Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN: Sự vận động của tư tưởng “Cư trần lạc đạo” trong văn chương Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.1 KB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

----˜&™-----

HOÀNG ĐÌNH THANH

SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TƯ TƯỞNG “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO”
TRONG VĂN CHƯƠNG THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam (Trung đại)
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ THANH


HÀ NỘI – 2014

2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ
của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.
TS Vũ Thanh, người đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, Phòng Sau Đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Tổ bộ môn Văn học
Việt Nam trung đại, đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ, động viên chúng tôi


trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 06 năm 2014
Tác giả luận văn

Hoàng Đình Thanh


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử, Phật giáo và văn hóa Phật giáo
đã đồng hành cùng dân tộc, trở thành một phần cốt yếu, quan trọng của văn
hóa Việt Nam; đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước;
nuôi dưỡng tâm hồn và sức sống Việt; xây dựng lối ứng xử văn hóa trong
quan hệ với đồng loại và với thế giới tự nhiên cho các thế hệ, tạo nên vẻ đẹp
và bản sắc dân tộc.
Lý - Trần là thời đại dân tộc “hồi sinh” sau hơn một ngàn năm Bắc
thuộc. Thời này, Phật giáo thịnh trị, tư tưởng triết lý Phật giáo ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống tâm linh con người và đời sống văn học. Văn học Phật giáo
nói chung, thơ Thiền nói riêng là một bộ phận quan trọng của văn học Lý Trần, là di sản quý báu của một thời đại đáng tự hào của dân tộc ta. Tìm hiểu
giá trị đích thực của thơ Thiền là việc làm cần thiết cho nền văn hóa nước
nhà, nhất là trong thời đại mở cửa hội nhập.
Ra đời trong bối cảnh “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/ Non sông nghìn
thuở vững âu vàng” (Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/ Sơn hà thiên cổ điện kim
âu) của thời đại Đông A, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là kết tinh của tinh

thần Phật giáo Đại Việt trên cơ sở kế thừa truyền thống và tiếp thu tinh hoa
ngoại quốc. Trước tác của Thiền Trúc Lâm để lại cho hậu thế thực sự là
những viên ngọc quý, phản chiếu con người tinh thần của một thời đại anh
hùng. Trong xu thế nhìn lại quá khứ với niềm tự hào sâu sắc, Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử và các sáng tác của những Thiền sư dòng Thiền này ngày càng
được quan tâm một cách thỏa đáng từ giới nghiên cứu trong và ngoài nước
cũng như bạn đọc gần xa. Đặc biệt, cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân
Tông - vị Tổ sáng lập Thiền phái được các học giả quốc tế chú ý và đánh giá
cao không chỉ bởi những cống hiến xuất sắc của ông cho lịch sử dân tộc mà
1


trên tất cả là những tư tưởng triết học thâm viễn mang tầm nhân loại của
hoàng đế “nhiều trong một” này.
Là một dòng Thiền dân tộc lấy chủ thuyết “Cư trần lạc đạo” làm tôn chỉ
hoạt động, Thiền Trúc Lâm đã có nhiều đóng góp đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc cũng như công cuộc chấn hưng nền văn hóa Đại Việt. Trên
cả hai bình diện đạo và đời, dù ở phương diện lịch sử hay văn hóa, tư tưởng
“Cư trần lạc đạo” cũng làm rạng danh dân tộc Việt Nam một thời oanh liệt.
Tìm hiểu tư tưởng “Cư trần lạc đạo” không những giúp chúng ta hiểu hơn về
các thế hệ tiền nhân người Việt mà còn bồi đắp niềm tự hào đối với di sản văn
hóa của cha anh đi trước để lại.
Mặt khác, tìm hiểu tư tưởng “Cư trần lạc đạo” trong sáng tác của Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử là một cách thể hiện niềm tri ân sâu sắc đối với các
giá trị truyền thống, đồng thời phát huy giá trị các di sản của tiền nhân trong
thời đại hội nhập với tinh thần “Ôn cố tri tân”.
Tóm lại, đây là vấn đề mang tính khoa học mới mẻ và giá trị thực tiễn
sâu sắc.
Chính vì vậy, trong khuôn khổ công trình này, chúng tôi lựa chọn và
triển khai đề tài: “Sự vận động của tư tưởng “Cư trần lạc đạo” trong văn

chương Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử” với hi vọng sẽ góp sức vào việc nhìn
nhận Thiền Trúc Lâm như một hiện tượng phi thường trong tiến trình phát
triển của tư tưởng dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về Phật học, Thiền học thời Trần
Phật giáo nói chung và Thiền học nói riêng có bề dày lịch sử nghiên cứu.
Thiền uyển tập anh ngữ lục là một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ
Hán ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và sự tích các vị
Thiền sư nổi tiếng từ cuối thế kỷ VI đến thế kỷ XIII. Ðây là tài liệu lịch sử cổ
nhất của Phật giáo Việt Nam hiện có.
2


Tam tổ thực lục là tập sách trình bày hành trạng của ba vị Tổ sư thuộc
dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền
Quang). Hòa thượng Thích Phước Sơn dịch và chú giải.
Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang là một tác phẩm nghiên
cứu vào loại quy mô về Phật giáo Việt Nam. Tác phẩm trình bày toàn bộ diễn
tiến của Phật giáo từ thời Luy Lâu tới giữa thế kỉ XX ở Việt Nam. Trong đó,
tác giả đã dành 7 chương để giới thiệu về Phật giáo đời Trần và Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử.
Lê Mạnh Thát, Nguyễn Tài Thư, Nguyễn Duy Hinh cũng có những
công trình nghiên cứu quan trọng về lịch sử du nhập, phát triển của Phật
giáo dân tộc. Các tác phẩm phải kể đến là: Lịch sử Phật giáo Việt Nam
(Nguyễn Tài Thư chủ biên), Triết học Phật giáo Việt nam (Nguyễn Duy
Hinh). Đặc biệt là Lê Mạnh Thát, người được coi là học giả viết sách về
văn học và lịch sử Phật giáo nhiều nhất Việt Nam. Ông là tác giả của: Tổng
tập Văn học Phật giáo Việt Nam (3 tập), Toàn tập Trần Thái Tông, Toàn
tập Trần Nhân Tông, Lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Nguyễn Hùng Hậu là một tác giả có nhiều công trình nghiên cứu về

tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Góp phần tìm hiểu tư
tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông (1996), Lược khảo tư tưởng
Thiền Trúc Lâm Việt Nam (1997), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam
từ khởi nguyên đến thế kỉ XIV (2002).
Nhiều luận án nghiên cứu tư tưởng triết học của các nhân vật Thiền
Trúc Lâm. Trương Văn Chung bảo vệ thành công luận án phó Tiến sĩ đề tài
“Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần” (1996). Luận án Tiến
sĩ: “Tư tưởng triết học của Tuệ Trung Thượng sĩ” của Nguyễn Đức Diện, luận
án Tiến sĩ của Bùi Huy Du với đề tài “Tư tưởng triết học của Trần Nhân
Tông” (2011) đã hệ thống hóa những quan niệm về bản thể luận, nhận thức
3


luận và nhân sinh quan của Tuệ Trung Thượng sĩ và Trần Nhân Tông - những
nhân vật chủ chốt của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Ngoài ra, chúng ta cũng phải kể đến quá trình sưu tập, biên dịch và
bình chú các kinh sách Phật giáo như: Bát nhã, Viên giác, Hoa nghiêm, Pháp
hoa,… của các thế hệ học giả Phật tử Việt Nam.
2.2. Những nghiên cứu về thơ Thiền thời Lý - Trần và cảm hứng “Cư trần
lạc đạo”
Những bộ khảo cứu, sưu tầm về văn học thời Lý - Trần đầu tiên phải kể
tới Tinh tuyển chư gia luật thi (Dương Đức Nhan), Trích diễm thi tập (Hoàng
Đức Lương). Tiếp đó, được sưu tầm và giới thiệu trong sách vở lưu hành từ
thế kỷ XIV - XVIII như Khóa hư lục (Trần Thái Tông), Thượng sĩ ngữ lục
của Tuệ Trung Thượng sĩ, Thiền uyển tập anh ngữ lục (khuyết danh), Tam tổ
thực lục, Thánh đăng lục, …
Nửa sau thế kỷ XX, những tác phẩm thơ ca thời Lý - Trần đã được tập
hợp và sưu tầm, ghi chép lại trong cuốn Thơ văn Lý - Trần (3 tập) do nhóm
tác giả Viện Văn học thực hiện. Tác giả Nguyễn Huệ Chi phân tích những kết
quả nghiên cứu những năm đầu thế kỷ XX, từ đó giới thuyết lại diện mạo văn

học Lý - Trần từ nội dung đến hình thức thể loại. Đến năm 2005, thơ văn Lý Trần được sưu tầm và biên soạn lại trong cuốn Tinh tuyển văn học Việt Nam,
tập 3 do Nguyễn Đăng Na chủ biên.
Nghiên cứu về thơ văn Lý - Trần đã có một quá trình lâu dài với nhiều
bài viết giá trị, đặc biệt từ những năm 40 của thế kỷ XX qua các công trình
như: Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm (1941), Việt Nam cổ
văn học sử của Nguyễn Đổng Chi (1942), Văn học đời Lý và đời Trần của
Ngô Tất Tố (1942). Gần đây, văn học Lý - Trần đã được nhiều tác giả như:
Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Kiều Thu Hoạch, Nguyễn Hữu Sơn,
Đoàn Thị Thu Vân, Trần Nho Thìn, Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Công Lý,
4


… đề cập tới. Mỗi tác giả có những cách tiếp cận và đánh giá của riêng mình.
Trần Nho Thìn chọn cách tiếp cận từ phương diện văn hóa để tìm hiểu thơ
trung đại (Văn học trung đại Việt Nam, dưới góc nhìn văn hóa). Nguyễn Đăng
Na trong cuốn Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam đặt những tác
phẩm thơ ca trung đại vào tọa độ không gian và thời gian để tìm con đường
giải mã; hoặc tìm hiểu văn học trung đại Việt Nam dưới góc độ thi pháp học
như việc mà Trần Đình Sử đã làm trong cuốn Thi pháp văn học trung đại. Đó
còn là cái nhìn từ góc độ loại hình tác giả văn học trung đại như một số bài
nghiên cứu của Trần Ngọc Vương, Đỗ Thu Hiền, Nguyễn Tuấn Anh, Đỗ Lai
Thúy,… Mỗi tác giả, với những góc nhìn khác nhau đã có những đóng góp
nhất định cho việc phát hiện vẻ đẹp tiềm ẩn của những tác phẩm thơ ca
trung đại nói chung và thơ ca Lý - Trần nói riêng.
Thơ Thiền thời Lý - Trần cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều luận văn, luận án. Đáng chú ý là các luận án của Đoàn Thị Thu Vân và
Nguyễn Công Lý. Luận án phó Tiến sĩ năm 1995 của Đoàn Thị Thu Vân với
đề tài: “Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỷ
XI - thế kỷ XIV” đi sâu khảo sát những đặc sắc của thơ Thiền Việt Nam;
Nguyễn Công Lý với đề tài: “Văn học Phật giáo Lý - Trần: diện mạo và đặc

điểm” (luận án Tiến sĩ năm 2000), đã trình bày về diện mạo và đặc điểm cụ
thể của văn học Phật giáo thời Lý - Trần. Trong đó, tác giả dành chương 4
(trong tổng số 4 chương) trình bày về năm đặc điểm cơ bản nhất của văn học
Phật giáo thời này.
Từ những năm cuối thế kỷ XX, trên các tạp chí khoa học chuyên ngành
như Tạp chí Văn học (sau đây xin viết tắt là: TCVH), Tạp chí Văn hóa dân
gian, Tạp chí Nghiên cứu Phật học… có nhiều bài viết nghiên cứu về thơ
Thiền thời Lý - Trần. Ngay từ năm 1982, Nguyễn Phương Chi có bài nghiên
cứu xuất sắc về thơ ca và con người Huyền Quang (Huyền Quang, nhà sư thi
5


