nhiệm hình sự”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số chuyên đề (tháng 8).
2.3. Các luận án, luận văn
1) Trần Thị Quang Vinh (2001), “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự trong Luật Hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện
Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
2) Chu Thanh Hà (2015), “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

7


thuộc về nhân thân người phạm tội”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các công trình nêu trên là cơ sở lý luận để giải quyết những vấn đề
chuyên biệt của đề tài, đồng thời là cơ sở làm sáng tỏ những nội trong thực
tiễn áp dụng được nêu trong luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn
3.1. Mục đích của Luận văn
Trong một chừng mực nhất định, luận văn nghiên cứu một cách tương
đối hệ thống và tương đối toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các
quy định về những trường hợp giảm nhẹ TNHS, luận văn hướng tới mục đích
phát triển lý luận về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề
xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật
Hình sự hiện hành về những trường hợp giảm nhẹ TNHS.
3.2. Nhiệm vụ của Luận văn
Muốn đạt được mục đích nghiên cứu như đã nêu trên, luận văn cần phải

thực hiện các nhiệm vụ sau:
Về lý luận, luận văn đưa ra nhận thức đầy đủ về trường hợp giảm nhẹ
TNHS, làm rõ cơ chế giảm nhẹ TNHS, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc
phân loại những trường hợp giảm nhẹ TNHS, phân tích quá trình phát triển
của chế định những trường hợp giảm nhẹ TNHS sau pháp điển hóa Bộ luật
Hình sự năm 1985 đến trước khi thông qua BLHS năm 1999. Từ đó, đưa ra sự
nhận thức đúng đắn về giới hạn và phạm vi ảnh hưởng của những trường hợp
giảm nhẹ TNHS.
Về thực tiễn, luận văn làm sáng tỏ ảnh hưởng của những trường hợp
giảm nhẹ TNHS được phản ánh trong các quy định của Bộ luật Hình sự hiện
hành bằng hệ thống các mức độ và biện pháp miễn giảm trách nhiệm hình sự,
nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về những trường hợp giảm nhẹ

8


TNHS, phát hiện những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và làm rõ nguyên
nhân của tình hình áp dụng đó. Đồng thời, trong phạm vi nghiên cứu luận văn
đưa ra một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật Hình sự và một số giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng những trường hợp giảm nhẹ TNHS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về những
trường hợp giảm nhẹ TNHS, luận văn đề cập đến một số vấn đề lý luận về
những trường hợp giảm nhẹ TNHS, ngoài ra luận văn còn đề cập đến thực
tiễn áp dụng những trường hợp này trong giải quyết các vụ án hình sự tại địa
phương. Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu của luận văn còn nêu lên sự phát
triển các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về những trường hợp giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự từ sau pháp điển hóa lần thứ nhất năm 1985 đến
trước khi thông qua Bộ luật Hình sự hiện hành năm 1999 cũng như các trường

hợp giảm nhẹ TNHS trong Nghị quyết áp dụng thống nhất của TANDTC.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn ở các trường hợp được quy
định tại Điều 46 BLHS năm 1999 mà không đề cập đến những tình tiết giảm
nhẹ được quy định trong các điều luật khác tại Phần chung Bộ luật Hình sự,
luận văn tập trung nghiên cứu về ảnh hưởng của mỗi trường hợp giảm nhẹ
đến TNHS. Đồng thời kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình áp
dụng chế định này trong thực tiễn, và những nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực đinh và nâng cao
hiệu quả áp dụng những trường hợp giảm nhẹ TNHS trong thực tiễn.
Mặt khác, do tính chất đa dạng và rộng lớn của đề tài, đồng thời giới
hạn số trang của một Luận văn Thạc sĩ. Bên cạnh đó, bản thân là cán bộ công

