Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.48 KB, 30 trang )

A-MỞ BÀI
Khi bước vào nên kinh tế thị trường,trong bối cảnh toàn cấu hóa dần
mở rộng nhiều quan hệ mua bán hàng hóa,việc mua bán hàng hóa không chỉ
diễn ra trong lãnh thổ một nước với nhau mà còn thực hiện các quan hệ trao
đổi mua bán hàng hóa quốc tế. Nhất là trong quan hệ mua bán hàng hóa
hiện nay, thì việc mua bán cung ứng dịch vụ vơi nhau thường được thể hiện
dưới nhiều cách thức và nội dung khác nhau nên các hành vi mua bán trong
thương mậinỳ được thể hiện bằng một hình thức nhất định đó là đó là hợp
đồng mua bán hàng hóa. Khi xuất hiện một hình thức giao kết bằng hình
thức hợp đồng dã giúp cho việc trao đổi hàng hóa qiữa các thương nhân
hay các chủ thể với nhau được tiến hành dễ dàng và có cơ sở pháp lí hơn
theo luật thương mại năm 2005 đã đưa ra những quy định nhất định để điều
chỉnh các quan hệ mua bán hàng hóa.Những quy định của pháp luật được
thể hiện trong hợp đồng đã xác định rõ ràng các quyền, nghĩa vụ và các điều
khoản cơ bản để các bên có thể giao kết với nhau.Sau đây,em xin trình bày
một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa.

B- NỘI DUNG
I ) Khái quát chung về pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa:
1)Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Quan hệ mua bán hàng hóa đươc xác lập và thực hiện trên cơ sở thuận
mua,vừa bán, tức là trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên.Sự thống nhất ý
chí ( hay còn gọi là sự thỏa thuận ) đó được gọi là hợp đồng mua bán hàng
hóa.Hợp đồng mua bán hành hóa có bản chất của hợp đồng mua bán nói
chung. Đó là sự thỏa thuận của các bên nhằm xác lập,thay đổi hoặc chấm
dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Dù là mua bán tài sản
trong dân sự hay mua bán hàng hóa trong thương mại thì bản chất của nó
cũng không có gì đổi khác mà vẫn có nội dung là: người bán phải giao đối
tượng được bán và quyền sở hữu đối tượng đó cho người mua và nhận
tiền,còn người mua thì nhận đối tượng được mua và trả tiền.Luật thương
mại năm 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng


hóa,nhưng chúng ta có thể xác định hợp đồng mua bán hàng hóa trong
thương mại dựa vào quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng mua bán tài
sản.Từ đó cho thấy hợp đồng mua bán tài sản trong thương mại là một dạng
cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản.Một hợp đồng mua bán có thể là thỏa
thuận về việc mua bán hàng hóa ở hiện tại hoặc mua bán hàng hóa sẽ có ở
một thời điểm nào đó trong tương lai.Bất cứ khi nào một người mua hàng
hóa bằng tiền hoặc phương thức thanh toán khác và nhận quyền sở hữu
hàng hóa thì khi đó hình thành nên quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.

1


2) Các văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng trong thương mại nên
trươc hết hợp đồng mua bán hàng hóa chịu sự điều chỉnh của Luật thương
mại năm 2005.Song luật thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng
mua bán hàng hóa, vậy việc xác định bản chất pháp lý của hợp đồng mua
bán hàng hóa trong thương mại dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự
về hờp đồng mua bán tài sản nên hợp đồng mua bán hàng hóa còn chịu sự
điều chỉnh của Bộ luật dân sự năm 2005.Đặc biệt trong hợp đồng mua bán
hàng hóa gồm có hoạt động mua bán hàng hóa trong nước và có hợp đồng
mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài ( hợp đồng mua bná hàng hóa quốc
tế ),trong đó hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được sự điều chỉnh của
công ước Viên năm 1980.
II)Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa
1. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
Về chủ thể,hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể
chủ yếu là thương nhân hoặc một trong hai bên phải là thương nhân.Theo
quy định của luật thương mại năm 2005,thương nhân bao gồm tổ chức kinh
tế được thành lập hợp pháp,cá nhân hoạt động thương mại một cách độc

lập,thường xuyên và có đăng kí kinh doanh.Tổ chức kinh tế được thành lập
hợp pháp nhằm mục đích hoạt động thương mại một cách độc lập,thường
xuyên và có đăng kí kinh doanh sẽ được coi là thương nhân.Thương nhân
là chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là thương nhân Việt Nam
hoặc thương nhân nước ngoài .Ngoài chủ thể là thương nhân ,các tổ
chức,cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của
hợp đồng mua bán hàng hóa.Khác với bên là thương nhân,bên không phải
là thương nhân có thể là mọi chủ thể có đủ năng lực hành vi để tham gia
giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của pháp
luật.Hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm
mục đích sinh lợi trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo lụât
thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng luật thương mại.
2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa.Hàng hóa là những
sản phẩm lao động của con người,được tạo ra nhằm mục diách trao đổi để
thỏa mãn nhu cầu của con người.Hàng hóa có thể là vật,là sức lao động của
con người,là các quyền tài sản.Dưới góc độ kinh tế,hnàg hóa được phân
2


thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình;dưới góc độ pháp luật,hàng hóa
được phân thành động sản và bất động sản.
Theo pháp luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước
quốc tế(như hiệp định thành lập khối thị trường chung Châu Âu,công ước
viên năm 1980 về mua bán hàng hóa…),hàng hóa là đối tượng có thể mua
bán trong thương mại bao gồm những loại tài sản có hai thuộc tính cơ bản
là:có thể đưa vào lưu thông và có tính trao đổi,mua bán.Công ước viên năm
1980 về mua bán hàng hóa quốc tế chỉ loại trừ đối với việc mua bán chứng
khoán,giấy bảo đảm chứng từ và tiền lưu thông,điện năng,phương tiện vận
tải đường thủy,đường hàng không…

Khoản 2 điều 3 luật thương mại năm 2005 đã mở rộng quy định hàng hóa
đơn.Theo đó,hàng hóa bao gồm tất cả các động sản,kể cả động sản hình
thành trong tương lai; và các vật gắn liền với đất đai.Tuy nhiên,khái niệm
về hàng hóa vẫn còn có sự hạn chế,chúng ta dễ dàng nhận thấy hàng hóa
chỉ bao gồm các loại tài sản hữu hình.Như vậy,các loại tài sản vô hình khác
như quyền sử dụng đất,quyền sở hữu trí tuệ…chưa được thừa nhận là hàng
hóa.Trong khi các văn bản khác như bộ luật dân sự,luật đất đai năm 2003
quy định người có quyền sử dụng đất đươc quyền chuyển nhượng,cho
thuê,thế chấp…thậm chí thừa nhận trên thực tế sàn giao dịch về quyền sử
dụng đất.Như vậy,chúng ta có thể hiểu hàng hóa trong hợp đồng mua bán
hàng hóa bao gồm tất cả các động sản,kể cả động sản hình thành trong
tương lai;và các vật gắn liền với đất.Tuy nhiên,khi các chủ thể tham gia
quan hệ mua bán hàng hóa cần phải xem hàng hóa mà mình định mua hoặc
bán là cái gì,nó có thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh,hạn chế kinh
doanh hoặc hàng kinh doanh có điều kiện hay không.
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Về hình thức,hợp đồng mua bán hàng hóa có thể đươc thiết lập theo cách
thức nào mà hai bên thể hiện được sự thỏa thuận mua bán hàng hóa giữa
các bên.Hợp đồng mua bán có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói,bằng
văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết.Trong những trường
hợp nhất định,pháp luật bắt buộc các bên phả thiết lập hợp đồng mua bán
hàng hóa bằng hình thức văn bản.Điều 24 luật thương mại năm 2005 cũng
quy định:
1. Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
2. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải
được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó.”

