Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính từ 18 – 36 tháng tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.81 KB, 102 trang )

MỤC LỤC

1


DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC BIỂU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
TKT
PH
GV

2

Từ gốc
Trẻ khiếm thính
Phụ huynh
Giáo viên


MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
Lịch sử loài người đã chứng minh người khuyết tật, trong đó có trẻ

khuyết tật là một bộ phận cấu thành tất yếu của xã hội. Vấn đề chăm sóc, giáo
dục cho người khuyết tật, nhất là trẻ em khuyết tật ngày càng được các quốc


gia trên thế giới quan tâm. Nó không còn là vấn đề của riêng gia đình trẻ
khuyết tật mà đã trở thành vấn đề chung của toàn xã hội.
Theo số liệu thống kê, Việt Nam có khoảng 1,2 triệu trẻ khuyết tật,
trong đó trẻ khiếm thính chiếm 12,43%, trẻ khiếm thị chiếm 13,73%, trẻ chậm
phát triển trí tuệ chiếm 28,36%, trẻ khuyết tật ngôn ngữ chiếm 12,57%, trẻ
vận động 19,25%, trẻ đa tật chiếm 12,62% [23]....
Việt Nam đã tham gia kí Công ước quốc tế về quyền trẻ em (1990),
Công ước quốc tế về các quyền của người khuyết tật (2007) và ban hành:
Pháp lệnh người tàn tật (1998), Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
(2004), Luật người khuyết tật (2010), Chiến lược giáo dục giai đoạn 2011 –
2020, với nhiều văn bản hướng dẫn thi hành và các hoạt động khác. Điều này
đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước trong việc xây dựng các chính sách,
qui định nhằm đảm bảo công bằng cho người khuyết tật nói chung, trẻ em
khuyết tật nói riêng. Hơn thế nữa, những thay đổi trong qui định chuẩn giáo
viên mầm non, tiểu học: có kiến thức về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật. Đây
là cơ sở đảm bảo cho việc chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết tật ngày càng được
phát triển.
Trẻ khiếm thính (TKT) là một bộ phận quan trọng trong cộng đồng trẻ
khuyết tật. Do những khiếm khuyết về thính giác nên khả năng phát triển
ngôn ngữ nói của các em gặp nhiều khó khăn. Hàng thế kỉ trước, khi y học và
các phương tiện trợ thính chưa phát triển thì việc phát triển ngôn ngữ nói cho
3


TKT gần như là không thể. Ngày nay với sự phát triển của y học trong việc
phát hiện, chẩn đoán sớm các khiếm khuyết, trong đó có khuyết tật thính giác
đã góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục TKT. Hơn thế nữa, sự
tiến bộ của khoa học công nghệ đã tạo ra các phương tiện hỗ trợ cho TKT
ngày càng đa dạng, chất lượng và tinh xảo, cánh cửa chạm đến ngôn ngữ nói
đã mở ra cho TKT ngày càng rộng hơn.

Ngôn ngữ là sự sáng tạo tuyệt diệu của con người. Nhờ có ngôn ngữ
mà con người có thể giao tiếp, tiếp nhận thông tin, học tập, lĩnh hội kiến thức.
Đối với trẻ nhỏ thì ngôn ngữ là sợi dây thần kì giúp trẻ kết nối với các thành
viên khác trong gia đình và những người xung quanh, đồng thời ngôn ngữ
cũng giúp trẻ khám phá được thế giới bên ngoài, để từ đó phát triển vốn ngôn
ngữ (từ vựng, ngữ pháp,…), nhận thức của bản thân. Như vậy, nếu không có
ngôn ngữ thì việc giao tiếp và khám phá thế giới bên ngoài gặp rất nhiều khó
khăn đối với trẻ. Do đó việc phát triển ngôn ngữ cho TKT, đặc biệt là trẻ từ
18 – 36 tháng tuổi là vô cùng quan trọng, bởi đây là những viên gạch đầu tiên
để tạo nên nền móng ngôn ngữ vững chắc cho trẻ giao tiếp và học tập sau này
Các nhà khoa học, nhà giáo dục Việt Nam đã có các nghiên cứu về việc
phát triển ngôn ngữ, giao tiếp cho TKT trong môi trường hòa nhập, hay tổ
chức can thiệp sớm cho TKT, tổ chức trò chơi phát triển ngôn ngữ cho TKT
mẫu giáo,… Tiếp nối hướng nghiên cứu của bậc tiền bối, chúng tôi chọn
“Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính từ 18 – 36 tháng tuổi”
làm đề tài nghiên cứu, nhằm góp phần nâng cao chất lượng can thiệp sớm cho
TKT và giúp trẻ hòa nhập cộng đồng tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng phát triển ngôn ngữ nói của
trẻ khiếm thính 18 – 36 tháng, từ đó đề xuất một số biện pháp phát triển ngôn
ngữ nói cho trẻ khiếm thính từ 18 – 36 tháng tuổi nhằm nâng cao chất lượng
can thiệp sớm và giúp trẻ hòa nhập tốt hơn.
4


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình phát triển ngôn ngữ nói của trẻ khiếm thính từ 18 – 36 tháng
tuổi.
3.2. Đối tượng nghiên cứu

Môi trường và hoạt động phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ khiếm thính
18 – 36 tháng tuổi
4. Giả thuyết khoa học
TKT 18 – 36 tháng tuổi được trang bị phương tiện trợ thính đã cải thiện
đáng kể sức nghe, do đó nếu có biện pháp phát triển ngôn ngữ nói tốt trong
chăm sóc và giáo dục thì ngôn ngữ nói của TKT 18 – 36 tháng tuổi sẽ được
phát triển và khả năng hòa nhập tốt hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận: nghiên cứu các vấn đề liên quan đến TKT, đặc điểm,
nội dung phát triển ngôn ngữ, các yếu tố ảnh hưởng, các biện pháp phát triển
ngôn ngữ nói cho TKT từ 18 – 36 tháng tuổi
5.2. Nghiên cứu thực trạng: nhận thức của phụ huynh, giáo viên về việc phát
triển ngôn ngữ nói cho TKT, các cách thức đã thực hiện, thực trạng ngôn ngữ
nói của TKT 18 – 36 tháng tuổi
5.3.Đề xuất biện pháp: phát triển ngôn ngữ nói cho TKT 18 – 36 tháng tuổi
5.4 Thực nghiệm 3 trong 5 biện pháp đã đề xuất
6. Phạm vi nghiên cứu


Nội dung nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ
của TKT từ 18 – 36 tháng tuổi sử dụng phương tiện trợ thính và có khả
năng nghe khi sử dụng phương tiện trợ thính là ≤ 55 dB, từ đó đề xuất một
số biện pháp phát triển ngôn ngữ lời nói cho trẻ khiếm thính 18 – 36 tháng
tuổi.

