Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG: NĂNG LỰC THỰC THI CÔNG VỤ CỦA CÔNG CHỨC TƯ PHÁP HỘ TỊCH CẤP XÃ Ở THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.45 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM THỊ THANH XUÂN

NĂNG LỰC THỰC THI CÔNG VỤ CỦA CÔNG CHỨC
TƯ PHÁP - HỘ TỊCH CẤP XÃ Ở THÀNH PHỐ
TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
Chuyên ngành : Quản lý công
Mã số : 60.34.04.03

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Kim Việt

Hà Nội - 2014


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn chỉnh luận văn thạc
sỹ, trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn đến toàn thể quý Thầy, Cô của Học
viện Hành chính đã tham gia quản lý và giành thời gian quý báu của mình để
truyền đạt những tri thức, kinh nghiệm, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập tại
Học viện.
Tôi xin chân thành cảm ơn phòng nội vụ thành phố Tuyên Quang, 13
đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã, phường trên địa bàn thành phố
Tuyên Quang đã cung cấp thông tin, số liệu; các cô chú, các anh chị trong Ủy
ban nhân dân xã An Tường thành phố Tuyên Quang cùng toàn thể bạn bè, gia


đình đã động viên, tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành khóa học và
luận văn của mình.
Đặc biệt, tôi xin chân trọng tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS Lê Kim Việt,
Người đã trực tiếp hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến quan trọng và sâu sắc
cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Luận văn này được hoàn thành bởi sự nỗ lực của bản thân, dù đã hết
sức cố gắng nhưng do khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên
không thể tránh khỏi những sai sót và hạn chế nhất định. Tôi rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy, Cô và các bạn học để
giúp tôi ngày càng hoàn thiện hơn trong quá trình nghiên cứu của mình.
Kính chúc các Thầy giáo, Cô giáo luôn luôn mạnh khỏe để tiếp tục đào
tạo cho đất nước nhiều cán bộ có phẩm chất và năng lực ở mọi lĩnh vực,
nhằm góp phần vào sự nghiệp "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh". Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Phạm Thị Thanh Xuân


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Lê Kim Việt - Vụ tổ chức cán bộ - Bộ Nội vụ.
Luận văn này được hoàn thành bởi sự nỗ lực của bản thân, các thông
tin, số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách
quan, khoa học.
Tác giả luận văn

Phạm Thị Thanh Xuân



MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền cấp xã là cấp gần dân nhất, trực tiếp thực hiện và bảo đảm
trên thực tế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân có được tôn trọng và bảo đảm
thực hiện hay không, trước hết phải được thể hiện ở hoạt động của chính
quyền cấp xã, mà điều đó lại phụ thuộc vào năng lực và chất lượng của đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: " Cấp xã là cấp
gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
công việc đều xong xuôi" ” [27,tr.371].
Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII khẳng
định " Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng". Xuất phát từ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được
đội ngũ cán bộ tận tuỵ, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai
đoạn cách mạng.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Nhiệm vụ chính trị mới hết sức nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi
Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Với đường lối đổi mới đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đất nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Bằng
những cải cách mạnh mẽ về kinh tế, chúng ta đã vượt qua khủng hoảng, ổn

1


định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội, hội nhập vào sự phát triển của khu vực và thế giới.
Thực tiễn cho thấy, nơi đâu có đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở vững
mạnh thì nơi đó tình hình chính trị, xã hội ổn định; kinh tế, văn hoá phát triển;
quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Cùng với công cuộc cải cách kinh tế, công cuộc đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cũng từng bước được triển khai.
Hệ thống pháp luật càng phát triển và từng bước được hoàn chỉnh để điều
chỉnh ngày một có hiệu quả các quan hệ kinh tế - xã hội. Bộ máy nhà nước
dần dần được hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong điều hành và
quản lý xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, trong quá trình phát triển, nền
hành chính nhà nước cũng bộc lộ nhiều hạn chế trước những yêu cầu mới sự
phát triển kinh tế - xã hội, trong công tác quản lý hành chính nhà nước của
các cấp chính quyền trong cả nước còn bị buông lỏng ở nhiều khâu, hiệu lực,
hiệu quả của chính quyền chưa cao mà trong đó chính quyền cấp xã là cấp có
nhiều khó khăn, phức tạp nhất khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Đứng trước
tình hình đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương cải cách nền hành
chính nhà nước và coi đó là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Một trong những nội dung quan trọng của công cuộc cải cách hành
chính là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính vừa có phẩm chất
đạo đức tốt, có thái độ tận tụy phục vụ nhân dân, vừa có năng lực, trình độ
chuyên môn cao, có kỹ năng quản lý, vận hành bộ máy hành chính để thực
hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò rất quan trọng, quyết định chất