3



Các hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa đó đã tạo điều kiện thuận lợi
giúp cho các bên tham gia quan hệ mua bán hàng hóa có thể lựa chọn hình
thức phù hợp nhất đảm bảo quyền lợi của mình.
4. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập
quyền và ngiã vụ của họ trong việc mua bán.Do đó,nội dung của hợp đồng
mua bán hàng hóa trước hết là những điều khoản do các bên thỏa thuận.Các
bên có quyền quyết định nôi dung của hợp đồng.Bởi vì quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ hợp đồng phát sinh chủ yếu từ những điều khoản
mà các bên thỏa thuận đó.Vì vậy mà các bên thỏa thuận các điều khoản
trong hợp đồng càng rõ ràng bao nhiêu thì càng thuận lợi trong việc thực
hiện hợp đồng bấy nhiêu.
Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng, pháp luật không giới hạn các
điều khoản mà các bên thỏa thuận với nhau. Pháp luật chỉ quy định nội
dung chủ yếu của hợp đồng hoặc các điều khoản mang tính khuyến nghị để
định hướng cho các bên trong việc thỏa thuận.
Nội dung của hợp đồng trước hết là những điều khoản mà các bên phải thỏa
thuận được với nhau. Điều 402 Bộ luật dân sự cũng chỉ quy định các bên
“có thể thỏa thuận”mà không đòi hỏi phải thỏa thuận những nội dung chủ
yếu nào.Mặc dù nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể
xác định được dựa trên những quy định mang tinh” khuyến nghị”, ”định
hướng” của pháp luật, thói quen và tập quán thương mại, nhưng trong điều
kiện nhận thức của nhà kinh doanh còn nhiều hạn chế, thì điều này tiềm ẩn
những nguy cơ pháp lý, những tranh chấp trong hoạt động mua bán hàng
hóa. Đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay.
Trên cơ sở các quy định của bộ luật dân sự và luật thương mại, xuất phát từ
tính chất của quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, có thể
thấy những điều khoản quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa bao
gồm : đối tượng,chất lương,giá cả,phương thức thanh toán,thời hạn và địa

điểm giao nhận hàng.
Mặc dù nội dung của hợp đồng do các bên thỏa thuận,nhưng trong mọi
quan hệ hợp đồng nói chung và trong quan hệ mua bán hàng hóa nói riêng,
các bên không chỉ chịu sự ràng buộc bởi các điều khoản mà các bên thỏa
thuận mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của pháp luật.Ví dụ,
các bên không thỏa thuận trong hợp đồng về điều khoản bồi thường thiệt
hại cho nhau khi một bên vi phạm hợp đồng,nhưng bên vi phạm hợp đồng
vẫn phải có nghĩa vụ bồi thường nếu việc vi phạm đó gây thiệt hại cho bên
đối tác. Như vậy,nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa không chỉ là các
4


điều khoản do các bên thỏa thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều
khỏan do các bên không thỏa thuận nhưng theo quy định của pháp luật các
bên có nghĩa vụ phải thực hiện.
5.Giao kết hợp đồng của mua bán hàng hóa
Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên nhằm xác lậo thay đổi hoặc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ nhất định. Như vậy,muốn có hợp đồng các bên phải
thỏa thuận với nhau về 1 số vấn đề đủ để làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
cho các bên. Sự tồn tại của một thỏa thuận là yếu tố cơ bản để xác định sự
tồn tại hay không tồn tại của một hợp đồng.Vậy làm thế nào để đạt được sự
thỏa thuận? để đạt được sự thỏa thuận, các bên phải bày rõ ý chí bằng các
trao đổi ý kiến với nhau để đi đến sự thống nhất ý chí. Trong quá trình xác
lập hợp đồng mua bán hàng hóa, các vấn đề pháp lý cơ bản cần được làm rõ
là : (i)đề nghị giao kết hợp đồng; (ii)chấp nhận đề nghị hợp đồng; (iii) thời
điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng. Trong luật thương mại 2005 điều
này không được quy định cụ thể, vì vậy các quy định của bộ luật dân sự sẽ
được áp dụng đối với việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
5.1 Đề nghị giao kết hợp đồng
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đề nghị giao kết hợp đồng chính là chào

hàng. Chào hàng là một quy định được thừa nhận trong các thông lệ quốc tế
về mua bán hàng hóa.Theo điều 390 bộ luật dân sự “đề nghị giao kết hợp
đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chị sự ràng buộc về đề
nghị này của bên đề nghị đối với bên đã xác định được cụ thể.
Đề nghị giao kết hợp đồng là hành vi pháp lý đơn phương của người đề
nghị. Đó là một tuyên bố chỉ ra rằng : Người đưa ra đề nghị đó sẵn sàng
giao kết hợp đồng với chủ thể xác định trên cơ sở điều khoản đã đưa ra,nếu
đề nghị này được chấo nhận. Điểm mấu chốt của một đề nghị hợp đồng là
người đưa ra đề nghị hợp đồng phải dự định bị ràng buộc bởi các điều
khoản mà họ đã đưa ra mà không có sự đàm phán nào khác.
Đề nghị hợp đồng mua bán có thể do bến bán hoặc bên mua dưa ra.Bộ luật
dân sự cũng như luật thương mại năm 2005 không quy định về hình thức
của đề nghị hợp đồng mua bán hàng hóa,song có thể dựa vào quy định về
hình thức của hợp đòng mua bán theo điều 24 bộ luật thương mại để xác
định hình thức của đề nghị hợp đồng theo đó đề nghị hợp đòng có thể dược
thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc kết hợp giữa các
hình thức này.
Đề nghị hợp đồng được gửi đến cho một hay nhiều chủ thể đã xác định. Đề
nghị đó phải được gửi đích danh và nội dung của đề nghị đó phải rõ ràng,có

5


ý định đặt quan hệ mua bán hàng hóa thực sự. Đề nghị được coi là rõ ràng
nếu trong đó xác định mặt hàng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, số lượng
hàng,giá cả,thủ tục…Vì trong mua bán hàng hóa đề nghị giao kết hợp đồng
gắn liền với trách nhiệm của người đề nghị, nên yếu tố đề nghị giao kết hợp
đồng phải đuợc chuyển cho một hoặc nhiều người xác định là rất quan
trọng.Nó là cơ sở để phân biệt giưua đề nghị giao kết hợp đồng với các
hành vi khác gần giống với nó như quảng cáo mua bán hàng hóa. Hiệu lực

của đề nghị giao kết hợp đồng mua bán thông thường được bên đề nghị ấn
định. Trường hợp bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực của đề
nghị hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được
đề nghị nhận được đề nghị đó. Khoản 2 điều 391 bộ luật dân sư quy định (i)
đề nghị được chuyển đến nơi cu trú (bên được đề nghị là cá nhân)hoạc trụ
sở của bên được đề nghị (nếu là pháp nhân) (ii) đề nghị được đưa vào hệ
thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; (iii)bên được đề nghị biết
được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác. Trong
thời hạn đề nghị hợp đồng có hiệu lực,nếu bên được đề nghị thông báo chấp
nhận vô điều kiện đề nghị hợp đồng thì hợp đồng mua bán hàng hóa được
hình thành và có giá trị ràng buộc các bên. Nếu các bên không thực hiện các
nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu các hình thức chế tài do vi phạm hợp
đồng.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết
hợp đồng trong các trường hợp (i) bên được đề nghị nhận đựoc thoong báo
về việc thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng thời
điểm nhận được đề nghị; (ii) điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát
sinh trong trường hợp bên dề nghị có nêu rõ về viẹc được thay đôi hoạc rút
lại đè nghị khi điều kiện đó phát sinh. Nếu bên đề nghị thay đổi nội dung
của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới (điều 392 BLDS).
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau (i)
bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận; (ii) hết thời hạn trả lời cháp
nhận; (iii)thông báo về việc rút lại đề nghị có hiệu lực; (iv)thông báo về
việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; (v)theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên
nhận được đề nghị trơngthi hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
5.2 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị
chuyênr cho bên đề nghị chuyển cho bên đề nghị việc chấp thuận toàn bộ
nội dung đã nêu trong đè nghị giao kết hợp đồng. Về vấn đề này điều 18
Công ước viên 1980 cũng quy định rõ:”tuyên bố,hành động nào đó cảu

người được chào hàng được thể hiện sự đồng ý với đơn chào hàng được gọi
là việc chấp nhận. Thái độ im lặng hoặc không hành động không phải là
việc chấp nhận nhận dơn đặt hàng”. Như vậy chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng chỉ có giá trị khi đó là hành vi hành động mang tính tích cực của