5





Địa bàn nghiên cứu: đề tại tập trung thực hiện tại một số gia đình trẻ và cơ
sở can thiệp cho TKT trên địa bàn Hà Nội: Cơ sở thực nghiệm giáo dục
đặc biệt – Viện khoa học giáo dục Việt Nam, Trung tâm can thiệp sớm
Hướng Dương, Trường mầm non thực nghiệm Linh Đàm, Trường mầm
non Búp Sen Hồng, Trường mầm non Lâm Nhi

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Tổng hợp và phân tích các thông tin, kết quả nghiên cứu liên quan đến
lý luận của đề tài và làm rõ các khái niệm công cụ
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
− Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: nhằm đánh năng lực ngôn ngữ nói
của TKT, nhận thức của giáo viên, phụ huynh về việc phát triển ngôn
ngữ nói cho TKT, thực trạng sử dụng các biện pháp phát triển ngôn nói
cho TKT và thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng phát triển
ngôn ngữ nói cho trẻ khiếm thính 18 – 36 tháng tuổi
− Phương pháp phỏng vấn, quan sát việc tổ chức các biện pháp phát triển
ngôn ngữ nói cho trẻ khiếm thính 18 – 36 tháng tuổi
− Phương pháp nghiên cứu hồ sơ của trẻ: kế hoạch giáo dục, kế hoạch bài
dạy, sản phẩm của trẻ
− Phương pháp thực nghiệm một số biện pháp phát triển ngôn ngữ nói
cho trẻ khiếm thính 18 – 36 tháng tuổi đã được đề xuất.
7.3. Các phương pháp nghiên cứu khác


Phương pháp chuyên gia: trưng cầu ý kiến của các chuyên gia trong



lĩnh vực nhằm đánh giá tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.

Phương pháp xử lý số liệu thống kê toán học

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
NÓI CHO TRẺ KHIẾM THÍNH 18 – 36 THÁNG TUỔI
1.1
1.1.1

6

Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngoài nước


Phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ khiếm thính đã được các nhà khoa học,
nhà giáo dục quan tâm nhiều thế kỉ trước. Jean Marc Itard (1775 – 1835) có
quan điểm sử dụng sức nghe còn lại, tiến hành luyện nghe và luyện phát âm
cho TKT. Đầu thế kỉ 19, phương pháp này đã được phát triển sang các quốc
gia Úc, Đức và đã thu được những thành công nhất định [35].
Cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, Arthur Whipple (1830 – 1895) đâ đưa ra
phương pháp phát triển ngôn ngữ cho TKT dựa vào nghe lời nói và dựa vào
đọc hình miệng phương pháp Nghe – nhìn. Phương pháp này của ông được
phát triển dựa trên cơ sở khả năng nghe còn lại và đọc hình miệng. Ông đã
xây dựng hệ thống bảng từ thử và áp dụng cho chính con của mình. Phương
pháp này TKT được nghe âm thanh lời nói kết hợp được nhìn hình miệng
phát âm của từ đó. Khi đó TKT phân biệt sự khác nhau của các từ thông qua
nghe và đọc hình miệng của từ đó. Phương pháp này được phát triển rộng rãi
ở Đức những năm cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 [35].
Hơn nữa, các nhà khoa học đã chứng minh rằng TKT dù khuyết tật
thính giác ở mức độ nào thì nhất định sẽ vẫn còn sót lại một phần khả
năng nghe. Nếu được phát hiện, hỗ trợ phương tiện trợ thính và can thiệp

sớm thì khả năng phát triển ngôn ngữ nói của trẻ là lạc quan. Các công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học càng khẳng định khả năng phát
triển ngôn ngữ nói cho trẻ khiếm thính được hỗ trợ phương tiện trợ thính
và can thiệp sớm.
Greentein, MC. Convill và Stelline (1975) cho rằng những đứa trẻ được
can thiệp sớm trước 16 tháng tuổi có kết quả phát triển ngôn ngữ cao hơn
những trẻ được can thiệp sau 16 tháng tuổi [30].
Clark (1979) đã khẳng định, TKT được can thiệp trước 20 tháng tuổi có
kĩ năng ngôn ngữ tốt hơn những trẻ được can thiệp sau đó. Công trình nghiên
cứu của White and White (1987) cũng khẳng định TKT được phát hiện và can
7


thiệp sớm trước 18 tháng tuổi thì có năng lực phát triển ngôn ngữ tốt hơn so
với trẻ được phát hiện, can thiệp sau 18 tháng tuổi [32].
Nghiên cứu của Apuzzo và Yoshinaga-Itano (1995) chỉ ra rằng, trẻ
được phát hiện và can thiệp trong khoảng 13 – 24 tháng thì khả năng ngôn
ngữ diễn đạt, ngôn ngữ hiểu cao hơn so với trẻ được phát hiện và can thiệp
sau 25 tháng tuổi [30].
Mary Pet Moeller (2000) lại cho rằng: trẻ tham gia can thiệp trước 11
tháng tuổi có vốn từ vựng và kĩ năng sử dụng từ ngữ đạt được lúc 5 tuổi trội
hơn hẳn so với trẻ được can thiệp muộn hơn [38].
Nghiên cứu của Betty Vohr (2011) và các cộng sự đặc biệt khẳng định
vai trò của can thiệp sớm như sau: TKT có mức độ suy giảm thính lực khác
nhau nếu được can thiệp sớm trước 3 tháng tuổi thì có sự phát triển vốn từ
vựng nhanh và lớn hơn nhiều so với trẻ can thiệp sau 3 tháng [27].
Những năm gần đây, một phương tiện trợ thính khác là ĐCÔT chứng
minh được tính ưu việt trong việc hỗ trợ phát triển ngôn ngữ nói cho TKT
mức độ nặng và sâu. Kết quả nghiên cứu của Hammes và các cộng sự (2002)
chỉ ra rằng, TKT được cấy ĐCÔT khoảng 9 – 18 tháng tuổi thì sau 6 tháng tác

