Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Chính sách phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.4 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Trang


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
Việt Nam là một trong những quốc gia đa dân tộc. Trải qua mấy nghìn năm
dựng nước và giữ nước, các dân tộc luôn kề vai sát cánh, gắn bó máu thịt bên
nhau trong đấu tranh chống ngoại xâm, chống thiên tai địch họa, xây dựng đất
nước. Các dân tộc nước ta là một cộng đồng thống nhất, cư trú xen kẽ, phân tán
trên mọi vùng miền với cơ cấu dân số và trình độ phát triển kinh tế - xã hội
không đồng đều, bản sắc văn hóa đa dạng, phong phú. Vì vậy, vấn đề dân tộc và
đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta,
là nguồn sức mạnh và dộng lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn đối với vùng
đồng bào dân tộc thiểu số để phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng – an ninh,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ
dân trí, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,... theo nguyên tắc cơ bản là: “Bình đẳng
đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển”. Những nguyên tắc cơ bản này
được Đảng và Nhà nước thể hiện một các nhất quán trong các văn kiện của
Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và được cụ thể hóa bằng những chính sách phù
hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng của nước ta. Trong
giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng, Nhà nước đã ban hành
hàng loạt những chính sách cụ thể, nhằm đảm bảo cho nhân dân các dân tộc thực
sự bình đẳng về mọi mặt. Và chính sách về phát triển du lịch ở vùng thiểu số là
một chính sách không thể thiếu.
Trong bài tiểu luận này, nhóm chúng em nghiên cứu về vấn đề triển khai thực
hiện chính phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số


1. Một số khái niệm liên quan
“Vùng dân tộc thiểu số (Vùng DTTS) là địa bàn có đông các dân tộc thiểu số
cùng sinh sống ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” (Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về Công tác dân tộc)
Một số vùng chỉ có một hoặc một số dân tộc thiểu số sống tập trung như các
huyện có người Mông ở tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu; các tỉnh có nhiều
người Thái sinh sống như Sơn La, Điện Biên, Nghệ An. Người Tày Nùng ở Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Người Mường ở Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ,
dân tộc Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận; dân tộc Khmer ở các tình Tây Nam
Bộ,...

2


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

“Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú,
trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục
đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục
đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài
môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là
kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống
khác hẳn nơi định cư” (Theo Tổ chức Du lịch Thế giới)
“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài
nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” (Luật Du lịch 2005)
“Du lịch cộng đồng hay du lịch dựa vào cộng đồng là loại hình du lịch mà ở
đó cộng đồng địa phương có sự kiểm soát và tham gia chủ yếu vào sự phát triển

và quản lý hoạt động du lịch và phần lớn lợi nhuận thu được từ hoạt động du
lịch được giữ cho cộng đồng” (Theo Quỹ bảo tồn thiên nhiên Thế giới WNF)
Du lịch cộng đồng gắn với nhiều hoạt động như tham quan các làng nghề cổ,
khám phá núi rừng thiên nhiên, tìm hiểu văn hóa các dân tộc..., trong đó, tiêu
biểu nhất là loại hình homestay - hình thức khách du lịch đến ở nhà người dân
địa phương để cùng ăn, nghỉ, tham gia các công việc hàng ngày cũng như các
hoạt động văn hóa, văn nghệ.
2. Đối tượng nghiên cứu
Du lịch vùng dân tộc thiểu số
-

3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát
Phương pháp phân tích số liệu
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp thống kê

PHẦN 2: PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở khoa học
1.1. Sự cần thiết của chính sách phát triển du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, ngày càng có vị trí quan trọng đối
với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường. Du lịch
góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế; mang lại nguồn thu ngân sách quốc
gia và thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Ngành du lịch tác động tích cực
đối với việc phát triển các ngành kinh tế có liên quan, đặc biệt là ngành thủ công
mỹ nghệ với các làng nghề như gốm sứ, mây tre đan,...
3


Nhóm 6 – KH15TCC


Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

Du lịch góp phần thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, tạo ra nhiều
việc làm và có thu nhập thường xuyên cho người lao động tại nhiều vùng, miền
khác nhau, trong đó có cộng đồng dân cư tại vùng dân tộc thiểu số. Việc phát
triển du lịch giúp thúc đẩy, bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, là cầu nối, giao lưu văn hóa giữa các vùng, miền trong
nước và du lịch góp phần quan trong đối với bảo tồn, nâng cao nhận thức thức
trách nhiệm cho cộng đồng đối với công tác gìn giữ và bảo vệ tài nguyên và môi
trường.
Phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số cũng là nâng cao hình ảnh, giới
thiệu bản sắc văn hóa dân tộc, phong tục tập quán,... của các dân tộc thiểu số với
các vùng miền khác trên đất nước cũng như với bạn bè quốc tế, rộng hơn nữa là
góp phần vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện đường lối đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng và Nhà nước ta.
Đất nước Việt Nam uốn lượn theo bờ biển Đông có hình dáng chữ S, cảnh
tượng thiên nhiên, núi non, sông suối, đồng bằng phì nhiêu, bờ biển sóng vỗ rì
rào, trời xanh mây trắng, gió thổi lành lạnh.v.vv.. như một bức tranh thơ mộng
trước cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ. Bờ biển phía Đông dài 2360 km; biên giới
đất liền dài 4510 km ; từ Bắc đến Nam theo đường thẳng 1650 km, bề rộng từ
400 đến 600 km, nơi hẹp nhất là Quảng Bình 50 km từ kinh tuyến 102º08’ đến
109º28’, vĩ tuyến 8º02’ đến 23º23’ Bắc bán cầu. Vùng dân tộc thiểu số và miền
núi Việt Nam chiếm 3/4 diện tích cả nước, dân số khoảng 20 triệu người đủ
thành phần 54 dân tộc sống xen kẽ nhau nhưng cũng có vùng tập trung một số
dân tộc hoặc một dân tộc sống gắn liền với phong cảnh thiên nhiên.
Miền Bắc có Vịnh Hạ Long - một kỳ quan thế giới được UNESCO công
nhận; có động Tam Thanh, núi Vọng Phu ở Lạng Sơn; có thác Bản Dốc, hang
Pác Pó ở Cao Bằng; có hồ Ba Bể ở độ cao 146m so với mặt biển, diện tích
500ha, núi Phiabioóc, vườn quốc gia Ba Bể là di sản thiên nhiên có 417 loài

