Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học tự nhiên và xã hội ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

MÙI THỊ LAM

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT
TRONG DẠY HỌC TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
Ở TIỂU HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Sơn La, năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

MÙI THỊ LAM

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT
TRONG DẠY HỌC TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
Ở TIỂU HỌC

Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tự nhiên - Xã hội

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Lê Văn Đăng

Sơn La, Năm 2016



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài “Sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy
Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học” em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sĩ
Lê Văn Đăng - Giảng viên khoa Tiểu học - Mầm non, người đã tận tình hướng
dẫn, động viên và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy (cô) giáo trong Ban giám
hiệu, phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế Trương Đại học Tây Bắc và Ban chủ
nhiệm khoa Tiểu học - Mầm non, thư viện Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều
kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo và các em học sinh trường
Tiểu học Chu Văn Thịnh - Mai Sơn - Sơn La đã tạo điều kiện tốt nhất cho em
trong suốt quá trình em quan sát, tìm hiểu thực tế và thực nghiệm khóa luận này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn các thầy giáo, cô giáo và các bạn sinh viên đã có
những ý kiến đóng góp thiết thực, những tài liệu tham khảo quý báu để giúp em
trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định, rất mong
nhận được ý kiến góp ý của quý thầy, cô và các bạn để khóa luận của em hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn la, tháng 05 năm2016
Sinh viên thực hiện
Mùi Thị Lam


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐC: Đối chứng
TN: Thực nghiệm
NXB: Nhà xuất bản
TT : Thứ tự



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 2
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .................................................................. 3
5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 3
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 3
7. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 4
8. Cấu trúc của đề tài ............................................................................................. 4
NỘI DUNG........................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................... 5
1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................... 5
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................. 5
1.1.2. Khái quát về phương pháp Bàn tay nặn bột ................................................ 6
1.1.3. Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học ...................................................... 14
1.1.4. Tầm quan trọng của việc sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột khi dạy
học nội dung Thực vật ở lớp 3 ............................................................................ 17
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 18
1.2.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học .............................................. 18
1.2.2. Mục tiêu và nội dung chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3 ................. 19
1.2.3. Thực trạng sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy học của giáo
viên trường tiểu học Chu Văn Thịnh - Mai Sơn - Sơn La ................................. 22
1.2.4. Thực trạng học tập bằng phương pháp Bàn tay nặn bột của học sinh
trường tiểu học Chu Văn Thịnh - Mai Sơn - Sơn La đầu năm 2015 - 2016 ....... 24
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 26
CHƯƠNG 2: CÁCH THỨC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN
BỘT TRONG DẠY HỌC CÁC BÀI THỰC VẬT, MÔN TỰ NHIÊN VÀ
XÃ HỘI LỚP 3 .................................................................................................. 27



2.1. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp Bàn tay nặn bột .......................... 27
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu của hoạt động giáo dục ..................... 27
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính phát triển ............................... 28
2.1.3. Nguyên tắc bảo đảm tính khả thi .............................................................. 29
2.1.4. Nguyên tắc bảo đảm tính hiệu quả ............................................................ 30
2.1.5. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục
trong dạy học ....................................................................................................... 31
2.2. Tiến trình dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột ................................ 32
2.2.1. Cơ sở sư phạm của tiến trình dạy học ....................................................... 32
2.2.2. Các bước của tiến trình dạy học ................................................................ 33
2.3. Thiết kế một số hoạt động sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy
học các bài thực vật, môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 .......................................... 43
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .................................................... 59
3.1. Mục đích thực nghiệm.................................................................................. 59
3.2. Đối tượng, thời gian, phạm vi thực nghiệm ................................................. 59
3.3. Tiến hành thực nghiệm ................................................................................. 59
3.4. Kết quả thực nghiệm .................................................................................... 60
3.4.1. Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm ..................................................... 60
3.4.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm thông qua kết quả học tập của học sinh ... 60
3.4.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm thông qua thái độ của học sinh ................ 65
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................... 67
I. Kết luận ............................................................................................................ 67
II. Kiến nghị ........................................................................................................ 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 69
PHỤC LỤC



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỉ XXI là thế kỉ của sự phát triển hiện đại, thế kỉ của nền kinh tế tri
thức. Trước yêu cầu của xã hội đặt ra, đòi hỏi con người phát triển toàn diện.
Ngay từ bậc Tiểu học, nhà trường đã phải giúp học sinh biết cách lĩnh hội tri
thức, hình thành tư duy khoa học sáng tạo và biết cách giải quyết vấn đề nảy
sinh trong cuộc sống. Do đó, nhiệm vụ hàng đầu đặt ra cho nền giáo dục là phải
có sự đổi mới toàn diện nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong đó việc đổi
mới phương pháp dạy học và đưa các phương pháp tích cực vào nhà trường là
điều rất quan trọng.
Để đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục Đảng và Nhà nước đã
chỉ rõ trong Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định: “Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” và “Phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân” .
Trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học được đặt
ra như một yêu cầu cấp thiết được toàn Đảng toàn dân đặc biệt quan tâm. Đổi
mới phương pháp dạy học là trọng tâm của đổi mới giáo dục, luật giáo dục Điều
28 yêu cầu: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học,
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh” [1].
Theo quan điểm đổi mới dạy học, phương pháp học tích cực này ngày
càng đóng vai trò quan trọng. “Bàn tay nặn bột” là phương pháp dạy học tích
cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu áp dụng cho việc giảng dạy môn Tự nhiên
và Xã hội. Phương pháp này giúp cho học sinh chủ động, sáng tạo, tìm tòi,
đam mê, nghiên cứu làm thí nghiệm khoa học rèn luyện nhiều kĩ năng cho
học sinh như: kĩ năng ghi chép, kĩ năng quan sát và làm thí nghiệm, kĩ năng
phán đoán, kĩ năng tổng hợp,… Từ đó, các em tự mình chiếm lĩnh tri thức.

