Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG QUẢN lý, sử DỤNG hồ kẻgỗ TỈNH hà TĨNH và đề XUẤT BIỆN PHÁP KHAI THÁC HIỆU QUẢ, GIẢM THIỂU rủi RO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.67 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------------

Nguyễn Thị Phƣơng Dung

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG
HỒ KẺGỖ TỈNH HÀ TĨNH VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP
KHAI THÁC HIỆU QUẢ, GIẢM THIỂU RỦI RO

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------

Nguyễn Thị Phƣơng Dung

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG
HỒ KẺ GỖ TỈNH HÀ TĨNH VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP
KHAI THÁC HIỆU QUẢ, GIẢM THIỂU RỦI RO

Chuyên ngành: Khoa học môi trường
Mã số: 60440301

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN THỊ HÀ
GS. TS. YOSHIRO HIGANO



Hà Nội - 2014


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn tới PGS. TS. Nguyễn Thị
Hà – Giảng viên Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã
hướng dẫn tận tình, chu đáo và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Môi trường, Trường
Đại học Khoa học Tự nhiên, các thầy cô bộ môn Công nghệ Môi trường đã trang
bị những kiến thức cơ bản và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập cũng như trong thời gian thực hiện luận văn thạc sĩ khoa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn GS. TS. Yoshiro Higano – Giảng viên Khoa Môi
trường và Sự sống, Trường Đại học Tsukuba đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều
kiện hỗ trợ tôi trong thời gian học tập trao đổi tạiTrường Đại học Tsukuba, Nhật
Bản.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các lãnh đạo và cán bộ Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Hà Tĩnh và Công ty TNHH Thủy lợi Nam Hà Tĩnh đã nhiệt tình
giúp đỡ và tạo điều kiện hỗ trợ tôi trong thời gian thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động viên và
giúp đỡ tôi khắc phục những khó khăn trong quá trình học tập và hoàn thành
luận văn thạc sĩ khoa học.

Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Học viên

Nguyễn Thị Phương Dung

3



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BOD :

Nhu cầu oxy sinh hóa

BTNMT : Bộ Tài nguyên và Môi trường
COD :

Nhu cầu oxy hóa học

DO :

Oxy hòa tan

ĐTM :

Đánh giá tác động môi trường

QCVN :

Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia

TCCP :

Tiêu chuẩn cho phép

TNHH :


Trách nhiệm hữu hạn

TSS :

Tổng rắn lơ lửng

TNHH :

Trách nhiệm hữu hạn

UBND :

Ủy ban nhân dân

VWRAP:

Dự án hỗ trợ Thủy lợi Việt Nam

4


MỞ ĐẦU

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng mưa trung
bình tương đối cao nhưng phân bố không đồng đều. Tính đến nay nước ta đã xây
dựng được trên 6500 hồ chứa thủy lợi với tổng dung tích trữ nước khoảng 11 tỷ m3
trong đó có 560 hồ chứa có dung tích trữ nước lớn hơn 3 triệu m3 hoặc đập cao trên
15m, 1752 hồ có dung tích từ 0,2 triệu đến 3 triệu m3 nước, còn lại là những hồ đập
nhỏ có dung tích dưới 0,2 triệu m3 nước. Ngoài mục đích chủ yếu trữ nước và điều
hòa cải tạo cảnh quan môi trường sinh thái, hồ chứa còn được sử dụng để cấp nước

cho nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt, có vai trò quan trọng trong hệ thống thủy
lợi và thủy điện, điều tiết lũ giảm nhẹ thiên tai, đảm bảo an sinh xã hội. Hệ thống hồ
chứa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân tuy nhiên việc quản lý và
khai thác sử dụng vẫn còn nhiều bất cập.
Hà Tĩnh là tỉnh thuộc Duyên Hải Bắc Trung Bộ – Việt Nam, nằm phía Đông
dãy Trường Sơn, có địa hình hẹp dốc dần từ Tây sang Đông. Diện tích toàn tỉnh là
599.782ha với địa hình đa dạng, bao gồm vùng đồi núi, trung du, đồng bằng và biển
[22].
Hà Tĩnh có nguồn nước phong phú nhờ hệ thống sông suối hồ đập khá dày
đặc. Hà Tĩnh nằm trong lưu vực sông Ngàn Sâu, thuộc loại nhiều nước nhất trong
hệ thống sông Cả. Tổng lượng nước nhiều năm tính tới cửa sông là 6,15 km3, ứng
với lưu lượng trung bình năm là 195m3/s. Mạng lưới sông ngòi ở Hà Tĩnh tuy nhiều
nhưng ngắn, dài nhất là sông Ngàn Sâu 131km, ngắn nhất là sông Cày 9km. Toàn
tỉnh có 357 hồ chứa với tổng dung tích trữ trên 767 triệu m3, 282 trạm bơm có tổng
lưu lượng 338.000 m3/s, 48 đập dâng tổng lưu lượng cơ bản 6,9 m3/s. Với trữ lượng
này hiện tại Hà Tĩnh đã phục vụ tưới được 47.737 ha/vụ [22]. Tuy lượng nước sông
khá lớn nhưng việc sử dụng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt còn bị
hạn chế do bị khô cạn vùng thượng và nhiễm mặn ở hạ lưu vào mùa khô và lũ lụt
vào mùa mưa. Trong những năm qua, tỉnh đã tích cực đẩy mạnh công tác kiên cố
hóa kênh mương, đến năm 2010 tổng số kênh mương được kiên cố hóa trên 50%,
diện tích chủ động tưới là 100.046 ha, tăng 13,68% so với năm 2005 [16].
5