sĩ, TCVH, số 3, năm 1982). Tiếp theo, Nguyễn Phạm Hùng trên TCVH số 4
công phu tìm hiểu về sự vận động của mảng thơ trữ tình đời Trần với bài “Về
diễn tiến của thơ trữ tình đời Trần”. Năm 1992, Nguyễn Phạm Hùng trong
bài “Thơ Thiền và việc lĩnh hội thơ Thiền đời Lý” đăng trên TCVH số 4 đã đi
sâu tìm hiểu xu hướng vận động của thơ Thiền đời Lý: là sự kết hợp của cảm
quan tôn giáo và cảm quan thế tục chủ yếu trên bình diện con người. Phạm
Ngọc Lan có bài “Trần Nhân Tông, cảm hứng Thiền trong thơ” đăng trên
TCVH, số 4 năm 1992,…
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhiều Hội thảo khoa học cấp
quốc gia và quốc tế được tổ chức nhằm trao đổi một số vấn đề học thuật liên
quan tới những nhân vật quan trọng của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt
Nam” năm 2000 đã tập hợp những những bài nghiên cứu về vai trò của Tuệ
Trung Thượng sĩ với lịch sử phát triển của Thiền tông Việt Nam.
Hội thảo: “Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông, cuộc đời và sự
nghiệp” diễn ra vào tháng 11 năm 2008 tại Quảng Ninh được tổ chức trong
khuôn khổ Đại lễ tưởng niệm 700 năm ngày mất của Phật hoàng Trần Nhân
Tông. Kỷ yếu Hội thảo khoa học gồm 90 tham luận của các nhà nghiên cứu,

học giả đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, lãnh thổ Đài Loan, Thái
Lan và Việt Nam.
Hội thảo khoa học: “Bảo tồn và phát huy di sản Đệ tam tổ Thiền phái
Trúc Lâm Huyền Quang và Lễ hội Côn Sơn” được tổ chức nhân ngày Giỗ
Huyền Quang Tôn giả 23 tháng Giêng (15/02/2009) tập hợp những tham luận
đánh giá về hành trạng, trước tác đồng thời khẳng định vai trò cùng những
đóng góp của Thiền sư đối với Thiền phái Trúc Lâm.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học nhân Đại lễ tưởng niệm 705 năm ngày nhập
Niết bàn và khánh thành tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông: “Phật giáo Trúc
6


Lâm Yên Tử và công tác quy hoạch, bảo tồn và phát huy những giá trị của
khu di tích Yên Tử hiện nay” (2013) tập hợp gần 50 bài viết của các học giả
trong nước cùng đông đảo Phật tử thuần thành.
Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” trong các sáng tác của Thiền phái Trúc
Lâm cũng được đề cập trong các luận án Tiến sĩ Triết học (như đã nói ở trên)
và qua một số bài viết của Đoàn Thị Thu Vân, Nguyễn Kim Sơn, Thích
Phước Đạt, Thích Huệ Thiện…
Như vậy, Thiền học nói chung và thơ Thiền Lý - Trần nói riêng đã
được nghiên cứu tương đối toàn diện. Mỗi nhà nghiên cứu, với góc độ và
phương pháp tiếp cận của riêng mình đã khai thác đối tượng trên nhiều bình
diện, cung cấp cho giới học thuật nói chung những phương tiện và con đường
riêng để giải mã tác phẩm văn học Phật giáo. Nhiều vấn đề nội dung tư tưởng,
giá trị Thiền học của các sáng tác văn học Thiền phái Trúc Lâm được phân
tích, tổng hợp tạo tiền đề cho việc hệ thống hóa tri thức về văn học Phật giáo,
từ đó xây dựng một “phông” văn hóa cần thiết cho những người muốn tìm
hiểu, nghiên cứu văn chương Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Tư tưởng “Cư
trần lạc đạo” – hạt nhân triết lý, linh hồn của văn chương Thiền phái Trúc
Lâm được các học giả phát hiện, khái quát ở một số công trình nghiên cứu.

Tuy nhiên, tính cho đến nay chưa có một chuyên luận hay một công trình
khoa học nào thực sự tập trung tìm hiểu quá trình vận động từ khởi nguồn đến
đỉnh cao và thế tục hóa của nó.
Kế thừa, vận dụng những thành tựu học thuật đã nói ở trên, luận văn
này lý giải cội nguồn làm khởi phát tư tưởng “Cư trần lạc đạo” đồng thời diễn
giải cụ thể và đánh giá sự vận động của nó trên một trục tâm nhất quán, với
mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc nhìn nhận hệ tư tưởng Trúc Lâm Đại
Việt một cách toàn diện mà cụ thể, góp phần tôn vinh những giá trị truyền
thống Việt Nam.
7


3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm:
Những sáng tác của Trúc Lâm Đệ nhất tổ Trần Nhân Tông: khoảng 20 bài
thơ chữ Hán (Xuân vãn, Xuân cảnh, Sơn phòng mạn hứng, Đăng Bảo Đài sơn,
Thiên Trường vãn vọng, Vũ Lâm thu vãn, Xuân hiểu, Khuê oán, Nguyệt,…); 2
bài phú Nôm (Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca); văn xuôi
(Thượng sĩ hành trạng).
Thơ văn của Đệ tam tổ Huyền Quang: 1 bài phú Nôm (Vịnh Vân Yên tự
phú), khoảng 23 bài thơ chữ Hán (Tảo thu, Yên Tử sơn am cư, Chu trung,
Phiếm chu, Đề Đạm Thủy tự, Ai phù lỗ, Địa lô tức sự, Ngọ thụy, Sơn vũ, Trú
miên, Cúc hoa (6 bài), Nhân sự đề Cứu Lan tự, Mai hoa, Tặng sĩ đồ đệ tử,
Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề,…) được tập hợp trong tác phẩm Ngọc tiên
tập (Chiếc roi ngọc).
Các sáng tác của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung - người truyền “tâm ấn”
cho Trần Nhân Tông, tập hợp trong Thượng sĩ ngữ lục (Phàm thánh bất dị, Phật
tâm ca, Phóng cuồng ngâm, Vật bất năng dung, Trì giới kiêm nhẫn nhục, Giang
hồ tự thích, Dưỡng chân, Sinh tử nhàn di dĩ, Ngẫu tác, Tụng cổ, Đối cơ…).
Ngoài ra, luận văn còn dành một thời lượng nhất định cho các tư tưởng