6


đối tác trong giao dịch mua bán hàng hóa. Không thể coi là bên được đề
nghị giao kết hợp đồng đã đồng ý với lời đề nghị trong khi họ không có
biểu hiện nào ra bên ngoài để cho người đề nghị biết là mình đồng ý toàn bộ
đề nghị giao kết hợp đồng.
Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định tùy từng trường
hợp cụ thể :
- Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận thì chỉ
hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp
đồng nhận được sự chấp nhận đề nghị khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp
nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp
thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà
bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp
nhận giao kêt hợp đồng vẫn có hiệu lực ,trừ trường hợp bên đề nghị trả lời
ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị
- Khi các bên trực tiếp tiếp với nhau,kể cả trong trường hợp qua điện thoại
hoặc qua các phương tiện khác thì bên đề nghị phải trả lời ngay có chấp
nhận hoặc không chấp nhận,trừ trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết
hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề
nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
5.3 Thời điểm giao kết hợp đồng.
Việc xác định thời điển giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có ý nghĩ quan

trọng trong việc khẳng định sự tồn tại của hợp đồng,là cơ sở để xác định
phát sinh quyền và nghĩ vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Về nguyên tắc chung, hợp đồng mua bán được giao kết vào thời điểm các
bên đạt được sự thỏa thuận. Theo điều 404 Bộ luật dân sự tì việc xác định
thời điểm giao kết hợp đồng mua bán theo các trường hợp sau:
- Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản thì hợp đồng mua bán
hàng hóa có hiêu lực khi đủ 2 điều kiện sau đây: Bên đề nghi nhận
được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện ghi trong đề nghi giao
kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị đó phải được nhận trong thời hạn
trả lời do người đề nghị đưa ra.
-

Hợp đồng được giao kết bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là
thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có
thể sử dụng những biện pháp chứng cứ hợp pháp để chứng minh việc
các bên thỏa thuận nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa bằng lời
nói.bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp
nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

7


- Hợp đồng cũng được xem như giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên
được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp
nhận giao kết hợp đồng thì thời điểm giao kết hợp đồng là ngày hết thời
hạn trả lời.
- Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản : thời điểm giao kết hợp
đồng là thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản.
Hợp đồng mua bán hàng hóa đựoc giao kết hợp pháp được hình thành từ
thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp

luật có quy định khác(điều 405 BLDS).
6. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Luật thương mại không quy định cụ thể các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng mua bán hàng hóa. Vì vậy phải dựa vào các điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự trong quy định của bộ luật dân sự. Căn cứ vào các quy
định của bộ luật dân sự (từ điều 122 đến điều 135), hợp đồng mua bán
hàng hóa có hiệu lực khi đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, các chủ thể tham gia hợp đồng mua bná phải có năng lực chủ
thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong thực tiễn,các chủ thể tham
gia hợp đồng mua bán chủ yếu là thương nhân. Khi tham gia hợp đồng
mua bán với mục đích lợi nhuận, các thương nhân phải đáp ứng điều kiện
có đăng kí kinh doanh hợp pháp đối với hàng hóa được mua bán. Còn
trong trường hợp mua bán hàng hóa co điều kiên thì các thương nhân phải
đáp ứng theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, người giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải là người đại
diện hợp pháp của các bên.
Đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo pháp
luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Khi xác định thẩm quyền giao kết hợp
đồng mua bán,tại điều 145 BLDS,theo đó ngươi không có quyền đại diện
giao kết, thực hiện mua bán sẽ không làm phát sinh quyền,nghĩa vụ đối với
bên hợp đồng được đại diện, trừ trường hợp được người đại diện hợp pháp
của bên được đại diện chấp thuận. Bên đã giao kết với người không có
quyền đại diện phải thông báo cho bên kia để trả lời trong thời gian ấn
định,nếu hết thời hạn đó mà không trả lời thì không làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ đối với bên được đại diện,nhưng người không có quyền đại
diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên giao kết hợp đồng với
mình,trừ trường hợp bên giao kết biết hoặc phải biết về việc không có
quyền đại diện.Ví dụ, một công nhân của công ty A nhân danh giám đốc
công ty A ký hợp đồng mua bán hàng hóa với công ty B mà không được
giám đốc ủy quyền, hợp đồng này không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ

cho công ty A vì công nhân đó không có quyền đại diện cho công ty A.
8


Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa không
vi phạm điều cấm của pháp luật,không trái với đạo đức xã hội. Hàng hóa là
đối tượng của hợp đồng mua bán phải là hàng hóa được kinh doanh hợp
pháp theo quy định của pháp luật.Tùy tưng giai đoạn phát triển của nền
kinh tế và xuất phát từ yêu cầu quản lí đối với hoạt động kinh doanh mà
nhữn hàng hóa cấm kinh doanh được quy định một cách cụ thể.
Thứ tư, hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết không trái với các
nguyên tắc ký kết hợp đồng theo quy định của pháp luật. Theo quy đinh
của bộ luật dân sự,việc giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán
phải tuân theo các nguyên tắc:tự do giao kết nhưng không trái pháp luật và
đạo đức xã hội:tự nguyện,bình đẳng,thiện chí,hợp tác,trung thực và ngay
thẳng(điều 389 Bộ luật dân sự). Từ điều 127 đến 133 bộ luật dân sự cũng
đã quy định những hành vi cưỡng ép, đe dọa, lừa dối để giao kết hợp
đồng…sẽ làm cho hợp đồng mua bán không có hiệu lực hay nói cách khác
là hợp đồng bị vô hiệu.
Thứ năm,hình thức hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.Để
hợp đồng mua bán có hiệu lực,nội dung hợp đồng phải được xác lập theo
những hình thức được pháp luật thừa nhận. Theo điều 24 luật thương mại
2005, hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói,bằng văn bản
hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.Đối với các lọa hợp đồng mua bná
hàng hóa mà pháp luật quy định phải được llập thành văn bản thì các bên
phải tuân theo quy định đó. Ví dụ : hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,hợp
đồng mua bán nhà phải thể hiện bằng hình thức văn bản). Nếu các bên
không tuân thủ hình thức văn bản của hợp đồng khi pháp luật bắt buộc phải
tuân theo hình thức văn bản thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, tòa án
hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc các bên thực hiện quy định về

hình thức trong một thời hạn,quá thời hạn đó mà không thực hiện thì hợp
đồng sẽ vô hiệu vì hình thức(điều 134 BLDS).
Như vậy, có thể nói một trong những vần đề pháp lý của hợp đồng mua
bán hàng hóa là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng
hóa.Những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa là những
quy định của pháp luật để khi các giao dịch hợp đồng mua bán mà đáp ứng
các điều kiện như trên và không vi phạm bất cứ điều kiện nào về chủ thể,
về nguyên tắc hay hình thức thì việc giao kết hợp đồng đó không có hiệu
lực và trở nên vô hiệu.
7. Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
7.1)Nguyên tắc thực hiện:
Để đảm bảo việc thực hiện đúng hợp đồng, mang lại lợi ích cho các
bên,đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo
vệ,pháp luật quy định những nguyên tắc thực hiện hợp đồng mà các bên
phải tuân theo trong quá trình thực hiện hợp đồng.Theo quy địnhc ủa Bộ
9


luật dân sự,việc thưc hiện hợp đồng nói chung và hợp đồng hàng hóa nói
riêng phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
- Thực hiện đúng hợp đồng,đúng đối tượng, chất lượng,số lượng,chủng
loại, thời hạn, phương thức giao nhận hàng, thanh toán và các thỏa
thuận khác;
- Thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có
lợi cho các bên,bảo đảm tin cậy lẫn nhau;
- Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền, lợi ich hợp pháp của người khác.
7.2) Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán:
Có thể nói quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng
hóa phát sinh từnhững điều khoản mà các bên đã thỏa thuận trong hợp

