Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.92 KB, 5 trang )

Tội cưỡng đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt
Nam
Nguyễn Thị Hường
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Hình sự và tố tụng Hình sự; Mã số: 60 38 01 04
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Văn Độ
Năm bảo vệ: 2014
Keywords. Luật hình sự; Pháp luật Việt Nam; Tội cưỡng đoạt tài sản
Content
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đất nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới
một cách toàn diện từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI cho tới nay và đã đạt được nhiều thành tựu rất
quan trọng. Nền kinh tế chuyển từ chế độ quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao.
Tình hình chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững và ngày càng được tăng
cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới, đời sống nhân dân được cải thiện.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, bên cạnh những thành tựu đã đạt được do tác động
của nhiều nguyên nhân, đã phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực, đe dọa sự ổn định xã hội, ảnh hưởng đến
sự nghiệp đổi mới của toàn dân. Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy tình hình tội phạm
nói chung, các tội xâm phạm sở hữu nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, gây ra hậu quả và tác hại
lớn cho xã hội.
Trong các tội phạm xâm phạm sở hữu, hành vi cưỡng đoạt tài sản được coi là một trong
những hành vi gây hậu quả hết sức nghiêm trọng, là vấn đề gây nhức nhối với toàn xã hội, tội phạm
này vừa phổ biến, đa dạng về hình thức, đối tượng phạm tội lại vừa gây tâm lý hoang mang trong đại
đa số bộ phận dân chúng, gây ảnh hưởng rất lớn tới trật tự an toàn xã hội. Cưỡng đoạt tài sản là tội
phạm xâm hại nghiêm trọng tới cả quan hệ sở hữu và nhân thân, hành vi phạm tội thường được thực
hiện một cách nguy hiểm, côn đồ, công khai với người bị hại, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, kỷ
cường xã hội.
Loại tội phạm này không chỉ tăng về số lượng mà cả diễn biến phức tạp về về đối tượng
phạm tội. Phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn, tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội ngày càng lớn. Tình trạng đó đã và đang gây ra không ít những khó khăn, thách


thức đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong công tác điều tra, truy tố, xét
xử cũng như trong chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh và phòng chống tội phạm, bảo đảm
phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù đã được các cơ quan có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục về pháp luật, các Tòa án
đã áp dụng các hình phạt nghiêm khắc đối với những người có hành vi phạm tội để đấu tranh, nhưng


do chưa có hướng dẫn cụ thể của các cơ quan có thẩm quyền, nên chưa được giải quyết một cách triệt
để. Thực tiễn xét xử cho thấy văn bản pháp luật để các Tòa án áp dụng trong việc xét xử đối với loại
tội này chưa đầy đủ, rõ ràng. Tình trạng đó đã và đang gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến
hành tố tụng trong công tác điều tra truy tố, xét xử cũng như trong chủ động phòng và đấu tranh
chống tội phạm, gây ảnh hưởng đến việc phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm; gây tổn hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Hơn nữa, do các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội cưỡng đoạt tài sản còn chưa
minh bạch, chưa bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, nhất là thiếu quy phạm định nghĩa và một số quy
định liên quan đến các yếu tố định tội và định khung hình phạt nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau, thậm chí không thống nhất trong nhận thức về dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý và thực tiễn
định tội danh đối với tội phạm này. Do vậy, trong một số vụ án cụ thể đã có tình trạng giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có nhận thức khác nhau về việc định tội và định
khung hình phạt khi tiến hành xử lý hình sự đối với hành vi cưỡng đoạt tài sản. Cá biệt, có trường
hợp còn nhầm lẫn trong việc xác định tội danh, áp dụng không đúng pháp luật, thậm chí không làm
sáng tỏ được ranh giới giữa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác hoặc không phân biệt
được sự khác nhau giữa tội cưỡng đoạt tài sản với một số tội phạm có tính chất chiếm đoạt khác trong
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 như: tội cướp tài sản (Điều 133), tội cướp giật tài sản (Điều 136);
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137)…
Để tiếp tục nghiên cứu một cách đầy đủ và làm sâu sắc hơn các vấn đề lý luận về cấu thành
tội phạm (CTTP) này cũng như thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản làm

căn cứ để đề xuất, kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự; nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm này, việc tác giả nghiên cứu đề tài: "Tội cưỡng đoạt tài sản
trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về tội cưỡng đoạt tài sản đã được đề cập đến
trong một số công trình nghiên cứu khoa học của các cơ sở đào tạo luật học như Trường Đại học Luật
Hà Nội, Khoa Luật- Đại học quốc gia Hà Nội, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam và một số cơ sở đào tạo khác. Trong đó phải kể đến một số giáo trình, sách
chuyên khảo: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Chương XX - Các tội xâm phạm sở hữu trong
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân (2010); GS.TSKH Lê
Cảm (chủ biên) - Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2001, tái bản năm 2003 và 2007); GS.TS Võ Khánh Vinh
(chủ biên)- Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
(2001);
Bên cạnh đó, các vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử còn được nghiên cứu trong một số
công trình nghiên cứu khoa học của Ths. Đinh Văn Quế - Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm
1999 - Phần các tội phạm, Tập II: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2006; TS. Trần Minh Hưởng - Tìm hiểu Bộ luật Hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam - Bình luận và chú giải - Chương IV: Các tội xâm phạm quyền sở hữu, Nxb Lao động, Hà Nội,
2002; PGS.TS Phùng Thế Vắc (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 (Phần các
tội phạm) - Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; TS. Cao
Thị Oanh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) - Chương IV: Các tội phạm sở hữu,
Nxb Giáo dục, 2010; ThS. Đinh Thế Hưng và ThS. Trần Văn Biên, Bình luận Bộ luật Hình sự của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Chương XIV: Các tội xâm
phạm sở hữu, Nxb Lao động, 2010;
Ngoài ra, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học chuyên ngành Tư
pháp hình sự nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu như Đỗ Kim Tuyến, Đấu tranh phòng, chống
tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001;