1


Ngoài việc chú trọng đến kiến thức Tự nhiên và Xã hội, phương pháp Bàn tay
nặn bột còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn
ngữ nói và viết cho học sinh. Phương pháp này phù hợp với đặc điểm nhận
thức của lứa tuổi học sinh Tiểu học, các em ham hiểu biết, ham học hỏi, khám
phá thế giới xung quanh.
Phương pháp Bàn tay nặn bột là một trong những phương pháp dạy học
tích cực nhằm giúp học sinh tìm ra những câu trả lời cho những vấn đề đặt ra
trong cuộc sống bằng những thí nghiệm.
“Tự nhiên và Xã hội là môn học quan trọng ở Tiểu học với mục đích của
môn học nhằm hình thành cho học sinh Tiểu học những biểu tượng, khái niệm,
kĩ năng cơ bản cần thiết để giúp các em làm cơ sở cho môn học tương ứng như:
Sinh học, Vật lí, Hóa học, Địa lí, Lịch sử,… Và các lĩnh vực liên quan như: môi
trường, sức khỏe” … [tr 14.2].
Xét tới tính ưu việt và tính khả thi của phương pháp Bàn tay nặn bột ứng
dụng phù hợp với quá trình nhận thức và phát triển tư duy khoa học cho học sinh
tiểu học hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu và sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột
vào dạy học chương trình môn Tự nhiên và Xã hội là hết sức cần thiết. Được
giới thiệu, tập huấn và giảng dạy ở nước ta từ năm 2002, song phương pháp
Bàn tay nặn bột vẫn còn khá mới mẻ đối với đại đa số giáo viên tiểu học. Xuất
phát từ những lí do trên tôi chọn đề tài “sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột
trong dạy học Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao hiểu quả sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy
học các bài thực vật, môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3, trường tiểu học Chu Văn
Thịnh - Mai Sơn - Sơn La.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn việc sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột

trong dạy học Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học nói chung và trong dạy học các bài
thực vật, môn Tự nhiên và Xã hôi lớp 3 nói riêng.

2


- Đưa ra nguyên tắc sử dụng phương Bàn tay nặn bột trong dạy học Tự nhiên và
Xã hội ở tiểu học nói chung và các bài thực vật, môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3
nói riêng.
- Nghiên cứu cách thức sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học Tự
nhiên và Xã hội ở tiểu học nói chung và các bài thực vật ở lớp 3 nói riêng.
- Thiết kế và tổ chức thực nghiệm một số bài dạy thực vật, môn Tự nhiên và Xã
hội lớp 3 có sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở trường Tiểu học Chu Văn
Thịnh - Mai Sơn - Sơn la.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học các bài thực vật, môn
Tự nhiên và Xã hội lớp 3.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lí luận của phương pháp Bàn tay nặn bột.
- Nghiên cứu thực trạng sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học
các bài thực vật, môn Tự nhiên và Xã hội của trường tiểu học Chu Văn Thịnh Mai Sơn - Sơn La.
- Tiến hành thực nghiệm để kiêm tra hiểu quả của việc áp dụng phương pháp
Bàn tay nặn bột trong dạy học các bài thực vật, môn Tự nhiên - Xã hội lớp 3.
6. Phương pháp nghiên cứu
a) Phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu các tài liệu liên qua đến đề tài. Kế thừa và phát huy lí luận của
các đề tài đi trước.

b) Phương pháp điều tra, quan sát
- Điều tra về sự hiểu biết của giáo viên về phương pháp Bàn tay nặn bột.
- Điều tra kết quả học tập môn Tự nhiên và Xã hội của học sinh để lựa chọn lớp
dạy thực nghiệm và đối chứng.

3


- Quan sát mức độ hứng thú của học sinh để đánh giá hiệu quả của phương pháp
thực nghiệm.
c) Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm ở trường Tiểu học Chu Văn Thịnh - Mai Sơn - Sơn
La để xem xét hiệu quả và tính khả thi của việc sử dụng phương pháp Bàn tay
nặn bột trong dạy học các bài thực vật, môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3.
d) Phương pháp phân tích, thống kêt
Tổng hợp các số liệu điều tra từ thực tế để phân tích làm cơ sở thực tiễn cho
việc đề xuất biện pháp sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học các
bài thực vật, môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 nói riêng và môn Tự nhiên và Xã hội
nói chung.
7. Đóng góp của đề tài
Đánh giá hiệu quả của phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học các bài
thực vật, môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 trường Tiểu học Chu Văn Thịnh - Mai
Sơn - Sơn La nói riêng và môn Tự nhiên và Xã hội nói chung.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài gồm có
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Cách thức sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học
các bài thực vật, môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.


4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Phương pháp
Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện để đạt tới đích, để giải
quyết những nhiệm vụ nhất định [18].
1.1.1.2. Phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá
trình dạy học. Cùng một nội dung như nhau nhưng kết quả học tập có thể rất
khác nhau. Điều đó tùy thuộc học sinh có hứng thú học tập, tích cực hay không,
giờ học có phát huy được tính sáng tạo hay không, có thể để lại những dấu ấn
sâu sắc và khơi dậy tình cảm trong sáng, lành mạnh trong tâm hồn các em hay
không phần lớn đều phụ thuộc vào phương pháp của người thầy giáo.
Nói như thế không có nghĩa thầy giáo có thể sử dụng tùy tiện phương
pháp dạy học mà cần có sự lựa chọn phương pháp đúng đắn. Sự lựa chọn này
phải xuất phát từ tri thức môn học, phải dựa trên lịch sử phát triển tri thức đó,
trên sự hiểu biết toàn diện về trẻ em, các đặc điểm lứa tuổi trẻ em và những đặc
điểm đó được bộc lộ như thế nào trong môi trường xã hội.
Phương pháp dạy học là cách thức tương tác giữa thầy và trò nhằm giải
quyết các vấn đề giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học
(Iu. Banxk - 1983). Hay phương pháp là một hệ thống những hành động có mục
đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh,
đảm bảo cho các em lĩnh hội được nội dung học vấn (I.Ia.Lecne - 1981).
Tóm lại: có thể hiểu phương pháp dạy học là một tổ hợp cách thức hoạt
động của thầy và trò, dưới sự chỉ đạo của thầy với sự tích cực, chủ động học tập

