Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.43 KB, 15 trang )

Mục lục

Trang
Lời mở đầu……………………………………………………………2
I/ Khái quát chung về xử lý VBPL khiếm khuyết…………………...... 3
1. Những khiếm khuyết của VBPL…………………………………...3
2. Căn cứ lựa chọn cách thức xử lý VBPL…………………………....5
II/ Các biện pháp xử lý VBPL khiếm khuyết…………………………..5
1. Hủy bỏ……………………………………………………………...5
2. Bãi bỏ………………………………………………………………6
3. Thay thế……………………………………………………………7
4. Đình chỉ thi hành…………………………………………………..7
5. Tạm đình chỉ thi hành……………………………………………...8
6. Sửa đổi, bổ sung…………………………………………………...9
7. Nhận xét chung…………………………………………………...11
Kết luận……………………………………………………………...13
Tài liệu tham khảo…………………………………………………...14

1


Lời mở đầu

Văn bản pháp luật là sản phẩm hoạt động quyền lực của các cơ quan Nhà
nước, là phương tiện chủ yếu để Nhà nước quản lý xã hội. Chất lượng của văn
bản pháp luật phản ánh hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước
nói chung, của từng cơ quan Nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, cũng như mọi
sản phẩm xã hội khác, văn bản pháp luật cũng có những khiếm khuyết nhất
định do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy, việc ban hành văn bản pháp
luật khiếm khuyết đã xảy ra khá phổ biến ở nhiều cấp, nhiều ngành buộc các
cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền phải sử dụng biện pháp thích hợp


để xử lý nhằm hoàn thiện chúng. Vì được ban hành bởi nhiều cơ quan và cá
nhân có thẩm quyền nên cách thức xử lý các loại văn bản pháp luật khiếm
khuyết cũng khác nhau. Dựa vào tính chất, mức độ khiếm khuyết của văn bản
pháp luật và bản chất của mỗi biện pháp xử lý, chủ thể có thẩm quyền có thể
được lựa chọn một trong các biện pháp đó để xử lý văn bản pháp luật khiếm
khuyết.
Sau đây là một số phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản
pháp luật khiếm khuyết. Bài viết không tránh khỏi những sai sót nên em
mong được sự hướng dẫn và đóng góp ý kiến của thầy cô để bài viết hoàn
thiện hơn.

2


Nếu như kiểm tra văn bản pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong việc xem xét, đánh giá về tính hợp pháp, hợp lý
của các văn bản pháp luật (VBPL) nhằm phát hiện những khiếm khuyết của
văn bản , tạo cơ sở để cấp có thẩm quyền kịp thởi xử lý, hoàn thiện chúng thì
xử lý VBPL lại là hoạt động của cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền
trong việc ra phán quyết đối với những VBPL khiếm khuyết đó. Vì vậy việc
đưa ra các biện pháp xử lý VBPL khiếm khuyết là khâu quan trọng và chính
yếu trong toàn bộ hoạt động kiểm tra và xử lý VBPL.
I/ Khái quát chung về xử lý VBPL khiếm khuyết:
1. Những khiếm khuyết của VBPL:
Trên cơ sở những yêu cầu về chất lượng của VBPL được xét dưới hai
góc độ hợp pháp và hợp lý, có thể xác định VBPL khiếm khuyết là VB có
một trong các biểu hiện sau:
1.1.VBPL không đáp ứng yêu cầu về chính trị.
Trước hết đó là các VBPL có nôi dung không phù hợp với đường lối,
chính sách của Đảng. Bên cạnh đó, VBPL có nội dung không phù hợp với ý

chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính
trị.
1.2.VBPL không đáp ứng yêu cầu về pháp lý.
1.2.1. VBPL vi phạm thẩm quyền ban hành. Bao gồm vi phạm thẩm
quyền về hình thức và vi phạm thẩm quyền về nội dung. VBPL vi phạm thẩm
quyền về hình thức là văn bản có tên gọi không đúng theo quy định của pháp
luật hiện hành như việc cơ quan ban hành sử dụng hình thức VBPL thuộc
thẩm quyền ban hành của chủ thể khác; việc sử dụng không đúng vai trò của
văn bản đối với công việc được giải quyết; hay trong một số trường hợp cá
biệt còn có thể gặp tình trạng các cơ quan nhà nước sử dụng hình thức văn
bản không do pháp luật quy định để đặt ra quy định pháp luật. VBPL vi phạm
thẩm quyền về nội dung là văn bản mà chủ thể ban hành để sử dụng để giải
3


quyết công việc không thuộc thẩm quyền do pháp luật quy định đối với chủ
thể đó. Trước hết, sự vi phạm thể hiện ở việc cơ quan ban hành giải quyết
công việc hoàn toàn không thuộc phạm vi, chức năng, nhiệm vị, quyền hạn
của chủ thể.; ngoài ra còn thể hiện trong việc chủ thể ban hành giải quyết
công việc vượt quá thẩm quyền mà pháp luật quy định.
1.2.2. VBPL có nội dung trái với quy định của pháp luật. Văn bản có nội
dung trái pháp luật là những văn bản có nội dung là những quy phạm hoặc
mệnh lệnh không đúng với pháp luật hiện hành. Biểu hiện trong việc không
viện dẫn hoặc viện dẫn sai những văn bản làm cơ sở pháp lý của văn bản đó;
trong trường hợp nội dung của văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới trái
với nội dung của văn bản cấp trên, văn bản hành chính có các quy định mang
tính quy phạm trái với các quy phạm pháp luật hiện hành; hay như văn bản áp
dụng pháp luật hoặc văn bản hành chính có nội dung trái với quy định của văn
bản quy phạm pháp luật; các mệnh lệnh trong văn bản hành chính không đúng
với mệnh lệnh trong văn bản áp dụng pháp luật mà nó tổ chức thực hiện.

1.2.3. VBPL có nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà
Việt Nam kí kết tham gia. Hiện nay dấu hiệu này rất cần được xem xét trong
quá trình xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Vì muốn thực hiện tốt các cam
kết quốc tế, Việt Nam không chỉ tiến hành việc nội luật hóa mà còn phải rà
soát nhằm phát hiện các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa phù hợp
để có biện pháp xử lý kịp thời.
1.2.4. VBPL có sự vi phạm các quy định về thể thức và thủ tục ban hành.
VBPL có thể thức không đúng quy định của pháp luật biểu hiện ở việc thiếu
những đề mục cần thiết hoặc được trình bày các đề mục không đúng quy định
của pháp luật. VBPL có thể có sự vi phạm về thủ tục trong việc ban hành văn
bản quy phạm pháp luật hoặc không thực hiện những thủ tục là cơ sở để xác
định tính hợp pháp cho văn bản áp dụng pháp luật.
1.3.VBPL không đáp ứng yêu cầu về khoa học.

4


VBPL có nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động
của đời sống xã hội. Đây là những văn bản mà trong đó có các quy định cao
hơn hoặc thấp hơn thực trạng kinh tế- xã hội, không phù hợp với đời sống vật
chất và ý thức xã hội, gây cản trở cho tiến trình phát triển cuả xã hội. Những
VBPL này thường không có tính khả thi, khó thực hiện trên thực tiễn. Bên
cạnh đó, VBPL cũng không đáp ứng yêu cầu về khoa học khi có nội dung
không phù hợp với truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục trong xã hội.
Đồng thời, việc không bảo đảm yêu cầu về khoa học của VBPL còn thể hiện
trong sự khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lý. Tính logic, chặt chẽ về nội dung,
đúng quy tắc về ngôn ngữ, phân chia sắp xếp hợp lí chính là những yêu cầu
cơ bản của kĩ thuật pháp lý.
2. Căn cứ lựa chọn cách thức xử lý VBPL:
Trong quá trình xác định thẩm quyền xử lý VBPL khiếm khuyết, cần

phải xem xét đến tính chất, mức độ của mỗi dạng khiếm khuyết để lựa chọn
các biện pháp xử lý phù hợp nhất. Các căn cứ xác định để lựa chọn cách thức
xử lý VBPL khiếm khuyết:
-

Căn cứ tính chất khiếm khuyết trong văn bản để lựa chọn biện
pháp xử lý.