thực vật, 229 loài động vật có xương ở Bắc Kạn; hồ Núi Cốc ở Thái Nguyên; có
hồ Thác Bà ở Yên Bái; đỉnh Phan Xi-păng cao 3.400m; có vùng Sa Pa Lào Cai
nơi du lịch nổi tiếng ở độ cao mây mù tuyết phủ; có nhà máy thuỷ điện Hoà
Bình, có động cô tiên Sơn La; có mùa xoè hoa, uống rượu cần, có bản Apa Chải,
xã Xín Thầu, huyện Mường Nhé Lai Châu giáp 3 quốc gia Việt Nam, Trung Hoa
và Lào.v.v..

4


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

Đi vào Miền Trung, Tây Nguyên có dãy Trường Sơn hùng vĩ, có con
đường Hồ Chí Minh thênh thang mới có sau 30 năm chiến tranh ghi dấu ấn lịch
sử dân tộc Việt Nam anh hùng chống Mỹ. Ở Quảng Nam có khu tháp cổ Mỹ
Sơn; động Phong Nha Quảng Bình là di sản văn hoá thế giới; ngược lên Tây
Nguyên ta có Biển Hồ Gia Lai; ngã ba Đông Dương, cửa khẩu B'y Kon Tum; 3
nước Việt Nam, Lào, Campuchia, có hồ Lắc, Đắc Lắk; thành phố cao nguyên Đà
Lạt với núi Lang Biang nổi tiếng cao 2300m so với mặt biển; có khu tháp Chàm
cổ kính của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận.v.v..
Đến vùng dân tộc Khmer Nam Bộ với hệ thống kênh rạch như mạng
nhện, ở Kiên Giang có núi Đá dựng, có nhiều hang động lung linh, màu sắc, có
xứ thơ Hà Tiên cao 100m giữa cánh đồng, có núi Bà Đen Tây Ninh, có vùng núi
giữa đồng bằng như vùng Tri tôn Bảy núi, có 450 chùa Khmer cổ kính, đó là
những điểm đến của khách du lịch danh thắng các vùng dân tộc Việt Nam.
Không chỉ vậy, các vùng miền ở trên gắn liền với các chiến công của dân
và quân tư cách mạng tháng 8-1945 đến nay sẽ là một nội dung lý thú để tuyên
truyền cho các tour du lịch, để đáp ứng trí tò mò, tìm hiểu, khám phá của du

khách.

1.2.

Vai trò

Trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như là một sở thích, một
hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành một
nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa, xã hội ở các nước. Về mặt
kinh tế, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nhiều
nước công nghiệp phát triển. Mạng lưới du lịch đã được thiết lập ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Các lợi ích kinh tế mang lại từ du lịch là điều không thể
phủ nhận, thông qua việc tiêu dùng của du khách đối với các sản phẩm của du
lịch. Nhu cầu của du khách bên cạnh việc tiêu dùng các hàng hoá thông thường
còn có những nhu cầu tiêu dùng đặc biệt: nhu cầu nâng cao kiến thức, học hỏi,
vãn cảnh, chữa bệnh, nghỉ ngơi, thư giãn…
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ nông nghiệp sang nền kinh tế
dịch vụ. Ngành Du lịch nhận được sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch. Trong đó
cũng có nhắc đến việc phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số. Nhận thức về tầm
5


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

quan trọng về vai trò của du lịch vùng dân tộc thiểu số đối với phát triển kinh tếxã hội của vùng, nhiều địa phương đã xác định du lịch là ngành kinh tế mũi
nhọn trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp.
Ở các vùng có dân tộc thiểu số sinh sống, điều kiện về cơ sở hạ tầng còn

thấp, khi ngành du lịch phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế
khác, vì sản phẩm du lịch mang tính liên ngành có quan hệ đến nhiều lĩnh vực
khác trong nền kinh tế. Khi một khu vực nào đó trở thành điểm du lịch, du
khách ở mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá dịch vụ tăng lên
đáng kể. Các hàng hoá, vật tư cho du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong
phú về chủng loại, hình thức đẹp, hấp dẫn. Do đó nó đòi hỏi các doanh nghiệp
phải không ngừng sáng tạo cải tiến, phát triển các loại hàng hoá. Để làm được
điều này, các doanh nghiệp bắt buộc phải đầu tư trang thiết bị hiện đại, tuyển
chọn và sử dụng công nhân có tay nghề cao đáp ứng được nhu cầu của du khách.
Dẫn đến việc thu nhập cá nhân đưuọc nâng cao và góp phần làm tăng trưởng
kinh tế của đất nước nói chung, của vùng nói riêng.
Trong thời kỳ hội nhập, phát triển du lịch còn là cơ hội để các vùng dân tộc
thiểu số giao lưu, hội tụ các nền văn minh vật thể và phi vật thể vào sự đa dạng
chung của ngành du lịch đất nước. Từ đó, tạo niềm tin, sự hiểu biết, tình đoàn
kết giữa các dân tộc.
Đặc biệt, các dự án đầu tư vào bất động sản du lịch tại các vùng dân tộc
thiểu số đang gia tăng đáng kể. Dịch vụ du lịch ngày càng đa dạng. Công ty lữ
hành địa phương và quốc tế cung cấp các tour du lịch tham quan các bản làng
dân tộc thiểu số, đi bộ và tour du lịch xe đạp, đi thuyền kayak và du lịch ra nước
ngoài cho du khách Việt Nam, đặc biệt là gắn kết với các quốc gia láng giềng
Campuchia, Lào và Thái Lan.
1.3.