9


tác trong Ngành Thi hành án dân sự, vì vậy việc tiếp cận và khả năng nghiên
cứu còn có những hạn chế nhất định, kính mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn
của các Thầy, Cô giáo để bản thân có thêm kinh nghiệm, kiến thức và phương
pháp nhằm tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về nội dung của đề tài.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn dựa trên cơ sở vận dụng
phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Phép duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử là phương pháp luận để nhận thức bản chất của trường hợp giảm
nhẹ TNHS và cơ chế giảm nhẹ TNHS, được coi là cơ sở phương pháp luận để
nhận thức ảnh hưởng của điều kiện lịch sử đến quy định của pháp luật hình sự
về những trường hợp giảm nhẹ TNHS; lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
Nhà nước và Pháp luật, về tội phạm học, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về nguyên tắc xử lý tội phạm. Thông qua đó, việc nghiên cứu làm rõ những
nét đặc thù và giá trị kế thừa trong các quy định về những trường hợp giảm

nhẹ TNHS. Từ đó trang bị cách tiếp cận biện chứng cho việc áp dụng những
trường hợp giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự trong thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu còn kết hợp với một số phương pháp nghiên
cứu cụ thể khác như phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp,
Luận văn được nghiên cứu tương đối đầy đủ các quy định về những trường
hợp giảm nhẹ TNHS. Bằng việc sử dụng các phương pháp nói trên, luận văn
có một số nhận xét về tình hình chung trong áp dụng những trường hợp giảm
nhẹ TNHS vào thực tiễn, phát hiện một số vấn đề mâu thuẫn giữa quy định
của pháp luật với việc tuân thủ nó, để có hướng kiến nghị những giải pháp
hoàn thiện luật thực đinh và nâng cao hiệu quả áp dụng những trường hợp
giảm nhẹ TNHS trong thời gian tới.
6. Những điểm mới về mặt khoa học của Luận văn
Một là, trên cơ sở chỉ ra tiêu chí xác định những trường hợp giảm nhẹ

10


TNHS và tham khảo một số quan điểm về những trường hợp giảm nhẹ
TNHS, luận văn đã đưa ra được một khái niệm tương đối đầy đủ về trường
hợp giảm nhẹ TNHS.
Hai là, trên cơ sở nghiên cứu nêu lên các đặc điểm chủ yếu của quá
trình hình thành và phát triển của chế định những trường hợp giảm nhẹ TNHS
trong pháp luật hình sự Việt Nam từ khi pháp điển hóa BLHS lần đầu năm
1985 đến trước khi thông qua BLHS năm 1999.
Ba là, phân tích các quy định pháp luật hình sự hiện hành của Việt Nam
về những trường hợp giảm nhẹ TNHS.
Bốn là, tập trung nghiên cứu về tình hình áp dụng chế định này trong
thực tiễn, từ đó chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó.
Năm là, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những
trường hợp giảm nhẹ TNHS theo Luật Hình sự Việt nam và một số kiến nghị

nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự.
7. Ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn của Luận văn
7.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn trong một phạm vi nhất định góp phần
phát triển một số lý luận về những trường hợp giảm nhẹ TNHS trong Luật
Hình sự Việt Nam.
7.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn đưa ra một số luận cứ khoa học cho
việc cụ thể hoá chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với việc xử lý tội phạm
trong pháp luật hình sự hiện hành. Đồng thời đưa ra giải pháp giải quyết một
số vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật và nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định về những trường hợp giảm nhẹ TNHS. Kết quả
nghiên cứu đề tài có thể phục vụ cho việc trang bị một số kiến thức chuyên
sâu đối với cán bộ pháp luật trong lĩnh vực hình sự.

11


8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu gồm 3 chương. Cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về những trường hợp giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt nam.
Chương 2: Thực trạng các quy định về những trường hợp giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn áp
dụng các quy định này trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2010 - 2014.
Chương 3: Nội dung hoàn thiện các quy phạm của Bộ luật Hình sự năm
1999 hiện hành về những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