đồng và từ quy định của pháp luật.Trong thực tiễn,không thể xác định các
quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán,
bởi vì sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng mua bán là rất phong phú
và đa dạng. Ngay cả khi hai chủ thể kí 2 hợp đồng mua bán thì hai hợp
đồng đó vẫn có thể có những điều khoản khác nhau. Ở đây, chi đi vào
phân tích nhũng nghia vụ cơ bản của các bên trong hợp đồng mua bán, khi
các bên không thỏa thuận cụ thể,rõ ràng trong hợp đồng hoặc trái pháp
luật.
7.2.1) Quyền và nghĩa vụ cơ bản của bên bán
Quyền của bên bán thì hâu như không có vân đề gi khó khăn lắm,thông
thương nhắc đến quyền của bên bán thì thường nhắc đến quyền được thanh
toán tiền khi mình đã cung ứng đủ dịch vụ hay hàng hóa cho bên mua hay
quyền của bên bán khi người mua dã giao hang hóa châm hay chậm thanh
toán.thường thì quyền của cá bên là dễ dàng nhận thay và xác định được.
Sau đây chúng ta chỉ đi sâu vào nghĩa vụ của các bên bởi nó tiềm ẩn những
cái khò giai quyêt khi mà trong hợp đồng không quy định.
7.2.1.1)Bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua theo thỏa thuận:
Dù trong hợp đồng mua bán, các bên có thỏa thuận như thế nào thì giao
hàng vẫn là nghĩa vụ cơ bản nhất của bên bán trong hợp đồng mua bán
hàng hóa. Thỏa thuận về điều kiện giao nhận hàng hóa nhằm mục đích xác
định trách nhiệm và chi phí giao hàng của các bên như đối với vận tải, bảo
hiểm hàng hóa, thủ tục hải quan,thuế xuất nhập khẩu,gánh chịu rủi ro.Theo
quy định của luật thương mại năm 2005, bên bán phải giao hàng,chứng từ
theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng
gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Trường hợp không có

10


thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan

theo quy định sau đây của pháp luật.
*Hàng hóa phải được giao đúng đối tượng và chất lượng.
Đối tượng và chất lượng hàng hóa là những nôi dung cơ bản của hợp đồng
mua bán hàng hóa.Bên bán phải thực hiện giao hàng đúng đối tượng và
chất lượng theo đúng thỏa thuận và quy định của pháp luật. Trong việc
giao nhận hàng hóa có phù hợp với hợp đồng về đối tượng và chất lượng
hay không có ý nghĩa quan trọng. Theo quy đinh tại điều 39 của luật
thương mại năm 2005, trương hợp hợp đồng không có quy định cụ thể thì
hàng hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng khi hàng hóa đó thuộc
một trong các trường hợp sau :
a) Không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng hoá
cùng chủng loại;
b) Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên
bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng;
c) Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hoá mà bên
bán đã giao cho bên mua;
d) Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với loại
hàng hoá đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hoá
trong trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường.
Khi hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, bên mua cí quyền từ chối nhận
hàng.,người bán phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về thiệt hại phát sinh, dù
người bán có biết hoặc không thể biết về thiệt hại đó.
Trách nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp với hợp đồng (trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác) được xác định như sau :
+ Bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng
hoá nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về
những khiếm khuyết đó;
+Trong thời hạn khiếu nại theo quy định (trừ trường hợp bên mua đã biết
hoặc phải biết về những khiếm khuyếtcủa hàng hóa), bên bán phải chịu
trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hoá đã có trước thời điểm

chuyển rủi ro cho bên mua, kể cả trường hợp khiếm khuyết đó được phát
hiện sau thời điểm chuyển rủi ro;
+ Bên bán phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết của hàng hóa phát sinh
sau thời điểm chuyển rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên bán vi phạm hợp
đồng.

11


Theo điều 41 của bộ luật thương mại 2005 đã đưa ra biện pháp khắc
phục trong trường hợp giao thiếu hàng, giao hàng không phù hợp với hợp
đồng :
1. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu hợp đồng chỉ quy định thời hạn
giao hàng và không xác định thời điểm giao hàng cụ thể mà bên bán giao
hàng trước khi hết thời hạn giao hàng và giao thiếu hàng hoặc giao hàng
không phù hợp với hợp đồng thì bên bán vẫn có thể giao phần hàng còn
thiếu hoặc thay thế hàng hoá cho phù hợp với hợp đồng hoặc khắc phục sự
không phù hợp của hàng hoá trong thời hạn còn lại.
2. Khi bên bán thực hiện việc khắc phục quy định tại khoản 1 Điều này mà
gây bất lợi hoặc làm phát sinh chi phí bất hợp lý cho bên mua thì bên mua
có quyền yêu cầu bên bán khắc phục bất lợi hoặc chịu chi phí đó.
* Hàng hóa phải giao đúng số lượng
Bên bán phải giao hàng hóa đúng số lượng như đã thỏa thuận. Nếu giao
hàng thiếu,bên bán đã vi phạm hợp đồng, bên bán phải giao đủ số lượng và
phải chịu trách nhiệm về việc giao thiếu đó.Nếu trường hợp bên bán giao
thừa hàng thì bên mua có quyền từ chối hoặc chấp nhận số hàng thừa
đó.Nếu người mua từ chối nhận phần hàng hóa giao thừa,người bán phải
nhận lại số hàng thừa và chịu mọi chi phí liên quan. Trường hợp bên mua
chấp nhận số hàng thừa thì phải thanh toán ssố hàng này theo giá do các bên
thỏa thuận.

*Hàng hóa phải được giao cùng với chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Trong nhiều trường hợp, việc giao hàng hóa còn bao gồm cả việc giao các
chứng từ liên quan đến hàng hóa (chứng nhận chất lượng,chứng nhận
nguồn gốc xuất xứ,vận đơn…) Nếu chỉ giao hàng mà không giao các
chứng từ liên quan,làm cho người mua chưa sử dụng hoặc định đoạt được
hàng hóa đó thì có thể coi như bên bán chưa giao hàng. Theo điều 42 luật
thương mại năm 2005 quy định:
1. Trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ
giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong thời hạn, tại địa
điểm và bằng phương thức đã thỏa thuận.
2. Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn, địa điểm giao chứng từ liên
quan đến hàng hoá cho bên mua thì bên bán phải giao chứng từ liên quan
đến hàng hoá cho bên mua trong thời hạn và tại địa điểm hợp lý để bên mua
có thể nhận hàng.
3. Trường hợp bên bán đã giao chứng từ liên quan đến hàng hoá trước thời
hạn thỏa thuận thì bên bán vẫn có thể khắc phục những thiếu sót của các
chứng từ này trong thời hạn còn lại.

12


4. Khi bên bán thực hiện việc khắc phục những thiếu sót quy định tại khoản
3 Điều này mà gây bất lợi hoặc làm phát sinh chi phí bất hợp lý cho bên
mua thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán khắc phục bất lợi hoặc chịu chi
phí đó.
* Hàng hóa phải giao đúng thời hạn
Theo điều 37 luật thương mại 2005 hiện hành quy định :
1. Bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thoả thuận
trong hợp đồng.
2. Trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định

thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời
điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua.
Khi bên bán thông báo thời điểm giao hàng cho bên mua thì thời điểm đó
trở thành thời điểm giao hàng cố định và bên bán phải thưc hiện việc giao
hàng tại thời điểm đó như đã thông báo. Nếu bên bán giao hàng không đúng
thời điểm đã thông báo cho bên mua, bên bán sẽ phải chịu trách nhiệm như
không thực hiện đúng thời hạn hợp đồng. Dù bên bán có giao hàng trong
thời hạn còn lại của thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng thì bên bán cũng bị
coi là vi phạm thời điểm giao hàng. Quy định của điều 41 khoản 1 luật
thương mại 2005 có thể gây hiểu lầm là nếu bên bán giao hàng thiếu, hoặc
giao hàng không phù hợp trước khi hết thời hạn giao hàng đã thỏa thuận
trong hợp đồng thì bên bán có quyền giao nốt hàng còn thiếu hoặc thay thế
hàng phù hợp trong thời hạn còn lại là không vi phạm thời điểm giao hàng.
Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải
giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng.
Yêu cầu đặt ra là hàng hóa phải giao đúng thời điểm như đã thỏa thuận hoặc
bên bán đã thông báo. Nếu bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận
thì cũng là vi phạm hợp đồng và bên mua có quyền nhận hay không nhận
điều 38 luật thương mại). Nếu bên bán giao sau là giao hàng chậm và phải
chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm này.
*Hàng hóa phải giao đúng địa điểm đã thỏa thuận
Bên bán phải giao hàng đúng như thỏa thuận trong hợp đồng (điều 35
khoản1 luật thương mại).
Trường hợp không có thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao
hàng được xác định như sau(theo khoản 2 điều 35)
a) Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao
hàng tại nơi có hàng hoá đó;
b) Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hoá thì bên
bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên; quy định này hơi