Mục tiêu

Vùng DTTS có nhiều lợi thế vị trí tiềm năng để phát triển du lịch. Chính
vì vậy, trong chiến lược phát triển du lịch của cả nước, cũng như định hướng
phát triển kinh tế xã hội của đất nước đều có chủ trương đưa ngành du lịch của
vùng xứng đáng với vị trí là một trong những trọng tâm du lịch của cả nước và
trở thành ngành kinh tế quan trọng của vùng, xứng đáng với tiềm năng của địa

phương. Phát triển mạnh ngành du lịch của vùng DTTS nhằm:
- Góp phần vào sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.

6


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh tỷ trọng GDP du lịch
trong cơ cấu kinh tế của cả nước.
- Nâng cao hiệu quả kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán ngoại tệ.
- Phát huy bản sắc dân tộc, tôn tạo và giữu gìn các di tích lịch sử - văn hóa,
các lễ hội truyền thống, cảnh quan môi trường,…
- Tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
- Tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành trong quá trình phát triển kinh tế
- Nâng cao đời sống vật chất- tinh thần cho người dân, mở rộng giao lưu,
nâng cao dân trí.
- Thu hút thêm vốn đầu tư của nước ngoài để xây dựng và phát triển đất
nước.

7


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

2. Cơ sở pháp lý

Điều 15 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về Công tác dân tộc đã quy đinh rõ rằng:
“Tập trung hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch gắn với bảo vệ môi
trường, sinh thái; hỗ trợ quản bá, đa dạng hóa các loại hình, các sản phẩm du
lịch, khai thác hợp lý các tiềm năng, danh lam thắng cảnh, phát triển du lịch”.
Điều 12 Thông tư số 12/2014/TT-BVHTTDL quy định chi tiết thi hành chính
sách du lịch vùng dân tộc thiểu số. Cụ thể:
1. Ưu tiên hỗ trợ hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch các vùng
dân tộc thiểu số; nghiên cứu, khảo sát tiềm năng du lịch, lựa chọn xây dựng các
sản phẩm du lịch đặc trưng cho các vùng dân tộc thiểu số; phát triển mô hình du
lịch miền núi có sự tham gia của cộng đồng các dân tộc thiểu số. Cụ thể như sau:
a) Hỗ trợ công tác nghiên cứu, khảo sát tiềm năng du lịch, xây dựng quy
hoạch du lịch của các vùng dân tộc thiểu số;
b) Hỗ trợ việc lựa chọn và xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng của
các vùng dân tộc thiểu số có tiềm năng du lịch phát triển, phù hợp với quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch của vùng, khu vực, địa phương;
c) Ưu tiên xây dựng, phát triển loại hình du lịch dựa trên địa hình miền
núi, có sự tham gia của cộng đồng các dân tộc thiểu số; hỗ trợ việc bảo vệ, gìn
giữ môi trường tự nhiên, môi trường nhân văn tại nơi có các hoạt động du lịch;
d) Hỗ trợ công tác quảng bá, xúc tiến các điểm đến, các sản phẩm du lịch
của vùng dân tộc thiểu số; tạo điều kiện để đơn vị quản lý các điểm du lịch tham
gia các sự kiện, chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch của vùng và quốc gia.
2. Hỗ trợ phát triển du lịch theo mô hình bền vững, có trách nhiệm, bảo đảm
cộng đồng vùng dân tộc thiểu số có quyền tham gia và hưởng lợi từ hoạt động
du lịch:
a) Ưu tiên các hoạt động khảo sát, đánh giá tiềm năng du lịch ở các vùng
dân tộc thiếu số; tổ chức khai thác hợp lý tài nguyên, cảnh quan du lịch theo
nguyên tắc khai thác gắn chặt với bảo tồn, thu hút người dân địa phương tham
gia và được hưởng lợi từ hoạt động du lịch;
b) Ưu tiên hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng tại các bản, làng của đồng
bào dân tộc thiểu số theo mô hình lưu trú tại nhà dân (homestay); khai thác, phát

huy văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số phục vụ phát
triển du lịch; hạn chế tác động tiêu cực của hoạt động du lịch tới đời sống, văn
hóa của đồng bào dân tộc thiểu số;
8


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

c) Hướng dẫn khách du lịch khi tới tham quan, lưu trú tại các bản làng,
điểm du lịch ở vùng dân tộc thiểu số tuân thủ và tôn trọng phong tục tập quán,
lối sống và văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc;
d) Xây dựng cơ chế thu hút đầu tư vào điểm du lịch và các bản, làng theo
mô hình du lịch cộng đồng, ưu tiên dự án hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ;
e) Ưu tiên tổ chức các sự kiện du lịch tại vùng dân tộc thiểu số.
3. Ưu tiên hỗ trợ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn phát triển nguồn
nhân lực du lịch tại khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi có
tiềm năng phát triển du lịch theo hướng:
a) Bảo đảm về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhân lực du lịch, sử dụng hiệu
quả và có đãi ngộ thỏa đáng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch tại vùng
dân tộc thiểu số có du lịch phát triển hoặc có tiềm năng phát triển;
b) Tập trung đầu tư phát triển nhân lực du lịch là người dân tộc thiểu số (đặc
biệt là đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên) đạt trình độ cơ bản; áp dụng
cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để đào tạo, thu hút;
c) Huy động các nguồn lực đầu tư, khuyến khích, ưu đãi ở mức cao nhất về
đất đai, thuế và ưu đãi khác cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch
tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi có tiềm năng phát triển du lịch; phát huy
vai trò của cộng đồng dân cư các dân tộc thiểu số trong phát triển du lịch;
d) Ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho con em các dân tộc thiểu số được đào

tạo đồng bộ về cơ cấu ngành nghề du lịch với các trình độ từ sơ cấp nghề đến
đại học và sau đại học;
e) Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá
nhân nước ngoài tham gia phát triển nhân lực du lịch là người dân tộc thiểu số;
f) Dành ngân sách nhà nước theo phân cấp quản lý và áp dụng cơ chế tài
chính đặc thù để thực hiện nhiệm vụ, chương trình, dự án về đào tạo, bồi dưỡng
phát triển nhân lực du lịch là dân tộc thiểu số, đặc biệt tại những vùng có tiềm
năng phát triển du lịch;
g) Khuyến khích các cơ sở đào tạo du lịch, doanh nghiệp du lịch đầu tư đào
tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch là người dân tộc thiểu số; tạo điều kiện thuận lợi
để doanh nghiệp tham gia tuyển dụng, sử dụng nhân lực du lịch là dân tộc thiểu
số.
3. Cơ sở thực tiễn
9


Nhóm 6 – KH15TCC

3.1.