12



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHỮNG TRƯỜNG HỢP GIẢM NHẸ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của những trường hợp giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm những trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
BLHS không đưa ra khái niệm về những trường hợp giảm nhẹ TNHS.
Trong khoa học pháp lý nước ta, quan niệm về vấn đề này cũng chưa thống
nhất. Nhìn chung, đa số ý kiến cho rằng, trường hợp giảm nhẹ TNHS là
trường hợp được quy định trong BLHS với tính chất là trường hợp giảm nhẹ
chung hoặc là trường hợp được ghi nhận trong văn bản hướng dẫn áp dụng
pháp luật hay do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án, đồng
thời là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa TNHS và hình phạt đối
với người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình
phạt. Quan niệm trên chưa cho thấy hết được bản chất, nội dung của trường
hợp giảm nhẹ TNHS mà mới chỉ nêu đặc trưng pháp lý của chúng.
Dưới góc độ nghiên cứu của cá nhân, về bản chất, trường hợp giảm nhẹ
TNHS là những biểu hiện về các điều kiện, hoàn cảnh, tình huống có ảnh
hưởng đến việc thực hiện tội phạm, qua đó phản ánh mức độ nguy hiểm ít hơn
của hành vi phạm tội và là cơ sở để người phạm tội có thể chịu TNHS ở mức
thấp hơn. Trường hợp giảm nhẹ TNHS được quy định trong BLHS, trong các
văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hoặc do Toà án cân nhắc, xem xét quyết
định trong quá trình xét xử các vụ án cụ thể, phản ảnh chính sách nhân đạo,
khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.
Những trường hợp giảm nhẹ TNHS có thể hiểu ở nhiều cấp độ khác
nhau. Ở cấp độ thứ nhất mang tính chất tổng thể, giảm nhẹ TNHS là bất kỳ

13



trường hợp nào, mà sự hiện diện của nó có tác dụng làm giảm bớt mức độ
TNHS. Như vậy, ở cấp độ này, những trường hợp giảm nhẹ TNHS là tình tiết
định tội giảm nhẹ, định khung giảm nhẹ, các trường hợp được quy định tại
Điều 46 và các Điều luật khác thuộc Phần chung BLHS, cũng như các trường
hợp được áp dụng theo quy định của khoản 2 Điều 46 BLHS. Ở cấp độ thứ
hai, những trường hợp giảm nhẹ TNHS là những trường hợp có ý nghĩa giảm
nhẹ TNHS trên cơ sở đã có một chuẩn mực xác định về TNHS. Theo nghĩa
này, những trường hợp giảm nhẹ TNHS là những trường hợp được quy định
và áp dụng theo quy định Phần chung BLHS (không bao gồm các tình tiết
định tội, định khung giảm nhẹ). Ở cấp độ thứ ba, những trường hợp giảm nhẹ
TNHS là những trường hợp có ý nghĩa giảm nhẹ hình phạt trong giới hạn
khung hình phạt.
Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, những trường hợp giảm nhẹ TNHS
là những trường hợp có ý nghĩa làm giảm hình phạt trong phạm vi một khung
hình phạt [40, tr. 205]; [52, tr. 244]. Quan niệm như vậy là hẹp so với chính
tên gọi và khả năng ảnh hưởng của chúng đến TNHS. Như đã trình bày ở
phần trên, nội dung của TNHS là các tác động cưỡng chế hình sự bao gồm
việc bị kết án, bị áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích. Như vậy,
giảm TNHS không chỉ giới hạn ở việc giảm mức hình phạt, mà còn thể hiện
áp dụng các biện pháp khoan hồng khác thay thế hình phạt, miễn hình phạt,
thậm chí miễn toàn bộ TNHS. Hơn nữa, ngay cả trong khía cạnh giảm hình
phạt, cách hiểu trên cũng vẫn là một khái niệm hẹp. Bởi lẽ, theo quy định của
PLHS, giá trị giảm nhẹ của những trường hợp giảm nhẹ TNHS không thuần
tuý chỉ liên quan đến việc giảm hình phạt trong phạm vi khung hình phạt, mà
có thể đưa đến các khả năng giảm nhẹ khác về hình phạt như giảm hình phạt
dưới mức tối thiểu của khung hình phạt, chuyển sang hình phạt khác thuộc
loại nhẹ hơn, giảm hình phạt theo tỉ lệ luật định, giảm thời hạn chấp hành hình


