Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.44 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu ……………………………………………………………………………………1
Nội dung ……………………………………………………………………………………....1
I – Khái quát chung …………………………………………………………………………....1
1. Văn bản pháp luật khiếm khuyết ……………………………………………………….1
2. Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết …………………………………………………1
II – Các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết ……………………………………2
1. Biện pháp hủy bỏ ……………………………………………………………………… 2
2. Biện pháp bãi bỏ ………………………………………………………………………..3
3. Biện pháp thay thế ……………………………………………………………………...4
4. Biện pháp đình chỉ thi hành …………………………………………………………….4
5. Biện pháp tạm đình chỉ thi hành ………………………………………………………..5
6. Biện pháp sửa đổi, bổ sung ……………………………………………………………..5
III – Bình luận về các biên pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết ………………...…...6
Kết luận ………………………………………………………………………………………..8
Danh mục tài liệu tham khảo ………………………………………………………………….9
1
LỜI MỞ ĐẦU
Văn bản pháp luật là phương tiện chủ yếu, có tác động trực tiếp và sâu sắc đến hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Chất lượng của văn bản pháp luật vừa phản ánh hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước vừa cho thấy mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tuy
nhiên trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật không thể tránh khỏi những sai sót dẫn đến
những khiếm khuyết của văn bản pháp luật đòi hỏi cần phải có biện pháp xử lý kịp thời,
không để những văn bản pháp luật khiếm khuyết ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước.
Để lựa chọn biện pháp xử lý phù hợp, chủ thể có thẩm quyền cần phải dựa vào tính chất, mức
độ khiếm khuyết của văn bản pháp luật và bản chất của mỗi biện pháp xử lý. Nhắm giúp cho
việc xác định biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết được dễ dàng, đúng đắn em xin
chọn đề tài “Phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm
khuyết”.
NỘI DUNG
I-Khái quát chung về văn bản pháp luật khiếm khuyết và xử lý văn bản pháp luật


khiếm khuyết.
1. Văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Văn bản pháp luật khiếm khuyết được hiểu là văn bản “còn thiếu sót, chưa hoàn
chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà nhà nước yêu cầu.
1
Văn bản pháp luật khiếm khuyết là văn bản có một trong các biểu hiện sau đây:
Thứ nhất, văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về chính trị. Đó là những văn bản
có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng hoặc không phù hợp với ý chí
và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Thứ hai, văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về pháp lý. Là những văn bản có sự
vi phạm về thẩm quyền ban hành, có nội dung trái với quy định của pháp luật hoặc nội dung
không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, có sự vi phạm về
thể thức và thủ tục ban hành.
Thứ ba, văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về khoa học. Đó là những văn bản có
nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội, không phù
hợp với truyền thống đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc hoặc có sự khiếm
khuyết về kỹ thuật pháp lý.
2. Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết là hoạt động của cơ quan nhà nước và cá nhân
có thẩm quyền trong việc ra phán quyết đối với những văn bản pháp luật khiếm khuyết.
2
Thẩm quyền xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết được quy định ở nhiều văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau nhưng nhìn chung đều tuân theo những nguyên tắc nhất định đó là:
1
Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, Nxb.CAND,2008, tr.265
2
Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, Nxb. CAND, 2008,tr.265
2
Cấp trên có thẩm quyền xử lý đối với văn bản pháp luật do cấp dưới ban hành (nguyên tắc
này áp dụng cho hầu hết các cơ quan nhà nước trừ Quốc hội); Cơ quan ban hành văn bản có