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

Thực trạng triển khai chính sách phát triển du lịch vùng DTTS
3.1.1. Kết quả đạt được
Qua nhiều năm thực hiện chính sách văn hoá đối với vùng đồng bào dân
tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu nhất định: Nhận thức của cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân về văn hóa nói chung, văn hóa dân tộc thiểu số
nói riêng được nâng lên một bước; Đời sống văn hoá cơ sở đã có bước phát
triển, ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, đời sống văn hoá tuy còn thấp so
với đô thị và đồng bằng, nhưng đã có những cải thiện rõ rệt; Công tác giữ gìn,

bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hoá dân tộc, đặc biệt là văn hoá của các dân tộc
thiểu số có bước phát triển mới về quy mô cũng như chiều sâu; Chương trình
mục tiêu quốc gia về văn hoá đã góp phần quan trọng nâng cao đời sống văn hoá
tinh thần, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá các dân tộc. Nhiều dự án lớn về
sưu tầm, tư liệu hoá di sản văn hoá được thực hiện; Việc xây dựng thể chế và
thiết chế văn hoá đã chú ý đến những yêu cầu của thời kỳ mới. Các thiết chế văn
hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo được
tăng cường cơ sở vật chất, tổ chức và hoạt động bước đầu đã có sự đổi mới, phát
huy được hiệu quả. Ở các làng, bản, buôn, phum, sóc, thôn… vùng đồng bào
dân tộc thiểu số đã được Nhà nước quan tâm hỗ trợ để xây dựng các Nhà văn
hoá, Nhà Rông, Nhà Gươl văn hoá… làm nơi sinh hoạt, tổ chức các hoạt động
văn hoá - văn nghệ và hội họp chung của cộng đồng; Công tác đào tạo đội ngũ
những người hoạt động văn hoá, nghệ thuật vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa được chú trọng bước đầu; Một số di sản văn hoá của vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số được tôn vinh, đặc biệt Không gian văn hóa Cồng
chiêng Tây Nguyên được Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên
Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện nhân
loại; Tăng cường giao lưu văn hoá qua các hoạt động mang tính chất vùng, miền
góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, góp phần củng cố, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
3.1.2. Tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đáng kể đã đạt được trong lĩnh vực văn hoá ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề cấp bách
cần khắc phục, những nhu cầu bức thiết cần phải giải quyết. Đời sống kinh tế xã hội của các dân tộc thiểu số rất ít người (dưới 5.000 người và dưới 10.000
người) đều rất khó khăn so với các dân tộc có số dân đông hơn. Trong đó, vấn
đề đặc biệt cấp bách đặt ra là bản sắc văn hóa của các tộc người này bị mai một
10


Nhóm 6 – KH15TCC


Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

nhanh chóng. Thậm chí có dân tộc (như người Ơ Đu) ít tìm được các nét văn hóa
đặc trưng. Nhiều chính sách được thực hiện thông qua những dự án, đề án, và
chương trình mục tiêu quốc gia còn chưa thể hiện rõ vai trò và tầm quan trọng
của văn hóa/chính sách văn hóa đối với các chính sách cũng như biện pháp phát
triển kinh tế- xã hội ở vùng các dân tộc thiểu số và đối với các dân tộc thiểu số;
Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá còn lớn: Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng,
kháng chiến trước đây, vùng biên giới, hải đảo, hoạt động văn hoá còn nghèo
nàn, sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá so với thành thị còn lớn; Đầu tư của
Nhà nước cho bảo tồn văn hoá còn thấp và manh mún, đặc biệt đầu tư bảo tồn
và phát triển văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Hoạt động du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi dường như mới chỉ
là bước đầu. Sự phát triển còn chưa tương xứng với tiềm năng thiên nhiên và
nhân văn của vùng dân tộc thiểu số. Tỷ lệ khách du lịch đến vùng dân tộc thiểu
số, miền núi còn thấp so với các vùng khác trong cả nước. Bên cạnh đó do nhiều
nguyên nhân, hoạt động du lịch cũng có những tác động mặt trái đối với môi
trường tự nhiên và xã hội vùng dân tộc thiểu số. Môi trường sinh thái bị xuống
cấp do các hoạt động du lịch, bản sắc văn hoá bị mai một, lai căng.
Việc huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho văn hoá rất hạn chế do
chính sách khuyến khích chưa cụ thể và thiết thực; Vai trò của chủ thể, của
người dân, của cộng đồng chưa được phát huy và đặt đúng vị trí trong việc lập
kế hoạch, xây dựng dự án cũng như triển khai, tổ chức quản lý, giám sát các dự
án từ cơ sở đối với các dự án nói chung và các chương trình, dự án về văn hoá,
ảnh hưởng tới chất lượng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân
tộc thiểu số Việt Nam; Đội ngũ cán bộ quản lý và làm công tác văn hoá vùng
đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu, yếu, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực
là người dân tộc thiểu số. Người có uy tín và các nghệ nhân người dân tộc thiểu

số ngày càng ít dần.
Nhiều tỉnh phát triển du lịch cộng đồng một cách ồ ạt, không có quy
hoạch, dẫn đến sự cạnh tranh khá khốc liệt. Một số điểm du lịch trước kia đón
hàng nghìn khách quốc tế mỗi năm thì nay vắng khách.
Chính sách giáo dục còn chưa quan tâm đầy đủ và chưa có những chính
sách, biện pháp hữu hiệu trong việc dạy và học chữ, học tiếng đối với học sinh
các dân tộc thiểu số, mà đây chính là vấn đề cực kỳ quan trọng, then chốt trong
11