13


khó hiểu vì người vận chuyển đầu tiên lại là địa điềm giao hàng;một vấn đề
đặt ra nữa là người vận chuyển đầu tiên này là người của bên bán hay bên
mua. Nếu người vận chuyển đầu tiên này là người của bên mua thì coi như
bên bán đã giao hàng đúng địa điểm cho bên mua. Nhưng nếu người vận
chuyển đầu tiên này là người của bên bán thì không thể coi là bên bán dã
giao hàng đúng địa điểm cho bên mua, nếu các bên không thỏa thuận cụ thể
như vậy.
c) Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hoá,
nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa
hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán
phải giao hàng tại địa điểm đó;
d) Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh
doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại
nơi cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua
bán.
7.2.1.2) Bên bán có nghĩa vụ đảm bảo điều kiện để bên mua kiểm tra hàng
hóa trước khi giao hàng.
Kiểm tra hàng hoa strước khi giao là rất cần thiết đối với việc mua bán hàng
hóa trong thương mại.Qua việc kiểm tra,bên mua có thể phát hiện được
khiếm khuyết về chất lượng, số lượng của hàng hóa để có thể quyết định
nhận hay không nhận hàng,đồng thời bên bán cũng có thể nhanh chóng
khắc phục những khiếm khuyết đó của hàng hóa.Theo điều 44 Luật thương
mại,trường hợp có thỏa thuận về quyền kiểm tra hàng hóa của bên mua,thì
bên bán phai bảo đảm cho bên mua có điều kiện tiến hành việc kiểm tra.
Bên mua hoặc đại diện của bên mua phải kiểm tra hàng hóa trong một thời
gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép.Nếu bên mua không thực
hiện việc kiểm tra hàng hóa theo thỏa thuận, thì bên bán có quyền giao hàng

theo hợp đồng. Sau khi kiểm tra hàng, nếu phát hiện hàng hóa không phù
hợp với hợp đồng, bên mua phải thông báo cho bên bán một thời hạn hợp
lý. Nếu bên mua không thực hiện việc thông báo này,bên bán sẽ không phải
chịu trách nhiệm về nhũng khiếm khuyết của hàng hóa, trừ trường hợp các
khiếm khuyết của hàng hóa không thể phát hiện được trong quá trình kiểm
tra bằng biện pháp thông thường và bên bán đã biết hoặc phải biết về các
khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua.
7.2.1.3) Bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa cho
bên mua.
Để có thể chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa cho bên mua, tạo điều
kiện cho bên mua có thể tự do định đoạt đối với hàng hóa được mua theo

14


hợp đồng, bên bán phải đảm bảo hàng hóa không có bất cứ” khuyết tật pháp
lý”nào.Theo điều 45,46,luật thương mại, bên bán phải đảm bảo:
+ Thứ nhất,hàng hóa mua bán phải hợp pháp,tức là hàng hóa đó kinh doanh
theo đúng quy định của pháp luật và được phép lưu thông thương mại.
+ Thứ hai, quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa không bị tranh chấp
bởi bên thứ 3; bảo đảm gàng háo và việc chuyển giao hàng hóa là hợp pháp.
Sau khi chuyển quyền sở hữu,người bán không được có bất kì hành vi nào
làm phương hại tới quyền sở hữu hàng hóa của người mua. Điều này có
nghĩa là người bán phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp cũng như nguồn
gốc của hàng hóa và phải chịu rủi ro cho đến khi quyền sở hữu đối với hàng
hóa được chuyển cho người mua, kể cả trong trường hợp quyền sở hữu bị
người thứ 3 tranh chấp. Trong trường hợp hàng háo bị người thứ 3 tranh
chấp thì bên bán phải đứng về phía bên mua để bảo vệ quyền kợi của bên
mua; nếu sau đó người mua biết rằng người thứ 3 có quyền sở hữu một
phần hoặc toàn bộ hàng hóa mua bán thì bên mua có quyền đình chỉ hợp

đồng và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại.
+Thứ ba, việc chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa cho bên mua là
hợp pháp, tức là bên bán có toàn quyền định đoạt đối với hàng hóa được
mua bán.
+ Thứ tư,hàng hóa mua bán không vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bên bán
phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa đã bán. Trường hợp bên mua yêu cầu bên
bán phải tuân theo bản vẽ kỹ thuật, thiết kế, công thức hoặc những số liệu
chi tiết do bên mua cung cấp thì bên mua phải chịu trách nhiệm về các
khiếu nại liên quan đến những vi phạm quyền sở hữu trí tuệ phát sinh từ
việc bên bán đã tuân thủ những yêu cầu của bên mua. (theo điều 46).
Như vậy, trong quan hệ mua bán hàng hóa,bên bán không chỉ có nghĩa vụ
đảm bảo hàng hóa không có khuyết tật về vật chất để bên mua có thể sử
dụng được hàng hóa đụng mục đích mà còn phải đảm bảo hàng hóa không
có bất kì một” khuyết tật pháp lý ‘nàođể bên mua có toàn quyềnlàm chủ đối
với hàng hóa đã mua.
Theo điều 62 luật thương mại năm 2005, quyền sở hữu được chuyển từ bên
bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển giao, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác.Trong
trường hợp các bên không có thỏa thuận, quyền sở hữu hàng hóa cũng có
thể được chuyển giao từ bên bán sang bên mua ở những thời điểm khác
nhau, tùy theo tính chất của hàng hóa và phương thức mua bán.
Đối với hàng hóa mua bán là động sản,thì quyền sở hữu hàng hóa được
chuyển giao từ bên bán sang bên mua khi bên bán giao hàng cho bên mua,
tức là bên mua đã có quyền chiếm hữu đối với hàng hóa. Đối với hàng hóa
15


mua bán là bất động sản, việc giao nhận hàng hóa được thực hiện thông qua
việc giao nhận chứng từ về hàng hóa, thì quyền sở hữu hàng hóa được

chuyển giao cho bên mua khi bên bán hoàn tất việc chuyển giao các chứng
từ về hàng hóa đó cho bên mua. Đối với hàng hóa mua bán mà pháp luật
quy định phải đăng kí quyền sở hữu thì sở hữu hàng hóa được chuyển giao
cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục chuyển đăng kí quyền sở
hữu đối với hàng hóa từ người bán sang người mua hay đăng kí quyền sở
hữu đối với hàng hoá cho bên mua.
Trường hợp hàng hóa không dịch chuyển khi giao nhận và cũng không có
chứng từ về hàng háo, quyền sở hữu hàng hóa được coi như là đã chuyển
giao tại địa điểm và thời gian hợp đồng có hiệu lực.
Trường hợp mau bán hàng hóa theo phương thức mua sau khi sử dụng
thử,thì trong thời hạn dùng thử, hàng hóa vẫn thuộc sở hữu của bên bán.Tuy
nhiên,trong thời hạn dùng thử, quyền sở hữu hàng hóa của bên bán bị hạn
chế, bên bán không được bán, tặng cho, cho thuê, rao đổi, thế chấp, cầm cố
hàng hóa khi bên mua chưa trả lại.
Trường hợp hàng hóa được mua bán theo phương thức trả chậm, trả dần, thì
bên bán được bảo lưu quyền sở hữu của mình đối với hàng hóa đã giao cho
đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (điều 461 bộ
luật dân sự).
7.2.1.4) Rủi ro đối với hàng hóa
Về nguyên tắc chung, việc xác định trách nhiệm chịu rủi ro đối với hàng
hóa trước hết cần căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp
đồng.Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì áp dụng quy định của
pháp luật.Từ các điề u 57 đến 61 của bộ luật thương mại 2005, vấn đề xác
định trách nhiệm về rủi ro đối với hàng hóa được xác định như sau:
+ Thứ nhất, trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu bên bán có nghĩa vụ
giao hàng cho bên mua tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát
hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được
giao cho bên mua hoặc người được bên mua uỷ quyền đã nhận hàng tại địa
điểm đó, kể cả trong trường hợp bên bán được uỷ quyền giữ lại các chứng
từ xác lập quyền sở hữu đối với hàng hoá.