của Thiền sư Thường Chiếu (kệ thị tịch) và Trần Thái Tông (Khóa hư lục,
Thiền tông chỉ nam tự).
Đối với Trúc Lâm nhị tổ Pháp Loa, do Thiền sư chủ yếu dành thời gian
để phát triển giáo hội, xiển dương đạo pháp, trước thuật sách vở; hơn nữa, tư
liệu về ông còn rất hạn chế, những tác phẩm của ông (những sách giáo khoa
Phật học) phần lớn đã bị thất truyền, chỉ còn lại một bài ca tụng Tuệ Trung
Thượng sĩ, một bài Thị tịch còn ghi chép ở sách Tam tổ thực lục và bài Lưu
luyến cảnh núi xanh còn được chép trong Toàn Việt thi lục, tư tưởng Thiền
học lại có nhiều điểm tương tự tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ và Trần
Nhân Tông, vậy nên trong công trình nhỏ này, chúng tôi chỉ khảo sát, xem xét
8


những trước tác của ông trên cơ sở tích hợp, lồng ghép với Tuệ Trung
Thượng sĩ và với Trần Nhân Tông.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào tư tưởng “Cư trần lạc
đạo”, những biểu hiện cùng quá trình vận động từ cội nguồn đến khi phát
triển tới đỉnh cao gắn với các sáng tác kể trên.
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm giải quyết một vấn đề khoa học, từ đó rút ra những bài
học thực tiễn:
Trước hết, nhận diện được những biểu hiện cùng quá trình vận động
của tư tưởng “Cư trần lạc đạo” trong văn chương Thiền phái Trúc Lâm Yên
Tử: từ cội nguồn sinh thành đến khi phát triển tới đỉnh cao và đi vào thế tục
dẫn tới quá trình điển phạm hóa loại hình văn học nhà Nho. Qua đó, làm sáng
rõ phong cách riêng của văn học Phật giáo thời Trần trong tương quan so sánh
với văn học Thiền thời Lý.
Mặt khác, lý giải và đánh giá cội nguồn hình thành, sự vận động, những
đóng góp của tư tưởng “Cư trần lạc đạo” đối với lịch sử và văn hóa dân tộc.
Từ đó, rút ra những bài học thực tiễn đối với công tác bảo tồn, phát huy

các giá trị văn hóa truyền thống trong thời đại hội nhập và xây dựng chủ
trương sống “tốt đời đẹp đạo”.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: xuất phát từ đối tượng nghiên
cứu của luận văn là tư tưởng “Cư trần lạc đạo” nên phương pháp nghiên cứu
chủ đạo được sử dụng trong luận văn này là phương pháp liên ngành. Nghiên
cứu liên ngành là sự kết hợp các môn học, các chuyên ngành khoa học khác
nhau. Liên ngành là sử dụng lối tư duy tổng hợp để xem xét một đối tượng
mang tính nguyên hợp. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ nghiên cứu đối
tượng trên các bình diện văn học, triết học, sử học, văn hóa.
- Phương pháp nghiên cứu loại hình học: xuất phát từ phạm vi nghiên
cứu, trong luận văn này chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu loại hình
9


tác giả Thiền sư - thi sĩ và loại hình tác phẩm văn học Phật giáo (kinh kệ, thơ
Thiền, ngữ lục).
- Phương pháp so sánh văn học: đối chiếu giữa những tác phẩm, các
tác giả để nhận biết trục tâm tư tưởng và những sáng tạo của mỗi cá nhân, qua
đó thấy được sự vận động của tư tưởng “Cư trần lạc đạo” trong văn chương
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: đối tượng phân tích, tổng hợp ở
đây là những văn bản tác phẩm của các nhân vật thuộc Thiền phái Trúc Lâm
(có cả chữ Hán, phiên âm, dịch thơ và chữ Nôm), đòi hỏi người viết sự phân
tích logic, tránh áp đặt tùy tiện.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở hình thành và phát triển của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”.
Chương 2: Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” – Từ Thường Chiếu, Trần Thái
Tông qua Tuệ Trung Thượng sĩ đến Trần Nhân Tông và Huyền Quang.

Chương 3: Những đóng góp của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”.

10


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA TƯ TƯỞNG “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO”
“Cư trần lạc đạo” nghĩa là “ở đời mà vui đạo”. “Cư trần lạc đạo” có
nghĩa là giác ngộ ngay giữa cuộc đời, giác ngộ không phải là xa lánh cuộc
đời hay quên đời. Quan điểm này đã trở thành một triết lý điển hình cho Phật
giáo Đại Việt, do Trần Nhân Tông đã tổng hợp, khái quát từ chính cuộc đời
của ông nội (Thái Tông), của cha (Thánh Tông), của sư phụ (Tuệ Trung
Thượng sĩ) và của chính mình như một đức vua - Phật hoàng đa trách nhiệm
với dòng tộc, với triều đình, với cả quốc gia dân tộc; vừa như một vị vua có
trách nhiệm với sự tồn vong, hưng thịnh của đất nước, vừa như một vị lãnh tụ
dẫn dắt tinh thần và tâm linh của trăm dân, vừa như một vị quốc sư tài ba tập
hợp nên khối đoàn kết toàn dân tộc, vừa là một lãnh tụ tôn giáo xây dựng tăng
đoàn Phật giáo Đại Việt thống nhất. Ta thấy ý nghĩa chân giáo của Thiền cuộc sống qua cụm từ “Cư trần lạc đạo” đã diễn đạt tinh thần “tự tại”, “tự
nhiên”, “vô trụ”, “vô chấp”, “Phật tại tâm” của Thiền tông Việt Nam.
Tính khuynh hướng của một trường phái triết học, một giáo phái hay
cách ứng xử của một cá nhân, một nhóm xã hội bị quy định bởi rất nhiều nhân
tố. Nó thường là một tổng thể phức tạp, đan xen hữu cơ. Tách bạch một vài
nhân tố và coi đó là nguyên nhân của các khuynh hướng thực khó có thể lột tả
được đầy đủ và chính xác. Tuy nhiên, nó vẫn là việc không thể không làm.
Theo kết quả nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Kim Sơn, tinh thần nhập thế
của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cần được nhìn nhận từ hai phương diện,
một là những căn cội triết học và hai là cơ sở thực tiễn, những lý do thực tiễn.
[47; tr. 41]. Người viết căn cứ vào đó mà đi tìm cơ sở hình thành và phát triển