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

việc bảo tồn và phát triển văn hóa của mỗi dân tộc; Di sản văn hoá các dân tộc
thiểu số Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, chưa giải quyết tốt mối
quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.
Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được
nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản khoa học. Nghệ thuật diễn xướng Then
của các dân tộc Tày, Nùng, Thái; Kho sách cổ của dân tộc Dao…, hàng nghìn
làng, bản, buôn… truyền thống với các giá trị văn hóa tiêu biểu của các dân tộc
(kiến trúc, trang phục dân tộc, nghề truyền thống và các món ăn truyền thống,
các làn điệu dân ca, dân vũ, lễ hội…) đang đứng trước nguy cơ biến mất theo xu
hướng kiên cố hoá, hiện đại hoá hoặc do tác động mặt trái của cơ chế thị trường
rất cần phải nhanh chóng được hướng dẫn, hỗ trợ để bảo tồn, phát huy trong
cuộc sống đương đại.
Các dịch vụ cung cấp cho du khách chưa phong phú, mới chỉ dừng lại ở
mức độ hài lòng; người dân các thôn, bản chưa có khả năng tiếp xúc với công
nghệ, phụ thuộc vào người điều hành tour nên thu nhập chưa cao; hoạt động du
lịch cộng đồng nhỏ lẻ, chưa có sự liên kết giữa các hộ dân với nhau. Một số nơi

có đoàn khách đến chỉ đơn thuần là ngủ đêm, có đoàn khách thì sử dụng dịch vụ
ăn tối tại nhà dân, xem biểu diễn văn nghệ (rất ít). Hầu hết các đoàn tự phát và
chưa có các công ty du lịch dẫn khách đến theo lịch trình. Với thời gian lưu lại
ngắn nên khách du lịch ít sử dụng các dịch vụ khác tại cộng đồng nên chi tiêu
của khách du lịch tại cộng đồng còn rất khiêm tốn.
Hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hoá nhìn
chung vẫn ở tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ và hiệu quả sử dụng
còn thấp. Việc đưa văn hoá, văn nghệ đến phục vụ đồng bào các dân tộc tuy đã
có cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều địa phương vùng cao, vùng
sâu, vùng xa còn thiếu các sản phẩm văn hoá, nhất là các sản phẩm văn hoá có
nội dung và hình thức phù hợp với trình độ và thị hiếu của đồng bào.
Những bất cập trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản và then chốt:
Nhận thức của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của việc bảo tồn, phát triển
văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhiều lúc, nhiều nơi còn chưa đúng,
chưa thật đầy đủ, chưa thống nhất cao; Việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
truyền thống các dân tộc thiểu số đã được thể chế hoá, nhưng từ văn bản đến
hiện thực vẫn còn nhiều khoảng cách mà nguyên nhân là thiếu sự tương thích
giữa bảo vệ, giữ gìn với phát huy phát triển. Điều này có nguyên nhân sâu xa từ
12


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

chỗ chưa có sự đồng thuận của những chủ thể văn hóa; Đội ngũ cán bộ làm công
tác văn hóa ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn rất thiếu, trình độ không đồng
đều, nhiều nơi còn rất yếu, không đáp ứng được yêu cầu công tác trong tình hình
mới; Nghiên cứu lý luận còn thiếu khả năng dự báo và định hướng; chưa làm rõ
nhiều vấn đề có liên quan đến văn hoá, đặc biệt là văn hoá các dân tộc thiểu số

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong việc xác định
những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử
lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, bảo tồn và
phát triển, văn hoá và kinh tế… còn lúng túng.
3.2.

Thực trạng triển khai chính sách phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số ở
vùng Tây Bắc
Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung
đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Về cơ bản, vùng Tây Bắc là không gian
văn hóa của dân tộc Thái, nổi tiếng với điệu múa xòe tiêu biểu là điệu múa xòe
hoa rất nổi tiếng được nhiều người biết đến. Mường là dân tộc có dân số lớn
nhất vùng. Ngoài ra, còn khoảng 20 dân tộc khác như H'Mông, Dao, Tày, Kinh,
Nùng,...
Du lịch cộng đồng được xây dựng và phát triển ở vùng người Thái ở bản
Lác, huyện Mai Châu (Hòa Bình) vào giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Đến nay,
du lịch cộng đồng được xây dựng thành công ở vùng người Thái, người Tày,
người Dao, Mông tại các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, Hà Giang,
Yên Bái... Nhiều điểm du lịch cộng đồng thu hút hàng vạn du khách, như Bản
Dền (Lào Cai) đón 12.000 lượt khách quốc tế (năm 2008), các điểm du lịch cộng
đồng ở Mai Châu (Hòa Bình) đón 300.000 lượt du khách, trong đó có 100.000
lượt du khách quốc tế (năm 2014). Các điểm du lịch cộng đồng, như bản Lác,
bản Văn (huyện Mai Châu, Hòa Bình), bản Áng (huyện Mộc Châu, Sơn La), bản
Mển, Phiêng Lơi (Điện Biên)... trở thành những điểm đến quen thuộc của các
hãng lữ hành và các tour du lịch vùng Tây Bắc
Hà Giang có diện tích gần 8.000km², là nơi cư trú của cộng đồng 22 dân
tộc, trong đó mỗi dân tộc đều bảo tồn và lưu giữ những giá trị, sắc thái văn hóa
riêng, tạo nên bản sắc đặc trưng mà không phải vùng đất nào cũng có được. Với
những lợi thế đó, Hà Giang đã đẩy mạnh phát triển loại hình du lịch cộng đồng
gắn với nông thôn mới, như bước đột phá trong phát triển du lịch của địa