của học sinh nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học [10].
1.1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở
5


nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học.
“Tích cực” trong phương pháp dạy học được dùng với nghĩa là hoạt
động, chủ động, trái với nghĩa không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo
nghĩa trái với tiêu cực.
Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa
hoạt động nhận thức của người học chứ không phải tập trung vào phát huy tính
tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo
viên phải nỗ lực nhiều so với dạy học theo phương pháp thụ động.
1.1.2. Khái quát về phương pháp Bàn tay nặn bột
1.1.2.1. Sự ra đời và phát triển của phương pháp Bàn tay nặn bột trên thế giới
Phương pháp Bàn tay nặn bột là phương pháp dạy học dựa trên việc thực
hành, thí nghiệm lần đầu tiên được thử nghiệm tại một khu phố nghèo ở Chicago
(Mỹ). Năm 1995, giáo sư Georges Charpak cùng các nhà khoa học và đại diện
của Bộ giáo dục quốc gia Pháp bắt đầu tiếp cận với phương pháp dạy học môn
Khoa học. Vào tháng 12 - 1995, Viện Nghiên cứu Sư phạm quốc gia Pháp
(INRP) được đề nghị làm báo cáo về các hoạt động khoa học vùng Bắc Mỹ và
sự phù hợp của các hoạt động này với điều kiện ở Pháp. Năm học 1995 - 1996,
khoảng 30 trường học thuộc 3 tỉnh ở Pháp tình nguyện áp dụng phương pháp
dạy học khoa học dựa trên việc thực hành thí nghiệm.
Một nhóm chuyên gia của Viện Hàn lâm khoa học và Viện Nghiên cứu
Sư phạm quốc gia Pháp được thành lập vào năm 1997 để thúc đẩy sự phát triển
của việc dạy học khoa học trong trường học. Một năm sau đó, vào tháng 5 1998, dưới sự tài trợ của Bộ giáo dục quốc gia Pháp, trang web http://www.
Inrp.fr/lamap ra đời. Trang web này nhằm cung cấp thông tin, tài liệu để giúp đỡ

giáo viên trong các hoạt động dạy học khoa học ở nhà trường. Từ khi có trang
web, việc trao đổi thông tin giữa giáo viên và trao đổi giữa các nhà khoa học với
các giáo viên xung quanh các hoạt động dạy học khoa học trở nên thuận lợi hơn.
Năm 1998, Viện Hàn lâm khoa học Pháp đã soạn thảo 10 nguyên tắc cơ
bản của phương pháp Bàn tay nặn bột. Hoạt động triển khai phương pháp Bàn
6


tay nặn bột được diễn ra mạnh mẽ ngay từ ngày đầu tiên. Năm 1998, Viện
Nghiên cứu Sư phạm quốc gia Pháp đã kêu gọi 21 Viện đào tạo giáo viên
(IUFM) phối hợp nghiên cứu trong 3 năm về vở thực nghiệm, về các trung tâm
tư liệu, về sử dụng trang web Bàn tay nặn bột và biên soạn tư liệu phục vụ cho
dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột.
Mạng lưới Bàn tay nặn bột được thành lập từ các trang web Bàn tay nặn
bột ở các tỉnh. Mạng lưới này hoạt động khá hiệu quả trong việc tương trợ
nguồn tư liệu và thực nghiệm giữa các tỉnh với nhau.
Tháng 6 - 2000, Bộ Giáo dục quốc gia Pháp công bố một chương trình đổi
mới dạy học khoa học và công nghệ trong nhà trường. Trong chương trình đổi mới
này, phương pháp Bàn tay nặn bột là phương pháp khuyến khích sử dụng.
Bên cạnh việc triển khai phương pháp Bàn tay nặn bột trong các trường
tiểu học, tổ chức Bàn tay nặn bột Pháp (LAMAP France) còn khuyến khích giáo
viên ở các trường mẫu giáo và các trường trung học cơ sở cũng áp dụng phương
pháp này trong dạy học ở các môn khoa học.
Song song với việc phát triển và truyền bá rộng rãi phương pháp Bàn tay
nặn bột trong nước, các hội thảo quốc tế về Bàn tay nặn bột đã được Bộ Giáo
dục quốc gia Pháp phối hợp cùng các cơ quan nghiên cứu, các bộ liên quan và
Viện nghên cứu Sư phạm quốc tế tổ chức tại Paris. Trong các hội thảo này, Việt
Nam đều có đại diện tham dự.
Phương pháp Bàn tay nặn bột đã được tiếp nhận và truyền bá rộng rãi
ngay từ khi mới ra đời. Viện Hàn lâm khoa học Pháp đã hợp tác với nhiều quốc

gia trên thế giới trong đó có Việt Nam thông qua Hội Gặp gỡ Việt Nam
(Rencontres Vietnam). Đến năm 2012, có khoảng hơn 40 nước tham gia trực
tiếp vào chương trình Bàn tay nặn bột thông qua hợp tác với Viện Hàn lâm khoa
học Pháp và Bộ Giáo dục quốc gia Pháp.
1.1.2.2. Phương pháp Bàn tay nặn bột tại Việt Nam
Vào năm 1993, Hội Gặp gỡ Việt Nam được thành lập do giáo sư Jean
Trần Thanh Vân - Việt kiều tại Pháp làm chủ tịch. Hội Gặp gỡ Việt Nam tập
hợp các nhà khoa học ở Pháp với mục đích hỗ trợ, giúp đỡ Việt Nam trong các
7