Kẻ Gỗ là hồ chứa nhân tạo lớn nhất miền Trung, thuộc xã Cẩm Mỹ, huyện
Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Công trình được khởi công xây dựng từ năm 1976 đến
năm 1978 bắt đầu tích nước. Năm 1983 công trình hoàn thành và chính thức đưa
vào khai thác. Hồ dài 29 km với dung tích tối đa là 425 triệu m3. Hồ có nhiệm vụ
tích nước tưới cho 21.136 ha đất canh tác của hai huyện Thạch Hà và Cẩm Xuyên,
kết hợp nuôi cá và phòng chống lũ cho hạ du [12]. Những năm gần đây do ảnh

hưởng của biến đổi khí hậu, nắng nóng liên tục gây hạn hán vào mùa khô và lượng
mưa tăng mạnh. Điển hình là trận lũ lớn cuối tháng tháng 10 năm 2010 đã khiến
nhiều khu vực ở Hà Tĩnh chìm sâu trong lũ, gây thiệt hại về người và vật chất hàng
nghìn tỷ đồng. Nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống đê đập, hằng năm cứ đến mùa
mưa Hồ Kẻ Gỗ bắt buộc phải xả lũ gây ngập úng trên diện rộng, thiệt hại không nhỏ
đến đời sống dân cư vùng hạ du.
Do đó, việc đánh giá hiện trạng quản lý, sử dụng hồ Kẻ Gỗ là rất cần thiết để
đưa ra biện pháp giảm thiểu thiệt hại khi sử dụng nhằm đảm bảo an sinh xã hội mà
vẫn giữ an toàn cho hồ chứa và hệ thống đê đập.
Tên đề tài: “Đánh giá hiện trạng quản lý, sử dụng hồ Kẻ Gỗ tỉnh Hà Tĩnh
và đề xuất biện pháp khai thác hiệu quả, giảm thiểu rủi ro”.
 Mục tiêu đề tài
Đánh giá hiện trạng về chất lượng nước và công tác quản lý, sử dụng hồ Kẻ
Gỗ nhằm đưa ra các giải pháp đề xuất phù hợp đểtăng cường hiệu quả sử dụng và
phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro môi trường.
 Nội dung nghiên cứu
-

Đánh giá chất lượng môi trường nước và hoạt động khai thác, sử dụng nước hồ
Kẻ Gỗ tỉnh Hà Tĩnh

-

Đánh giá hiện trạng công tác quản lý hồ Kẻ Gỗ

-

Đánh giá các vấn đề, tác động đến môi trường tự nhiên, xã hội và rủi ro liên
quan đến sử dụng nước hồ Kẻ Gỗ


-

Đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm sử dụng hiệu quả, an toàn hồ Kẻ Gỗ

6


CHƢƠNG 1 – TỔNG QUAN
1.1.

TỔNG QUAN VỀ HỒ CHỨA VÀ CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƢỜNG
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
Nước phân bố không đồng đều theo thủy vực trong không gian. Tổng lượng

nước của thủy quyển vào khoảng 1,39 triệu km3, trong đó 97% tập trung ở biển và
đại dương, chiếm 71% bề mặt Trái đất, gần 2% thể tích nước nằm trong băng tuyết
hai cực và núi cao. Khoảng 1% còn lại phân bố như sau: trong sông ngòi 0,0001%,
hồ 0,0007%, nước ngầm 0,59%, ẩm đất 0,005%, khí quyển 0,001% và sinh quyển
0,0001%. Đặc biệt lượng nước trong sông ngòi toàn cầu chỉ có 1.700 km3. Lượng
mưa hàng năm trên lục địa vào khoảng 105.000 km3, mưa phân bố không đều theo
không gian và thời gian [3]. Dòng chảy sông ngòi là nguồn nước thuận lợi nhất cho
các đối tượng dùng nước khác nhau, do mạng lưới sông suối phát triển, tiếp cận
thuận tiện, nước tái tạo liên tục về lượng và về chất, chất lượng nước đa phần phù
hợp với các nhu cầu dùng nước khác nhau. Nhân tố hình thành dòng chảy là tổ hợp
tác động khí hậu, địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, thực vật và nhân sinh. Dòng chảy
phân bố không đều theo không gian và thời gian. Chế độ nước trong đa phần các
sông suối phân hóa thành hai mùa rõ rệt là mùa lũ và mùa kiệt. Dòng chảy mùa lũ
lớn, hình thành chủ yếu bởi dòng cấp trên bề mặt sườn dốc, chảy nhanh và mạnh,
tiềm ẩn nhiều nguy cơ tai biến, gọi là tài nguyên nước không ổn định, hay tài
nguyên nước tiềm năng. Con người chỉ khai thác được nó nếu có những giải pháp