-

Căn cứ mức độ khiếm khuyết trong văn bản để lựa chọn biện pháp
xử lý.

-

Căn cứ thẩm quyền xử lý để lựa chọn biện pháp xử lý.

II/ Các biện pháp xử lý VBPL khiếm khuyết:
Trong pháp luật nước ta, các biện pháp xử lý đối với VBPL khiếm
khuyết có nhiều hình thức khác nhau: hủy bỏ, bãi bỏ, thay thế, đình chỉ thi
hành, tạm đình chỉ thi hành hay sửa đổi, bổ sung.
1. Hủy bỏ:
Hủy bỏ là biện pháp xử lý được áp dụng đối với VBPL bao gồm cả văn
bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính có
dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng, như: nội dung của VBPL bất hợp
5


pháp; ban hành văn bản trái thẩm quyền nội dung; sai phạm về thủ tục ban
hành dẫn đến làm mất cơ sở pháp lý của việc giải quyết công việc phát

sinh(không thành lập hội đồng kỉ luật trước khi ra quyết định kỉ luật công
chức; không lập biên bản khi xử phạt tiền trên 100 nghìn đồng…).
Biện pháp này được sử dụng khi thẩm quyền, nội dung cơ bản của VBPL
không hợp pháp hoặc không hợp lý hay cả hai mà không thể áp dụng biện
pháp sửa đổi, bổ sung.
Văn bản pháp luật bị hủy bỏ sẽ bị hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm
văn bản đó được quy định là có hiệu lực pháp lý. Điều đó có nghĩa Nhà nước
hoàn toàn không thừa nhận giá trị pháp lý của văn bản bị hủy ở mọi thời
điểm, cho dù trên thực tiễn, trước khi bị hủy nó đã từng được coi là có hiệu
lực và có thể đã được thi hành.
Bên cạnh đó, nếu văn bản bị hủy bỏ là văn bản áp dụng pháp luật thì
pháp luật còn quy định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban
hành văn bản.
Tuy nhiên, nếu văn bản bị hủy bỏ là văn bản quy phạm pháp luật và văn
bản hành chính thì pháp luật không quy định về trách nhiệm bồi thường, bồi
hoàn của chủ thể ban hành văn bản. Thực trạng đó đã làm phát sinh điểm bất
hợp lý trong pháp luật: cùng ban hành VBPL sai trái, gây ra những thiệt hại
cho xã hội nhưng có trường hợp phải bồi thường, có trường hợp không phải
bồi thường. Vì vậy, để bảo đảm tính khoa học, hợp lý, chỉ nên quy định về
biện pháp hủy bỏ đối với văn bản áp dụng pháp luật mà không nên quy định
việc hủy bỏ đối với văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính.
2. Bãi bỏ:
Bãi bỏ là biện pháp xử lý được hiểu là “ bỏ đi, không thi hành nữa”.
Đối tượng áp dụng biện pháp bãi bỏ là các văn bản quy phạm pháp luật
có một trong các dấu hiệu khiếm khuyết, như: nội dung văn bản quy phạm
pháp luật không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng; đại đa số nội
dung trong văn bản không phù hợp với quyền lợi chính đáng của đối tượng
6



chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nội dung của văn bản không phù hợp
với VBPL do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành; phần lớn nội dung của văn
bản quy phạm pháp luật không phù hợp với thực trạng kinh tế-xã hội là đối
tượng mà văn bản điều chỉnh; phần lớn nội dung của VBPL không phù hợp
với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia; văn bản quy
phạm pháp luật không còn cần thiết tồn tại trong thực tiễn nữa
Như vậy, khác với hủy bỏ, dấu hiệu vi phạm pháp luật không phải là dấu
hiệu duy nhất để xem xét áp dụng biện pháp bãi bỏ. Văn bản bị bãi bỏ chỉ mất
hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản xử lý nó có hiệu lực pháp luật. Do
vậy, biện pháp bãi bỏ không phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của
chủ thể ban hành VBPL sai trái đó.
Bãi bỏ và hủy bỏ là hai khái niệm pháp lý khác nhau nhưng lại chưa
được quy định rõ trong luật. Theo quy định tại các điều 9, 82, 82a, 83, 84 của
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì chỉ có quy định chung chung
mà không có ranh giới để xác định trường hợp nào thì văn bản bị bãi bỏ,
trường hợp nào thì bị hủy bỏ và hậu quả pháp lý của hai biện pháp này có gì
giống và khác nhau. Dẫn tới các cơ quan nhà nước khi xử lý VBPL cũng tùy
nghi lựa chọn một trong hai biện pháp này, thậm chí còn sử dụng không nhất
quán. Như vậy, từ góc độ khoa học và thực tiễn cho thấy biện pháp bãi bỏ chỉ
nên áp dụng đối với văn bản quy phạm pháp luật mà không áp dụng đối với
văn bản áp dụng pháp luật khiếm khuyết.
3. Thay thế:
Thay thế là biện pháp xử lý được áp dụng đối với VBPL có dấu hiệu
khiếm khuyết (không có vi phạm pháp luật), như: nội dung văn bản không
còn phù hợp với thực tiễn, không phù hợp đường lối của Đảng.
Thẩm quyền thay thế VBPL chỉ thuộc về cơ quan đã ban hành văn bản
đó.

7



Hậu quả pháp lý xảy ra khi áp dụng biện pháp thay thế là VBPL bị thay
thế hết hiệu lực pháp lực pháp luật kể từ thởi điểm văn bản mới được ban
hành có hiệu lực.
4. Đình chỉ thi hành:
Việc đình chỉ thi hành VBPL là biện pháp có tính cách thủ tục tương
đương như các biện pháp ngăn chặn trong thủ tục xử lý văn bản hành chính
hoặc tố tụng tư pháp. Ví dụ: theo Luật Tổ chức Chính phủ thì Thủ tướng
Chính phủ có quyền đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của các cơ quan
nhà nước cấp trên đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội hủy bỏ
(Điều 20).
Đình chỉ thi hành là biện pháp xử lý được áp dụng đối với VBPL với tư
cách là biện pháp bổ sung được sử dụng kèm theo việc hủy bỏ, bãi bỏ, thay
thế VBPL; hoặc là biện pháp độc lập được áp dụng để chấm dứt hiệu lực của
văn bản quy phạm pháp luật ( VD: Bộ trưởng Bộ Tư pháp kí Quyết định số
1212/QĐ-BTP ngày 9/5/2006 về việc đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ
nội dung VBPL về xử lý vi phạm hành chính do các Ủy ban nhân dân 15 tỉnh
ban hành) hoặc là biện pháp độc lập được áp dụng để tạm dừng hiệu lực của
VBPL, chờ cấp có thẩm quyền xử lý (VD: Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh ra
quyết định đình chỉ thi hành một phần hay toàn bộ nghị quyết của hội đồng
nhân dân cấp huyện trái với văn bản của cấp trên đồng thời đề nghị hội đồng
nhân dân cấp tỉnh bãi bỏ).
Tuy nhiên, đình chỉ việc thi hành VBPL là biện pháp thủ tục trước hết
chỉ nhằm hạn chế khả năng tiếp tục gây tác hại của nó trước khi văn bản được
được giải quyết về thực chất các khiếm khuyết. Vì vậy, các biện pháp hủy bỏ,
sửa đổi, bổ sung văn bản mới có ý nghĩa quyết định đối với tính hợp pháp,
hợp lý của nó.
VBPL bị đình chỉ thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định
xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu cấp có thẩm quyền ra quyết