động tích cực có sự phát triển ngôn ngữ nói (ngôn ngữ diễn đạt, ngôn ngữ tiếp
nhận và các kĩ năng ngôn ngữ) tương tự những trẻ nghe bình thường. TKT
được cấy ĐCÔT trước 18 tháng tuổi thu được kết quả tốt nhất[33]. Một minh
chứng khác là kết quả nghiên cứu của Svirsky và các cộng sự (2004) cho
thấy: TKT được cấy ĐCÔT khoảng 1 – 2 tuổi có sự phát triển ngôn ngữ tốt
hơn trẻ cấy ĐCÔT sau 2 tuổi [40].
Yoshinaga-Itano và các cộng sự (2010) cho rằng một số TKT cấy
ĐCÔT có thể học ngôn ngữ nhanh hơn những trẻ nghe bình thường khác, do
vậy, trẻ có thể “bắt kịp” sự chậm trễ về mặt ngôn ngữ đã xảy ra trước khi trẻ

8


được cấy ĐCÔT và trẻ có thể đạt được sự phát triển ngôn ngữ phù hợp với
tuổi khi trẻ 4 đến 7 tuổi [26].
Như vậy các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phương tiện trợ thính có vai trò
quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ nói cho TKT. Nếu được phát hiện
sớm, được hỗ trợ phương tiện trợ thính và được can thiệp sớm thì trẻ có thể
đạt được sự phát triển ngôn ngữ tốt nhất.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về hướng tiếp cận về hướng
-

phát triển ngôn ngữ, giao tiếp cho TKT như:
Phương pháp tiếp cận Thính giác – lời nói là phương pháp được sử dụng rộng
rãi nhất trong việc phát triển ngôn ngữ nói cho TKT sử dụng phương tiện trợ
thính. Với phương pháp AVT, TKT được tận dụng tối đa sức nghe còn lại qua
phương tiện trợ thính (máy trợ thính hoặc điện cực ốc tai) để phát hiện âm
thanh, học cách lắng nghe âm thanh, hiểu và hình thành ngôn ngữ nói một
cách tự nhiên, phát triển trong môi trường bình thường, có khả năng độc lập
và hòa nhập xã hội. Một trong những điểm quan trọng của phương pháp AVT

là lấy phụ huynh/người chăm sóc chính làm trung tâm, khuyến khích phụ
huynh/người chăm sóc chính sử dụng hội thoại và ngôn ngữ tự nhiên để giao
tiếp với trẻ [36]. Việc áp dụng phương pháp AVT đã chứng minh sự phù hợp
và hiệu quả trong việc phát triển ngôn ngữ nói tự nhiên cho TKT sử dụng
phương tiện trợ thính. Nó đòi hỏi phải có sự vận dụng đúng cách và linh hoạt,
tích cực trong quá trình trị liệu thính giác – lời nói cho trẻ sau khi sử dụng

-

phương tiện trợ thính.
Phương pháp thính giác – hình miệng: TKT sử dụng sức nghe còn lại và sử
dụng để học bất cứ điều gì trẻ nghe được, kết hợp với đọc hình miệng và các
tín hiệu ngữ cảnh để hiểu và sử dụng ngôn ngữ nói. Mục đích của phương
pháp này nhằm tạo cho TKT những kĩ năng ngôn ngữ nói cần thiết để có thể
sử dụng độc lập trong môi trường nghe. Giáo viên là người hỗ trợ chính cho
trong việc phát triển ngôn ngữ nói. Như vậy, có thể thấy được phương pháp
9


tiếp cận này có những ưu điểm như tận dụng tối đa sức nghe của trẻ, phát huy
các giác quan đặc biệt khả năng quan sát để có thể phát triển ngôn ngữ cho
TKT. Tuy nhiên phương pháp này chưa phát huy tối đa sự tham gia của gia
đình mà mới chỉ có giáo viên giữ vai trò chủ đạo với sự phát triển của trẻ
-

[42].
Phương pháp tiếp cận song ngữ: phương pháp này là sự kết hợp song song
của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ kí hiệu. Trong đó, ngôn ngữ kí hiệu được sử
dụng với vai trò chủ đạo, ngôn ngữ nói được dạy như ngôn ngữ thứ hai thông
qua đọc, viết. Ngôn ngữ kí hiệu là một ngôn ngữ riêng mà nó thể hiện bằng

đôi bàn tay và những chuyển động của cơ thể và sắc thái biểu cảm để diễn đạt
ngữ pháp và cấu trúc câu. Phương pháp tiếp cận này hỗ trợ và dạy trẻ về văn

-

hóa người Điếc và cộng đồng người Điếc [41].
Phương pháp tiếp cận Giao tiếp tổng hợp: sử dụng tất cả và bất cứ cách nào
để TKT giao tiếp được và học ngôn ngữ. TKT sử dụng kết hợp kí hiệu, cử chỉ
điệu bộ, lời nói, máy trợ thính, hệ thống FM, chữ viết và văn bản. Giao tiếp
tổng đòi hỏi sự tham gia đồng thời của nói và kí hiệu. Như vậy, tiếp cận giao
tiếp tổng hợp phát tối đa huy sự tham gia của tất cả các giác quan trong việc
thiết lập giao tiếp giữa trẻ và các thành viên khác trong xã hội [41].
Như vậy, với sự phát triển của khoa học công nghệ và các phương tiện
trợ thính, TKT đã có nhiều cơ hội để phục hồi được khả năng nghe, tận dụng
sức nghe mới và phát triển ngôn ngữ nói nếu được phát hiện sớm, trang bị
phương tiện trợ thính phù hợp, và được can thiệp tích cực ngay sau khi phát
hiện. Quá trình này sẽ giúp trẻ có sự phát triển toàn diện ở các lĩnh vực như
nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội,… và giúp trẻ có cơ hội học lên các cấp
học phổ thông và hòa nhập chất lượng hơn.
1.1.2 Việt Nam
Giáo dục TKT ở Việt Nam bắt đầu vào cuối thế kỉ 19 do một giáo sĩ
người Pháp sáng lập ở Thuận An, Bình Dương [24]. Sau năm 1975 các trường
10


học dành cho TKT được phát triển rộng khắp cả 3 miền Bắc, Trung, Nam.
Đến đầu năm 90, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và một số tổ chức
phi chính phủ (đặc biệt là Ủy Ban II Hà Lan) giáo dục TKT được đặc biệt
quan tâm. Ủy ban II Hà Lan tài trợ đã đào tạo một đội ngũ chuyên gia đầu
tiên về giáo dục TKT. Sau đó, mô hình can thiệp sớm TKT được triển khai ở