quyền tự xử lý các văn bản pháp luật do mình ban hành bị khiếm khuyết (nguyên tắc này
không áp dụng trong trường hợp Tòa án ban hành bản án và quyết định khiếm khuyết); Tòa
án nhân dân có thẩm quyền xử lý đối với một số văn bản áp dụng pháp luật do cơ quan hành
chính nhà nước ban hành khi có vi phạm pháp luật.
Trong quá trình xác định thẩm quyền xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết, cần phải
căn cứ vào tính chất khiếm khuyết trong văn bản, mức độ của mỗi dạng khiếm khuyết và
thẩm quyền xử lý để lựa chọn các biện pháp xử lý phù hợp nhất.
II-Các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Hiện nay hệ thống pháp luật nước ta chưa có một văn bản nào quy định trực tiếp các
biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết mà chỉ có quy định về xử lý văn bản quy
phạm pháp luật. Tuy nhiên thông qua những quy định về biện pháp xử lý văn bản quy phạm
pháp luật ta có thể rút ra các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Căn cứ Điều 9 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định về “Sửa đổi,
bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ thi hành văn bản quy phạm pháp luật”. Và
Điều 27 nghị định 40/2010/NĐ-CP về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật
“Các hình thức xử lý văn bản trái pháp luật gồm:
1. Đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản;
2. Hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản.”
Có thể rút ra các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết gồm:
1. Biện pháp hủy bỏ
Hủy bỏ là ra quyết định làm mất hiệu lực cả về trước của một văn bản pháp luật kể từ
khi văn bản đó được ban hành.
Biện pháp hủy bỏ được áp dụng đối với cả ba loại văn bản pháp luật là văn bản QPPL,
văn bản ADPL và văn bản hành chính.
Về điều kiện để áp dụng biện pháp: Biện pháp hủy bỏ được áp dụng với văn bản pháp
luật ban hành không đúng hình thức và thẩm quyền (khoản 3 Điều 26 40/2010/NĐ-CP).
Ngoài ra theo khoản 1 Điều 29 nghị định 40/2010/NĐ-CP “Hình thức hủy bỏ một phần hoặc
toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản đó được
ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung hoặc không phù hợp với quy
định của pháp luật từ thời điểm văn bản được ban hành”. Như vậy biện pháp hủy bỏ còn được

áp dụng đối với các văn bản pháp luật có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng như: Nội
dung văn bản pháp luật bất hợp pháp; ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về
nội dung; sai về thủ tục ban hành dẫn đến làm mất cơ sở pháp lý của việc giải quyết công việc
phát sinh.
3
Ví dụ ngày 19/5/2011, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định số
29/2011/QĐ-UBND hủy bỏ một phần quyết định số 54/2007/QĐ-UBND ngày 30/3/2007 quy
định về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở,
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thành phố Hồ
Chí Minh do có một số nội dung không phù hợp với quy định pháp luật.
Hậu quả pháp lý khi áp dụng biện pháp hủy bỏ đó là văn bản pháp luật bị hủy bỏ sẽ bị
hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản đó được quy định là có hiệu lực pháp lý. Điều
đó có nghĩa là Nhà nước hoàn toàn không thừa nhận giá trị pháp lý của văn bản bị hủy ở mọi
thời điểm. Nếu văn bản pháp luật bị hủy bỏ là văn bản áp dụng pháp luật thì chủ thể ban hành
có trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005.
2. Biện pháp bãi bỏ
Bãi bỏ là biện pháp xử lý được hiểu là “bỏ đi, không thi hành nữa”
3
. Theo ngôn ngữ
khoa học, bãi bỏ văn bản pháp luật là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố một văn
bản pháp luật hiện hành mất hiệu lực thi hành.
4
Đối tượng áp dụng biện pháp bãi bỏ là các văn bản QPPL có dấu hiệu khiếm khuyết.
Như vậy khác với biện pháp hủy bỏ, biện pháp bãi bỏ chỉ áp dụng với một nhóm văn bản
pháp luật duy nhất là văn bản QPPL.
Điều kiện áp dụng biện pháp bãi bỏ, theo khoản 2 Điều 29 nghị định 40/2010/NĐ-CP
“2. Hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một
phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban hành văn bản được kiểm tra đã được thay thế bằng
văn bản khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến nội dung của văn bản không còn
phù hợp với pháp luật hiện hành hoặc tình hình kinh tế - xã hội thay đổi.” Như vậy, chủ thể có

thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp bãi bỏ khi văn bản QPPL có một trong các dấu hiệu
khiếm khuyết như: Nội dung văn bản QPPL không còn phù hợp với đường lối, chính sách của
Đảng; đại đa số nội dung trong văn bản không phù hợp với quyền lợi chính đáng của đối
tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nội dung của văn bản không phù hợp với văn
bản pháp luật do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành; phần lớn nội dung của văn bản QPPL
không phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội là đối tượng mà văn bản điều chỉnh; phần lớn
nội dung của văn bản pháp luật không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoăc tham gia; văn bản QPPL không còn cần thiết tồn tại trong thực tiễn nữa… Như vậy khác
với hủy bỏ, dấu hiệu vi phạm pháp luật không phải là dấu hiệu duy nhất để xem xét áp dụng
biện pháp bãi bỏ.
Ví dụ ngày 5/7/2006, UBND thành phố Đà Nẵng ban hành quyết định số 67/2006/QĐ-
UBND bãi bỏ các văn bản pháp luật ưu đãi đầu tư không còn hiệu lực do văn bản làm căn cứ
ban hành là Luật đầu tư nước ngoài 1996 (sửa đổi, bổ sung 2000) bị thay thế băng Luật đầu tư
3
Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb.Giáo dục, Hà Nội, 1995
4
Từ điển Luật học, Nxb.Tư pháp, Hà Nội
4
2005 như quyết định số 92/2005/QĐ-UBND quy định một số chính sách ưu đãi nhằm thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Hậu quả pháp lý của việc áp dụng biện pháp bãi bỏ là văn bản bị bãi bỏ sẽ mất hiệu lực
pháp luật kể từ thời điểm văn bản bãi bỏ nó có hiệu lực. Như vậy pháp luật vẫn thừa nhận giá
trị pháp lý của văn bản pháp luật bị bãi bỏ trước thời điểm văn bản bãi bỏ nó có hiệu lực
(khác với văn bản pháp luật bị hủy bỏ, toàn bộ thời gian văn bản tồn tại đều không được ghi
nhận). Chính vì vậy trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản pháp luật
khiếm khuyết đó sẽ không phát sinh như đối với biện pháp hủy bỏ.
3. Biện pháp thay thế
Thay thế văn bản pháp luật là dùng một văn bản pháp luật mới thay thế cho văn bản
pháp luật bị khiếm khuyết.
Biện pháp thay thế được áp dụng với cả văn bản QPPL, văn bản ADPL và văn bản

hành chính khiếm khuyết.
Điều kiện áp dụng biện pháp thay thế: thay thế là biện pháp xử lý được áp dụng đối với
văn bản pháp luật có dấu hiệu khiếm khuyết (không có vi phạm pháp luật) như: Nội dung văn
bản không còn phù hợp với thực tiễn, không phù hợp với đường lối của Đảng. Ví dụ: ngày
2/4/2010, Chính phủ ban hành nghị định 34/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ thay thế cho nghị định 146/2007/NĐ-CP do cơ sở pháp lý
ban hành nghị định 146/2007/NĐ-CP đã thay đổi và những nội dung của nghị định đã không
còn phù hợp.
Thẩm quyền thay thế văn bản pháp luật chỉ thuộc về cơ quan đã ban hành văn bản đó
hay nói cách khác biện pháp thay thế chỉ được áp dụng bởi chính cơ quan ban hành văn bản
pháp luật bị thay thế.
Hậu quả pháp lý xảy ra khi áp dụng biện pháp thay thế là văn bản pháp luật bị thay thế
hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản mới được ban hành có hiệu lực.
4. Biện pháp đình chỉ thi hành.
Đình chỉ thi hành văn bản pháp luật là việc chủ thể có thẩm quyền ra quyết định dừng
thực hiện văn bản pháp luật, làm ngưng hiệu lực của văn bản tạm thời.
Biện pháp này cũng được áp dụng với cả ba nhóm văn bản pháp luật.
Đình chỉ thi hành là biện pháp xử lý được áp dụng đối với văn bản pháp luật với tư
cách là biện pháp bổ sung được sử dụng kèm theo biện pháp hủy bỏ, bãi bỏ, thay thế văn bản
pháp luật; hoặc là biện pháp độc lập được áp dụng để chấm dứt hiệu lực của văn bản pháp
luật, chờ cấp có thẩm quyền xử lý. Điều kiện để áp dụng biện pháp là khi văn bản pháp luật
có nội dung trái pháp luật nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ kịp thời và nếu
tiếp tục thực hiện có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 28 nghị định 40/2010/NĐ-CP).
5

×