của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”.
11


1.1. Sự dung thông Tam giáo – Cơ sở triết học của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”
Có thể nhìn một cách tổng quan về căn cội triết học của tinh thần nhập thế
(nói theo cách của Trần Nhân Tông là “cư trần lạc đạo”) là một hệ thống với
Phật tính luận, phương pháp tu luyện, con đường giác ngộ của Thiền tông, đặc
biệt là Thiền Huệ Năng làm trục tâm. Trên cơ sở đó, nó kết hợp với tư tưởng
hòa quang đồng trần trong triết học Lão Tử, tư tưởng vô sở đãi và tùy tục trong
tư tưởng Trang Tử, và đương nhiên không thể thiếu tư tưởng lạc đạo của Nho
gia. Xét về cơ cấu, nó là sự hội nhập triết học và phương pháp tu dưỡng, cảnh
giới tinh thần của cả Tam giáo, lấy Thiền làm cơ sở để tiến hành hội nhập.
1.1.1. Phật tính luận – trục tâm của tư tưởng
Thiền tông đề cao tinh thần hướng nội vào bản tâm để truy cầu sự giải
thoát. Bồ Đề Đạt Ma, Tổ sư của Thiền tông đúc kết phương pháp chứng ngộ:
“bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật” (không lập văn tự,
hướng thẳng đến nhân tâm, thấy được tính thành Phật).
Thiền tông quan niệm: Phật tính có trong tâm của tất thảy chúng sinh.
Phật tính trong Phật giáo Ấn Độ là một bản thể trừu tượng, siêu việt. Trong quá
trình tiếp biến với văn hóa và mô thức tư duy của Trung Quốc, bản thể Phật tính
dung hợp với nhân tính, tâm tính và định hướng tu dưỡng “cầu chư kỷ vô cầu
chư ngoại” [47; tr. 41] (truy cầu ở nơi bản thân mình, không truy cầu ở nơi ngoài
mình) theo quan niệm của Nho gia. Nó vẫn là bản thể Phật tính, nhưng trong
cách cảm nhận và tư duy của người Trung Quốc, Phật tính chuyển dần từ bản
thể trừu tượng, siêu việt sang vừa là bản thể siêu việt lại vừa là thực thể tinh thần
nội tại. Nó được diễn đạt và cảm nhận theo cách của Nho gia. Nó hình thành nên
con đường hướng nội kiến tính, trực chỉ nhân tâm.
Trong Pháp bảo đàn kinh, Huệ Năng đưa ra mệnh đề rất quan trọng:
“tức tâm tức Phật” (Tâm đấy chính là Phật đấy). Ông chỉ rõ nhất thiết chúng

sinh và chư Phật đều quy kết ở một điểm chung, đó là “Tự tâm”:
12


"Tự tâm chính là Phật, sao lại còn hồ nghi, ngoài tâm ra thì không có
vật nào kiến lập cả, bản tâm sinh vạn pháp. Cho nên mới nói: Tâm sinh vạn
pháp sinh, Tâm diệt vạn pháp diệt.
Nay ta dạy các ngươi, biết tự tâm chúng sinh, thấy tự tâm Phật tính.
Các ngươi nay nên tin rằng, thấy biết Phật, chỉ là tự tâm, ngoài ra
không có Phật nào khác… Ta cũng khuyên tất thảy mọi người, tự trong tâm
mình thường khai mở tri kiến Phật. Cho nên, biết về vạn pháp, tất thảy đều ở
tự tâm" [47; tr. 41].
“Tâm” mà Huệ Năng nói tới là “Tâm” của con người sống động và cụ
thể. Phật tính tồn tại tự trong “Tâm”, “tức tâm tức Phật”. Ngoài “Tâm” ra
không có Phật nào hết. Ông lại nói:
"Bồ đề chính chỉ hướng giác ngộ ở nơi tâm, sao lại nhọc nhằn đi cầu điều
huyền hư ở bên ngoài? Dựa theo điều này mà tu hành, Tây phương ở ngay trước
mắt. Cho nên cần biết, vạn pháp tất thảy đều ở trong tự thân ta, sao chẳng quay
về tự tâm đốn hiện chân như bản tính? Phật chính là tự tính, chớ hướng ra ngoài
thân mà truy cầu. Tự quay về quy y Phật nơi mình, không nói quy y Phật nào
khác. Tự tính không quy, sẽ không có chỗ nào mà dựa hết" [47; tr. 42].
Huệ Năng đã chuyển từ sùng bái Phật ngoại tại sang sùng bái chính bản
tâm của mình. Phật tính cũng là Nhân tính, Nhân tính cũng là Phật tính, do đó
kiến tính, tri tính, minh tâm kiến tính (thấy tính, biết tính, làm sáng lòng để
thấy tính) chính là con đường giải thoát, con đường giác ngộ thành Phật. Điều
này có thể giải thích được nguồn cội sâu xa của tinh thần tự tín, tự lập, tự
cường mạnh mẽ ở Tuệ Trung Thượng sĩ cũng như ở Trần Nhân Tông.
Từ quan niệm về Phật tính như trên, Thiền Huệ Năng đã mở ra một
đường hướng tu hành, đường hướng giác ngộ cho số đông. Những người có
thể biết chữ, có thể không biết chữ, có thể xuất gia, có thể không xuất gia, ai