lĩnh vực khoa học, giáo dục; tổ chức các hội thảo khoa học; trao học bổng
khuyến học, khuyến khích tài năng cho học sinh và sinh viên Việt Nam.
Cùng với thời điểm phương pháp Bàn tay nặn bột mới ra đời và bắt đầu
thử nghiệm áp dụng trong dạy học ở Pháp, phương pháp này cũng bắt đầu được
giới thiệu tại Việt Nam nhờ những cố gắng, nỗ lực to lớn của Hội Gặp gỡ Việt
Nam. Trong 15 năm, từ năm 1995 đến năm 2010, lịch sử quá trình đưa phương
pháp Bàn tay nặn bột vào Việt Nam của Hội Gặp gỡ Việt Nam có thể tóm lược
như sau:
- Tháng 10 năm 1995: với lời mời của giáo sư Jean Trần Thanh Vân, Chủ tịch
Hội Gặp gỡ Việt Nam, giáo sư Georges Charpak (cha đẻ của phương pháp Bàn
tay nặn bột) đã sang Việt Nam tham dự hội thảo quốc tế về Vật lí Năng lượng
cao tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tại hội thảo quốc tế này, giáo sư
Georges Charpak đã hứa giúp đỡ Việt Nam trong việc đưa phương pháp Bàn tay
nặn bột vào các trường học.
- Tháng 1 năm 2000: Cuốn sách đầu tiên về phương pháp Bàn tay nặn bột “Bàn
tay nặn bột - Khoa học trong trường tiểu học” được xuất hiện tại Việt Nam. Đây
là cuốn sách do giáo sư Georges Charpak viết và xuất bản năm 1996 tại Pháp.
Giáo sư Trần Thanh Vân đã thành lập một nhóm các nhà khoa học làm việc
cho phương pháp Bàn tay nặn bột tại Hà Nội.

- Tháng 6 năm 2000: Hội Gặp gỡ Việt Nam đã mời một nhóm phóng viên của
kênh truyền hình VTV1 của Việt Nam sang Pháp làm việc 2 ngày tại Vaulx - en
- Venlin để thực hiện một phóng sự về phương pháp Bàn tay nặn bột phát trên
sóng của Đài truyền hình Việt Nam.
- Tháng 11 năm 2000: Hội Gặp gỡ Việt Nam với sự giúp đỡ của ông Leson
Lederman đã gửi 5 đại biểu của Việt Nam tham dự Hội thảo quốc tế về giảng
dạy khoa học ở trường tiểu học tại Bắc Kinh (Trung Quốc).
- Từ năm 2000 đến nay, dưới sự giúp đỡ của Hội Gặp gỡ Việt Nam, các lớp tập
huấn về phương pháp Bàn tay nặn bột đã được triển khai cho các giáo viên cốt
cán và cán bộ quản lí tại nhiều địa phương trong toàn quốc với hơn 1000 người

8


tham dự. Các giảng viên tập huấn là các Giáo sư tình nguyện người Pháp thuộc
Viện Đào tạo giáo viên (IUFM) của Pháp.
- Tháng 8 năm 2011: Lần đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Hội
Gặp gỡ Việt Nam tổ chức Hội thảo cho các cán bộ quản lí giáo dục tiểu học và
trung học cơ sở; tổ chức các lớp tập huấn về phương pháp Bàn tay nặn bột cho
chuyên viên, giáo viên cốt cán của nhiều tỉnh thành trên cả nước.
- Tháng 11 năm 2011: Bộ Giáo dục và Đào tạo kí ban hành đề án triển khai
phương pháp Bàn tay nặn bột trong trường phổ thông giai đoạn 2011- 2015.
1.1.2.3. Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là gì?
Như đã trình bày ở trên, phương pháp Bàn tay nặn bột là phương pháp
dạy học được khởi xướng bởi Giáo sư George Charpak (đạt giải Nobel Vật lí
năm 1992). Bàn tay nặn bột là cụm từ được dịch từ các thuật ngữ tiếng Pháp “La
main à la pâte” (viết tắt là LAMAP) tương đương với cụm từ tiếng Anh là
“Hand’s -on”. Phương pháp Bàn tay nặn bột là phương pháp được áp dụng để
giảng dạy các môn khoa học tự nhiên mà trong đó các kiến thức được xây dựng
dựa trên cơ sở của quá trình tìm tòi - nghiên cứu. Phương pháp Bàn tay nặn bột

giúp học sinh chiếm lĩnh các kiến thức khoa học thông qua các thực nghiệm.
Dưới sự dẫn dắt, tổ chức các hoạt động học tập của giáo viên, học sinh thông
qua các thao tác tìm tòi, nghiên cứu tài liệu,… chủ động tìm ra câu trả lời cho
các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống, tìm ra các chân lí khoa học,…
Là một phương pháp dạy học dựa trên cơ sở của quá trình tìm tòi - nghiên
cứu, phương pháp Bàn tay nặn bột tạo ra cho học sinh tính tò mò, ham muốn
được tìm hiểu, khám phá những kiến thức khoa học, chân lí khoa học. Trước
một sự vật, hiện tượng nào đó, học sinh đặt ra những câu hỏi và những giả
thuyết dựa trên những hiểu biết ban đầu của mình sau kết luận thông qua thảo
luận và nhiều thao tác tư duy khác nhau như so sánh, phân tích, tổng hợp kiến
thức. Vì vậy, phương pháp Bàn tay nặn bột còn tạo ra cho học sinh tình yêu và
sự đam mê đối với khoa học, hướng các em chiếm lĩnh các tri thức khoa học
bằng các hoạt động của một nhà khoa học. Không những vậy, phương pháp Bàn

9


tay nặn bột còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện cho học sinh các kĩ năng suy
nghĩ, tư duy logic, kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ nói, viết.
1.1.2.4. Đặc điểm của phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột”
- Dạy học dựa trên sự tìm tòi - nghiên cứu:
Phương pháp Bàn tay nặn bột là phương pháp dành cho các môn khoa
học dựa trên sự tìm tòi - nghiên cứu, trong đó quá trình dạy học được diễn ra
dựa trên một số khía cạnh như: sự hiểu biết về các cách thức học tập của học
sinh, bản chất của nghiên cứu khoa học và sự xác định các kiến thức khoa học
cũng như kĩ năng mà học sinh cần nắm vững.
Trong phương pháp Bàn tay nặn bột, các kiến thức khoa học mà học sinh
khám phá được dựa trên các thực nghiệm và nghiên cứu, cách thức học tập của
học sinh là quá trình tò mò một cách tự nhiên. Thông qua việc tham gia các hoạt
động nghiên cứu, học sinh có quá trình tương tác với nhau nhằm mục đích tìm