2


lượng, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp nói chung và chính quyền
cấp xã nói riêng, đặc biệt là công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã. Xã là nơi tổ
chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Đây cũng là cầu nối trực tiếp toàn bộ
hệ thống chính trị với người dân, là nơi tổ chức, vận động nhân dân thực hiện
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xã còn là nơi triển
khai và tăng cường chính sách đại đoàn kết dân tộc, tăng cường dân chủ cơ
sở, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, tạo điều kiện khai thác mọi
tiềm năng ở địa phương để phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với chính quyền cấp xã, công tác tư pháp là một bộ phận của công
tác quản lý nhà nước, đồng thời, là nơi triển khai trên thực tế các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tư pháp, bảo đảm sự thống nhất
quản lý nhà nước về công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở.
Thực tế đội ngũ công chức cấp xã, cụ thể là công chức Tư pháp - Hộ
tịch hiện nay ở nước ta nói chung và ở thành phố Tuyên Quang nói riêng vẫn
còn nhiều hạn chế như: trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị
chưa đảm bảo, kỹ năng giải quyết công việc còn hạn chế; một số công chức
còn bảo thủ, trì trệ thiếu quyết tâm trong công cuộc đổi mới, cá biệt còn có
cán bộ, công chức đạo đức, phẩm chất chưa tốt, phong cách làm việc quan
liêu, xa rời quần chúng nhân dân, làm mất lòng dân gây ảnh hưởng đến uy tín
của Đảng và Nhà nước ta.
Trong giai đoạn cải cách hành chính nhà nước ta hiện nay, cả nước
đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế đặt ra yêu
cầu mới đối với đội ngũ công chức cơ sở trong cả nước nói chung và đội ngũ
công chức cấp xã, đặc biệt là công chức Tư pháp - Hộ tịch ở thành phố Tuyên
Quang nói riêng phải nâng cao năng lực về thực thi đường lối, chính sách để
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đồng thời công chức Tư pháp - Hộ
tịch cấp xã là một bộ phận của công tác quản lý nhà nước, là nơi triển khai

3


trên thực tế các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, Công
chức Tư pháp - Hộ tịch phải có kỹ năng triển khai, phổ biến những chủ
trương, chính sách và nghệ thuật tiếp xúc, lắng nghe người dân để hiểu. Vì
thế, đội ngũ này phải có những thay đổi tích cực theo hướng chuyên nghiệp,
hiện đại, nhạy bén, có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức để thực thi
công vụ. Để đáp ứng được yêu cầu đó cần thiết phải nghiên cứu đánh giá thực
trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ của
đội ngũ này.
Xuất phát từ nhiệm vụ thực tiễn là nâng cao năng lực công chức Tư
pháp - Hộ tịch cấp xã ở thành phố Tuyên Quang tỉnh Tuyên Quang, đáp ứng
yêu cầu " Vững vàng về trình độ chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch
về lối sống, có trí tuệ, có kiến thức, có trình độ năng lực hay còn nói có chất
lượng", góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở địa
phương, tôi chọn đề tài " Năng lực thực thi công vụ của công chức Tư pháp
- Hộ tịch cấp xã ở thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang" làm luận
văn thạc sỹ. Đây là vấn đề cấp bách, phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành
chính nhà nước ta hiện nay và phù hợp với thực tiễn của địa phương. Nhằm
góp phần đưa ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng đội ngũ
công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã vì mục tiêu tăng cường hiệu lực và hiệu
quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực Tư pháp - Hộ tịch.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã đã được các nhà khoa học quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau. Có
nhiều công trình khoa học, luận văn thạc sỹ, cử nhân nghiên cứu về bộ máy
chính quyền cấp xã trong đó có bàn về đội ngũ chính quyền cấp xã. Trong
điều kiện cải cách hành chính nhà nước, vấn đề đội ngũ cán bộ, công chức xã
được đặc biệt quan tâm. Đáng chú ý là những công trình sau:

4


- Phạm Hồng Thái (2004), Công vụ, công chức nhà nước, Nxb Tư
pháp, Hà Nội. Nội dung cuốn sách nêu lên vị trí, vai trò của công chức, công
vụ, các khái niệm về công chức, công vụ; chức năng, nhiệm vụ của công chức
trong bộ máy hành chính Nhà nước; thực trạng đội ngũ công chức ở nước ta
và những giải pháp xây dựng đội ngũ công chức trong thời kỳ mới. Đây là
cuốn sách có giá trị tham khảo tốt cho luận văn. Tuy nhiên, nội dung cuốn
sách chỉ đề cập lý luận chung về chế độ công chức, công vụ của bộ máy hành
chính Nhà nước các cấp nói chung mà chưa đi sâu bàn về chế độ thực thi
công vụ của công chức cấp xã.
- Đỗ Thị Thu Hằng, 2004, Nâng cao năng lực của đội ngũ công chức
cấp xã trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công,
Học viện Hành chính, Hà Nội.
Tác giả luận văn đã đề cập khá hoàn chỉnh về cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã; đánh giá
thực trạng năng lực công chức cấp xã và chỉ ra nguyên nhân của những ưu
điểm, khuyết điểm trong công tác xây dựng, nâng cao năng lực công chức cấp
xã, đồng thời đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cho
đội ngũ công chức cấp xã trong thời kì mới. Đây là công trình đã cung cấp
cho tác giả luận văn này những thông tin cần thiết để tham khảo như khái
niệm công chức cấp xã, thực trạng chất lượng, nhất là thực trạng năng lực của
đội ngũ công chức cấp xã có liên quan đến quá trình thực thi công vụ của
công chức cấp xã và giải pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ của công
chức cấp xã nói chung. Tuy nhiên, luận văn này chỉ nêu và đề cập đến năng
lực của đội ngũ công chức cấp xã nói chung mà chưa chỉ ra mối quan hệ giữa
năng lực và hiệu quả thực thi chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ công chức cấp
xã và cũng chưa đề cập đến đội ngũ công chức cấp xã của một địa bàn có tính
đặc thù như huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.

5


- Phạm Kim Nguyên, 2006, Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước cấp
xã huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính
công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
Luận văn bàn nhiều đến lý luận quản lý nhà nước và hiệu quả quản lý
nhà nước của chính quyền cấp xã ở huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Đây là
công trình nghiên cứu có tác dụng tham khảo tốt cho luận văn về mối quan hệ
giữa năng lực, phẩm chất cán bộ cơ sở, năng lực thực thi công vụ của công
chức cấp xã đối với hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở. Tuy nhiên, nội
dung chính của luận văn cũng chưa giải quyết được cơ sở lý luận và thực tiễn
của năng lực thực thi công vụ và mối quan hệ của nó trong việc thực hiện chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trên địa bàn cơ sở, nhất là
ở huyện Quốc Oai.
- Trịnh Đức Hùng, (2009), Nâng cao chất lượng thực thi công vụ của
đội ngũ cán bộ, công chức phường trên địa bàn thành phố Hà Nội. Luận văn
thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội. Nội dung của
luận văn đã đề cập nhiều đến lý luận về năng lực thực thi công vụ của cán bộ,
công chức cấp xã, thực trạng chất lượng thực thi công vụ của công chức cấp
xã ở huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Luận văn cũng đã đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng thực thi công vụ của công chức cấp xã. Đây
là những nội dung bổ ích mà tác giả luận văn này có thể tham khảo. Tuy
nhiên, toàn bộ nội dung của luận văn đề cập đến chất lượng thực thi công vụ ở
một góc độ khác. Đó là sự đánh giá của người dân dựa trên cơ sở của một
công trình điều tra xã hội học, chưa có những nghiên cứu, khảo sát về năng
lực thực thi công vụ từ thực tiễn dưới các góc độ khác nhau.
Nguyễn Thanh Thuyên, (2010), "Nâng cao năng lực thực thi hoạt động
quản lý hành chính nhà nước của đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện tại
tỉnh Bình Phước", Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công;

6


Trịnh Văn Khánh, (2010) "Nâng cao năng lực thực thi công vụ của
công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Hà nội". Luận văn thạc sĩ quản lý
hành chính công
Vũ Thuý Hiền, (2012), "Năng lực thực thi công vụ của công chức xã
trên địa bàn tỉnh Lai Châu"; Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết liên quan đến năng lực thực thi công vụ
của công chức chính quyền cấp xã. Nhìn chung, các đề tài nói trên đã nghiên
cứu cả lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và
năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã dưới các góc độ khác nhau.
Các công trình cũng đã đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nói chung.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu và đề cập đến năng lực
thực thi công vụ của công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã ở thành phố Tuyên
Quang, tỉnh Tuyên Quang
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn lý luận về năng lực thực thi
công vụ của đội ngũ công chức cấp xã, luận văn đề xuất phương hướng và
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực thực thi công vụ của công
chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã ở thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang
trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về năng lực thực thi công vụ
của đội ngũ công chức cấp xã và công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã.
+ Phân tích đánh giá thực trạng chất lượng và năng lực thực thi công vụ
của công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã ở thành phố Tuyên Quang, tỉnh
7