+ Thứ hai, Chuyển rủi ro trong trường hợp không có địa điểm giao hàng xác
định: nếu hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hoá và bên bán
không có nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất
mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã
được giao cho người vận chuyển đầu tiên, (trừ trường hợp có thoả thuận
khác).

16


+ Thứ ba, chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng
để giao mà không phải là người vận chuyển (ví dụ : người làm dịch vụ
logictic): nếu hàng hoá đang được người nhận hàng để giao nắm giữ mà
không phải là người vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng
hoá được chuyển cho bên mua thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hoá;
2. Khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hoá của
bên mua.
Trong trường hợp này cần phải phân biệt “người nhận hàng dể giao “là
người đại diện cho bên mua hay bên bán? nếu là người đại diện cho bên
bán, thì bên mua không thể phảo nhận rủi ro đối với hàng hóa khi bên mua
mới nhận chứng từ sở hữu hàng hóa mà chua nhận được hàng hóa như
trường hợp 1 của quy định.
+ Thứ tư, Chuyển rủi ro trong trường hợp mua bán hàng hoá đang trên
đường vận chuyển: Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu đối tượng của
hợp đồng là hàng hoá đang trên đường vận chuyển thì rủi ro về mất mát
hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm giao kết
hợp đồng.
Ngoài ra,trong các trường hợp khác,rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng
hóa được chuyển cho bên mua,kể từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền định

đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận hàng. Bên
mua không chịu rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa,nếu hàng hóa
không được xác định rõ ràng bằng kí mã hiệu, chứng từ vận tải,không được
thông báo cho bên mua hoặc không được xác định bằng bất kì cách thức
nào.
7.2.1.5)Bảo hành
Bên bán có nghĩa vụ bảo hành hàng hóa theo hợp đồng hoặc theo quy định
của pháp luật.Bảo hành hàng hóa là việc bên bán phải chịu trách nhiệm về
chất lượng hàng hóa sau khi đã giao hàng hóa cho bên mua, trong một thời
hạn nhất định.Việc bảo hành được thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo quy
định của pháp luật. Theo điều 49 bộ luật thương mại năm 2005, Trường
hợp hàng hoá mua bán có bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm bảo
hành hàng hoá đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận. Bên bán phải
thực hiện nghĩa vụ bảo hành trong thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế
cho phép. Bên bán phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có
thoả thuận khác.
7.2.2)Quyền và nghĩa vụ cơ bản của bên mua hàng:
a.Nghĩa vụ cơ bản của bên mua hàng
17


7.2.2.1)Bên mua hàng có nghĩa vụ nhận hàng
- Nhận hàng là nghĩa vị cơ bản của bên mua (điều 56 luật thương mại
2005). Nhận hàng là việc bên mua công nhận nghĩa vụ giao hàng của bên
bán,tức là bên mua đã nhận hàng về mặt pháp lý. Bên mua hàng có nghĩa vụ
nhận hàng theo thỏa thuận. Khi nhận hàng,bên mua phải thực hiện những
công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng; cần lưu ý, việc nhận hàng tại
thời điểm giao hàng không đồng nghĩa với việc nguời mua đã chấp nhận
hàng hóa được giao mà mới chỉ là tiếp nhận hàng về mặt thực tế. Theo luật
thương mại, sau khi giao hàng, bên bán vẫn phải chịu trách nhiệm về những

khiếm khuyết của hàng hóa đã được giao, nếu các khiếm khuyết của hàng
hóa không thể phát hiện trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông
thường và bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó nhưng
không thông báo cho bên mua. Đối với hàng hóa phải bảo hành thì bên mua
còn phải thực hiện nghĩa vụ bảo hành.Chỉ đến khi nào bên bán không còn
trách nhiệm gì đối với hàng hóa đã bán thì bên bán mới được coi là đã hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng.
- Khi bên bán đã sẵn sàng giao hàng đúng hợp đồng,mà bên mua không
tiếp nhận thì bên mua vi phạm hợp đồng và phải cjịu các biện pháp chế tài
theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.Trong trường hợp này,bên
bán phải áp dụng các biện pháp cần thiết ,phù hợp điều kiện và khả năng
cho phép và với chi phí hợp lí để lưu giữ,bảo quản hàng hóa,và có quyền
yêu cầu bên mua thanh toán chi phí đã bỏ ra.Đối với hàng hóa có nguy cơ bị
hư hỏng thì bên bán có quyền bán hàng hóa và trả cho bên mua khoản tiền
thu được từ việc bán hàng hóa sau khi trừ đi chi phí hợp lý để bảo quản và
bán hàng hóa.
7.2.2.2) Bên mua có nghĩa vụ thanh toán:
Thanh toán là nghĩa vụ quan trọng nhất của bên mua trong quan hệ hợp
đồng mua bán hàng hóa.Bên mua có nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng theo
thỏa thuận và các bên có thỏa thuận về phương thức,thời hạn và thời điểm
thanh toán.Bên mua phải thưc hiện đúng nội dung này theo thỏa
thuận.Trường hợp các bên không có thỏa thuận về nhũng nội dung cụ thể
liên quan đến việc thanh toán,thì áp dụng quy định của pháp luật:
- Địa điểm thanh toán:theo điều 54 luật thương mại,trong trường hợp các
bên không có thỏa thuận về địa điểm thanh toán cụ thể thì bên mua phải
thanh toán cho bên bán tại một trong các địa điểm sau đây:
1. Địa điểm kinh doanh của bên bán được xác định vào thời điểm giao kết
hợp đồng, nếu không có địa điểm kinh doanh thì tại nơi cư trú của bên bán;

18



2. Địa điểm giao hàng hoặc giao chứng từ, nếu việc thanh toán được tiến
hành đồng thời với việc giao hàng hoặc giao chứng từ.
Thời hạn thanh toán : theo điều 55 luật thương mại quy định: trường
hợp các bên không có thỏa thuận,thời han thanh toán được xác định là:
1. Bên mua phải thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng
hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hoá;
2. Bên mua không có nghĩa vụ thanh toán cho đến khi có thể kiểm tra xong
hàng hoá trong trường hợp có thỏa thuận về việc bên mua có quyền kiểm tra
hàng hoá trước khi giao.
Bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng, trong trường hợp hàng hóa mất
mát,hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua,trừ
trường hợp mất mát,hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra
Khi người mua vi phạm nghĩa vụ thanyh toán thì người bán cũng có
thể căn cứ vào Điều 308,Điều 310 và Điều 312 Luật Thương mại để tạm
ngừng giao hàng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng.
-

Xác định giá thanh toán theo quy định tại Điều 52 luật thương mại,

Trường hợp không có thoả thuận về giá hàng hoá, không có thoả thuận về
phương pháp xác định giá và cũng không có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá
thì giá của hàng hoá được xác định theo giá của loại hàng hoá đó trong các
điều kiện tương tự về phương thức giao hàng, thời điểm mua bán hàng hoá,
thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh
hưởng đến giá.
- Chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán :truờn hợp bên mua chậm thanh
toán tiền hàng và các chi phí hợp lý khác thì bên bán có quyền yêu cầu
bên mua trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nọ quas hạn

trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời
gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoạc pháp luật có quy
định khác (điều 306 Luật Thương mại ).Quy định này của luật thương
mại có sự khác biệt với quy định của bộ luật dân sự về xử lý vi phạm
chậm thanh toán tiền trong hợp đồng mua bán tài sản, theo đó trong
trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phả trả lãi đối với
số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố
tương ứng với thơi gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.Có thể nhận
thấy quy định của luật thương mại về xử lý vi phạm nghĩa vụ thanh
toán trong hợp đồng mua bán phù hợp với yêu cầu của quan hệ mua
bán hàng hóa trong thương mại, đáp ứng yêu cầu vận động của vốn
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.