phương. Đến nay, Hà Giang đã xây dựng được 25 làng văn hóa du lịch cộng
13


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

đồng tại hầu hết các huyện trong tỉnh, tiêu biểu là các làng Tiến Thắng, Hạ
Thành (Tp. Hà Giang); Nậm Hồng và Phìn Hồ (huyện Hoàng Su Phì)… Làng
văn hóa du lịch Hạ Thành có 117 hộ dân với 558 nhân khẩu, chủ yếu là đồng
bào dân tộc Tày, trong đó có 5 hộ tham gia hoạt động du lịch cộng đồng. Bản đã
thành lập đội ngũ hướng dẫn viên gồm 3 người (1 nam, 2 nữ) có trình độ học
vấn trên 12 để dẫn khách tham quan bản. Đến đây, du khách còn có dịp tham gia
chương trình du lịch “30 phút làm công dân thôn Hạ Thành” với nhiều hoạt
động thú vị như: nghỉ đêm tại nhà dân, câu cá, làm nương, thưởng thức các món
ăn dân dã hay tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian như: múa sen,
hát cọi, hát then, hát giao duyên… Bà con thôn bản đã bắt đầu có ý thức về du
lịch cộng đồng và mong muốn chính quyền địa phương tạo điều kiện hỗ trợ về
cơ sở vật chất và đào tạo nâng cao trình độ nguồn nhân lực phục vụ du lịch để
phát triển hơn nữa loại hình du lịch này trong thời gian tới.
Ở Lào Cai, du lịch cộng đồng phát triển khá mạnh. Nằm ở vùng núi Tây
Bắc của Tổ quốc, mang trong mình nhiều giá trị đặc sắc về cảnh quan thiên
nhiên hùng vĩ cũng như bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào các dân tộc,
Lào Cai là một trong những địa phương tiên phong trong việc phát triển loại
hình du lịch cộng đồng, góp phần nâng cao đời sống cho người dân bản địa.
Thực tế cho thấy, du khách, đặc biệt là khách nước ngoài đến Lào Cai thường
thích đi thăm những bản làng dân tộc để cùng sống và sinh hoạt với dân bản,
thưởng thức các tiết mục văn nghệ dân gian và mua những sản phẩm thổ cẩm,
mỹ nghệ, mây tre đan làm quà lưu niệm. Năm 2013, các điểm du lịch cộng đồng

tại huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai đón 247.327 lượt khách; năm 2014 đón trên
300.000 lượt khách (riêng bản Dền, xã Bản Hồ năm 2013 đón 19.263 lượt
khách; năm 2014 đón trên 20.000 lượt khách). Năm 2014 thu nhập bình quân từ
du lịch cộng đồng ở bản Dền, Tả Van của mỗi hộ gia đình là 25 - 60 triệu
đồng/năm, có một số hộ đạt 70 - 90 triệu đồng/năm. Nhờ du lịch cộng đồng phát
triển mà các ngành nghề thủ công (sản xuất thổ cẩm, chạm khắc bạc, làm đồ lưu
niệm...) và dịch vụ phục vụ du lịch cũng tạo hàng nghìn việc làm cho người dân.
Điện Biên là nơi tập trung sinh sống của 21 cộng đồng dân tộc, trong đó
chủ yếu là dân tộc Thái, đồng thời có nhiều di tích lịch sử mang đậm dấu ấn của
chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu năm 1954, tỉnh có tiềm năng
phong phú để phát triển du lịch gắn với lịch sử. Ở bản Mển, xã Thanh Nưa,
thành phố Điện Biên, có 110 hộ dân và có tới 25 hộ gia đình có người tham gia
14


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

các dịch vụ du lịch. Đến với bản Mển, ngoài dịp chiêm ngưỡng khung cảnh
thiên nhiên đặc trưng vùng Tây Bắc, du khách còn có cơ hội trải nghiệm các
hoạt động hàng ngày cùng dân bản như: chăm sóc gia súc, gia cầm; lên rừng lấy
củi; xuống suối bắt cá,... Bản Mển đã thành lập một tổ ẩm thực gồm 10 người có
kinh nghiệm trong việc chế biến các món ăn địa phương và một đội văn nghệ
gồm 15 người chuyên biểu diễn các bài hát, điệu múa truyền thống phục vụ du
khách. Đặc biệt, đến đây, du khách sẽ được chính trưởng bản dẫn đi tham quan
và tìm hiểu một số phong tục, tập quán độc đáo của đồng bào dân tộc Thái bản
địa.
Nhờ những nỗ lực không ngừng, những năm vừa qua, bản Mển liên tục đạt
danh hiệu bản văn hoá cấp tỉnh, đồng thời là điểm du lịch cộng đồng hấp dẫn

khách du lịch trong nước và quốc tế. Năm 2014, bản Mển đã đón 1.200 đoàn
khách tới thăm. Vào dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, bản Mển
mỗi ngày đón 5 đoàn khách đến thăm. Bản Phiêng có cảnh quan đẹp, có 30 hộ
gia đình tham gia dịch vụ du lịch, những tháng đông khách mỗi hộ cũng thu
được từ 3-5 triệu đồng..
Với những đặc trưng riêng về cảnh quan thiên nhiên cũng như bản sắc văn
hóa các dân tộc, mỗi địa phương đã lựa chọn những hướng đi khác nhau nhằm
phát triển hoạt động du lịch cộng đồng, đem lại lợi ích kinh tế cho người dân
bản địa. Để loại hình du lịch này ngày càng hấp dẫn, thu hút nhiều du khách hơn
nữa, các tỉnh cần có sự liên kết chặt chẽ, góp phần tạo ra các sản phẩm du lịch
phong phú, đa dạng, mang đậm dấu ấn riêng của mỗi địa phương.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, các điểm du lịch cộng đồng vùng Tây Bắc
còn một số hạn chế. Nhiều tỉnh phát triển du lịch cộng đồng một cách ồ ạt,
không có quy hoạch, dẫn đến sự cạnh tranh khá khốc liệt. Một số điểm du lịch
trước kia đón hàng nghìn khách quốc tế mỗi năm thì nay vắng khách. Nhiều hộ
gia đình đầu tư hàng chục triệu đồng làm phòng nghỉ, nhà vệ sinh phục vụ du
lịch... thì nay không có khách.
Tình trạng phát triển du lịch cộng đồng không hiệu quả do nhiều nguyên
nhân. Thứ nhất là, chính quyền địa phương và người dân nhận thức du lịch cộng
đồng dễ làm, đầu tư ít nên phát triển khá ồ ạt. Hệ quả là 3/4 số làng đó không
đón được du khách. Thứ hai là, chính quyền địa phương chưa giải quyết được
vấn đề giữa phát triển du lịch với phát triển các ngành nghề khác. Vấn đề đô thị
hóa các bản vùng ven thành phố cũng là nguyên nhân làm nghèo tài nguyên du
15