phương án giải thích cho các hiện tượng, thông qua các hoạt động nghiên cứu,
học sinh tự tìm kiếm và rút ra kiến thức cho riêng mình. Việc dạy học khoa học
dựa trên sự tìm tòi - nghiên cứu đặc biệt chú trọng đến các suy nghĩ ban đầu của
học sinh trước khi được học về một kiến thức nào đó, dù các suy nghĩ ban đầu
ấy là rất đơn giản, ngây thơ và thường sai về mặt khoa học.
Trong phương pháp Bàn tay nặn bột, con đường mà học sinh tìm ra kiến
thức gần giống với quá trình tìm ra kiến thức mới của các nhà khoa học, vì thế
tiến trình tìm tòi - nghiên cứu khoa học đóng vai trò quan trọng. Các em tiếp
nhận vấn đề đặt ra thông qua tình huống hoặc thông qua câu hỏi bài học; sau đó
học sinh nêu các giả thuyết, các suy nghĩ ban đầu của mình; từ đó đề xuất và tiến
hành các thực nghiệm nghiên cứu; đối chiếu với các giả thuyết ban đầu đặt ra;
đối chiếu với cách làm thực nghiệm và kết quả với các nhóm khác. Nếu không
phù hợp, học sinh phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thực nghiệm
hoặc thử làm lại các thực nghiệm như đề xuất của các nhóm khác để kiểm
chứng; rút ra kết luận và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu. Tham gia vào quá
trình học tập như vậy, học sinh phải luân động não, trao đổi với các học sinh
khác trong nhóm, lớp, phải hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức. Qua đó, tư
10


duy logic của học sinh được rèn luyện, ngôn ngữ nói viết nhờ đó được phát triển
ngày càng tốt hơn.
- Coi trọng việc xác định biểu tượng (quan niệm) ban đầu của học sinh:
Một tính chất đặc trưng của phương pháp Bàn tay nặn bột là việc xác
định biểu tượng ban đầu cho học sinh. Biểu tượng ban đầu là những quan niệm
ban đầu, ý kiến ban đầu của học sinh về sự vật, hiện tượng trước khi được tìm
hiểu về chúng. Các quan niệm này được hình thành trong vốn sống của học sinh,
là các ý tưởng giải thích sự vật, hiện tượng theo suy nghĩ của học sinh. Biểu
tượng ban đầu không phải là kiến thức cũ, kiến thức đã được học mà là quan
niệm của học sinh về sự vật, hiện tượng sắp học.

Ví dụ: khi học Bài 2. Thân cây (Tự nhiên và Xã hội lớp 3), biểu tượng ban
đầu của học sinh về thân cây rất khác nhau và lí thú: thân cây không giống nhau;
thân cây cứng; thân cây mềm dùng để ăn; thân cây leo vào cây khác; thân cây bò
trên mặt đất; thân cây thẳng đứng; thân cây nghiêng; thân cây cong;…
Để tiết học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột trở nên sinh động với
những ý tưởng hay, mới lạ, giáo viên cần để học sinh tự suy nghĩ để đưa ra các
biểu tượng ban đầu của mình, cho dù ý tưởng đó rất ngây ngô, có thể sai về mặt
khoa học. Thường thì biểu tượng ban đầu của học sinh rất đa dạng, phong phú
và trong những biểu tượng ban đầu đa dạng ấy có những nét tương đồng với
nhau. Chính từ những nét tương đồng này, giáo viên có thể giúp học sinh nhóm
lại các ý của biểu tượng ban đầu để từ đó đề xuất các câu hỏi cần tìm hiểu.
Biểu tượng ban đầu thường là một chướng ngại trong quá trình nhận thức
của học sinh và cần phải được “phá bỏ” bằng các thực nghiệm để chứng minh
quan niệm đó là không chính xác. (Ví dụ: biểu tượng ban đầu của học sinh: mây
do khói bây lên tạo thành cần phải được “phá bỏ” vì đây là suy nghĩ sai lầm).
Các thực nghiệm phải được chính học sinh làm, tự học sinh rút ra kết luận, đối
chiếu với quan niệm ban đầu để tự đánh giá quan niệm của mình đúng hay sai,
khi đó kiến thức mới được hình thành ở học sinh.
Trong phương pháp Bàn tay nặn bột, học sinh được khuyến khích trình
bày biểu tượng ban đầu, thông qua đó giáo viên trên cơ sở phân tích các điểm
11


giống nhau và khác nhau của các nhóm biểu tượng ban đầu để có thể giúp học
sinh đề xuất các câu hỏi và thí nghiệm để chứng minh. Đây là một bước quan
trọng trong tiến trình phương pháp Bàn tay nặn bột.
- Kết hợp hình thành kiến thức khoa học với việc phát triển ngôn ngữ cho
học sinh:
Việc ứng dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học môn Tự nhiên
và Xã hội ở tiểu học không chỉ chú trọng vào việc hình thành kiến thức về Tự