giữ nó lại lâu hơn trong lưu vực, ví dụ như dùng hồ chứa nhân tạo, trồng rừng đầu
nguồn. Mức độ dùng nước của con người phụ thuộc vào nhu cầu, mức sống, văn
hóa, khả năng khai thác của công nghệ, tài chính và khả năng đáp ứng của tự nhiên.
Tổng mức tiêu thụ nước của nhân loại hiện đạt khoảng 35.000 km3/năm, trong đó
8% cho sinh hoạt, 23% cho công nghiệp và 63% cho nông nghiệp[3]. Nhu cầu dùng
nước của con người tăng theo thời gian do tăng dân số và tăng mức sống. Về mặt
sinh lý, mỗi người chỉ cần 1-2 lít nước mỗi ngày, nhưng để đáp ứng cho các nhu cầu
khác trung bình mỗi người cần 250 lít/ ngày cho sinh hoạt, 1.500 lít cho hoạt động

7


sản xuất công nghiệp và 2.000 lít cho hoạt động nông nghiệp. Cùng với sự nâng cao
mặt bằng mức sống, những cảnh quan liên quan với nước như mặt hồ, thác nước,
sông ngòi tự nhiên cũng ngày càng nâng cao giá trị, làm tăng giá thành nước cấp
tiêu thụ.
Hồ là những phần trũng của địa hình có nước tĩnh thường xuyên. Trên thế
giới có khoảng 2,8 triệu hồ tự nhiên, trong đó có 145 hồ có diện tích mặt nước trên
100km2, chứa 95% tổng lượng nước các hồ. Riêng hồ Bai Can, hồ sâu nhất thế giới,
đã chứa 23.000 km3 nước, bằng 1/4 tổng lượng nước các hồ và bằng 1/10 lượng
nước ngọt toàn cầu. Không phải tất cả các hồ trên thế giới đều chứa nước ngọt, Biển
hồ Caxpien là một hồ chứa nước mặn, hồ Chết là hồ chứa loại nước mặn nhất thế
giới [13]. Đặc trưng hình thái quan trọng nhất của hồ là diện tích mặt nước và dung
tích hồ, chúng biến đổi theo sự thay đổi độ cao mặt nước hồ. Đối với những hồ có
bờ đáy ổn định, quan hệ giữa diện tích mặt nước và dung tích hồ với độ sâu tương
đối ổn định và được biểu diễn dưới dạng văn bản hoặc đồ thị. Diện tích mặt hồ càng
lớn, khả năng trao đổi chất và năng lượng với khí quyển càng lớn, trong đó, đáng
lưu ý là những quá trình như bốc hơi, xâm nhập oxy từ khí quyển, đốt nóng, sóng…
Tỷ lệ dung tích trên độ sâu hồ càng lớn thì chế độ nước trong hồ càng ổn định, đồng
thời sự phân bố các đặc trưng thủy lý, thủy hóa, thủy sinh và chế độ động lực càng

kém đồng nhất. Dòng chảy trong hồ có vai trò làm tăng xáo trộn trong khối lượng
nước, do đó nó là một nhân tố tích cực cho quá trình tự làm sạch và đồng nhất các
đặc trưng thủy lý, thủy hóa theo không gian.
Các hồ chứa lớn trên thế giới đều được xây dựng theo phương thức đắp đập
ngăn sông. Những con đập đầu tiên đã được xây dựng từ khoảng 5.000 năm trước
trên sông Ti-gri và Ophrato ở Mezopotamia, trên sông Nin ở Hy Lạp và trên sông
Indu ở Pakistan. Tất cả các đập xa xưa được xây dựng chủ yếu để phục vụ cấp nước
tưới cho nông nghiệp và kiểm soát lũ. Mục tiêu xây đập thủy điện đã được thực
hiện từ năm 1890. Những năm giữa của thế kỷ 20 có 5.000 đập lớn đã được xây
dựng. Tốc độ xây dựng đập tăng nhanh và đến cuối thế kỷ trước đã có khoảng
45.000 đập lớn đang hoạt động. Tổng chi phí của việc xây dựng đập trong thế kỷ 20
8