Tuyên Quang hiện nay; xác định những hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
năng lực thực thi công vụ của đội ngũ này, đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu năng lực thực thi công vụ của công chức Tư pháp
- Hộ tịch cấp xã ở thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung đánh giá thực trạng năng lực thực thi công vụ của
đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã ở thành phố Tuyên Quang, tỉnh
Tuyên Quang từ năm 2009 đến nay. Các giải pháp mà luận văn nêu lên có giá
trị tham khảo đến năm 2020
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước về cán bộ, công chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng chất lượng và năng lực thực
thi công vụ của công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã ở thành phố Tuyên
Quang và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở thành phố
Tuyên Quang hiện nay
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích,
tổng hợp, hệ thống hoá, thống kê, khảo sát thực tế và điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao năng lực
8



thực thi công vụ của chức danh Tư pháp - Hộ tịch cấp xã ở thành phố Tuyên
Quang, đồng thời góp phần xây dựng đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch
cấp xã ở nước ta hiện nay.
Căn cứ vào những kết quả đánh giá chất lượng thực thi công vụ công
chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã giúp cơ quan quản lý cán bộ, công chức có
thẩm quyền ở tỉnh Tuyên Quang chủ động hơn trong việc rà soát, xây dựng
chiến lược nhân sự, quy hoạch sử dụng hiệu quả đội ngũ công chức Hộ tịch Tư pháp cấp xã.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
giảng dạy về Quản lý Nhà nước trong Trường chính trị tỉnh và các lớp bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Tuyên Quang
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về năng lực thực thi công vụ của công chức
cấp xã
Chương 2: Thực trạng năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công
chức tư pháp - hộ tịch cấp xã ở thành phố Tuyên Quang hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng
lực thực thi công vụ của công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã thành phố Tuyên
Quang trong thời kỳ mới

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC THỰC THI CÔNG VỤ CỦA
CÔNG CHỨC TƯ PHÁP - HỘ TỊCH CẤP XÃ

9



1.1. Cấp xã và công chức cấp xã
1.1.1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm cấp xã
Theo Điều 118 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992, các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được phân định như sau:
“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường và xã; quận chia thành phường.
Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị
hành chính do luật định.”
Như vậy, nói cấp xã là nói đến đơn vị hành chính thấp nhất trong hệ
thống hành chính 4 cấp ở nước ta, là cấp cơ sở gần dân nhất. Cấp xã là tổ
chức hành chính của một cộng đồng dân cư, được chia theo địa giới do pháp
luật quy định, có bộ máy hành chính, có chức năng, nhiệm vụ và có đội ngũ
cán bộ, công chức riêng. Ở Việt Nam, xã là loại hình đơn vị hành chính lâu
đời, là loại hình đơn vị hành chính ở nông thôn, ngoại thành, ngoại thị và
chiếm đa số trong các loại hình đơn vị hành chính cơ sở.
1.1.1.2. Vị trí, vai trò cấp xã
“Cấp xã” bao gồm ba loại hình cơ sở là: xã, phường, thị trấn. Ba loại
hình cơ sở này có những điểm chung, song cũng có nhiều nét đặc trưng riêng
biệt của mình. Cấp xã và chính quyền cấp xã có vị trí, vai trò rất quan trọng
trong hệ thống hành chính ở nước ta.
- Là cấp hành chính gần dân nhất, chính quyền cấp xã chịu trách nhiệm
trước nhân dân về mọi hoạt động ở địa phương.
10



Là một cấp hành chính trong hệ thống chính quyền 4 cấp, chính quyền
cấp xã được sử dụng con dấu có hình quốc huy, biểu trưng cho quyền lực của
Nhà nước, là một cơ quan có thẩm quyền rộng trong việc quản lý mọi mặt của
đời sống xã hội trên địa bàn. Chính quyền cấp xã có ngân sách riêng, thay mặt
Nhà nước giao dịch với nhân dân địa phương, thực hiện và bảo đảm thực hiện
các chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước ở địa phương, chăm lo mọi
mặt đời sống của nhân dân, duy trì an ninh trật tự tại địa phương.
- Chính quyền cấp xã chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên về
việc chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân ở địa phương.
Điều 7 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quy định:
Ủy ban nhân dân không chỉ là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân
cùng cấp mà Ủy ban nhân dân cấp dưới còn phải chịu sự chỉ đạo của Ủy ban
nhân dân cấp trên. Như vậy, Ủy ban nhân dân cấp xã phải chịu trách nhiệm
trước Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
Chính quyền địa phương cơ sở, hay chính quyền cấp xã là chính quyền
được tổ chức ra nhằm bảo đảm, bảo vệ và phục vụ quyền, lợi ích của nhân
dân, nhân dân là đối tượng cơ bản để chính quyền phục vụ. Do đó chính
quyền cơ sở phải chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên về việc chăm lo
mọi mặt đời sống của nhân dân địa phương.
Trong mối quan hệ với nhà nước, nhân dân chính là chủ thể của quyền
lực nhà nước. Theo đó, chính quyền địa phương cơ sở phải là chính quyền do
nhân dân tổ chức ra, của nhân dân và hoạt động vì nhân dân. Do đó ngoài việc
chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên, chính quyền cơ sở còn phải chịu
trách nhiệm trước nhân dân. Các hoạt động do cán bộ, công chức tiến hành
phải xuất phát trên nền tảng lợi ích của nhân dân và vì nhân dân để phục vụ.
- Cấp xã và chính quyền cấp xã là cầu nối giữa nhân dân với chính
quyền cấp huyện, tỉnh và trung ương.
11