nhiều tỉnh thành trên toàn quốc. Phương châm giáo dục của dự án: “Tập trung
phát triển khả năng nghe, nói cho TKT nhờ sự hỗ trợ của MTT”.
Đến những năm gần đây thì dịch vụ chăm sóc thính học ở Việt Nam đã
được phát triển hơn. TKT không chỉ được tiếp cận với MTT mà còn được tiếp
cận với các phương tiện trợ thính hiện đại khác nhau mà còn được tiếp cận
với ĐCÔT – một phương trợ thính hiện đại và hiệu quả nhất trong việc giúp
trẻ phục hồi khả năng nghe và phát triển ngôn ngữ nói. Bên cạnh đó các dịch
vụ can thiệp cũng được phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là các thành phố lớn như
Hà Nội, Sài Gòn.
Đáp ứng nhu cầu giáo dục TKT, các nhà khoa học, giáo dục ngày càng
quan tâm hơn đến việc phát triển ngôn ngữ, giao tiếp cho TKT. Trong báo cáo
thực trạng can thiệp sớm (CTS) cho TKT (8/2000), Nguyễn Thị Hoàng Yến đã
nhận định: TKT đeo MTT trước 2 tuổi là cần thiết, với sự tác động phù hợp thì
ngôn ngữ của trẻ sẽ phát triển tốt [25]. Tác giả Trần Thị Thiệp (2004) cho rằng
quá trình phát triển ngôn ngữ, giao tiếp ở TKT sẽ gặp nhiều khó khăn nếu
không được chăm sóc và can thiệp tốt về mặt thính học [20].
Tác giả Vương Hồng Tâm (2003) đã nhận định rằng, sử dụng phương
pháp tiếp cận ngôn ngữ nghe – nói và những phương tiện giao tiếp thích hợp
với nó là một trong những biện pháp cơ bản nhất để phát triển khả năng giao
tiếp cho TKT trong môi trường giáo dục hòa nhập. Điều này đòi hỏi cần có sự
tăng cường ngôn ngữ nói và coi ngôn ngữ nói như là ngôn ngữ thứ nhất [16].

11


Trong nghiên cứu của Bùi Thị Lâm (2012) thì khẳng định rằng thông
qua các hoạt động chơi sẽ có thể giúp TKT phát triển được ngôn ngữ trong
môi trường giáo dục hòa nhập. Các trò chơi có thể tác động toàn diện đến các
kĩ năng nghe hiểu ngôn ngữ, mở rộng vốn từ, cải thiện độ rõ ràng trong lời
nói của trẻ cũng như việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, sinh hoạt hàng

ngày [8].
Hơn nữa, năm 2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành khung
chương trình chuyên biệt dành cho học sinh khiếm thính bậc tiểu học. Ngoài
những môn học trong chương trình phổ thông thì còn có một số môn học đặc
thù dành riêng cho học sinh khiếm thính như: Phát triển giao tiếp, Kí hiệu
ngôn ngữ, Luyện nghe. Đặc biệt môn Luyện nghe với mục đích phát huy tối
đa sức nghe còn lại của trẻ trong việc phát triển ngôn ngữ nói. Môn học này
được xây dựng trên 3 nội dung: Nhận biết âm thanh, nghe âm thanh lời nói và
nghe hiểu. Chương trình luyện nghe được thực hiện trong 4 năm học 1A, 1B,
2, 3 và được chia ở 3 cấp độ khác nhau từ cơ bản đến nâng cao. Do vậy dù là
chương trình xây dựng cho học sinh khiếm thính tiểu học nhưng với đặc thù
riêng thì môn Luyện nghe có thể áp dụng trong việc phát triển ngôn ngữ nói
cho TKT nhỏ tuổi hơn sử dụng phương tiện trợ thính [1].
Như vậy rõ ràng, các phương tiện trợ thính có tầm quan trọng trong quá
trình chăm sóc, giáo dục TKT. Đã có những nghiên cứu về việc phát triển
ngôn ngữ, giao tiếp cho TKT nhưng số lượng còn rất hạn chế. Cần có nhiều
công trình nghiên cứu sâu và rộng hơn nữa để có thể giúp trẻ phát huy tối đa
công dụng của phương tiện trợ thính trong việc phát triển khả năng nghe, nói
và hòa nhập cộng đồng.
Một số vấn đề về trẻ khiếm thính
Khái niệm TKT

1.2
1.2.1

12


Ngành y sử dụng thuật ngữ “điếc” để chỉ sự suy giảm hoặc mất toàn bộ
hay một phần sức nghe ở người. Trong giáo dục sử dụng thuật ngữ ‘khiếm

thính” thay cho thuật ngữ “điếc”, “khuyết tật thính giác”.
Theo quan điểm giáo dục chúng tôi hiểu: trẻ khiếm thính là những trẻ
bị suy giảm sức nghe ở các mức độ khác nhau dẫn đến khó khăn về ngôn
1.2.2

ngữ và giao tiếp, ảnh hưởng đến quá trình nhận thức [12].
Mức độ khiếm thính
Có nhiều cách để phân loại TKT như: phân loại theo mức độ suy giảm
thính lực, phân loại theo thời gian xuất hiện tật điếc, phân loại theo vị trí tổn
thương của cơ quan thính giác. Cách phân loại được sử dụng chủ yếu trong
ngành giáo dục là phân loại theo khả năng nghe còn lại. Căn cứ vào khả năng
nghe còn lại được đo bằng âm thanh đơn trong dải tần từ 500Hz đến 4000Hz,
khiếm thính được chia thành 4 mức độ sau [12]:

13


Bảng 1.1: Mức độ khiếm thính và khả năng nghe của trẻ

Mức
- Mức 1: Điếc nhẹ (từ 20 – 40 dB)
- Mức 2: Điếc vừa (từ 41 – 70 dB)
- Mức 3: Điếc nặng (từ 71 – 90 dB)
- Mức 4: Điếc sâu (trên 90 dB)
Việc xác định mức độ suy giảm thính lực cho TKT có ý nghĩa thực
tiễn, giúp việc lựa chọn MTT và lựa chọn các biện pháp can thiệp phù hợp
cho sự phát triển ngôn ngữ nói riêng và quá trình phát triển toàn diện của trẻ
này nói chung.
1.2.3