19


- Nếu không có thỏa thuận khác,bên mua có quyền ngừng thanh toán tiền
mua hàng trong những trường hợp sau đây:
+ Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng
việc thanh toán;
+ Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp
thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải
quyết;
+ Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với
hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc
phục sự không phù hợp đó;
+ Trường hợp tạm ngừng thânhtón vì hàng hóa là đối tượng của tranh chấp
hoặc hàng hóa giao không phù hợp với hợp đồng mà bằng chứng do bên
mua đưa ra không xác thực,gây thiệt hại cho bên bán thì bên mua phải bồi

thường thiệt hại đó và chịu các chế tài khác theo quy định của pháp luật.
8. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
8.1 Khái niệm và vai trò của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán
hàng hóa
Khi hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập và có hiệu lực pháp luật,các
bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.Bên nào không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua
bán và sẽ phải chịu trách nhiệm với bên đối tác. Trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng mua bán là một hình thức trách nhiệm pháp lý, nó chỉ phát sinh
khi có sự vi phạm nghĩa vụ pháp lý của một trong 2 bên.
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa được hiểu theo 2
nghĩa.
- Theo nghĩa chủ quan, trach nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa là việc bên vi phạm hợp đồng phải gánh chịu những hậu quả pháp lý
nhất định do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra.
- Theo nghĩa khách quan,trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán là một
chế định pháp luật. Chế định pháp luật này điều chỉnh quan hệ phát sinh khi
có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng.
HIểu theo nghia khách quan, chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa bao gồm các quy định pháp luật quy định về các căn cứ
để áp dụng trách nhiệm, quy định về các hình thức chế tài và quy định về
các trường hợp miễn trách nhiệm. Cũng như các hình thức trách nhiệm pháp
lý khác, chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng,đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật về hợp đồng, đặc biệt là hợp đồng mua bán hàng hóa
thương mại.

20


*)Vai trò của chếđịnh trách nhiệm hợp đồng mua bán hàng hóa được thể

hiện ở những khiá cạnh là:
-Chế định trách nhiệm hợp đồng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.hành vi vi phạm hợp đồng
mua bán luôn tiềm ẩn nguy cơ xâm hại lợ ích của các bên vi phạm (làm mất
mát, hư hỏng hàng hóa ). Để bảo vệ lợi ích của bên vi phạm ,chế định trách
nhiệm hợp đồng mua bán cho phép bên bị vi phạm tự mình hoặc yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền áp dụng các hình thức trách nhiệm đối với bên bị vi
phạm.bên cạnh đó, chế định trách nhiệm hợp đồng mua bán cũng bảo vệ
quyền lợi của bên vi phạm.
-Chế định trách nhiệm hợp đồng ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa, nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể hợp đồng
trong việc thực hiện hợp đồng. Quy định về hợp nhiệm có tác động mạnh
mẽvào ý thức các bên, nâng cao tinh thần trách nhiệmcủa các bên trong việc
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp đồng xảy
ra.
8.2)Căn cú áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán
Luật thương mại không quy định các căn cứ để áp dụng trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hóa mà quy định các căn cứ để áp dụng trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng trong thương mại nói chung. Đó là các căn cứ
sau:
a. Có hành vi vi phạm hợp đồng
Khi các bên đã kí kết hợp đồng và khi hợp đồng đã có hiêu lực thì các
bên phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng. Nếu các bên
không thực hiện hoặc thực hiên không đúng các nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng là vi phạm hợp đồng.Ví dụ bên bán có nghĩa vụ giao hàng
đúng thời hạn thỏa thuận nhưng lại không giao hàng hoặc giao chậm.
Hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.Các bên trong quan hệ
hợp đồng không chỉ phải thực hiện đúng các nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng mà còn phải thực hiện đúng các nghĩa vụ phát sinh từ những quy

định của pháp luật liên quanđến hợp đồng đó.Hành vi vi phạm hợp đồng
là căn cứ pháp lý để áp dụng đối với tất cả các hình thứcchế tài do vi
phạm hợp đồng.
b. Có thiệt hại thực tế xảy ra
Thiệt hại thực tế là những thiệt hại có thể tính toán được một cách tương
đối hợp lý mà bên bị vi phạm phải chịu do hành vi vi phạm hợp đồng
của bên vi phạm.Ví dụ hàng háo bị mất mát,hư hỏng,chi phí ngăn
chặn,hạn chế thiệt hại…Thiệt hại đó có thể là thiệt hại trực tiếp hoặc
thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại xảy ra trong thực
21


tế có thể tính toán một cách dễ dàngvàchính xác như tài sản bị mất,giá trị
hàng hóa bị giảm sút, chi phí bảo quản hàng hóa…Thiệt hại gián tiếp là
những thiệt hại phải dựa trên sự suy đoán hợp lý, logic và khoa học mới
có thể tính toán được như thu nhập bị giảm sút…
Về nguyên tắc, bên vi phạm chỉ phải bồi thường cho bên vi phạm những
thiệt hại thực tế do pháp luật quy định. Điều 307 khoản 2bộ luật dân sự
quy định:thiệt hại thực tế bao gồm tổn thất về tài sản,chi phí hợp lý để
ngăn chặn, khắc phục thiệt hại…
Thiệt hại thực tế do hanh vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm gây ra
chỉ là căn cứ để bên bị vi phạm áp dụng hình thức chế tài”bồi thường
thiệt hại”. Mục đích của hình thức chế tài là để khôi phục lợi ích cho bên
bị vi phạm. Người gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại cho người bị
thiệt hại.
c. Có mối quan hệ nhân quả qiữa ành vi vi phạm và thiệt hại thực tế
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực
tế là mối quan hệ giữa nguyên nhân là hành vi vi phạm hợp đồng đã trực
tiếp gây ra hậu quả là thiệt hại thực tế. Đó la quan hệ nội tại,tất yếu,nếu
không có hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm thì không thể có

thiệt hại thực tế xảy ra cho bên bị vi phạm. Hành vi vi phạm phải có
trước thiệt hại và trực tiếp gây ra thiệt hại. Bên có hành vi vi phạm chỉ
phải bồi thường thiệt hại thực tế là hậu quả tất yếu do chính hành vi vi
phạm của mình gây ra. Trong thực tế có thể có trường hợp hợp đồng bị
vi phạm nhưnng không trực tiếp gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm thì
bên vi phạm không phải bồi thường.
d.Có lỗi của bên vi phạm
Về nguyên tắc,một người chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý khi có hành
vi vi phạm pháp luật và có lỗi khi vi phạm. Lỗi là trạng thái tâm lí và
mức độ nhận thức của một người đối với hành vi của mình và hậu quả
của hành vi đó.Vấn đề trạng thái tâm lí và nhận thức chỉ có thể đặt ra đối
với một con người cụ thể. Trong khi chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng
trong thương mại chủ yếu là các tổ chức kinh doanh. Có lẽ vì vậy mà
điều 303 luật thương mại không quy định lỗi là căn cứ pháp lý.Như vậy,
khi xem xét để áp dụng các chế tài bồi thường thiệt hại thì không cần
phải xem xét xem bên vi phạm có lỗi hay không. Mặc dù vậy,luật
thương mại lại vẫn có quy định về miễn trách nhiểmtong một số trường
hợp (điều 294) như xảy ra sự kiện bất khả kháng,hành vi vi phạm của
một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia, tức là bên vi phạm không có
lỗi.hai quy định này rõ ràng là mâu thuẫn với nhau. Như vậy, yếu tố lỗi
cũng là yếu tố cấu thanh của chế độ trách nhiệm trong thương mại.Trách
nhiệm hợp đồng được áp dụng theo nguyên tắc suy đoán, theo đó mọi
hành vi không thực hiện,thực hiện không đúng hợp đồng đều bị suy đoán
22