Lê Thị Khanh, Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2002 và một số bài viết,
nghiên cứu khác có liên quan như: TS. Nguyễn Ngọc Chí, Đối tượng của các tội phạm xâm phạm sở
hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/1998; TS. Trương Quang Vinh, Các tội xâm phạm sở hữu
trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, Tạp chí luật học, số 4/2000...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết liên quan đến tội cưỡng
đoạt tài sản thường tập trung đi sâu tới vấn đề lý luận về dấu hiệu định tội của tội cưỡng đoạt tài sản
hoặc nhìn nhận vấn đề dưới góc độ tội phạm học, đấu tranh phòng ngừa tội cưỡng đoạt tài sản hoặc
đấu tranh phòng ngừa tội xâm phạm tài sản trên một địa bản nhất định. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa
học pháp lý, đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống
các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật
học.
Vì vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLHS về tội cưỡng đoạt tài sản, cũng
như đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm này vẫn là vấn đề bổ
ích và cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, các dấu hiệu pháp lý, đường lối
xử lý và thực tiễn xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam, qua đó đưa ra
giải pháp hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của
BLHS năm 1999 về tội phạm này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, phạm vi nghiên cứu của luận văn tập
trung vào các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và những vấn đề liên quan đến việc định tội danh, thực tiễn
xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản trong những năm gần đây với tư cách là tội phạm trong chương
các tội xâm phạm sở hữu mà chưa có điều kiện nghiên cứu, phân tích.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của
tội cưỡng đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm
hình sự (TNHS) đối với người phạm tội; đồng thời đi sâu phân tích thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài

sản trong thời gian từ năm 2008 - 2013. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại
trong công tác xử lý, từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về xử lý loại tội phạm này.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về đấu
tranh phòng và chống tội phạm.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân
tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật,
khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển hình…để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa
học cần nghiên cứu trong luận văn này.
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về hành vi cưỡng đoạt tài sản
trong khoa học luật hình sự Việt Nam; phân tích thông qua nghiên cứu các số liệu thực tiễn xét xử sơ
thẩm trên địa bàn toàn quốc từ năm 2008 - 2013 và các bản án hình sự cụ thể của một số Tòa án để
đánh giá. Qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành; các sai


sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như các nguyên nhân để tìm ra giải pháp khắc
phục, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về tội cưỡng đoạt
tài sản ở khía cạnh lập pháp hình sự và việc áp dụng trong thực tiễn.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến
nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận chứng khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt
động thực tiễn áp dụng BLHS Việt Nam liên quan đến tội cưỡng đoạt tài sản, qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống những tội này hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về tội cưỡng đoạt tài sản trong Bộ luật Hình sự hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn xét xử, một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội cưỡng đoạt tài sản.

References
1. Phạm Văn Beo (Chủ biên) (2008), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Cần
Thơ, Cần Thơ.
2. Mai Bộ (2007), "Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản", Tòa án nhân dân, (11), tr. 20-24.
3. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội.
4. Lê Cảm - Nguyễn Ngọc Chí (Đồng chủ biên) (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (Đồng chủ biên) (2005), Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn mẫu &
360 bài thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Lê Văn Cảm (Chủ biên) (2005), Giáo trình Luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
7. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật
hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
8. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ
Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
10. Đảng Lao động Việt Nam (1970), Chỉ thị số 185-CT/TW ngày 09/12/1970 của Ban Bí thư Trung
ương về tăng cường bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb, Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Ngọc Điệp (2000), Tìm hiểu và bình luận các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Mũi Cà Mau,
Cà Mau.
15. Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
16. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
17. Nguyễn Quốc Hùng (1975), Hán Việt tân từ điển, Nhà sách khai trí, Sài Gòn.
18. Insun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


19.
20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.

36.

37.
38.

39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.
47.
48.
49.

Nguyễn Lân (2002), Từ điển Từ và Ngữ Hán Việt, Nxb, Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
"Luật hình sự của một số nước trên thế giới" (1998), Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề).
Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và Pháp luật, Nxb, Pháp lý, Hà Nội.
Đinh Văn Quế (1998), Bình luận án, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đinh Văn Quế (2000), Thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Đinh Văn Quế (2005), Pháp luật hình sự thực tiễn xét xử và án lệ, Nxb Lao động - xã hội. Hà Nội;
Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Phần các tội phạm tập II, các tội xâm
phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
Nguyễn Duy Thuận (1991), Trách nhiệm hình sự với các tội xâm hại về sở hữu, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1972), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự từ năm 1975 - 1978, tập 2, Hà
Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-HTTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự,
Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2004-2009), Các báo cáo chuyên đề tại Hội nghị tổng kết công tác ngành
Tòa án nhân dân từ năm 2004 đến năm 2009, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2005-2009), Báo cáo tổng kết công tác các năm từ năm 2005 đến 2009,
Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp (2001),
Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong Chương XIV - Các tội phạm xâm phạm sở hữu của Bộ luật Hình sự
năm 1999, Hà Nội.
Nguyễn Văn Trượng (2008), "Một số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản", Kiểm sát, (8), tr. 19-23, 47.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
Đào Trí Úc (1994), Tội phạm, luật hình sự và luật tố tụng hình sự, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa, Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của
công dân, Hà Nội.
Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1999), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1993), Mô hình lí luận và Bộ luật Hình sự Việt Nam
(phần chung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
Viện Sử học (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.



×