Một số đặc điểm tâm lý TKT
TKT cũng như mọi trẻ em khác, hình thành và phát triển theo qui luật

chung của con người. Nhưng do những khiếm khuyết về mặt thính giác nên
TKT có những đặc điểm riêng về mặt tâm lý.
- Đặc điểm cảm giác, tri giác của trẻ khiếm thính
Cảm giác, tri giác đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức của
con người. Do những tổn thương về cơ quan thính giác nên việc tiếp nhận âm
thanh gặp nhiều khó khăn làm ảnh hưởng đến khả năng nhận thức của TKT
[22].
Theo nghiên cứu của N.M.Pheleri và cộng sự, 95% TKT còn cảm giác
thính giác, nhờ đó mà TKT có thể học nói và tiếp thu kiến thức, tuy nhiên phải
trải qua quá trình học và luyện tập lâu dài. Nếu tích cực kích thích phần thính lực
còn lại thì chức năng nghe của TKT sẽ được phát huy. Song sự cải thiện chức
năng nghe diễn ra không phải do cơ chế giải phẫu sinh lý của bộ máy thính giác
mà do hệ thống kỹ năng sử dụng sức nghe còn lại được hình thành [38].
Do mất cảm giác nghe nên cảm giác thị giác có vai trò đặc biệt đối với
TKT. Nó trở thành con đường chủ yếu và chủ đạo trong quá trình nhận thức
14


của trẻ. Trẻ có khả năng nắm bắt nhanh những chi tiết rất nhỏ của sự vật hiện
tượng hay những đặc điểm nổi bật nào đó mà trẻ tiếp xúc [22].
Đối với TKT cảm giác vận động và xúc giác có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong việc tiếp nhận ngôn ngữ. Cảm giác vận động là phương thức duy
nhất giúp TKT kiểm tra sự phát âm dựa trên cảm giác rung, nhận được từ hoạt
động của bộ máy phát âm. Cảm giác xúc giác – rung có nét độc đáo và đặc
trưng. Nó là phương tiện trợ giúp quan trọng trong việc hình thành và phát
triển ngôn ngữ của TKT [22].
- Đặc điểm trí nhớ của trẻ khiếm thính

TKT có khả năng ghi nhớ có chủ định về vị trí của các đồ vật không thua
kém so với trẻ bình thường. Khả năng ghi nhớ bằng lời của trẻ hạn chế, chủ yếu
trẻ tái tạo lại bằng ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ. Ghi nhớ có ý nghĩa của TKT không
bền vững [19].
- Đặc điểm tư duy của trẻ khiếm thính
Tư duy trực quan hành động cụ thể ở TKT phát triển khá bình thường, nhưng
tư duy trừu tượng ở TKT gặp nhiều khó khăn. Thao tác tư duy của trẻ cũng gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt là thao tác khái quát hóa và trừu tượng hóa [22].
- Đặc điểm tưởng tượng của trẻ khiếm thính
Khả năng tưởng tượng gắn liền với hình ảnh ở TKT phát triển như những
trẻ bình thường. Trẻ gặp khó khăn khi tưởng tượng tái tạo những sự kiện lịch
sử và tưởng tượng sự vật, hiện tượng mà trẻ chưa được trực quan. Do những
hạn chế về nghe nên khả năng tưởng tượng sáng tạo của TKT gặp khó khăn,
đặc biệt là việc tiếp thu những kiến thức tự nhiên, văn học. Tưởng tượng sáng
tạo gắn liền với tri giác nhìn và thao tác hành động ở trẻ khá tốt [22].
- Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ khiếm thính
Sự phát triển ngôn ngữ của TKT phụ thuộc vào các yếu tố: thời điểm và
mức độ mất thính lực. Sự tổn thương chức năng nghe càng sớm thì khả năng
15


phát triển ngôn ngữ càng hạn chế, được thể hiện ở các yếu tố cấu thành ngôn
ngữ như: thiếu về ngữ âm, sai lệch về ngữ pháp, rời rạc về ngữ điệu, nghèo nàn
về từ vựng…Trong trường hợp trẻ bị mất thính lực ở mức độ nặng hoặc sâu,
ngôn ngữ nói có thể hình thành và phát triển nhưng chỉ khi trẻ được giáo dục
tốt dưới sự hướng dẫn của cha mẹ, giáo viên. TKT mất thính lực ở mức độ
nặng và sâu nếu không được hỗ trợ tích cực của MTT và sự luyện nghe, luyện
nói đúng cách thì ngôn ngữ của TKT phát triển rất hạn chế
Bên cạnh đó, thì một loại hình ngôn ngữ khác được hình thành, phát
triển, mang bản sắc văn hóa riêng của cộng đồng người Điếc – đó là ngôn ngữ

kí hiệu. Ngôn ngữ này được coi là ngôn ngữ thứ nhất – tiếng mẹ đẻ của người
Điếc, có vốn từ (biểu đạt bằng tay, cử chỉ điệu bộ, sắc thái), có cấu trúc ngữ
pháp riêng. Người ta đã nghiên cứu và chỉ ra rằng TKT nếu được tiếp cận
bằng ngôn ngữ kí hiệu thì năng lực phát triển chung của trẻ ở tất cả các lĩnh
vực đáp ứng qui luật phát triển chung của mọi trẻ em khác. Với kênh ngôn
ngữ này trẻ có thể tự tin giao tiếp trong cộng đồng của mình, nhưng lại là rào
cản để trẻ hòa nhập xã hội, bởi đó không phải là ngôn ngữ chung cho toàn
cộng đồng. Rào cản này chỉ có thể giảm hoặc xóa bỏ khi nhận thức cộng
đồng, xã hội được nâng cao [22].
Sự phát triển ngôn ngữ viết ở TKT khác so với trẻ bình thường. Ngôn
ngữ viết và ngôn ngữ nói ở TKT có thể diễn ra song song hoặc bằng ngôn ngữ
viết và diễn ra trước ngôn ngữ nói. Ngoài ra còn có hệ thống chữ cái ngón tay
hỗ trợ TKT trong học tập và giao tiếp [22].
Ngôn ngữ biểu đạt của TKT có nhiều đặc điểm riêng. Do hạn chế về khả
năng nghe ảnh hưởng đến việc nắm bắt các cấu trúc ngữ pháp, các khái niệm
mới. Cho nên khả năng diễn đạt ngôn ngữ nói, viết của TKT thường bị đảo lộn
trật tự ngữ pháp, thiếu từ, sai lệch ngữ pháp, thiếu logic,… Do không điều

16


khiển được luồng hơi từ phổi đi ra nên TKT phát âm nguyên âm dễ hơn phụ
âm, câu nói của trẻ thường bị ngắt quãng, giọng yếu…. [22].
Một số vấn đề lí luận về phát triển ngôn ngữ nói cho TKT 18 – 36
tháng tuổi
1.3.1 Đặc điểm phát triển ngôn ngữ nói của trẻ 18 – 36 tháng tuổi
1.3