ước tính khoảng 2000 tỷ USD. Trung Quốc là nước có nhiều đập lớn nhất, với
khoảng hơn 20.000 đập, Mỹ có khoảng 6.400, Ấn Độ 4.000, Nhật và Tây Ban Nha
có hơn 1.000 đập. Năm 1992, Trung Quốc đã tiến hành công trình trên sông Dương
Tử trị giá 30 tỷ USD với đập nước cao 185m có chức năng cấp nước, điều tiết lũ,
cung cấp điện (12% nhu cầu toàn quốc). Công trình làm 1,3 triệu người phải di dời
và ngập 41.000 ha đất nông nghiệp[13]. Trên thế giới đã xây dựng hơn 10.000 hồ
chứa, phục vụ nhiều mục đích kinh tế xã hội như: sản xuất điện tiêu thụ, trữ và cấp
nước tưới cho các vùng đất nông nghiệp, điều tiết chế độ dòng chảy, cắt lũ và tăng
cường dòng chảy kiệt, cải thiện hệ sinh thái,... Các lợi ích trên đã góp phần quan
trọng cho sự phát triển ở nhiều nước, tuy nhiên, cũng có những đập không đáp ứng
được sự mong đợi về mặt tài chính, kỹ thuật và kinh tế như dự kiến, đặc biệt là khi
so sánh với các giải pháp thay thế khác có thể thực hiện được. Đồng thời những tác
động bất lợi của việc xây dựng đập về mặt môi trường, sinh thái và xã hội vượt xa
dự kiến ban đầu, dẫn đến gia tăng mức phản đối của cộng đồng đối với việc xây
đập. Do đó xu thế phát triển nhanh các hồ đập đã chững lại tại các quốc gia phát
triển. Thậm chí một số đập đã xây dựng cũng bị hủy bỏ, ví dụ như Mỹ đã loại bỏ

hơn 500 đập nhỏ trong những năm gần đây. Hơn một nửa số đập thủy điện trên toàn
thế giới đã được quy hoạch và xây dựng bỏ qua việc đánh giá tác động môi trường
một cách đầy đủ [13]. Do đó, nhiều vấn đề môi trường đã xảy ra trong vùng thượng
và hạ lưu đập, cả trên khu vực và trong thủy vực, tác động xấu đến hệ sinh thái,
điều kiện tự nhiên và con người.
Các hồ chứa đã làm giảm tốc độ đổi mới nước sông toàn cầu 3-4 lần, 80% hồ
chứa có hiện tượng phì dưỡng trong những năm đầu. Cá trong hồ chứa sẽ khác so
với cá trong sông tự nhiên, nói chung lượng cá lúc đầu tăng rất nhanh, nhưng sau đó
lại giảm, do năng suất tổng thể thấp hơn trong tự nhiên, đập chắn ngang sông ngăn
cản sự di cư của thủy sinh. Giải pháp sử dụng các bậc thang cho cá vượt ngàn được
sử dụng hiện quả đối với cá hồi, nhưng không có hiệu quả đối với các loài cá nhiệt
đới.Biển hồ Aran, lớn thứ 4 trên thế giới, đang bị mặn hóa và thu hẹp, hệ sinh thái
nước và hệ sinh thái trên cạn vùng quanh hồ bị khủng hoảng nghiêm trọng. Nguyên
9


nhân là do các hoạt động nông nghiệp trên lưu vực đã khai thác quá mức lượng
nước của các con sông đổ vào hồ, làm cho lượng dòng chảy vào hồ hàng năm nhỏ
hơn rất nhiều so với bốc hơi từ mặt hồ.
Hệ quả của việc sử dụng các giải pháp công trình phân phối lại nước theo
không gian và thời gian, như dùng hồ chứa nhân tạo, đào lấp, thay đổi mạng lưới và
mật độ sông ngòi, chuyển dòng chảy, thay đổi cán cân nước khu vực, thay đổi chế
độ nước, thay đổi các quá trình tự nhiên trong thủy vực, như chuyển vận phù sa, lưu
thông sinh vật, xói bồi bờ sông và cửa sông ven biển,… Trong nhiều trường hợp,
những thay đổi này kéo theo sự suy thoái, ô nhiễm hệ sinh thái, cạn kiệt tài nguyên.
Hệ quả môi trường của việc xây dựng hồ chứa dạng đập trên các sông lớn là rất
nghiêm trọng, phức tạp và diễn biến lâu dài. Cư dân vùng lòng hồ phải di dời đến
nơi ở mới, khai phá những vùng đất mới, khai phá những vùng đất mới, nhiều giá
trị văn hóa vật chất và tinh thần bị đe dọa mai một, điều kiện phát triển gặp khó
khăn. Hệ sinh thái vùng lòng hồ bị hủy diệt hoàn toàn, các hệ lân cận chịu những