14


phạt, miễn chấp hành hình phạt, miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án
treo), miễn hình phạt. Do vậy, theo quan điểm cá nhân, cần thiết xây dựng
khái niệm rộng hơn về những trường hợp giảm nhẹ TNHS.
Những trường hợp giảm nhẹ TNHS là những trường hợp có ý nghĩa
giảm nhẹ TNHS. Để quy định và áp dụng đúng những trường hợp giảm nhẹ
TNHS, cần thiết phải làm rõ các tiêu chí xác định chúng trên cơ sở làm sáng
tỏ cơ chế giảm nhẹ TNHS. Cơ chế giảm nhẹ TNHS được thể hiện thông qua
các khía cạnh sau:
Thứ nhất, Những trường hợp giảm nhẹ TNHS là những trường hợp có
ý nghĩa làm giảm đi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nên
chúng có giá trị giảm nhẹ TNHS [51, tr. 206], [50, tr. 244], [63, tr. 216]. Cơ
sở giảm nhẹ TNHS trong trường hợp này xuất phát từ thừa nhận sự tương
xứng giữa tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thực
hiện với mức độ TNHS. Như Mác đã nhận định:
Làm cho sự trừng phạt trở thành hậu quả thực tế của việc
phạm tội. Dưới con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phái là kết
quà tất yếu của hành vi của chính người đó, do đó phải là hành vi
của chính người đó. Giới hạn hành vi của y phải là giới hạn của sự
trừng phạt [12, tr. 181].
Điều đó có nghĩa là tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vì phạm tội là thước đo mức độ TNHS. Do vậy, để giảm mức độ TNHS, phải
là những trường hợp có ý nghĩa làm giảm đi mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội. Đây là biểu hiện khách quan và chủ quan của tội phạm,
biểu hiện về nhân thân người phạm tội mà sự hiện diện của chúng cố ý nghĩa
làm giảm đi mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Theo đó, những trường
hợp giảm nhẹ TNHS thường là những trường hợp phản ánh mức độ thực hiện
tội phạm chưa trọn vẹn do nguyên nhân khách quan hoặc do sự tự nguyện của


15


người phạm tội; tác hại của tội phạm gây ra không lớn hoặc đã được khắc
phục, mức độ lỗi hạn chế do người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế về
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, là người phạm tội
trong tình trạng tinh thần bị kích động vì hành vi trái pháp luật của người
khác, là người chưa thành niên. Những biểu hiện liên quan đến tội phạm và
nhân thân người phạm tội nêu trên đã phản ánh sự hạn chế về mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm được thực hiện. Do vậy, những trường hợp
giảm nhẹ TNHS là những trường hợp có khả năng làm giảm đi mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và đây là căn cứ giảm nhẹ TNHS.
Thứ hai, những trường hợp giảm nhẹ TNHS là những trường hợp phản
ánh khả năng cải tạo của người phạm tội. Nhân thân người phạm tội là một
trong những nhân tố có ảnh hưởng đến mức độ TNHS. Cơ sở lý luận của khả
năng giảm nhẹ này thể hiện ở chỗ, biện pháp xử lý về hình sự chỉ có thể trong
giới hạn đủ cần thiết nhằm đạt được mục đích của hình phạt là nhằm cải tạo,
giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ
pháp luật, các quy tắc của cuộc sống chung. Trong hướng giảm nhẹ TNHS
này, những trường hợp giảm nhẹ TNHS phải là những trường hợp phản ánh
khả năng cải tạo tốt của người phạm tội thể hiện thông qua thái độ thành thực
hối lỗi về việc thực hiện tội phạm, hạnh kiểm ít lệch chuẩn, có quan hệ tốt với
cộng đồng, gia đình, có thái độ tốt đối với lao động, tinh thần sẵn sàng chịu
trách nhiệm, quyết tâm cải tạo phục thiện v.v... Mặt khác, việc thực hiện tội
phạm, ở mức độ nhất định cũng có nguyên nhân xã hội. Việc thừa nhận con
người hành động trong sự tự do ý chí phải chịu trách nhiệm trước xã hội về
hành vi của mình, một mặt nhấn mạnh rằng, TNHS chỉ đặt ra khi một người
có lỗi trong việc thực hiện một tội phạm, mặt khác không nhằm phủ định tác
động của xã hội đến hành vi của con người. Do vậy, những đặc điểm tiêu cực