Chính quyền cấp xã là đại diện của nhân dân địa phương tự quyết định
những vấn đề nội bộ địa phương, đồng thời là cầu nối giữa nhân dân với
chính quyền cấp trên. Chính quyền cấp xã thay mặt nhân dân đề xuất, kiến
nghị với cơ quan Nhà nước cấp trên về những vấn đề liên quan đến địa
phương thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan Nhà nước cấp trên; nắm
bắt và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân địa phương với chính
quyền cấp trên.
- Cấp xã là nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động thực tiễn phong phú và
sinh động, trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, của chính quyền cấp trên.
Chính quyền cấp xã và cán bộ công chức cấp xã cùng chung sống hàng
ngày với dân, hiểu dân, sâu sát với dân, am hiểu những phong tục, tập quán,
truyền thống của địa phương nên những người đại diện Nhà nước ở cấp xã
phải giải quyết các công việc đa dạng, phức tạp của dân, sao cho không trái
pháp luật, nhưng có hiệu quả cao nhất.
Chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện các quy định,
quyết định của Nhà nước, giải quyết những yêu cầu, thắc mắc, bức xúc của
dân. Đồng thời cũng là những người trực tiếp thu nhận, lắng nghe, tiếp thu
các ý kiến, những đề xuất, kiến nghị của nhân dân. Do vậy, họ cũng là cấp
phản ánh một cách trung thực những nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu của
người dân lên các cơ quan cấp trên và đề xuất những giải pháp trong việc giải
quyết những vướng mắc, thoả mãn những nhu cầu, mong muốn của nhân dân
nói chung và của mỗi người dân nói riêng. Nếu chính quyền cấp xã làm việc
có hiệu quả thì đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ dễ dàng đi
vào cuộc sống, trở thành hoạt động thực tế của nhân dân, tạo ra sự phấn khởi,
sự tin tưởng của nhân dân vào Đảng và Nhà nước; đồng thời tạo ra sự hiểu
biết, thông cảm lẫn nhau giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Ngược lại, nếu
12



chính quyền cấp xã không giải quyết một cách thấu đáo những thắc mắc,
vướng mắc của nhân dân, các cán bộ, công chức xã làm việc không tốt có thể
sẽ gây nên nhiều phản ứng tiêu cực của nhân dân đối với chính quyền nhà
nước, với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thậm chí có thể gây
mất đoàn kết giữa các dòng họ, thôn, xóm... trong xã.
Tóm lại, chính quyền cấp xã giải quyết công việc trên mọi phương
diện, do vậy ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của Đảng và Nhà nước đối với
nhân dân. Nhân dân đánh giá uy tín của Đảng và Nhà nước thông qua các
công việc cụ thể hàng ngày của chính quyền cấp xã; chất lượng các dịch vụ
của chính quyền, nhu cầu dân sinh, dân chủ trong nhân dân, quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân.
Do vậy, với vị trí vừa là cơ quan Nhà nước trực tiếp quản lý các lĩnh
vực đời sống xã hội của nhân dân địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho
tiếng nói của nhân dân địa phương, chính quyền cấp xã có một vị trí vô cùng
quan trọng trong hệ thống các cơ quan hành chính của nước ta.
1.1.1.3. Tổ chức bộ máy cấp xã
Xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở ở Việt Nam, cùng với phường và thị
trấn. Xã là đơn vị hành chính ở nông thôn, ngoại thành và ngoại thị.
Chính quyền cấp xã gồm có: Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn
(gọi chung là Hội đồng nhân dân xã) và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
(gọi chung là Ủy ban nhân dân xã). Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân xã và Ủy ban nhân dân xã theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân 2003.
Theo quy định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân,
do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương
và cơ quan nhà nước cấp trên”.
13



Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân xã và
là cơ quan hành chính nhà nước ở cấp xã. Uỷ ban nhân dân xã do Hội đồng
nhân dân xã bầu ra gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và uỷ viên. Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân xã là đại biểu Hội đồng nhân dân xã.
Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân xã là cơ quan tham
mưu, giúp Uỷ ban nhân dân xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa
phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của Uỷ
ban nhân dân xã và theo quy định của pháp luật, chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ
chức, biên chế và công tác của Uỷ ban nhân dân xã, đồng thời chịu sự chỉ đạo,
kiểm tra về nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên.
1.1.2. Công chức xã - Khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
1.1.2.1. Khái niệm công chức xã
Công chức là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Đây là khái niệm phản ánh đặc sắc riêng của nền công vụ và tổ
chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia. Ở các quốc gia tồn tại nhiều Đảng
phái chính trị, công chức chỉ được hiểu là những người giữ chức vụ thường
xuyên trong các cơ quan nhà nước, được xếp vào ngạch, bậc công chức,
hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Còn ở những nước chỉ có duy nhất một
Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội thì quan niệm công chức được mở rộng
hơn, ngoài những đối tượng trên còn có những người làm việc trong tổ chức
Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội.
Điều 4, luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm
2008, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 quy định:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
14



trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan đơn vị thuộc
Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị
sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước;
đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công
lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo
quy định của pháp luật.
Hiện nay, theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 và theo quy định tại
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ “về
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức
cấp xã và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”, thì công
chức cấp xã gồm:
+ Trưởng công an;
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - Thống kê;
+ Địa chính - Xây dựng - Đô thị và môi trường (đối vơi phường, thị
trấn) hoặc Địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng và môi trường ( đối với xã );
+ Tài chính - Kế toán;
+ Tư pháp - Hộ tịch;
+ Văn hóa - Xã hội.
Số lượng công chức cấp xã được bố trí theo xếp loại đơn vị hành chính
cấp xã thực hiện theo quy định tại Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27
tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về việc phan loại đơn vị hành chính xã,
phường, thị trấn.
1.1.2.2. Đặc điểm công chức cấp xã
15



Cán bộ, công chức cơ sở nói chung và đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ
tịch cấp xã nói riêng là nguồn nhân lực trong bộ máy chính quyền cơ sở, là bộ
phận cấu thành của đội ngũ cán bộ, công chức nước ta. Do tính chất nhiệm
vụ, đội ngũ công chức chuyên môn cấp xã có những điểm khác với công chức
cấp huyện, tỉnh và trung ương. Đội ngũ công chức cấp xã ở thành phố Tuyên
Quang có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Là những người thường xuyên tiếp xúc với dân, trực tiếp lắng nghe ý
kiến, nguyện vọng của nhân dân. Đội ngũ công chức chuyên môn này là một
đội ngũ quan trọng trong hệ thống chính quyền xã. Họ là những người nắm rõ
chính sách, pháp luật của Nhà nước, là đội ngũ tham mưu cho chủ tịch, các
phó chủ tịch xã phụ trách về các lĩnh vực chuyên môn phụ trách.
- Trong công việc, công chức chuyên môn là người đóng nhiều vai trò
khác nhau. Họ vừa là những người đại diện cho Nhà nước, thực hiện công
quyền trong lĩnh vực chuyên môn của mình, vừa là cấp thừa hành, tham mưu
cho lãnh đạo Uỷ ban nhân dân, đồng thời cũng là những tuyên truyền viên về
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực
mình phụ trách đến người dân địa phương.
- Đội ngũ này đảm trách nhiều lĩnh vực cụ thể như: văn hoá - xã hội, an
ninh - trật tự, tài chính, đất đai…do đó họ không những là người thay mặt
Nhà nước quản lý về các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn mà còn là
người có vai trò phải đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Thực tế cho thấy nếu công chức ở xã có trình độ, năng lực trong tham mưu,
trong quá trình giải quyết những công việc hàng ngày và những mâu thuẫn
phát sinh ngay từ bước đầu thì sẽ hạn chế được những khiếu kiện, tranh chấp
cũng như những bức xúc trong nhân dân, tạo cơ sở cho sự ổn định chính trị,
xã hội trên địa bàn xã.
- Đội ngũ công chức chuyên môn xã công tác ở những địa bàn khác
16