Từ khi còn trong bụng mẹ, trẻ nhỏ đã có phản xạ với âm thanh bên
ngoài khi được kích thích. Ra môi trường bên ngoài –môi trường sống mới

của trẻ, không phải môi trường trong bụng mẹ, trẻ được tiếp xúc với nhều âm
thanh lời nói, được tiếp xúc với nhiều người hơn. Trẻ dần có nhu cầu giao tiếp
nhiều hơn và giao tiếp với mọi người bằng các cử chỉ điệu bộ, sắc thái nét mặt
hay là những hoạt động của tay chân và đáp lại bằng những âm gố lưỡi (hay
còn gọi là tiếng gừ gừ trong cổ họng). Đến khoảng 5 tháng tuổi, trẻ đã bắt đầu
nhận biết được ngữ điệu của giọng nói và bắt đầu 1 số âm bập bẹ như tata,
baba. Những tháng sau, nhu cầu giao tiếp của trẻ ngày càng tăng. Trẻ chú ý
đến mọi thứ xung quanh, chú ý hơn khi người lớn nói chuyện với trẻ, bắt đầu
hình thành được kĩ năng nghe hiểu, âm bập bẹ xuất hiện nhiều hơn. Đặc biệt,
thời điểm này, trẻ bắt đầu bắt chước được những âm thanh do người lớn tạo
ra. 9 – 10 tháng, những âm bập bẹ của trẻ đã bắt đầu gắn liền với một số hoàn
cảnh và trẻ có thể nói được một vài từ đơn giản. Những biểu hiện trên được
gọi là giai đoạn tiền ngôn ngữ của trẻ. Giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển ngôn ngữ chung.[7]
Chuyển sang giai đoạn Thời kì ngôn ngữ, bắt đầu có sự chuyển biến
mạnh mẽ cả về lượng và chất. Nhu cầu giao tiếp của trẻ gia tăng, trẻ chủ động
sử dụng các âm bập bẹ để giao tiếp, thể hiện nhu cầu với mọi người xung
quanh. Các từ bập bẹ dần được thay thế bởi các từ chủ động. Người lớn có thể
giúp trẻ phát triển các từ này bằng cách cho trẻ bắt chước phát âm. Hoạt động
bắt chước phát âm này sẽ giúp trẻ phát triển và hoàn thiện dần bộ máy cấu
âm. Bên cạnh đó, giai đoạn này trẻ cũng bắt đầu bắt chước sử dụng lời nói
17


thông qua những tình huống, hoàn cảnh sinh hoạt hàng ngày. Ở giai đoạn này,
vốn từ ở trẻ có biểu hiện thay đổi rõ rệt và nhanh chóng. Khi 18 tháng trẻ có
thể có được 10 từ. Nhưng mỗi tháng số lượng trẻ có thể học và sử dụng được
từ 10 đến 30 từ mới. cứ như vậy đến mốc 24 tháng trẻ có thể đạt được 200 từ
và đến 3 tuổi thì vốn từ của trẻ có thể đạt đến 500 từ. Bên cạnh sự tăng trưởng
về vốn từ thì ở giai đoạn này trẻ có thể bắt đầu đặt những câu hỏi mang tính

khám phá những sự vật sự việc mới. Về diễn đạt câu, trẻ chuyển từ câu 2 từ
sang câu dài 3, 4 từ. Mặc dù trẻ còn sai về mặt ngữ pháp hay cấu tạo từ nhưng
rõ ràng cách dùng từ của trẻ ở giai đoạn này đa dạng và phong phú hơn nhiều.
[18]
1.3.2

Đặc điểm phát triển ngôn ngữ nói của TKT 18 – 36 tháng tuổi [9; 26;

34]
Trẻ khiếm thính, với tuổi thực từ 18 – 36 tháng thì khả năng phát triển
ngôn ngữ ở mỗi trẻ là khác nhau. Sự phát triển ngôn ngữ ở mỗi trẻ còn tùy
thuộc vào mức độ suy giảm thính lực, thời điểm mất thính lực, sự hỗ trợ của
phương tiện trợ thính, và sự tác động tích cực của giáo viên, người chăm sóc
để phát huy tối đa sức nghe còn lại để phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ. Một
yếu tố không nhỏ ảnh hưởng tới sự phát triển ngôn ngữ nói của trẻ còn tùy
thuộc vào năng lực của mỗi cá nhân.
Với trẻ được trang bị phương tiện trợ thính phù hợp, được hỗ trợ tích
cực và đúng cách thì quá trình phát triển ngôn ngữ nói ở TKT cũng không
nằm ngoài quy luật phát triển ngôn ngữ chung của mọi trẻ. Quá trình phát
triển ngôn ngữ này diễn ra qua đôi tai mới – là phương tiện trợ thính. Trẻ cần
được làm quen, phát triển các kĩ năng thính giác từ đơn giản đến phức tạp.
Nền tảng đầu tiên của việc phát triển ngôn ngữ nói là sự phát triển các kĩ năng
nhận thức âm thanh, các kĩ năng lắng nghe lời nói cũng được phân chia từ dễ
đến khó. Song song với việc phát triển các kĩ năng lắng nghe thì trẻ còn được
18


phát triển các kĩ năng phát âm Tiếng Việt để đảm bảo trẻ phát âm được đầy
đủ các yếu tố của âm tiết Tiếng Việt cũng như đảm bảo được trẻ có thể kiểm
soát được luồng hơi – đủ để tạo ra một âm tiết và đồng thời trẻ cũng kiểm soát

được âm lượng giọng nói của mình. Việc phát triển ngôn ngữ của trẻ cũng bắt
đầu từ sự lắng nghe, các âm bập bẹ rồi chuyển sang từ và hình thành câu.
1.3.3

Nội dung phát triển ngôn ngữ nói của TKT 18 – 36 tháng tuổi
Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi mầm non bao gồm: giáo
dục chuẩn mực ngữ âm Tiếng Việt, hình thành và phát triển vốn từ, dạy trẻ sử
dụng các mẫu câu Tiếng Việt, phát triển lời nói mạch lạc, chuẩn bị cho trẻ khả
năng tiền đọc viết, phát triển lời nói nghệ thuật qua thơ truyện, giáo dục tình
yêu đối với tiếng mẹ đẻ và văn hóa giao tiếp ngôn ngữ. Trong đó:[18]
Giáo dục chuẩn mực ngữ âm Tiếng Việt: luyện cho trẻ nghe các