nhiên và Xã hội, rèn kĩ năng tư duy logic mà còn quan tâm phát triển ngôn ngữ
cho học sinh. Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là sản phẩm của tư duy và tư duy
được biểu đạt bằng ngôn ngữ. Phương pháp Bàn tay nặn bột với những tính chất
đặc thù của nó có thể giúp giáo viên rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ (nói, đọc,
viết) cho học sinh, đồng thời thông qua đó rèn luyện cho các em các kĩ năng tư
duy logic.
Với phương pháp Bàn tay nặn bột, học sinh được học thông qua một
chuỗi các hoạt động như bộc lộ suy nghĩ ban đầu, đặt ra các câu hỏi, đề xuất các
giả thuyết, tiến hành các thí nghiệm trên cơ sở tương tác giữa học sinh - học
sinh, học sinh - nhóm và nhóm - nhóm. Trước sự kích thích của tình huống đặt
ra ngay từ đầu bài học, học sinh ý thức được vấn đề, nhận ra các mâu thuẫn chứa
đựng trong vấn đề và xuất hiện nhu cầu giải quyết các mâu thuẫn ấy. Học sinh
bắt đầu trải qua các giai đoạn của quá trình tư duy như xác định, trình bày vấn
đề, huy động vốn tri thức cũ đã có, huy động các kinh nghiệm của bản thân,
sàng lọc, hình thành giả thuyết và kiểm tra giả thuyết cũng như việc sử dụng các
thao tác tư duy như phân tích - tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát
hóa,… Với phương pháp Bàn tay nặn bột, tư duy sáng tạo của học sinh phát
triển thông qua việc học sinh tự đề xuất phương án kiểm tra giả thuyết (học sinh
có thể đề xuất nhiều phương án khác nhau) và tiến hành kiểm tra giả thuyết (nếu
phương án này không đem lại hiệu quả mong đợi, học sinh sẽ kiểm tra bằng
phương án khác). Tư duy sáng tạo của học sinh cũng được phát triển thể hiện
trong việc tự làm ra đồ dùng thực nghiệm để kiểm tra giả thuyết. Trong quá trình
khám phá tri thức, các vấn đề mới, kiến thức mới nảy sinh lên tục, cuốn hút trẻ
12


tiếp tục hoạt động khám phá, làm cho khả năng tư duy của học sinh ngày càng
phát triển.
Khi học tập theo phương pháp Bàn tay nặn bột, học sinh cùng nhau xây dựng
kiến thức trên cơ sở tìm tòi - nghiên cứu các chân lí khoa học chứ không phải thụ

động tiếp nhận và học thuộc lòng các kiến thức khoa học được cung cấp sẵn. Thông
qua quá trình tư duy và sáng tạo liên tục, những kiến thức thu nhận được qua quá
trình tìm tòi - nghiên cứu vì thế sẽ khắc sâu trong tâm trí của học sinh.
Trong quá trình kiến thức khoa học được hình thành, học sinh được rèn
luyện và phát triển ngôn ngữ. Thông qua việc quan sát một hiện tượng của thế
giới thực gần gũi với đời sống, học sinh sử dụng vốn ngôn ngữ để xây dựng
những câu hỏi. Mặt khác, thông qua việc học sinh tìm tòi, đề ra thí nghiệm,
tiến hành các thực nghiệm kiểm chứng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh được
phát triển. Trong suốt quá trình học tập, học sinh được trao đổi, đưa ra các lí
lẽ và lập luận để bảo vệ ý kiến của mình trong quá trình tiến hành hoạt động.
Bằng lời nói và bằng cách viết trong vở thực nghiệm cá nhân, viết vào bảng
nhóm để chia sẻ ý kiến, đối chiếu quan điểm, dự đoán kết quả và khẳng định
những kiến thức thu được sau hoạt động, khả năng ngôn ngữ của học sinh được
rèn luyện và phát triển.
Phương pháp Bàn tay nặn bột giúp học sinh nâng cao khả năng diễn đạt,
phát triển ngôn ngữ khoa học. Trong suốt quá trình học, học sinh sẽ phải suy
nghĩ để tìm kiếm các từ ngữ, các câu văn, các cách thức khác nhau để diễn đạt
suy nghĩ một cách ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu để bảo vệ ý kiến của cá nhân,
của nhóm, để thuyết phục người nghe,… Đồng thời phương pháp này cũng
luyện cho học sinh biết cách bảo vệ ý kiến của mình, lắng nghe ý kiến người
khác, làm cho học sinh mạnh dạn nói ra những hiểu biết cũng như những phát
hiện mới của mình trước tập thể để chia sẻ, thảo luận. Thông qua đó, không
những các em tích lũy thêm vốn từ khoa học do bạn bè, giáo viên đem lại mà
còn nhanh chóng xây dựng được mối quan hệ sâu sắc giữa thuật ngữ và bản chất
kiến thức. Điều này giúp học sinh nâng cao khả năng giao tiếp, rèn luyện khả

13


năng bộc lộ quan điểm, khả năng nhìn nhận đánh giá. Qua đó, tư duy và khả

năng phê phán của học sinh sẽ được rèn luyện và phát trển.
1.1.3. Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học
1.1.3.1. Tri giác
Tri giác của học sinh tiểu học còn mang tính đại thể ít đi sâu vào chi tiết và
mang tính không chủ định. Ngoài ra, tri giác của các em còn rất nhạy và đượm
màu cảm xúc. Điều này thể hiện ở chỗ cái gì các em thích hơn thì tri giác tốt hơn
cái gì các em không thích, cái gì mới lạ được các em tri giác tốt hơn những cái
cũa kĩ quen thuộc, những cái sống động các em tri giác tốt hơn những cái tĩnh
lặng. Thời kì này, các em thường tri giác những sự vật hiện tượng bằng các hành
động cụ thể như: sờ, nắn, bóp, ngửi, tháo lắp,…
Tri giác các em phát triển mạnh trong quá trình học ở tiểu học và có
khuynh hướng phát triển của nó là tri giác ngày càng mang tính chủ định, đi sâu
vào chi tiết sự vật hiện tượng. Học sinh lớp 3 đã nắm được mục đích quan sát và
trong quá trình quan sát các em đã biết chú ý đến các chi tiết của đối tượng, đi
sâu vào từng chi tiết riêng rẽ, các em đã có thể tổng hợp chúng để có được một
biểu tượng hoàn chỉnh về đối tượng.
Những đặc điểm trên của học sinh cho thấy trong dạy học Tự nhiên và Xã
hội ở lớp 3, muốn hình thành một kiến thức mới cho học sinh, giáo viên cần tổ
chức cho các em tri giác trực tiếp đối tượng hay làm thí nghiệm cụ thể để kiểm tra.
1.1.3.2. Khả năng chú ý
Tính không chủ định chiếm ưu thế trong học sinh tiểu học. Các em chỉ
chú ý vào những gì mình thích, những gì mới mẻ, sinh động, những gì khơi gợi
sự rung cảm. Các em rất khó chú ý cái gì nhàm chán, đơn điệu, cũ kĩ.
Sức tập trung chú ý của học sinh phụ thuộc vào số lượng đối tượng được
sử dụng. Cùng một lúc, các em không thể chú ý đến nhiều đối tượng hoặc chi
tiết đối tượng. Do vậy, trong quá trình sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột,
giáo viên không nên yêu cầu học sinh quan sát nhiều đối tượng, nhiều thí
nghiệm một lúc mà cho học sinh quan sát từng đối tượng, từng thí nghiệm với
từng nhiệm vụ cụ thể.
14