8


định hủy bỏ, bãi bỏ thì VBPL hết hiệu lực còn không bị hủy bỏ, bãi bỏ thi văn
bản tiếp tục có hiệu lực.
5. Tạm đình chỉ thi hành:
Tạm đình chỉ thi hành là biện pháp xử lý được áp dụng đối với các văn
bản áp dụng pháp luật trong những trường hợp nhất định.
Thứ nhất, chủ thể không có thẩm quyền xử lý văn bản áp dụng pháp luật
nhưng có cơ sở cho rằng văn bản đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật nên quyết
định tạm dừng thi hành để chờ cấp có thẩm quyền xử lý. Ví dụ: Khoản 7 điều
69 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính ngày 05/04/2006 quy định: “ Người kháng nghị có quyền hoãn
hoặc tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”.
VBPL bị tạm đình chỉ, hết hiệu lực khi cấp có thẩm quyền ra quyết định
hủy bỏ; tiếp tục có hiệu lực khi cấp có thẩm quyền tuyên bố không hủy bỏ
văn bản đó.
Thứ hai, khi có cơ sở cho rằng, việc thi hành VBPL có thể gây cản trở
hoạt động công quyền thi chủ thể có thẩm quyền quyết định việc tạm dừng thi
hành văn bản trong thời gian nhất định để hoạt động công quyền được diễn ra
thuận lợi.
Trường hợp này, người ra quyết định tạm đình chỉ phải ra văn bản bãi bỏ
việc tạm đình chỉ đó nếu xét thấy việc tạm đình chỉ không còn cần thiết. Văn
bản đã bị tạm đình chỉ tiếp tục có hiệu lực.
6. Sửa đổi, bổ sung:
Sửa đổi, bổ sung là biện pháp xử lý được áp dụng đối với các VBPL khi
tính chất và mức độ khiếm khuyết của văn bản rất nhỏ.
Sửa đổi là việc ra văn bản để làm thay đổi một phần nội dung VBPL hiện
hành trong khi vẫn giữ nguyên những nội dung khác. Vì vậy, sửa đổi chỉ làm

mất hiệu lực pháp luật của bộ phận văn bản bị sửa đổi còn toàn bộ văn bản
vẫn có hiệu lực pháp luật. Đây là biện pháp xử lý chủ yếu đối với khiếm
9