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS


lịch. Thứ ba là, các cơ quan quản lý nhà nước, người dân và chính quyền địa
phương chưa nghiên cứu sâu về bản sắc văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc để
tìm ra những đăc trưng riêng. Vì vậy, các mô hình du lịch cộng đồng và sản
phẩm du lịch thường được xây dựng tương tự như nhau.
3.3.

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển du lịch
vùng DTTS
3.3.1. Cơ hội phát triển du lịch tại các vùng dân tộc thiểu số
- Việt Nam đang hội nhập sâu rộng và toàn diện với thế giới. Phát triển du
lịch tại các vùng DTTS là việc làm cần thiết để phát triển du lịch nước nhà.
- Quan hệ ngoại giao tích cực của Việt Nam mở ra nhiều cơ hội thu hút
đầu tư vốn và công nghệ.
- Các dòng di chuyển vốn đầu tư và luồng khách đang có xu hướng dịch
chuyển tới các vùng dân tộc thiểu số. Bởi nơi đây còn có những địa danh mới
mẻ.
- Có cơ hội phát triển theo tiến trình đi lên của đất nước, bắt kịp xu
hướng, tiếp thu công nghệ mới.
- Phát triển các loại hình du lịch mới, tận dụng lợi thế về tài nguyên du
lịch (xu hướng du lịch cộng đồng…)
- Gần với các nước láng giềng như Trung Quốc, Campuchia,…
3.3.2. Thách thức phát triển du lịch tại các vùng dân tộc thiểu số
- Sự cạnh tranh giữa các vùng miền du lịch trên cả nước ngày càng gay
gắt, cả về dòng vốn đầu tư và thu hút khách, về chất lượng và hiệu quả kinh
doanh và xây dựng hình ảnh, thương hiệu gắn với từng vùng.
- Biến đổi khí hậu đang có tác động mạnh mẽ hơn so với dự báo. Du lịch
tại các vùng dân tộc thiểu số với thế mạnh tập trung vào các vùng cao sẽ đứng
trước nhiều thách thức.
- Nhu cầu du lịch của người dân có nhiều thay đổi, hướng tới những giá
trị mới. Đòi hỏi lãnh đạo, quản lý các cấp, ban ngành chuyên môn phải nắm bắt,

cập nhật các quan điểm, nhận thức và chuyên môn kỹ thuật.
- Sự gia tăng xả rác và nước thải khiến tình trạng ô nhiễm không khí,
tiếng ồn và nguồn nước ngày càng trở nên trầm trọng, làm phá hủy môi trường
tự nhiên.
3.3.3. Giải pháp
Cộng đồng người dân dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu bằng nghề nông
– lâm nghiệp, đời sống còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền
kinh tế thị trường, của quá trình đô thị hóa nên đồng bào với rất nhiều nét văn
hóa truyền thống đã bị biến đổi, mai một dần, nhiều phong tục gần như mất hẳn.
16


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

Việc phát triển du lịch dựa trên bảo tồn văn hóa dân tộc là việc làm không mới
nhưng cần thiết để tạo ra sinh kế cho người dân địa phương vừa góp phần bảo vệ
môi trường tự nhiên, vừa góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống bản địa.
Nhằm kích cầu hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như tính
chuyên nghiệp của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, từ đó tạo môi trường
du lịch lành mạnh, góp phần tạo dựng thương hiệu du lịch, Sở Văn hóa - Thể
thao và Du lịch đã xây dựng kế hoạch thực hiện chuỗi 5 nhóm giải pháp. Đó là:
Cơ chế chính sách và quản lý du lịch; thị trường và quảng bá du lịch; sản phẩm
du lịch; đầu tư du lịch và giải pháp về chất lượng, giá cả dịch vụ. Mỗi nhóm giải
pháp được cụ thể hóa trên cơ sở khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương.
- Hoàn thiện cơ chế chính sách và quy định của pháp luật.
+ Tạo cơ chế, chính sách thuận lợi cho đầu tư du lịch; khuyến khích đầu
tư vào các vùng đất còn hoang sơ, đặc biệt là vùng sâu vùng xa;

+ Khuyến khích phát triển các loại hình du lịch gắn với bảo tổn tự nhiên
và văn hoá, hỗ trợ xúc tiến quảng bá du lịch biên giới trong và nước ngoài, sự
tham gia của cộng đồng vào phát triển du lịch;
+ Tạo điều kiện thuận lợi để khách du lịch qua lại các cửa khẩu, đến các
điểm du lịch vùng sâu vùng xa.
-Tăng cường hiệu quả công tác quản lý.
+ Nâng cao năng lực cơ quan quản lý nhà nước về du lịch đủ mạnh đáp
ứng yêu cầu phát triển du lịch;
+ Phát huy vai trò Ban chỉ đạo quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý và phối hợp liên ngành; Tăngcường công tác quy
hoạch và quản lý phát triển du lịch theo quy hoạch;
+ Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền giáo dục góp phần nâng cao nhận
thức của các cấp, các ngành của cộng đồng về phát triển du lịch; Phát huy tinh
thần chủ động, tích cực, nỗ lực của người dân trong quá trình phát triển du lịch;
+ Tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ, nâng cao
chất lương hoạt động du lịch. Nghiên cưu và tổng kết, trao đổi kinh nghiệm về
phát triển du lịch nhằm bổ sung tính phong phú hấp dẫn cho điểm du lịch.
- Tăng cường nguồn lực phát triển du lịch.
+ Phải có sự liên kết của nhiều tổ chức như sự kết hợp giữa cơ quan quản
lý nhà nước về du lịch, chính quyền địa phương, người dân địa phương và các tổ
chức phi chính phủ, cơ sở đào tạo, công ty lữ hành…
17