nhau, nơi có những đặc thù phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, trình độ dân trí,
phong tục tập quán rất riêng. Đa phần trong số họ là những người xuất thân ở
địa phương, vì thế họ dễ dàng nắm bắt được tình hình địa phương, các mối
quan hệ láng giềng, họ hàng, dòng tộc; tâm tư, nguyện vọng của người dân,
tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết công việc.
- Đội ngũ công chức xã chưa được đào tạo, bồi dưỡng cập nhật kiến
thức thường xuyên; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế, chủ yếu giải
quyết công việc theo kinh nghiệm từ thực tiễn.
Qua khảo sát thực tế ở thành phố Tuyên Quang, một số lượng khá lớn
công chức cấp xã có bằng trung cấp chuyên nghiệp. Khi nhận nhiệm vụ chỉ
được tập huấn ngắn ngày. Nhiều công chức lạc hậu thông tin. Nhìn chung, họ
giải quyết công việc hàng ngày chủ yếu theo kinh nghiệm thực tế.
- Đội ngũ công chức cấp xã ở thành phố Tuyên Quang hoạt động trong
môi trường có nhiều mối quan hệ xã hội đan xen, phức tạp. Trong công việc,
họ là công chức nhưng trong cuộc sống, sinh hoạt, trong làng xóm, họ là con,
là cháu, là trưởng tộc… Mối quan hệ xã hội đan xen phức tạp ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình thực thi công vụ của họ.
- Nhìn chung, đời sống của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở thành
phố Tuyên Quang còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Họ vừa làm việc hành
chính trên công sở nhưng nhiều cán bộ vẫn phải tham gia lao động sản xuất,
làm nghề phụ để tăng thêm thu nhập, để nuôi con học hành. Trong khi đó,
công việc hành chính của không ít cán bộ, công chức như công an, quản lý đất
đai, thuế vụ… lại diễn ra bất kể ngày, đêm. Họ thực sự vất vả trong cuộc sống
và trong công việc. Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến năng lực thực thi
công vụ của đội ngũ công chức này.
Công chức cấp xã là những người phải giành phần lớn thời gian lao
động làm việc công để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
17



Là những người gần dân, sống trong dân, trực tiếp tổ chức triển khai
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, gắn bó với nhân dân.
Hoạt động thực thi công vụ của họ chịu sự giám sát trực tiếp của nhân dân,
một số chưa thoát ly khỏi sản xuất, gắn bó với lợi ích gia đình, họ tộc, có
quan hệ họ hàng láng giềng. Chính nhờ hiểu dân, thông thạo những phong tục
tập quán, tâm lý, truyền thống của người dân trên địa bàn nên họ có điều kiện
thuận lợi trong việc thuyết phục, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Có tính ổn định thấp so với cán bộ công chức nhà nước cấp trên. Về cơ
bản, ít có sự điều động, luân chuyển, họ làm việc tại chỗ (tại nơi sinh sống). Về
nghĩa vụ, trách nhiệm gần giống như cán bộ, công chức cấp trên, có chế độ làm
việc và được hưởng chính sách như cán bộ, công chức hành chính nhà nước.
Có tính chuyên môn hóa thấp, kiêm nhiệm nhiều. Tổ chức bộ máy và
phương tiện làm việc không đồng bộ như cấp trên, mặc dù được bố trí theo
chức danh cụ thể trong bộ máy nhà nước ở cơ sở. Nhìn chung, trình độ và
năng lực của công chức cấp xã còn nhiều hạn chế , chưa được đào tạo đã làm
quản lý, lãnh đạo, không đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ.
Công chức cấp xã vừa là công chức nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi
môi trường sản xuất, kinh doanh. Cán bộ, công chức cấp trên là những công
chức Nhà nước, làm công ăn lương, bản thân họ và gia đình sống bằng tiền
lương, nghề nghiệp của họ. Còn hầu như công chức cấp xã đều trực tiếp sống
và làm ăn trên mảnh vườn, khổ ruộng ngay trên quê hương của mình chứ
không thoát ly hẳn sản xuất mà hằng ngày họ vừa thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao, vừa tham gia sản xuất, kinh doanh cùng gia đình, người thân,
có sở hữu tư liệu sản xuất (ruộng, vườn, cửa hàng, dịch vụ...).
1.1.2.3. Vị trí, vai trò của công chức cấp xã
Công chức cấp xã có vị trí rất quan trọng trong hệ thống chính quyền 4
18