có thể quay về với bản tâm tự tại thanh tĩnh của mình, có thể diệt vọng niệm,
13


loại thi phi… là có thể kiến tính thành Phật. Cái tâm đã không còn thị phi,
danh lợi chính là cơ sở để an lạc giữa cõi trần. Mọi công việc đời thường và
công việc tu hành không phân biệt. “Bổ củi, gánh nước đều là diệu đạo” [47;
tr. 43]. Và cũng do nhân tính và Phật tính hợp làm một nên Phật tính cũng
không tách rời nhận thức cảm tính bình thường. Quan niệm về Phật tính và
phương pháp tu hành minh tâm kiến tính là hai vấn đề không thể tách rời.
Phật tính luận là tiền đề triết học, cơ sở triết học còn minh tâm kiến tính là
phương pháp tu dưỡng.
Rõ ràng, chính Phật tính luận và phương pháp tu Thiền theo cách minh
tâm kiến tính, đốn ngộ thành Phật là cơ sở triết học quan trọng nhất của tư tưởng
“Cư trần lạc đạo”, tinh thần nhập thế của Thiền học Trúc Lâm.
1.1.2. Triết học nhân sinh Đạo gia – một cách “nói hộ” tư tưởng Thiền
Như trên đã trình bày, thái độ nhập thế, “cư trần lạc đạo” cần được nhìn
nhận như một thể phức hợp tư tưởng, có yếu tố trục tâm và các phương quy
chiếu khác. Triết học nhân sinh của Đạo gia có mặt một cách khá đậm nét và
là một cách “nói hộ” cho nhiều tư tưởng Thiền.
Trong Thượng sĩ hành trạng, Trần Nhân Tông viết về người thầy của
mình: “Hỗn tục hòa quang, dữ vật vị thường xúc ngỗ, cố năng thiệu long
pháp chủng…” [47; tr. 43] (Thượng sĩ hòa ánh sáng cùng đời, chưa từng trái
vật, cho nên đã hoằng dương Phật pháp). Tuệ Trung Thượng sĩ từng đắc pháp
với Thiền sư Tiêu Dao (một pháp danh khiến người ta nghĩ tới Trang Tử hơn
là mạch truyền thừa của Thiền Tông), lại “nhật dĩ Thiền duyệt vi lạc” [47; tr.
43] (ngày ngày lấy đạo Thiền làm vui). Có thể diễn đạt lại những thông tin mà
Trần Nhân Tông nói ở trên về sự nghiệp tu hành của Thượng sĩ là: hòa quang
đồng trần, tiêu dao tề vật, không phân biệt “ta” và “vật”, ngày ngày tràn ngập
lạc thú trong việc tu Thiền, và cũng chính bằng cách đó ông phù trì mở mang

được Phật pháp. Một vài tinh thần quan trọng của Đạo gia được vận dụng,
vừa là sự bổ sung tư tưởng vừa là một cách nói cho Thiền.
14


“Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần” [35; tr. 15] là một đặc sắc tư tưởng của
Lão Tử. Lão Tử nêu quan điểm “hòa quang đồng trần” để giải thích về lẽ
Huyền đồng. Vương Bật chú là: “Không có chỗ nào đặc biệt vinh hiển, thì vật
không có chỗ nào tranh nhau; Không có chỗ nào đặc biệt ty tiện, thì vật
không có chỗ nào thẹn”. Ngô Trừng chú là: “Hòa, cũng là Bình vậy, biểu thị ý
nén mà giấu đi; Đồng, là để nói bình đẳng mà không có chỗ nào khác.
Gương vì bụi mà không sáng, phàm đã sáng thì tất có mờ tối, cho nên trước
hãy tự giấu ánh sáng đi để hoà cùng với bụi kia, không muốn thể hiện cái
sáng của mình, như vậy thì trước sau không bao giờ bị mờ tối”. Người đời
sau dùng “hòa quang đồng trần” để chỉ triết lý sống nổi chìm cùng thế tục, tùy
tục tùy thời hành xử, không để lộ ra một sự khác biệt hay đặc biệt nào.
Như trên đã trình bày, trong sự tu tâm để giác ngộ kiến tính, “Chùi cho
vằng vặc tính gương; Nào có nhuốm căn trần huyên náo”, “Tâm” đã sáng
như gương, “căn trần huyên náo” không thể vướng bận. Giữ “Tâm” sáng thì
không gì làm mờ được. Vậy mới có thể giữa cõi trần mà vui đạo. Nhưng
muốn giữ cho gương luôn sáng thì giấu cái sáng đi để hòa cùng bụi kia cũng
là thêm một cách. Nó là “Phật - Đạo hỗ bổ” (Phật Đạo bổ sung cho nhau).
Tinh thần “hòa quang đồng trần” vừa giải thích rõ thêm phương pháp “minh
tâm” nhưng cũng là gợi ý về con đường nhập thế, cách sống nổi chìm cùng
thế gian. Cư trần lạc đạo phú có những đoạn đầy ắp tinh thần Đạo gia:
Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí
Mày ngang mũi dọc, tướng tuy lạ xem ắt bằng nhau.
(Hội thứ mười)
Đây chính là nhắc tới tinh thần tâm trai để đạt tới “tề vật, vô sở đãi”
của Trang Tử. Các thiên Tiêu dao du và Tề vật luận trong sách Trang Tử tập

trung thảo luận về vấn đề căn cội khiến con người không mất tự do. Con
người sở dĩ bị trói buộc tinh thần chính do thái độ phân biệt tốt xấu, thiện ác,
15


bỉ thử, nhân ngã, giàu nghèo, tâm vật… tức là: Đãi. Muốn đạt tới tự do tiêu dao
tuyệt đối, người ta cần loại bỏ chấp đãi, đạt tới vô sở đãi. Nhân cách lý tưởng
của Trang Tử là: “Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh” [47;
tr. 44], cả ba cái vô đó thực chất là vô sở đãi, là bất nhị, không phân biệt. Trang
Tử hướng tới cái tự do tiêu dao tuyệt đối, sống hòa làm một với đạo, sống thuận
tự nhiên, sống tùy tục, không cố gắng làm trái lẽ tự nhiên.
Trần Nhân Tông nói “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên/ Cơ tắc xan hề
khốn tắc miên”. Về chữ nghĩa, “tùy duyên” là chữ nhà Phật, nhưng sống tùy
duyên, đói ăn, mệt ngủ mà tìm lạc thú trong chính cái tùy duyên đó là tinh
thần tiêu dao của Lão - Trang. Đó chính là đem tư tưởng “tùy tục”, “an thời
xử thuận” của Trang Tử để diễn tả triết lý “nhậm vận tùy duyên”.
Chính tư tưởng “hòa quang đồng trần”, “vô đãi”, “bất nhị”, tiêu dao
“tùy tục”, an nhiên tự đắc của tư tưởng Lão - Trang đã góp phần tạo nên căn
cơ triết học cho tư tưởng “phàm thánh bất dị”, “nhậm vận tùy duyên”, “cư
trần lạc đạo” của cả dòng Thiền đời Trần nói chung và Thiền học của Trần
Nhân Tông nói riêng.
1.1.3. Tư tưởng “lạc đạo” của Nho gia với phương pháp tu dưỡng của
Thiền tông.
Sự dung hợp tư tưởng Nho - Phật đã diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn
hình thành Thiền tông Trung Hoa. Phật tính luận theo kiến giải của Huệ Năng
là sự dung hợp quan niệm bản thể Phật tính với Nhân tính, Tâm tính luận của
Nho gia. Không phải chỉ dung hợp về nội hàm của các khái niệm, phạm trù, sự
dung hợp đó còn thể hiện ở cả tính khuynh hướng và phương pháp tu dưỡng.
Nho gia là học thuyết nhập thế. Tâm tính học của Nho gia chủ trương tu
tâm dưỡng tính ngay trong các quan hệ nhân tình thế tục: cha con, anh em