-

âm thanh ngôn ngữ qua đôi tai, dạy trẻ phát âm đúng các âm vị, trong các kết
hợp âm tiết – từ – câu theo chuẩn mực âm thanh Tiếng Việt. Bên cạnh đó, dạy
trẻ điều chỉnh hơi thở ngôn ngữ, để tạo nên sự hợp lí của âm thanh ngôn ngữ
về cường độ, nhịp điệu, tốc độ của lời nói. Đồng thời rèn luyện cho trẻ sử
dụng ngữ điệu để tạo nên sự biểu cảm về phương diện âm thanh lời nói.
Ngoài ra, khi trẻ bắt đầu học nói thường có hiện tượng nói ngọng, do bộ máy
-

phát âm chưa hoàn chỉnh, do vậy, cần sửa phát âm cho trẻ.
Hình thành và phát triển vốn từ cho trẻ bao gồm các nhiệm vụ:
làm giàu vốn từ cho trẻ tăng số lượng từ, nâng cao khả năng hiểu nghĩa của
từ, dạy trẻ dùng từ chính xác, mở rộng vốn từ đồng nghĩa, trái nghĩa, nhiều

-

nghĩa để giúp trẻ tăng khả năng lựa chọn và sử dụng từ chính xác.

Dạy trẻ các mẫu câu chuẩn xác của Tiếng Việt có nghĩa là giúp
trẻ nói đúng các mẫu câu theo cấu trúc ngữ pháp của Tiếng Việt.
TKT từ 18 – 36 tháng tuổi được phát hiện và trang bị phương tiện trợ
thính ở các thời điểm khác nhau, do đó tuổi nghe cũng trẻ cũng tùy thuộc vào
thừoi điểm trẻ bắt đầu sử dụng phương tiện trợ thính. Do vậy, chúng tôi lựa
19


chọn nội dung giáo dục ngôn ngữ cho trẻ từ 3 – 36 tháng làm cơ sở lý luận cho
đề tài. Những nhiệm vụ giáo dục ngôn ngữ dành cho trẻ 18 – 36 tháng được cụ
thể hóa trong chương trình giáo dục mầm non dành cho trẻ dưới 3 tuổi như sau:

20


Bảng1. 2: Nội dung giáo dục ngôn ngữ theo độ tuổi [2]
Nội dung
1. Nghe

3 – 12 tháng
12 – 24 tháng
− Nghe lời nói với sắc thái tình cảm khác nhau.

24 – 36 tháng

− Nghe các từ chỉ tên gọi đồ vật, sự vật, hành động quen thuộc.
− Nghe các câu nói đơn − Nghe và thực hiện một số yêu − Nghe và thực hiện các yêu cầu
giản trong giao tiếp hằng cầu bằng lời nói.
ngày.


bằng lời nói.

− Nghe các câu hỏi: ở đâu?, con − Nghe các câu hỏi: cái gì? làm

− Nghe các câu hỏi: ...đâu? gì?,... thế nào? (gà gáy thế nào?), gì? để làm gì? ở đâu? như thế
(ví dụ: tay đâu? chân đâu? cái gì? làm gì?

nào?

mũi đâu?...)
− Nghe các bài hát, đồng − Nghe các bài hát, bài thơ, đồng − Nghe các bài thơ, đồng dao, ca
dao, ca dao.
2.

Nói

dao, ca dao, chuyện kể đơn giản dao, hò vè, câu đố, bài hát và

theo tranh.
− Phát âm các âm bập bẹ − Phát âm các âm khác nhau.
khác nhau.

− Gọi tên các đồ vật, con vật, vật, đặc điểm, hành động quen

− Bắt chước các âm khác hành động gần gũi
nhau của người lớn
− Nói một vài từ đơn giản.
21

truyện ngắn.

− Sử dụng các từ chỉ đồ vật, con
thuộc trong giao tiếp

− Trả lời và đặt câu hỏi: con gì?, − Trả lời và đặt câu hỏi: cái gì?,


− Thể hiện nhu cầu bằng cái gì?, làm gì?

làm gì?, ở đâu?, .... thế nào?, để

các âm bập bẹ hoặc từ đơn − Thể hiện nhu cầu, mong muốn làm gì?, tại sao?...
giản kết hợp với động tác, của mình bằng câu đơn giản.

− Thể hiện nhu cầu, mong muốn

cử chỉ, điệu bộ.

và hiểu biết bằng 1-2 câu đơn
giản và câu dài.
− Đọc theo, đọc tiếp cùng cô tiếng − Đọc các đoạn thơ, bài thơ ngắn

3.

Làm

cuối của câu thơ.
có câu 3-4 tiếng.
Mở sách, xem tranh và chỉ vào − Lắng nghe khi người lớn đọc

quen với


các nhân vật, sự vật trong tranh.

sách

sách. − Xem tranh và gọi tên các
nhân vật, sự vật, hành động gần
gũi trong tranh.

22


Trên đây là những nội dung chính cần hình thành và phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mầm non. TKT cũng không nằm ngoài qui luật hình thành và phát
triển ngôn ngữ chung. Với sự hỗ trợ của phương tiện trợ thính, trẻ có cơ hội
tiếp cận với âm thanh và học ngôn ngữ nói. Beth Waker (2009) đã xây dựng
chương trình phát triển kĩ năng nghe nói cho trẻ trong 4 năm nghe đầu tiên
(Tuổi nghe được tính từ khi trẻ được trang bị phương tiện trợ thính). Chương
trình nghe nói này đã được Quỹ khiếm thính toàn cầu (Global Foundation for
Children with Hearing loss) phối hợp với Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật
Thuận An, Bệnh viện Nhi đồng Sài Gòn, và Đại học Sư phạm Hà Nội để tập
huấn cho giáo viên về chương trình 4 năm này. Chúng tôi lựa chọn chương
trình này để phát triển kĩ năng nghe và ngôn ngữ nói cho trẻ. Mặc dù đây
chưa phải là một chương trình chi tiết nhưng nó là cơ sở nền tảng để hình
thành và phát triển ngôn ngữ nói cho mọi TKT sử dụng phương tiện trợ thính
từ những năm đầu tiên. Nội dung chương trình tập trung vào các vấn đề: hình
thành các kĩ năng nghe nhận thức âm thanh, ngôn từ, các thành tố – yêu cầu
đơn, kép trong nhóm tối đa 15 sự vật, sự việc, hiện tượng, hình thành khả
năng phát âm các âm vị Tiếng Việt, sự khác nhau của các âm tiết, các âm
thanh, từ, câu, khả năng từ vựng, diễn đạt từ, khả năng hiểu, cấu trúc câu, làm

quen với sách truyện và phát triển các kĩ năng nhận thức [7][22]. Cụ thể:
Thính giác: trong bốn năm nghe trẻ được hình thành các kĩ năng