khuyết của VBPL. Biện pháp này cần hiểu là được áp dụng trên nền cái cơ
bản đã có trong VBPL, chỉ đụng chạm đến một bộ phận không lớn của văn
bản. Trong bộ phận không lớn đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành việc
chỉnh lý, bỏ, thay thế các quy định, nội dung không thích hợp hoặc bổ sung
một số các quy định hay nội dung mới. Tóm lại, bằng biện pháp sửa đổi, tính
hợp pháp và hợp lý trong nội dung hoặc hình thức của VBPL chỉ có một số
sửa đổi, còn được giữ nguyên về cơ bản.
Trong sửa đổi VBPL như vừa nêu ở trên thi ít nhiều đã có việc bổ sung
vào văn bản đó các điểm nhất định nhưng chỉ là sự bổ sung nhỏ. Vậy khi nói
đến việc bổ sung vào VBPL như một biện pháp độc lập thì điều đó có nghĩa là
đưa vào văn bản một lượng nội dung mới đáng kể hay quan trọng. Bổ sung là
việc ra văn bản để thêm vào nội dung VBPL những quy định mới trong khi
vẫn giữ nguyên nội dung vốn có của văn bản đó. Cho nên, đối với văn bản
quy phạm pháp luật, trong nhiều VBPL được Quốc hội thông qua, chúng ta
thường thấy tên gọi của VBPL như “ Luật (Pháp lệnh) sửa đổi, bổ sung một
số điều của…” là do trong văn bản có cả sửa đổi và bổ sung.
Thông thường các cơ quan ban hành một văn bản để sửa đổi, bổ sung
một VBPL khác. Tuy nhiên, đối với văn bản quy phạm pháp luật, việc sửa
đổi, bổ sung theo hướng này làm cho cơ quan ban hành văn bản mất nhiều
thời gian, kinh phí, phải trải qua mọi thủ tục mà pháp luật quy định. Do đó,
trong thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu lập pháp ở Việt Nam đã bắt đầu
nói đến kĩ thuật “dùng một văn bản sửa nhiều văn bản khác” khi chúng có nội
dung liên quan đến nhau. Kĩ thuật này có nhiều ưu điểm: một là, cho phép rút
ngắn những hoạt động trong quy trình xây dựng pháp luật mà vẫn bảo đảm
đúng chức năng, thẩm quyền của các cơ quan, nhờ đó vừa nhanh chóng sửa

đổi, bổ sung được các VBPL khiếm khuyết, vừa tiết kiệm được thời gian và
kinh phí; hai là, có điều kiện để phát hiện những chồng chéo, mâu thuẫn nhau
trong những văn bản quy phạm pháp luật có chủ đề gần gũi, liên quan với
nhau để khắc phục; ba là, có thể chỉ dùng một điều trong văn bản mới là có
10


thể sửa đồng loạt nhiều văn bản quy phạm pháp luật khi trong những văn bản
đó có chung những từ, ngữ hay những nội dung cần sửa đổi, bổ sung.
Chính vì vậy, khuynh hướng này bắt đầu được áp dụng trên thực tế và
ngày càng có xu hướng được sử dụng rộng rãi trong hoạt động xác định pháp
luật ở nước ta. Ví dụ: ngày 09/12/2005, Quốc hội đã ban hành Luật số
57/2005/QH11 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng và
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
7. Nhận xét chung:
Nói tóm lại, mỗi biện pháp xử lý có nội dung và cách thức riêng tác động
đến VBPL có khiếm khuyết. Ngược lại, với mỗi VBPL khiếm khuyết thì được
áp dụng các biện pháp tương ứng với phạm vi, mức độ, tính chất của khiếm
khuyết. Thường thì khi văn bản có khiếm khuyết quan trọng thì nó trước hết
phải được đình chỉ việc thi hành để chặn lại khả năng gây ra hậu quả xấu hay
không để tình trạng xấu đó trầm trọng hơn. Các biện pháp còn lại được áp
dụng tùy theo từng trường hợp cụ thể. Xin nêu một số trường hợp ở đây. Với
việc xử lý VBPL có khiếm khuyết về tính hợp pháp, do tính hợp pháp của
VBPL được thực hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau nên các biện pháp xử lý
cũng được áp dụng phù hợp với từng khía cạnh đó. Nếu văn bản được ra
không đúng thẩn quyền trong việc giải quyết một vấn đề nhất định thì về
nguyên tắc văn bản đó phải bị hủy bỏ. Trường hợp trong văn bản chỉ có một
phần không phải là chủ yếu được ghi mà không thuộc thẩm quyền thì có thể
được thực hiện việc hủy bỏ bộ phận đó (cần nhấn mạnh rằng phân định, xác
định rõ thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước là một vấn đề mang tính

nguyên tắc trong tổ chức bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu
quả trong các hoạt động của nhà nước). Trường hợp nội dung của VBPL trái
với pháp luật thì tùy theo phạm vi, mức độ và tính chất của nội dung không
hợp pháp mà văn bản có thể bị hủy bỏ hay sửa đổi ở các mức khác nhau. Một
số trường hợp vi phạm về trình tự, thủ tục dẫn tới việc hủy bỏ VBPL. Ví dụ