chồng vợ. Phương pháp tu dưỡng của Nho gia là hướng vào nội tâm, tự phản
tỉnh, tự điều tiết. Nhà Nho rất ráo riết trong phương diện truy cầu nội tâm và
16


tự ngã tu dưỡng. Khổng Tử nói: “Vi nhân do kỷ diệc vi nhân hồ tai” (là người
là ở mình, nào phải do người) [37; tr. 15]; “Cầu chư kỷ vô cầu chư ngoại”
(cầu nơi mình, không cầu bên ngoài) [37; tr. 12],…
Quan niệm về Nhân tính là cơ sở triết học của thuyết tu dưỡng. Tu
dưỡng theo Nho gia, là nhằm đạt tới sự hoàn thiện của nhân cách, trong tu
dưỡng có lạc thú của sự rèn luyện. Nho gia không hướng tới thế giới siêu việt,
không có cõi giải thoát chung cục, nhưng lại cũng có một thế giới tinh thần
“tự lạc” phong phú đủ làm thỏa mãn tinh thần con người. Lạc thú của Nho gia
là lạc thú trong chính sự tu dưỡng, trong việc xử lý các quan hệ. Lạc thú của
Nho gia là lạc thú trong cõi hiện thế, cõi đời thực. Họ cảm thấy vui thú khi
học được điều gì áp dụng vào thực tiễn tu thân của mình: “Học nhi thời tập
chi, bất diệc lạc hồ” (học mà có thể thực hành, chẳng phải vui sao), hay cảm
giác “tự lạc” xuất hiện khi phản tỉnh nội tâm thấy không có điều gì lầm lỗi:
“Nội tỉnh bất cứu tắc hà ưu hà hoạn” (xoi xét mình thấy không lầm lỗi thì
chẳng phải âu lo, phiền muộn)… Sự siêu việt của Nho gia chính là một loại
siêu việt đặc biệt - siêu việt nội tại, siêu việt trong chính tâm tính.
Không thể phủ nhận được, trong Phật tính luận và phép minh tâm kiến
tính, truy tìm nơi mình, không tìm bên ngoài của Thiền phương Nam có sự
hiện hữu của Nho gia. Nho gia đã góp phần đáng kể vào việc hình thành quan
niệm sự giác ngộ không tách rời con người.
Trần Nhân Tông còn tiến thêm một bước so với các vị tiền bối của
Thiền tông. Ông cho rằng nhân nghĩa đạo đức cũng chính là Phật, so với giữ
giới hạnh, bỏ tham, sân, si cũng không có gì khác:
Tích nhân nghì, tu đạo đức,
Ai hay này chẳng Thích Ca.

Cầm giới hạnh, đoạn xan tham,
Chỉn thực ấy là Di Lặc.
(Cư trần lạc đạo phú, hội thứ tư)
17


Cái đích của tu hành là giải thoát, thành Phật, nhưng thành Phật bằng cả
con đường “tích nhân nghĩa, tu đạo đức” thì rất độc đáo, độc đáo theo con mắt
dung hợp Nho - Phật của Trần Nhân Tông. Ông đặt các phạm trù, các hình mẫu
của Nho gia thành các cặp song hành đối đẳng, hỗ bổ với Phật:
Sạch giới lòng, chùi giới tướng,
Nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm.
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha,
Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
(Cư trần lạc đạo phú, hội thứ sáu)
Tinh thần khoan dung của Thiền tông chính là không phủ nhận các
phạm trù đạo đức của con người thế tục, đặt các phạm trù trung hiếu vào ngay
chính con đường tu dưỡng để “minh tâm kiến tính”, ngộ đạo giải thoát. Nó dễ
được cộng đồng cư sĩ tu tại gia chấp thuận và cả Phật tử bình dân không xuất
gia khác cũng thấy gần gũi, dễ tu.
Cư trần lạc đạo phú, dù là tác phẩm văn học Phật giáo nhưng cũng có
dáng dấp một bài thánh huấn của Nho gia, dạy dỗ đệ tử, giáo hóa chúng dân.
Trần Nhân Tông khuyên đệ tử, đồng thời cũng là tự khuyên mình:
Vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo.
Mến đức cồ, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay.
(Cư trần lạc đạo phú, hội thứ bẩy)
Như vậy, người thực hiện đạo quân thần phụ tử, thờ chúa thờ cha ngay
thảo là một thực tiễn đạo đức, thực tiễn tu dưỡng. Nó là việc của đời sống thế
tục, nhưng tận đạo ấy tâm tính cũng an nhiên tự lạc. Cái “tự lạc” đó đồng nhất
với việc “kiến tính thành Phật”. Nó là sự triển khai của tinh thần nhập thế, là

hiện thực hóa của “Cư trần lạc đạo”. Nói cách khác nó chính là “tùy duyên tự
lạc”. Với nhân nghĩa đạo đức ấy, lại thêm chay lòng lắng dục, “thể tính an
nhàn”, “muôn nghiệp đều lặng”, con người ấy có thể tùy tục:
18


Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa, hoặc chằm hoặc xể;
Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa.
(Cư trần lạc đạo phú, hội thứ năm)
Thực chẳng khác gì nhà Nho ẩn dật, “an bần lạc đạo” với giỏ cơm, bầu
nước, gối lên khuỷu tay mà nhìn phú quý tựa chiêm bao, tận hưởng thân tâm
nhàn dật.
Những vấn đề của Nho gia được nói tới trong các trước tác của Trần
Nhân Tông là những vấn đề của thực tiễn đạo đức rất gần gũi, thường nhật mà
không phải là những vấn đề lý luận cao siêu. Nó thành lời khuyên nhủ ân cần
giản dị, và đương nhiên gắn kết rất chặt chẽ với thực tiễn tu Thiền.
Có một vài chỗ Trần Nhân Tông đã dùng ngôn từ và cách nói của Nho
gia để chuyển tải nội dung tư tưởng của Thiền, chẳng hạn trong bài Tán Tuệ
Trung Thượng sĩ: Vọng chí di cao/ Toàn chi di kiên/ Hốt nhiên tại hậu/ Chiêm
chi tại tiền/ Phu thị chi vị/ Thượng sĩ chi Thiền (Càng ngẩng nhìn càng thấy
cao/ Càng đục thấy càng cứng/ Thoắt ở đằng sau/ Bỗng lại phía trước/ Cái đó
gọi là/ Bậc Thượng sĩ Thiền).
Nguyên văn của những câu chữ này trong sách Luận ngữ. Nó vốn là lời
của Nhan Hồi ca ngợi Khổng Tử và đạo của ông. Nó đã được Trần Nhân
Tông vận dụng để ca ngợi thầy của mình (Tuệ Trung Thượng sĩ). Điều đó
cũng thuyết minh thêm về sự gần gũi và sự vận dụng tư tưởng Nho gia để hỗ
trợ cho tư tưởng Thiền.
1.2. Tinh thần thời đại – Cơ sở thực tiễn của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”
1.2.1. Thời đại anh hùng với “hào khí Đông A” bất diệt
Thời Trần (1225 - 1400) được xem là một thời đại huy hoàng trong lịch

sử dân tộc. Sử gia đời sau đánh giá: “Triều Lý nhân ái, triều Trần anh hùng”
[54; tr. 122]. Trong gần hai trăm năm trị vì với 12 đời vua, triều Trần đã tạo
nên những chiến công hiển hách trong kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ
19


đất nước cũng như trong xây dựng và phát triển quốc gia phong kiến độc lập,
tự chủ. Lịch sử và văn chương mãi mãi ghi nhận vương triều Trần như một
triều đại hào hùng bậc nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam.
Năm 938, Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng,
chấm dứt thảm cảnh nghìn năm nô lệ giặc Tàu. Các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê
tuy ngắn ngủi nhưng đã đặt được những nền móng đầu tiên cho việc xây dựng
nhà nước phong kiến Đại Việt độc lập so với Trung Hoa. Đặc biệt, trải qua
hơn 200 năm xây dựng và phát triển dưới triều Lý (1009 - 1225), đến triều
Trần, nước Đại Việt đã trở thành một quốc gia cường thịnh. Một mặt, phát
huy những truyền thống vốn có từ nghìn năm dựng nước và giữ nước, mặt
khác kiến tạo thêm những giá trị mới mang hơi thở thời đại, triều Trần đã đưa
dân tộc bước vào giai đoạn trùng hưng với khí thế hồ hởi chưa từng có. Tiềm
năng của dân tộc được hồi sinh mạnh mẽ, nội lực dân tộc được phát huy hết
chiều kích tạo nên những thành tựu nổi bật về nhiều phương diện.
Giai cấp phong kiến thời Trần là một lực lượng tiến bộ, trở thành đại
biểu của nhân dân. Với chủ trương “thân dân”, “trọng dân”, nhà Trần quy tụ
được sức mạnh toàn dân tộc trong kháng chiến chống ngoại xâm cũng như
trong xây dựng và phát triển đất nước. Lúc này, khoảng cách giữa triều đình
phong kiến và quần chúng gần gũi, hòa nhã đến mức các vua Trần đích thân
xuống ruộng cày những luống cày tịch điền để khuyến khích nông nghiệp,
vua quan cùng nhân dân cầm tay nhau nhảy múa trong những hội hè, đình
đám cổ truyền. Chính không khí cởi mở, đầm ấm ấy đã tạo nên một đời sống
thanh bình, an vui: “Muôn dân ca hát vui thời thịnh trị” (Triệu tính âu ca lạc
thịnh thì - Trần Nguyên Đán). Đặng Thai Mai nhận xét: “Từ cung điện nhà

vua qua dinh thự các quan đến làng mạc người dân chưa có những đường
hào ngăn cách một cách quá nghiêm khắc như sau này. Chưa có một bệ rồng
xa thẳm và lộng lẫy, chưa có những thành quách cao dày, những hào lũy sâu
20


thẳm, chưa có những kiến trúc nguy nga, những luật lệ gang sắt... con người
biết sống một đời sống tích cực, vui vẻ” [70; tr. 38].
Thời Trần, với sự lãnh đạo của những vị vua “anh minh thần võ” như
Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông; với tài năng của các
tướng lĩnh thao lược như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật
Duật... và đặc biệt là bằng sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, muôn người như
một hừng hực chung một “hào khí Đông A”, dân tộc ta đã tạo nên những kỳ
tích trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Cả ba lần xua quân sang xâm lược, cả
ba lần quân Nguyên Mông - đạo quân xâm lược khét tiếng hung hãn từng
tung hoành từ Á sang Âu thời đó - phải chịu thất bại thảm hại. Chiến thắng ấy
vĩ đại đến mức khiến nhà Nguyên phải kiêng dè, nể sợ Đại Việt. Sứ thần nhà
Nguyên là Trần Phu, sau khi sang sứ nước ta trở về đã phải thừa nhận trong
bài Sứ hoàn cảm sự [15; tr. 196] (Cảm nghĩ sau chuyến đi sứ Giao Châu):
Dĩ hạnh quy lai thân kiện tại,
Mộng hồi do giác chướng hồn kinh.
(Đã may mà được trở về, tấm thân khỏe mạnh còn đây,
Sau giấc ngủ, tỉnh dậy còn thấy thần hồn kinh sợ)
Về chính trị, tạo ra vị thế bình đẳng với Trung Hoa, khiến các nước lân
bang phải vị nể. Về văn hóa, tạo dựng được một nền văn hóa phong phú, giàu
bản sắc với tầm vóc khiến cả người Trung Hoa cũng phải ngợi ca. Nguyên sứ
Trương Hiển Khanh một lần sang sứ Đại Việt đã trầm trồ thán phục:
An Nam tuy tiểu văn chương tại
Vị khả khinh đàm tỉnh để oa.
(Nước An Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương

Không thể nói một cách nông cạn họ là ếch ngồi đáy giếng)
Văn học thời Trần cũng có những bước phát triển mới so với văn học
thời Lý, đưa thơ từ chỗ trừu tượng, cao siêu đến chỗ gần gũi, bình dị và giàu ý
vị trữ tình.
21


×