cấp của nước ta hiện nay. Bởi lẽ cấp xã là những người trực tiếp thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
nhiệm vụ cấp trên giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống hằng ngày của
nhân dân ở địa phương.
Trong hệ thống tổ chức chính quyền ở nước ta hiện nay, công chức cấp
xã có vị trí “gần dân” nhất. Họ trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, làm cầu nối
giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Họ có vai trò rất quan trọng trong việc
quyết định hiệu quả của hệ thống chính trị cơ sở nói riêng và hệ thống chính
trị nói chung. Công chức cấp xã có vị trí trực tiếp thực hiện và bảo đảm trên
thực tế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước ,
quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân có được tôn trọng và bảo đảm thực
hiện hay không, trước hết phải được thể hiện ở hoạt động của chính quyền
cấp xã, mà trực tiếp là thông qua chất lượng của cán bộ, công chức cấp xã.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng
của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”
[27,tr.371].
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta
luôn xác định, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Trong đó, “ cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của
cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [5,tr.34].
Ở nước ta, cấp xã có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ trong cơ cấu
tổ chức quyền lực nhà nước mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng dân cư và toàn thể người
dân trong xã; là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là mắt xích quan
trọng trong cư chế thực hiện quyền lực nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải thực hiện ở cấp xã. Vai trò của
19



công chức cấp xã được thể hiện qua các mối quan hệ: với đường lối, chính
sách và pháp luật; với bộ máy chính quyền; với công việc và với quần chúng
nhân dân, cụ thể ở các điểm cơ bản sau:
Quan hệ giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với công chức cấp xã mối
quan hệ nhân quả. Công chức cấp xã có phẩm chất và năng lực tốt mới có thể
cụ thể hóa, bổ sung hoàn chỉnh đường lối và tổ chức thực hiện tốt đường lối.
Nếu công chức cấp xã không vững mạnh thì cho dù đường lối, nhiệm vụ
chính trị có đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực. Như vậy, công chức cấp
xã góp phần quyết định sự thành bại của đường lối và nhiệm vụ chính trị của
Đảng và Nhà nước.
Công chức cấp xã là những người trực tiếp đem chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng
thời nắm bắt tình hình triển khai thực hiện chủ trương đường lối của Đảng và
chính sách pháp luật của nhà nước phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự
điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, vai
trò của công chức cấp xã cũng có thể là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và
quần chúng nhân dân. Là nhân tố chủ yếu, hàng đầu và là nhân tố “động” nhất
ở cơ sở, tuy nhiên công chức cấp xã lại chịu sự chi phối, ràng buộc của tổ
chức. Tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã buộc người công chức cấp xã phải
hoạt động theo những nguyên tắc , khuôn khổ nhất định. Tổ chức bộ máy
chính quyền cấp xã khoa học và hợp lý sẽ nhân sức mạnh của công chức cấp
xã lên gấp nhiều lần. Công chức cấp xã chỉ có sức mạnh khi gắn với tổ chức
chính quyền và nhân dân, nếu tách rời thì công chức cấp xã mất sức mạnh
quyền lực và hiệu lực do nhân dân tạo nên.
Công chức cấp xã là lực lượng “nòng cốt” trong quản lý và tổ chức
công việc ở cấp xã. Mỗi công chức cấp xã được giao thực hiện một khối
lượng công việc rộng, nhiều và có tác động ảnh hưởng lớn trong xây dựng
20



Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Chính họ
cũng có khả năng đóng góp một khối lượng lớn ý kiến đề xuất với các cơ
quan Nhà nước cấp trên để xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp
hướng tới Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Là những người gần dân nhất, có vai trò trực tiếp bảo đảm kỷ cương phép
nước tại cơ sở, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội, nhăn chặn các hành vi vi
phạm pháp luật. Họ là những người đóng vai trò tiên phong, đi đầu trong đấu
tranh chống các hiện tượng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền và các tiêu cực
khác, làm cho tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền cấp xã trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thông qua hoạt động của công chức
cấp xã, nhân dân thể hiện được quyền làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự
quản của mình.
Tóm lại, công chức cấp xã có vị trí, vai trò hết sức to lớn, trong nhiều
năm qua, đội ngũ công chức cấp xã ở nước ta đã khẳng định được vị trí, vai
trò quan trọng của mình, đã có nhiều đóng góp to lớn trong sự phát triển kinh
tế - xã hội ở cơ sở, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Vị trí, vai trò công chức cấp xã ở thành phố Tuyên Quang
Cấp xã là nền tảng của hệ thống chính trị, vì vậy đội ngũ công chức
chuyên môn cấp xã ở thành phố Tuyên Quang giữ một vị trí hết sức quan
trọng trong việc triển khai thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trên phạm vi của xã; là những người gần
dân nhất, hàng ngày tiếp xúc và trực tiếp giải quyết các công việc cho người
dân; là nơi tham mưu cho các cấp lãnh đạo quyết định các vấn đề phát triển
kinh tế, giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội ở địa phương; là nơi đúc kết
những kinh nghiệm thực tiễn phong phú nhằm bổ sung, hoàn chỉnh lý luận,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cấp trên.
21



×