thay đổi khó lường hết được, nhiều đoạn sông ở hạ lưu xói lở bất thường, sản lượng
cá vùng cửa sông ven biển giảm, tốc độ vùng bờ tiến ra biển giảm một nửa, chất
lượng hệ sinh thái rừng ngập mặn suy giảm, số lượng chim di cư giảm,…
Diện tích ngập càng lớn, số dân phải di dời càng lớn. Tuy nhiên, di dân
không đơn thuần là sự di chuyển của những con người mà là sự di dời và làm biến
dạng những bản sắc văn hóa địa phương vốn gắn liền với vùng đất sinh thành ra nó,
vì diện tích bị ngập thường là đất đai ven sông, nơi có điều kiện hình thành và duy
trì các điểm dân cư với các nền văn hóa truyền thống đặc thù. Định cư dân vùng
lòng hồ cũng là một vấn đề lớn, đi kèm với nó là việc thiết lập mới toàn bộ hạ tầng
cơ sở cho điểm dân cư, tạo điều kiện cho bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống. Trong nhiều trường hợp xây đập, quá trình tái định cư của những
người vốn sống trong và trên vùng đất bị ngập thường được xác định bởi chính phủ,
không qua quá trình tư vấn và có sự tham gia của người bị thiệt hại. Tầm quan
trọng, phạm vi của việc di dời, tác động kinh tế xã hội không được đánh giá thích

10


đáng trước. Hệ quả thường thấy là nảy sinh mâu thuẫn giữa người bị di dời với
chính quyền và nhà đầu tư, giữa người bị di dời với dân cư gốc vùng tái định cư.
Tính đến nay nước ta đã xây dựng được trên 6500 hồ chứa thủy lợi với tổng
dung tích trữ nước khoảng 11 tỷ m3 trong đó có 560 hồ chứa có dung tích trữ nước
lớn hơn 3 triệu m3 hoặc đập cao trên 15m, 1752 hồ có dung tích từ 0,2 triệu đến 3
triệu m3 nước, còn lại là những hồ đập nhỏ có dung tích dưới 0,2 triệu m3 nước.
Nhận định chung là hơn một nửa trong tổng số hồ đã được xây dựng và đưa vào sử
dụng trên 25 – 30 năm, nhiều hồ đã bị xuống cấp. Những hồ có dung tích từ 1 triệu
m3 nước trở lên phần lớn do Bộ Thủy lợi (trước đây) và Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn (hiện nay) quản lý vốn, kỹ thuật thiết kế và thi công. Các hồ có
dung tích từ 1 – 10 triệu m3 nước phần lớn là do UBND tỉnh quản lý vốn, kỹ thuật
thiết kế thi công. Các hồ nhỏ phần lớn do huyện, xã, hợp tác xã, nông trường tự bỏ

vốn xây dựng và quản lý kỹ thuật. Những hồ tương đối lớn được đầu tư tiền vốn và
kỹ thuật tương đối đầy đủ thì chất lượng xây dựng đập đạt được yêu cầu. Còn
những hồ nhỏ do thiếu thiết bị thi công, lực lượng kỹ thuật và nhất là kinh phí đầu
tư không đủ nên chất lượng đập chưa tốt, mức độ an toàn rất thấp.
Ngoài vai trò quan trọng nhất của hồ chứa là cấp nước cho các mục đích
khác nhau, một số hồ chứa còn có chức năng cắt và điều tiết lũ, bảo tồn hệ sinh thái
tự nhiên, điều hòa vi khí hậu, tạo cảnh quan môi trường sinh thái, du lịch. Các hồ
chứa sau khi được xây dựng và đưa vào sử dụng đã góp phần đáng kể vào phát triển
kinh kế-xã hội của địa phương, đảm bảo cấp nước sinh hoạt, tưới tiêu cho nông
nghiệp. Tuy nhiên cũng xuất hiện nhiều vấn đề về môi trường như việc tận dụng
khai thác du lịch, dịch vụ trên các vùng hồ, chăn nuôi, chăn thả gia súc gia cầm
vùng xung quanh hồ,… Các hoạt động này đã và đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chất lượng nước hồ và cảnh quan môi trường. Ngoài ra còn là các rủi ro, sự cố
đối với du khách khi tham gia đoàn tham quan, thắng cảnh hồ do thiếu công tác bảo
hộ, an toàn. Bên cạnh đó các nguy cơ thiệt hại do sự cố vỡ đập, xả lũ,… từ hồ chứa
cũng gây ngập úng và tác động nghiêm trọng đến các vùng dân cư xung quanh.
Việc sử dụng không hiệu quả và hợp lý nước hồ chứa ở một số nhà máy thủy điện
11