là có lỗi(trừ trường hợp bên vi phạm chứng minh được là mình không có
lỗi); khi áp dụng chế tài đối với bên vi phạm, bên bị vi phạm cũng như
cơ quan tài phán, không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên vi phạm.
8.3) Các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng

hóa
+ Thứ nhất,buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Theo điều 297 khoản luật thương mại, Buộc thực hiện đúng hợp đồng là
việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc
dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm
phải chịu chi phí phát sinh. Bản chất của hình thức chế tài này là bên vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo
yêu cầu của bên bị vi phạm. Nếu bên vi phạm giao hàng còn thiếu thì
phải giao cho đủ. Nếu giao hàng không đúng chất lượng thì phải sửa
chữa hoặc giao hàng khác thay thế. Bên vi phạm không được dùng tiền
hoặc hàng hóa khác chủng loại để thay thế nếu không đựoc sự chấp
thuận của bên bị vi phạm và bên vi phạm phải chịu mọi phí tổn phát
sinh. Nếu bên vi phạm không thực hiện đúng yêu cầu thì bên bị vi phạm
có quyền mua đúng loại hàng hóa đã ghi trong hợp đồng để thay thế,bên
vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu
có.Bên bị vi phạm có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hóa và bên
vi phậm phải trả chi phí sữa chữa. Những quy định về buộc thực đúng
hợp đồng này chủ yếu là để áp dụng cho bên vi phạm là bên bán hàng.
Nếu bên vi phạm là bên mua hàng thì bên bán cũng có quyền yêu cầu
bên mua thực hiện đúng các nghĩa vụ bên mua.
Căn cứ để áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là có hành vi vi
phạm hợp đồng. Trường hợp bên bị vi phạm và bên vi phạm thỏa thuận
thay thế nghĩa vụ này bằng nghĩa vụ khác, không được coi là áp dụng
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Theo điều 299 Luật thương mại 2005, trong thời gian áp dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các chế tài khác. Các hình
thức chế tài khác là đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng. Chẳng
lẽ bên bị vi phạm đã yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng mà lại
còn có thể áp dụng các chế tài khác là đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy

bỏ hợp đông? Ngoài ra theo điều 51 khoản 3. Bên mua có bằng chứng về
việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm
ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục sự không phù hợp
đó.Việc tạm ngừng thanh toán của bên mua có thể được hiểu là bên mua
tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Như vậy, trong thời gian bên mua áp dụng
chế tài buộc bên bán thực hiện hợp đồng, bên mua vẫn có quyền tạm ngừng
23


thực hiện hợp đồng theo điều 51 khoan 3 chứ khôngchỉ có quyền đòi bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm như điều 299 khoản 1 quy định.
+ Thứ 2,phạt vi phạm
Phạt vi phạm hay còn gọi lf phạt hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu
bên vi phạm trả một khoản tiền do vi phạm trả hợp đồng nếu trong hợp
đồng có thỏa thuận, trừ các truờng hợp bên vi phạm được miễn trách nhiệm.
Như vậy, phạt hợp đồng mua bán là một hình thức chế tài bằng tiền do vi
phạm hợp đồng,theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm
khoản tiền nhấ định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận. Chế
tài phạt hợp đòng có mục đích chủ yếu là trừng phạt,tác động vào ý thức
của các chủ thể hợp đồng nhằm giáp dục ý thức tôn trọng hợp đồng, phòng
ngừa vi phạm hợp đồng.
Theo điều 300 Luật thương mại năm 2005, chế tài phạt được áp dụng khi có
đủ 2 căn cứ sau đây :
a)Có sự thỏa thuận của các bên về việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng
b)Có hành vi vi phạm hợp đồng.
Mức tiền phat vi phạm hợp đồng bị giới hạn bởi quy định của pháp luật.
Mặc dù các bên có quyền thỏa thuận về mức phạt hợp đồng nhưng không
được quá mức phạt do pháp luật quy định. Theo điều 301 Luật thương mại
mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8%

giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm,
+Thứ 3, bồi thừờng thiệt hại
Khác với vi phạm hợp đồng,bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài được
áp dụng nhằm khôi phục,bù đắp những lợi ích vật chất bị maats cảu bên vi
phạm trong quan hệ hợp đồng mua bán. Với chức năng này,bồi thường thiệt
hại chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm gây ra thiệt hại thực tế;hành vi vi
phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại (xem Điều 303
Luật thương mại). Về nguyên tắc,bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ
những thiệt hại thực tế do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra cho
bên bị vi phạm.Tuy nhiên,như đã phan tích, những khoản thiệt hại đòi bồi
thường phải nằm trong phạm vi được pháp luật ghi nhận.
Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất
do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ
được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm. Khi
xẩy ra vi phạm hợp đồng, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các
biện pháp để hạn chế thiệt hại, để thiệt hại xẩy ra lớn, thì bên vi phạm cũng
phải gánh chịu một phần (Điều 305 Luật thương mại). Bên vi phạm hợp
đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trụ bồi thường thiệt hại, vì bên bị vi

24


phạm đã vi phạm nguyên tắc thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo
tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên.
Khi áp dụng trách nhiệm bồi thường, cần lưu ý mối quan hệ giữa phạt
hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Xuất phát từ quyền tự do hợp đồng, các
bên có quyền thỏa thuận trong hợp đồng về các hình thức chế tài phù hợp
với quy định của pháp luật. Các bên có quyền thỏa thuận về việc bên vi
phạm không phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng mà chỉ phải bồi thường
thiệt hại hoặc vừa phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng và vừa phải bồi

thường thiệt hại. Theo luật thương mại, trong trường hợp các bên của hợp
đồng mua bán không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên vi phạm chỉ có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại; trường hợp các bên có thỏa thuận phạt
vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụg cả chế tài phạt vi phạm và cả
chế tài bồi thường thiệt hại.
+ Thứ tư, tạm ngừng thực hiện hợp đồng mua bán
Là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
mua bán. Căn cứ để một bên có quyền tạm ngừng thực hiện hợp đồng là xảy
ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực
hiện hợp đồng hoặc một bên vi phạm hợp đồng . Vi phạm cơ bản theo giải
thích tại điều 3 diểm 13 luật thương mại là sự vi phạm hợp đồng của một
bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được muc
đích của việc giao kết hợp đồng.
Khi hợp đồng mua bán bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu
lực. Bên bị vi phạm có quyền đòi bồi thường thiệt hại theo quy định. Khi
tạm ngừng thực hiện hợp đồng phải thông báo cho bên vi phạm biết. Nếu
không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.Vấn đề đặt ra là
ngừng thực hiện đến bao giờ? khi nào hợp đồng được tiếp tục thực hiện ?
bên bị vi phạm tạm ngừng thực hiện hợp đồng, còn bên vi phạm có phải
tiếp tục thực hiện hợp đồng? Luật thương mại đã không quy định rõ.Điều
này sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện.
+ Thứ năm,Đình chỉ việc thực hiện hợp đồng mua bán
Đình chỉ thực hiện hợp đồng mua bán là việc một bên chấm dứt thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng mua bán, khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa
thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa
vụ hợp đồng. (điều 310 luật thương mại). Có thể nói đình chỉ hợp đồng là
hành vi đơn phương chấm dứt quan hệ hợp đồng của một bên khi bên kia vi
phạm hợp đồng. Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt
từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền

yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Bên bị vi phạm
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
+ Thứ sáu,hủy bỏ hợp đồng
25


×