-

nhận thức âm thanh bằng việc nghe phát hiện, phân biệt âm thanh ở các
khoảng cách khác nhau; định hướng nguồn âm các âm thanh. Bên cạnh đó là
cho trẻ làm quen với các giai điệu, các câu hỏi đơn giản. Sau đó, tùy vào tuổi
nghe và năng lực ngôn ngữ, trẻ bắt đầu được hình thành kĩ năng theo dõi
truyện có tranh minh họa, các hội thoại theo chủ đề và nâng cao hơn là tìm
hiểu nội dung truyện, chủ đề, kể lại truyện theo trình tự định sẵn,… Một nội
23


dung không thể thiếu trong việc hình thành và phát triển các kĩ năng thính
giác cho trẻ là việc luyện nghe với các yếu tố chủ chốt theo yêu cầu. Kĩ năng
này được hình thành từ đơn giản đến phức tạp, từ 1 yếu tố, 2 yếu tố, 3 yếu tố
rồi 4 yếu tố. Số lượng các yếu tố trong 1 yêu cầu phụ thuộc vào tuổi nghe,
năng lực nghe và ngôn ngữ của trẻ. Mức độ phức tạp trong một cấp độ yêu
cầu cũng được thể hiện qua số lượng nhóm đồ vật, sự vật, sự việc, hiện tượng.
Để hình thành kĩ năng nghe này cho trẻ, người giáo viên, người chăm sóc
thực hiện từ nhóm 3 – 5 đồ vật, sau đó tăng dần lên nhóm lớn hơn và tối đa là
-

15 đồ vật, hiện tượng và sự việc.
Phát âm: ở nội dung này, TKT được hình thành khả năng bắt
chước các hành động thể chất như ho, tặc lưỡi, chu môi, hôn gió,…. hay bắt
chước phát âm các âm vị, các nguyên âm, phụ âm Tiếng Việt. Đồng thời, các
nguyên âm, phụ âm này được đưa vào các tiếng, từ để trẻ nghe và bắt chước.
Nâng cao hơn nữa là trẻ có thể sử dụng các nguyên âm, phụ âm trong các từ

và các câu và sử dụng các thanh điệu của Tiếng Việt trong khi nói. Ngoài ra
trẻ còn được rèn luyện khả năng bắt chước các âm thanh có sự khác nhau về
cao độ, trường độ âm thanh. Kĩ năng này không chỉ giúp trẻ phát triển được kĩ
lắng nghe mà còn giúp trẻ điều tiết, kiểm soát được âm lượng phát ra của

-

chính bản thân, thay đổi cường độ, ngữ điệu khi cần thiết.
Ngôn ngữ: ở năm đầu tiên của việc sử dụng phương tiện trợ
thính, trẻ được hình thành năng lực phản ứng với các âm có ngữ điệu sắc thái
khác nhau, sử dụng các âm bập bẹ, nhận biết được tên gọi của mình, các
thành viên trong gia đình; hiểu và sử dụng được một số từ đầu tiên như ạ, bye,
hết rồi, ông, bà, bố, mẹ. Sang đến tuổi nghe thứ hai, năng lực ngôn ngữ của
trẻ đã có sự tăng vọt về ngôn ngữ tiếp nhận về ngôn ngữ diễn đạt. Trẻ đã có
thể hiểu được khoảng 500 từ với các từ liên quan đến các chủ đề gần gũi, thân
thuộc với trẻ như từ chỉ hành động, bộ phận cơ thể, quần áo, tên gọi, đồ chơi,
thức ăn, các giới từ, đại từ, danh từ, động từ,….. Bên cạnh đó, trẻ có thể sử
24


dụng thành thạo khoảng 300 từ chỉ hành động, sở hữu, miêu tả, phủ nhận, và
bắt đầu diễn đạt câu sử dụng 2 cụm từ. Tuổi nghe lớn hơn thì năng lực ngôn
ngữ của trẻ cũng được nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Vốn từ của trẻ
tăng vọt lên hàng nghìn từ, các dạng từ phong phú hơn, trẻ có khả năng diễn
đạt câu dài và câu phức.
Như vậy có thể thấy, nội dung phát triển ngôn ngữ cho TKT được phân
cấp khá rõ ràng theo từng năm tuổi nghe của trẻ. Mỗi năm tuổi nghe các mức
độ yêu cầu là khác nhau và ngày càng nâng cao và phức tạp hơn. Và dù vậy
thì nội dung phát triển ngôn ngữ cho TKT cũng không nằm ngoài nhiệm vụ
hình thành và phát triển ngôn ngữ chung của trẻ nhỏ.

1.3.4

Phương pháp phát triển ngôn ngữ nói của TKT 18 – 36 tháng tuổi
Với trẻ nhỏ ở lứa tuổi mầm non, đặc biệt là trẻ 18 – 36 tháng, có rất
nhiều hình thức, phương pháp, biện pháp để hình thành và phát triển ngôn
ngữ cho trẻ giai đoạn này [18].

-

Phương pháp dùng lời: đàm thoại, nói mẫu, giảng gải, chỉ dẫn, nhắc nhở, đánh
giá nhận xét lời nói của trẻ, sử dụng câu hỏi, đọc thơ, đọc truyện. Nhóm
phương pháp này được sử dụng thường xuyên trong quá trình chăm sóc, giáo
dục, vui chơi của trẻ. Với phương pháp đàm thoại, trẻ được hiểu sâu, làm
chính xác và hệ thống lại các biểu tượng, kiến thức mà trẻ thu lượm được.
Như vậy câu hỏi đưa ra trong quá trình đàm thoại cần đơn giản, dễ hiểu, phù
hợp với đặc điểm ngôn ngữ lứa tuổi nhằm củng cố những gì trẻ đã đạt được.
Bên cạnh đó, phương pháp nói mẫu là cơ hội để trẻ được nghe, được bắt
chước hành vi ngôn ngữ chuẩn mực của người lớn, để từ đó tích lũy được
kinh nghiệm ngôn ngữ cho bản thân. Đối với trẻ nhỏ thì thơ, ca dao và truyện
không chỉ giúp trẻ có được cảm thụ văn học, mà qua đó trẻ còn tích lũy được
vốn từ, hình thành và phát triển được khả năng tưởng tượng ở trẻ. Với TKT,
nhóm phương pháp dùng lời có ý nghĩa vô cùng lớn đối với các em. Việc phát
25


×