còn gây ra hiện tượng hạn hán thiếu nước vào mùa khô, ảnh hưởng không nhỏ đến
canh tác và năng suất.
Hiện trạng môi trường nước của một số hồ chứa ở Việt Nam: hầu hết môi
trường nước tại các hồ chứa ở Việt Nam có dấu hiệu bị ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, hiện
tượng kỵ khí, đặc biệt là hiện tượng phú dưỡng. Ô nhiễm vô cơ chủ yếu do chất thải
từ các nhà máy công nghiệp thải ra. Ví dụ như nước thải khai thác quặng đổ ra suối
và chảy vào hồ Ba Bể (Bắc Kạn) gây ô nhiễm cục bộ. Hiện nay chất lượng nước hồ
đang bị suy giảm do nước thải sinh hoạt chứa chất hữu cơ đổ xuống sông và theo
dòng chảy đổ vào hồ, dẫn đến ô nhiễm nguồn nước, ví dụ như hồ Thác Bà (Yên
Bái), hồ Trị An (Đồng Nai),... Nguyên nhân là do quá trình bồi lắng, hoạt động nuôi

thủy sản ồ ạt, chất thải nhà máy sản xuất không được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi
xả ra làm ô nhiễm nước hồ.
Hiện tượng kỵ khí thường xảy ra ở các hồ chứa có độ sâu lớn hơn 10m do
chịu ảnh hưởng của phân tầng nhiệt và làm giảm hàm lượng oxy hồ. Cơ chế gồm 3
giai đoạn: giai đoạn đầu là sự thủy phân và lên men các chất hữu cơ phức tạp thành
các chất hữu cơ đơn giản, dễ bay hơi như etanol, các axit béo như axit axetic, axit
butyric, axit lactic, và các khí gas CO2, H2, NH3; độ pH giảm xuống dưới 5. Giai
đoạn 2 là sự lên men, phân hủy các axit béo hữu cơ và các hợp chất hữu cơ chứa
Nitơ, pH của môi trường tăng dần lên. Ở giai đoạn 3, các sản phẩm như axit béo và
các hợp chất chứa Nitơ tiếp tục bị phân hủy bởi các vi khuẩn tạo ra nhiều CO2, CH4.
Độ pH của môi trường tăng lên và chuyển sang môi trường kiềm. Như vậy, sự suy
giảm nồng độ oxi tới mức thiếu hụt cho các chu trình hiếu khí kéo theo hàm lượng
của các ion kim loại trong cột nước tăng, nếu dùng làm nguồn nước cấp cho khu
dân cư sẽ gây ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng.
Hiện tượng phú dưỡng là một dạng biểu hiện của ao hồ bị ô nhiễm do dư
thừa các chất dinh dưỡng nitơ và phốt pho. Sự dư thừa các chất dinh dưỡng này sẽ
thúc đẩy sự phát triển của các loại tảo, rong rêu, dẫn đến hiện tượng “tảo nở hoa”
làm tăng các chất lơ lửng, chất hữu cơ, làm suy giảm lượng oxy trong nước. Các
loại sinh vật này sau khi chết sẽ phân hủy tạo ra một lượng lớn các hợp chất hữu cơ,
12


khi các thực vật bùn lắng xuống hồ, cộng với sự phát triển mạnh của các loài thực
vật ở ven bờ làm cho ao hồ ngày càng nông và mặt hồ dần bị thu hẹp, cuối cùng sẽ
biến thành đầm lầy. Một số hồ bị phú dưỡng nghiêm trọng như hồ Dầu Tiếng (Tây
Ninh), hồ Núi Cốc (Thái Nguyên), hồ Xuân Hương (Đà Lạt),...
Hiện trạng các hệ thống thủy lợi hiện nay đều có chung đặc điểm là đầu thừa
đuôi thiếu (đầu hệ thống ngày càng thừa và cuối hệ thống càng thiếu nước), nếu cứ
để tình trạng như hiện tại có thể gián tiếp làm tăng nguy cơ phát triển các bệnh dịch,
đặc biệt là các bệnh ngoài da, đau mắt. Để đánh giá thực chất mức độ an toàn của