thuộc nhân thân người phạm tội được hình thành dưới sự tác động khách quan

16


của môi trường cũng nên được xem là yếu tố có ý nghĩa giảm nhẹ một phần
TNHS đối với người phạm tội mới là thỏa đáng. Theo GS. TSKH. Đào Trí Úc
xác định: “Nội dung của chính sách hình sự về tội phạm và TNHS phải được
xây dựng trên cơ sở giải quyết một loạt các mối tương quan, trong đó có mối
tương quan giữa trách nhiệm của cá nhân người phạm tội với trách nhiệm
của xã hội, của Nhà nước” [57, tr. 197]. Vậy, những trường hợp giảm nhẹ
TNHS là những trường hợp phản ánh khả năng cải tạo tốt của người phạm tội
và vì thế mà nó có giá trị giảm nhẹ TNHS.
Thứ ba, những trường hợp phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người
phạm tội đáng được khoan hồng. Trong trường hợp này, việc giảm nhẹ TNHS
là vì lý do nhân đạo hoặc do không còn yêu cầu áp dụng biện pháp cưỡng chế
hình sự. Cơ sở lý luận của khả năng giảm nhẹ này xuất phát trước hết từ
nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự. Trong lĩnh vực hình sự, nguyên tắc
nhân đạo được đặt ra và xây dựng trên cơ sở nghiên cứu khoa học sâu sắc và
ngày càng đầy đủ hơn về khả năng thực tế và vai trò của PLHS trong việc tác
động đến tội phạm. Từ nhận thức đó, Nhà nước sử dụng các biện pháp xử
phạt hình sự như công cụ đấu tranh phòng chống tội phạm bằng cách đề cao
tác động giáo dục cải tạo, hướng thiện đối với người phạm tội. Với cách tiếp
cận như vậy, khi có cơ sở để khoan hồng đối với người phạm tội, để tin rằng
mức độ TNHS được áp dụng đối với họ là đủ cần thiết, Nhà nước sẽ áp dụng
cơ chế giảm nhẹ TNHS. Đó chính là chỗ đứng cho các tình tiết giảm nhẹ
TNHS vì lý do nhân đạo. Mạt khác, thực tiễn cũng cho thấy, việc buộc người
phạm tội phải chịu TNHS xuất phát từ yêu cầu bảo vệ lợi ích của xã hội, bảo
vệ trật tự kỷ cương pháp luật là những điều kiện thiết yếu cho sự phát triển
lành mạnh của một xã hội. Nghĩa là việc áp dụng TNHS đối với người phạm

tội, xét toàn cục, là một việc làm cần thiết và có lợi. Tuy nhiên, áp dụng
TNHS đối với họ ở một mức độ nhất định cũng có mặt trái của nó. Với tư

17


cách là một con người trong xã hội, người phạm tội tham gia vào đời sống xã
hội với nhiều mối liên hệ khác nhau. Việc áp dụng biện pháp tác động bất lợi
về hình sự đối với cá nhân người phạm tội có khả năng kéo theo một số hệ
quả tiêu cực nhất định. Ví dụ, người phạm tội là người lao động duy nhất của
gia đình thì việc phải thụ hình tại trại giam có thể làm phát sinh một số hệ quả
tiêu cực khác như gia đình của họ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về
kinh tế, không có nguồn sống, con cái chưa thành niên của người phạm tội trở
thành trẻ không nơi nương tựa, không có người chăm sóc dạy dỗ. Trong
những trường hợp này, bên cạnh mặt tích cực và cần thiết của việc áp dụng
TNHS đối với người phạm tội thì khả năng phát sinh những hệ quả tiêu cực
khác vẫn có thể xảy ra và cần được tính tới. Do vậy, vấn đề áp dụng TNHS,
mức độ của nó như thế nào là một bài toán cần lời giải trên cơ sở giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa sự cần thiết phải áp dụng TNHS vì lợi ích chung
của xã hội và khả năng phát sinh hệ quả tiêu cực khác do việc áp dụng TNHS.
Mức độ và hình thức TNHS cần áp dụng phải được lựa chọn sao cho, một mặt
phải đạt được mục đích của nó, mặt khác phải hạn chế tối đa khả năng phát
sinh những hệ quả tiêu cực.
Vì vậy, khi quy định hình phạt trong khâu lập pháp và nhất là
khi Toà án quyết định hình phạt, cần tính đến để có biện pháp hạn
chế đến mức có thể được những hậu quả phụ của hình phạt đối với
những người không gây ra hành vi phạm tội nhưng vì lẽ này hay lẽ
khác có mối liên hệ với người phạm [57, tr. 262].
Đây chính là cơ sở mà PLHS Việt Nam quy định những trường hợp
giảm nhẹ TNHS vì lý do nhân đạo. Trong PLHS và thực tiễn áp dụng đã thể

hiện rõ thái độ nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội là phụ nữ đang
nuôi con nhỏ, là người chưa thành niên, là người già (Điều 46 BLHS), người
đang mắc bệnh nặng, là người lao động duy nhất trong gia đình (Điều 61

18


×