Độ bền vững và chú ý của các em phụ thuộc vào đối tượng sử dụng và
mức độ hoạt động với sự vật. Vì thế, giáo viên cần lựa chọn những thí nghiệm tự
nhiên và xã hội đơn giản, các hiện tượng tự nhiên và xã hội cần thiết nhất, tạo
điều kiện tối đa cho tất cả học sinh được làm việc.
Tính chủ định trong chú ý của học sinh cũng được hình thành dần dần
trong quá trình học ở tiểu học. Để giúp học sinh rèn luyện được chú ý có chủ
định, thường trước khi yêu cầu các em tiến hành một hoạt động nào, giáo viên
cần giúp các em xác định rõ mục đích của hoạt động ấy.
1.1.3.3. Trí nhớ
Trí nhớ hình tượng trực quan của học sinh tiểu học lớn hơn trí nhớ từ ngữ
logic. Điều này thể hiện ở chỗ các em nhớ những gì được cầm, nắm, nhìn, nếm,
ngửi,… hơn là những thứ được đọc, được nghe, được tả,…
Học sinh tiểu học có khả năng ghi nhớ máy móc rất tốt. Bởi vì, các em
thường không nắm được mục đích ghi nhớ, nội dung cần ghi nhớ, cách thức ghi
nhớ nên cách tốt nhất là ghi nhớ nguyên xi. Ngoài ra, thời kì này ghi nhớ của các
em vẫn là ghi nhớ không chủ định. Các em thường không ghi nhớ cái bản chất
của đối tượng mà chỉ ghi nhớ những gì mình thích và không có chủ định nhớ lại.
Tình cảm có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ cũng như sự bền vững của ghi
nhớ. Những gì các em thích thì sẽ nhớ nhanh và lâu hơn. Khả năng ghi nhớ có
chủ định và ghi nhớ logic cũng sẽ hình thành và phát triển dần trong quá trình
học tập của các em.
Những đặc điểm trên về trí nhớ của học sinh tiểu học cho ta thấy, để giúp
các em ghi nhớ nhanh và nhớ lâu nội dung của bài học, giáo viên cần tổ chức
cho các em trực tiếp làm các thí nghiệm đơn giản trong nội dung bài học để các
em tự tìm tòi, khám phá và lĩnh hội kiến thức.
1.1.3.4. Tưởng tượng
Học sinh đầu tiểu học, những chi tiết trong các hình ảnh tưởng tượng của
các em còn nghèo nàn, tản mạn, chưa hợp lí. Đến giữa lớp tiểu học, hình ảnh của

các em phong phú, sắp xếp hợp lí hơn. Đặc biệt, đến thời kỳ này các em có khả
năng tưởng tượng dựa trên các tri giác đã có từ trướcvà dựa trên ngôn ngữ. Dựa
15


vào đặc điểm này, giáo viên không những có thể sử dụng Phương pháp Bàn tay
nặn bột để hình thành các biểu tượng ký ức mà còn có thể hình thành biểu tượng
tưởng tượng cho các em.
1.1.3.5. Tư duy
- Về khả năng phân tích khái niệm: Học sinh lớp giữa tiểu học đã có khả
năng phân tích các sự vật hiện tượng một cách logic. Các em có thể phân tích
một số khái niệm đơn giản.
- Về khả năng khái quát hóa: Nếu ở lớp 1,2 các em hoàn toàn dựa trên
những dấu hiệu mà các em dễ thấy, dễ xúc động, thì ở học sinh lớp 3 các em đã
biết dựa trên những dấu hiệu bên trong, bản chất hơn. Lúc này các em đã biết
trừu xuất những cái bản chất của sự vật hiện tượng ra khỏi những dấu hiệu
không bản chất không đặc trưng.
- Về khả năng phán đoán: Học sinh bậc đầu tiểu học thường chỉ phán
đoán theo một chiều và dựa vào dấu hiệu duy nhất nên phán đoán của các em
thường mang tính khẳng định. Học sinh các lớp cuối đã biết hình dung ra nhiều
phương pháp và tình huống khác nhau vì thế các phán đoán của em thường
mang tính giả định. Ở thời kì này các em đã biết chứng minh và lập luận về
những phán đoán của mình.
- Về trình độ suy luận: Học sinh giữa lớp tiểu học đã biết suy luận dựa
vào những dấu hiệu bên trong. Đặc biệt, các em có thể suy luận dựa trên những
tài liệu có tính trừu tượng hơn.
Nhưng đặc điểm trên về tư duy của học sinh tiểu học còn cho thấy, việc
sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột là rất cần thiết cho các em tiến hành các
thao tác tư duy trong học tập. Qua việc phân tích những khía cạnh tâm sinh lí và
trình độ nhận thức của học sinh tiểu học, có thể thấy rằng các em hoàn toàn có

đủ khả năng tìm tòi, phát triển tri thức từ việc làm và quan sát thí nghiệm khoa
học. Vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên phải kích thích được nhu cầu
nhận thức của học sinh. Muốn vậy, người thầy phải sử dụng phương pháp dạy
học phù hợp. Bàn tay nặn bột là phương pháp đáp ứng được điều đó. Vì phương