11


như việc hủy bỏ văn bản xử phạt vi phạm hành chính mà theo pháp luật đã
quá thời hạn thì vi phạm không bị xử lý nữa…
Về xử lý đối với các khiếm khuyết về tính hợp lý của VBPL: Vấn đề ở
đây là cần đánh giá mức độ, tính chất sai sót về tính hợp lý để có sự xử lý
thích hợp đối với văn bản. Chẳng hạn, về mặt nội dung, khi phương án được
văn bản lựa chọn không phải là phương án tốt nhất hay không phù hợp với
điều kiện thực tế thì về nguyên tắc văn bản cần được sửa đổi hoặc hủy bỏ, dù
rằng không thể xem đấy là quy định, quyết định bất hợp pháp. Việc sửa đổi
hay hủy bỏ văn bản có khiếm khuyết như vậy là căn cứ vào hiệu quả điều
chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, cần thấy rằng đối với văn bản áp dụng pháp
luật với cá nhân, tổ chức ,việc sửa đổi nếu theo hướng bất lợi cho họ thì cần
có thủ tục chặt chẽ và hợp lý. Đối với VBPL khiếm khuyết trong tính hợp lý
về mặt hình thức (cơ cấu, sắp xếp, trình bày vấn đề…) nói chung không cần
xử lý ngay nếu chưa có điều kiện thích hợp.

12


Kết luận
**********************
Trong nhiều năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ nhu cầu

quản lý xã hội bằng pháp luật. Càng ngày pháp luật càng được xem xét, sử
dụng đúng với vai trò là phương tiện có ý nghĩa quyết định đối với quản lý
Nhà nước, xã hội. Nhiều công trình khoa học được nghiên cứu, nhiều VBPL
được ban hành nhằm tạo ra hệ thống pháp luật toàn diện, thống nhất, đồng bộ,
làm cho chất lượng của hệ thống pháp luật được cải thiện rõ rệt. Trong đó,
tính hợp pháp, hợp lý của VBPL được đặc biệt coi trọng. Tuy vậy, vì nhiều lí
do khác nhau, thực tế vẫn còn tồn tại các văn bản bất hợp pháp, bất hợp lý gây
ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả điều chỉnh pháp luật. Đây là điều khó tránh
khỏi trong khi số lượng VBPL ban hành ngày càng nhiều để đáp ứng đối với
yêu cầu của đời sống xã hội. Vì vậy, vai trò của các biện pháp khắc phục
khiếm khuyết của VBPL là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay và cần được
áp dụng đúng cách, triệt để, có như thế thì hệ thống VBPL mới ngày càng
hoàn thiện tốt hơn.

13


Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật- Tr. ĐH Luật HN- Nxb CAND.
2. Tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 2003.
3. Tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 2008.
4. Tạp chí Luật học số 5/2001.

14


Mục lục

Trang
Lời mở đầu……………………………………………………………2

I/ Khái quát chung về xử lý VBPL khiếm khuyết…………………...... 3
1. Những khiếm khuyết của VBPL…………………………………...3
2. Căn cứ lựa chọn cách thức xử lý VBPL…………………………....5
II/ Các biện pháp xử lý VBPL khiếm khuyết…………………………..5
1. Hủy bỏ……………………………………………………………...5
2. Bãi bỏ………………………………………………………………6
3. Thay thế……………………………………………………………7
4. Đình chỉ thi hành…………………………………………………..7
5. Tạm đình chỉ thi hành……………………………………………...8
6. Sửa đổi, bổ sung…………………………………………………...9
7. Nhận xét chung…………………………………………………...11
Kết luận……………………………………………………………...13
Tài liệu tham khảo…………………………………………………...14
5.

15



×