đập, cần xem xét theo nhiều yếu tố như: kỹ thuật, tổ chức và trách nhiệm quản lý,
ảnh hưởng đối với hạ du để từ đó xác định cách ứng xử thích hợp với điều kiện đầu
tư nâng cấp sửa chữa và lực lượng quản lý vận hành.
Đối với các hồ thủy lợi lớn và vừa: về tần suất lũ, hiện tại chỉ mới có các hồ
lớn nằm trong Dự án hỗ trợ Thủy lợi Việt Nam (VWRAP) được tính toán theo tần
suất lũ 1/10.000. Các hồ còn lại vẫn lấy tần suất lũ thiết kế ban đầu. Những hồ còn
lại nếu nâng tần suất lên như tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế Giới (World Bank) đề
nghị thì khối lượng đầu tư để mở thêm tràn, nâng cao đập sẽ vô cùng lớn, khả năng
đầu tư của Nhà nước hiện nay là không khả thi. Trong các hồ này chỉ có những hồ
mà hạ lưu đập có số lượng dân cư lớn, cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng như đường
sắt, quốc lộ, khu kinh tế thì cần xem xét để đầu tư một cách thích hợp. Về cấu tạo
của đập, đa số đập thủy lợi làm bằng đất, dễ dẫn đến nguy cơ lũ tràn qua đập. Biện
pháp đơn giản và rẻ tiền nhất là đắp thêm con chạch từ 1 – 1,5 m trên đỉnh đập, làm
tràn cầu chì ứng với lũ kiểm tra thì chủ động cho đập cầu chì vỡ để hạ mực nước
hồ. Về tràn xả lũ, hầu hết đều được xây dụng bằng bê-tông cốt thép đảm bảo chất
lượng. Những tràn có cửa van điều tiết công tác vận hành bảo dưỡng được tiến hành
thường xuyên. Nhìn chung, đa số tràn xả lũ của các hồ đều làm việc an toàn, ít xảy
ra sự cố. Về tổ chức quản lý, việc thực hiện các quy định của văn bản pháp luật về
an toàn đập đã được thực hiện tương đối đầy đủ, đặc biệt là về mùa lũ. Nhân lực,
phương tiện, vật tư đề phòng các sự cố vỡ đập cũng đã được chuẩn bị với mức có
thể tối đa nên có thể tin cậy được.
13


Đối với các hồ thủy lợi nhỏ, do điều kiện thiết kế, xây dựng chưa tốt, vốn
đầu tư ít nên chất lượng của các đập loại nhỏ là không đảm bảo. Việc xây dựng qua
nhiều năm cộng với mưa lũ triền miên không có kinh phí duy tu bảo dưỡng. Công
trình tràn không được xây dựng bằng vật liệu kiên cố như bê tống cốt thép nên
nhiều công trình không đủ khả năng xả khi có lũ lớn, nguy cơ nước lũ tràn qua đập
của các hồ này là rất cao. Thực tế những sự cố vỡ đập trong những năm vừa qua ở

nước ta đều là những hồ chứa nhỏ. Tuy nhỏ nhưng nhiều hồ chứa khi xảy ra sự cố
vỡ đập đã gây ra những thiệt hại vô cùng lớn, điển hình như vỡ đập Z20 (Hà Tĩnh)
với sức chứa 250.000 m3 làm trôi gần 500mđường sắt Bắc Nam gây gián đoạn tàu
hàng tháng trời;vào đầu những năm 80, vỡ đập ở nông trường Đắc Lắc chứa
500.000 m3 làm chết 27 người. Những ví dụ trên đây cho thấy tầm quan trong cực
kỳ to lớn của công tác an toàn đập ở nước ta.
Đối với những đập lớn được thiết kế và xây dựng bằng những lực lượng kỹ
thuật chuyên nghiệp, được quản lý bởi những tổ chức chính quy của Nhà nước thì
có thể đảm bảo mức an toàn trong giới hạn của tần suất thiết kế kể cả trường hợp có
lũ và động đất. Trong trường hợp lũ vượt tần suất hoặc động đất xảy ra lớn hơn tiêu
chuẩn tính toán thì các đập thủy lợi làm bằng đất mức độ an toàn kém hơn các công
trình làm bằng bê-tông. Đối với những đập nhỏ không đạt được những yêu cầu kỹ
thuật và quản lý theo đúng các tiêu chuẩn và quy chuẩn thì nguy cơ mất an toàn của
đập là rất cao.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Báo cáo hiện trạng môi trường quốc
gia, Hà Nội.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Luật bảo vệ môi trường năm 2005 và
các văn bản liên quan, Hà Nội.
3. Nguyễn Xuân Cự, Nguyễn Thị Phương Loan (2010), Giáo trình Môi trường
và con người, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
4. Cục thống kê Hà Tĩnh (2011), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh năm 2011,
Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
5. Cục thống kê Hà Tĩnh (2012), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh năm 2011,
Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.

6. Cục thống kê Hà Tĩnh (2013), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh năm 2011,
Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
7. Nguyễn Ngọc Dung (2008), Quản lý Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại
học Kiến trúc Hà Nội, Nhà xuất bản Xây dựng.
8. Dự án hỗ trợ Thủy lợi Việt Nam (2011), Báo cáo lập kế hoạch chuẩn bị sẵn
sàng trong trường hợp khẩn cấp (EPP) cho hồ Kẻ Gỗ - tỉnh Hà Tĩnh, Trường
Đại học Thủy lợi.
9. Nguyễn Hải (2000), Điều tra cơ bản về môi trường và giải pháp bảo vệ môi
trường khu vực Hồ Tây, Hà Nội.
10. Hội Khoa học và Kỹ thuật Thủy lợi Hà Tĩnh (2011), Báo cáo thuyết minh
tính toán kỹ thuật lập quy trình vận hành điều tiết hồ chứa Kẻ Gỗ - tỉnh Hà
Tĩnh.
11. Hà Văn Khối (2005), Giáo trình quy hoạch và quản lý nguồn nước, Trường
Đại học Thủy lợi, Nhà xuất bản Nông nghiệp.