16


pháp này sẽ đưa học sinh vào những kiến thức khoa học mà do chính các em tìm
tòi khám phá ra.
1.1.4. Tầm quan trọng của việc sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột khi dạy
học nội dung Thực vật ở lớp 3
Các sự vật hiện tượng của thế giới Tự nhiên và Xã hội nó gần gũi, thân
thuộc với đời sống sinh hoạt của các em. Vì vậy, dạy học các bài Tự nhiên và
Xã hội bằng phương pháp Bàn tay nặn bột là tạo thêm cơ hội cơ hội cho các em
được tác động trực tiếp lên các sự vật hiện tượng. Từ đó nâng cao vốn kiến thức
hiểu biết cụ thể về thế giới Tự nhiên và Xã hội xung quanh các em.
Các chủ thể của môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3 được xây dựng theo
cấu trúc đồng tâm theo ba chủ đề: Con người và sức khỏe, Xã hội, Tự nhiên.
Tuy vậy mức độ kiến thức, kỹ năng cần đạt ở từng khối lớp khác nhau. Cho nên
người giáo viên phải biết nghiên cứu nội dung, chương trình, sách giáo khoa,
chuẩn kiến thức kỹ năng từng khối lớp, tâm lí từng lứa tuổi, vốn sống, điều kiện
sống, môi trường sống của học sinh từng vùng miền để xác định kiến thức dạy
học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột cho từng khối lớp và vùng miền, điều
kiện địa phương.
Việc xác định kiến thức Tự nhiên và Xã hội phù hợp với học sinh theo độ
tuổi là một vấn đề quan trọng đối với giáo viên. Giáo viên phải tự đặt ra các câu
hỏi như: Có cần thiết giới thiệu kiến thức này không? Cần thiết giới thiệu kiến
thức này vào thời điểm nào? Cần yêu cầu học sinh hiểu kiến thức này ở mức độ
nào? Giáo viên có thể tìm câu hỏi này thông qua việc nghiên cứu chương trình,

sách giáo khoa và tài liệu hỗ trợ giáo viên (sách giáo viên, sách tham khảo,
hướng dẫn thực hiện chương trình) để xác định rõ hàm lượng kiến thức tương
đối với trình độ cũng như trình độ của học sinh và điều kiện địa phương.
Sử dụng phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột vào dạy học các bài thực
vật, môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 hiện nay là hết sức hợp lý và đảm bảo tính
khoa học.
Kiến thức tự nhiên về Thực vật là một trong những nội dung kiến thức
quan trọng của chủ đề “Tự nhiên” chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3.
17


Dạy học tốt các bài về Thực vật sẽ giúp các em dễ dàng hòa nhập, thích ứng với
môi trường tự nhiên và từ đó hình thành cho các em tình yêu thiên nhiên xung
quanh các em, tư duy sáng tạo, óc tìm tòi, khám phá cuộc sống của tự nhiên.
Trên cơ sở đó dần dần hình thành cho các em hành động bảo vệ, phát triển thế
giới Thực vật xung quanh các em. Tiến xa hơn nữa nuôi hoài bão ước mơ thực
hiện phát triển nền sản xuất trồng trọt cho bản thân và đất nước sau này.
“Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học tích cực, ứng dụng cho
việc giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên. Do thế giới thực vật được tồn tại
và phát triển gần gũi với cuộc sống của các em, nên đã tạo cho các em cơ cơ sở
tiền đề óc tìm tòi, khám phá vốn ham hiểu biết về thế giới tự nhiên. Vì vậy trong
dạy học người giáo viên cần tổ chức cho các em thực hiện các hoạt động học tập
theo phương pháp Bàn tay nặn bột sẽ giúp học sinh tự khám phá, phát triển tư
duy sáng tạo để các em tự phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức của bài học. Thông
qua hoạt động hợp tác cùng các bạn, giúp các em hình thành tốt các kỹ năng như
thảo luận, tổ chức, hành động, tranh luận, thực hành, … Trên cơ sở đó hình
thành và phát triển cho học sinh năng lực tự học, tự phát hiện tri thức và chiếm
lĩnh tri thức một cách bền vững.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học

Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII (1- 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ thể hóa trong các
chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999).
Luật Giáo dục, Điều 24.2, đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh”.
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập
chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
18


Phương pháp dạy học tích cực là tổng hợp các cách thức hoạt động tương
hỗ của người dạy và người học trong quá trình dạy học để phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học.
Đặc trưng của dạy học tích cực là dạy học thông qua các hoạt động học
tập của học sinh, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường học tập cá
thể phối hợp với hoạt động hợp tác, kết hợp tự đánh giá của người dạy với tự
đánh giá của người học.
Các phương pháp dạy học tích cực như: Phương pháp nêu vấn đề, phương
pháp động não, phương pháp đóng vai, phương pháp thảo luận nhóm,… trong
đó, Bàn tay nặn bột là phương pháp hội tụ nhiều ưu điểm, phát huy tính chủ
động, tích cực của giáo viên trong việc tạo tình huống có vấn đề. Đồng thời,
kích thích nhu cầu ham học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, quan sát, nghiên cứu khoa học
với các sự vật xung quanh cuộc sống của học sinh, rèn kĩ năng quan sát, làm thí
nghiệm, kĩ năng ngôn ngữ nói và viết.
1.2.2. Mục tiêu và nội dung chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3
1.2.2.1. Mục tiêu
Khác với chương trình cũ, trong chương trình tiểu học mới, Tự nhiên và Xã

hội là môn học chỉ được dạy từ lớp 1 đến lớp 3. Môn học này được cấu trúc từ 3
chủ đề: Con người và Sức khỏe, Xã hội, Tự nhiên. Ba chủ đề này là kết quả từ
việc tích hợp 7 chủ đề: Gia đình, Trường học, Quê hương, Thực vật, Động vật,
Cơ thể con người, Bầu trời và Trái đất ở giai đoạn I của môn học Tự nhiên và
Xã hội và môn Giáo dục sức khỏe trong chương trình Cải cách Giáo dục lần
thức ba được tiến hành từ năm 1981.
Mục tiêu dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học bao gồm:
- Về kiến thức: nhằm bước đầu cung cấp cho học sinh một số khái niệm cơ bản
về:
+ Con người và sức khỏe (cơ thể người, cách giữ vệ sinh cơ thể và phòng tránh
bệnh tật, tai nạn thường gặp).
+ Một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội.
- Về kĩ năng: Bước đầu hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng:
19


×