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

+ Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển du lịch trực tiếp nước ngoài,
các dự án phát triển hạ tầng nông thôn;

+ Hỗ trợ kinh phí ngân sách phát triển hạ tầng các khu, điểm du lịch, ưu
tiên vùng có hoàn cảnh đặc biệt, vùng sâu, vùng xa, biên giới và vùng các
DTTS;
+ Tiếp tục chính sách khuyến khích xã hội hoá và tạo điều kiện để các cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư phát triển du lịch;
+ Lồng ghép các chương trình mực tiêu quốc gia, các dự án của các Bộ,
ngành trên địa bàn gắn với phát triển du lịch;
+ Phát triển nguồn nhân lực du lịch. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng
cao trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ ngành du lịch ở cơ sở, đặc biệt chú
trọng đồng bào các dân tộc thiểu số.
+ Cần đào tạo nguồn nhân lực có đủ các kỹ năng cơ bản (giao tiếp, ứng
xử,…); nghiệp vụ chuyên ngành (nghiệp vụ buồng, nghiệp vụ nhà hàng, nghiệp
vụ hướng dẫn, nghiệp vụ đón tiếp khách, nghiệp vụ chế biến món ăn,…); ngoại
ngữ trong đó ưu tiên tiếng Anh. Ngoài ra, còn phải giáo dục người dân ý thức
bảo vệ môi trường và đặc biệt là văn hóa bản địa.
- Chú trong xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù, hấp dẫn và có sức cạnh
tranh trong khu vực và quốc tế, tiến tới xây dựng thương hiệu du lịch từng vùng.
+ Đẩy mạnh xây dựng sản phẩm du lịch độc đáo, đặc sắc có chất lượng
gắn với tài nguyên tự nhiên, với văn hoá cộng đồng các dân tộc thiểu số và với
hệ thống cửa khẩu biên giới.
+ Phát triển du lịch cộng đồng gắn với xoá đói giảm nghèo.
-Tăng cường phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch.
+ Đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông dọc tuyến biên giới, hệ thống giao
thông nông thôn, đặc biệt là hệ thống giao thông đến các khu, điểm du lịch;
+ Nâng cấp hệ thống cửa khẩu đáp ứng nhu cầu khách du lịch;
+ Xây dựng hệ thống các công trình dịch vụ, cứu nạn, cứu hộ đảm bảo
điểm đến an toàn, thân thiện.
-Tăng cường hợp tác quốc tế phát triển du lịch tại các địa phương.
+ Hợp tác trong khuôn khổ quốc gia.
+ Xây dựng chương trình hợp tác theo khuôn khổ địa phương có chung

đường biên giới với các quốc gia láng giềng.
+ Mở rộng hợp tác du lịch với các nước trong khu vực.
- Khai thác kết hợp với bảo tồn tài nguyên du lịch:
18


Nhóm 6 – KH15TCC

Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

+ Cấm chặt phá rừng bừa bãi, cấm săn bắt động thực vật quý hiếm. Thực
hiện trồng rừng và quản lý rừng.
+ Bảo vệ nghiêm ngặt các nguồn nước, tránh xả rác và các chất thải sinh
hoạt, sản xuất ra suối, ao, hồ.
+ Xem xét, nghiên cứu, thực thi và tôn trọng sức chứa của vùng và từ đó
đưa ra kế hoạch đón khách phù hợp nhằm phát triển bền vững.
+ Giáo dục khách du lịch và cộng đồng ý thức bảo vệ cảnh quan môi
trường. Chương trình tuyên truyền giáo dục phải được thực hiện liên tục, có hệ
thống đến từng nhà, từng người.
+ Nghiên cứu, khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đã
bị mai một như các lễ hội, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ,...
+ Giáo dục cộng đồng địa phương có ý thức xây dựng và giữ gìn nét sinh
hoạt văn hóa truyền thống của cộng đồng.
+ Giáo dục du khách tôn trọng văn hóa truyền thống, tôn trọng các giá trị
văn hóa của cộng đồng.

19


Nhóm 6 – KH15TCC


Chính sách phát triển du lịch vùng DTTS

PHẦN 3: PHẦN KẾT LUẬN
Triển khai thực hiện chính sách dân tộc là một trong những nhiệm vụ tất
yếu, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng dân tộc thiểu số nói
riêng và của cả đất nước nói chung. Chính sách phát triển du lịch vùng thiểu số
là một trong những chính sách cần thiết mà Đảng và Nhà nước đề ra. Phát triển
du lịch dân tộc, đồng nghĩa với việc quảng bá đất nước, văn hoá, hình ảnh tốt
đẹp của con người Việt Nam tới bạn bè trên khắp thế giới, nâng tầm vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, song song với phát triển du lịch là việc
bảo tồn những bản sắc văn hoá tốt của các dân tộc, các danh lam thắng cảnh, các
di tích lịch sử văn hoá. Đây không chỉ là việc của riêng Đảng, Nhà nước, các cấp
chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội, mà đó còn là việc mà mỗi người
chúng ta nên làm. Chúng ta cần bắt đầu từ việc nhỏ nhất là không vứt rác bừa
bãi tại các khu du lịch, di tích,... Chỉ cần hành động nhỏ như vậy thôi, vừa giữ
gìn được không gian sạch sẽ ở các khu du lịch, di tích, vừa làm nên hình ảnh đẹp
của con người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Hi vọng rằng, trong tương lai không xa, du lịch vùng thiểu số sẽ ngày càng
phát triển, là một phần quan trọng trong việc phát triển đất nước.

 HẾT 

20



×