15


12. Phạm Thị Hương Lan, Nguyễn Cảnh Thái, Trần Ngọc Huân (2011), ”Nghiên
cứu ảnh hưởng tình huống vỡ đập hồ Kẻ Gỗ - Hà Tĩnh đến vùng hạ du”,
Viện Thủy văn Môi trường và Biến đổi khí hậu, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Phương Loan (2005), Giáo trình Tài nguyên nước, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Tô Trung Nghĩa, Lê Hùng Nam, Viện Quy hoạch Thủy lợi, Xây dựng quy
trình vận hành hệ thống liên hồ chứa Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang phục
vụ cấp nước trong mùa khô cho hạ du lưu vực sông Hồng-Thái Bình.
15. Lê Văn Nghinh, Lê Đình Thành (2003), Điều tra thủy văn và môi trường,
Trường Đại học Thủy lợi, Nhà xuất bản Nông nghiệp.
16. Dương Hồng Sơn (2007), ”Ứng dụng phương pháp đánh giá rủi ro môi
trường cho Phnom Penh”, Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10,

Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường, Hà Nội.
17. Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Hà Tĩnh (2013), Báo cáo hiện trạng môi
trường tỉnh Hà Tĩnh 2013, Hà Tĩnh.
18. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Tĩnh (2000), Những đặc điểm
về khí tượng thủy văn Hà Tĩnh, Hà Tĩnh
19. Tổng cục thống kê Việt Nam (2012), Diện tích, dân số và mật độ dân số năm
2012 phân theo địa phương, Hà Nội.
20. UBND huyện Cẩm Xuyên (2013), Báo cáo quy hoạch sử dụng đất đến năm
2020 – Kế hoạch sử dụng đất 5 năm ký đầu (2011 – 2015), Hà Tĩnh.
21. UBND huyện Thạch Hà (2012), Báo cáo quy hoạch sử dụng đất đến năm
2020 – Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 – 2015), Hà Tĩnh
22. UBND Thành phố Hà Tĩnh, Báo cáo tình hình công tác phòng chống bão lụt
của Thành phố Hà Tĩnh các năm (2010-2013), Hà Tĩnh.
23. UBND tỉnh Hà Tĩnh (2012), Báo cáo Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020,
kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011 – 2015), Hà Tĩnh.

16


Tiếng Anh
24. Asian

Development

Bank

(1994),

”Proceedings


of

the Regional

Consultation”, Managing water resources to meet megacity needs.
25. A.K. Hughes, D.S. Bowles, M. Morris (2009), Scoping study for a guide to
risk assessment of reservoirs, Environment Agency, Bristol, UK.
26. Bradley E. Sample, Glenn W. Suter II (1999), ”Ecological risk assessment in
a large river – reservoir: 4. Piscivorous wildlife”, Environmental Toxicology
and Chemistry, Vol. 18, No. 4, USA.
27. Cherry May Mateo, Naota Hanasaki, Daisuke Komori, Kenji Tanaka,
Masashi Kiguchi, Adisorn Champathong, Thada Sukhapunnaphan, Dai
Yamazaki, and Taikan Oki (2014), ”Assessing the impacts of reservoir
operation to foodplain inundation by combining hydrological, reservoir
management, and hydrodynamic models”, Water Resources Research,
American Geophysical Union, USA.
28. Environment Protection Department (2007), ”Practice in their Environmental
Evaluation and Strategic Environmental Assessment, Final report, Hong
Kong.
29. Jingchun Feng, Zhongnan Duan (2010), ”Research on the Contents and
Indexes of Reservoir Operational Security”, Water Resource and protection,
China.
30. John L. Seitz (1996), Global issues: An introduction, T. J Press Ltd, UK.
31. Jung Min Ahn, Sangjin Lee, Taeuk Kang (2014), Evaluation of dams and
weirs operating for water resource management of the Geum River, Korean.
32. Oanh Luong Nhu, Nguyen Thi Thu Thuy, Ian Wilderspin and Miguel
Coulier (2011), ”A preliminary analysis of flood and storm disaster data in
Viet Nam”,Global Assessment Report on Disaster Risk Reduction, UNDP
and ISDR.
17



33. Tetsuya Sumi, Masahisa Okano, Yasufumi Takata (2004), ”Reservoir
sedimentation management with bypass tunnels in Japan”, Proceedings of
the Ninth International Symposium on River Sedimentation, China.

18



×