Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Những quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của bị cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.88 KB, 23 trang )

DANH MỤC VIẾT TẮT

BLTTHS

:

Bộ luật Tố tụng hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

CQTHTT

:

Cơ quan tiến hành tố tụng

NTHTT

:

Người tiến hành tố tụng

NBC

:

Người bào chữa

CQĐT



:

Cơ quan điều tra

VKS

:

Viện kiểm sát

TA

:

Tòa án

BLHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

1



A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo từ điển luật học, NXB Từ điển bách khoa và NXB Tư pháp thì
địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối liên hệ với những chủ
thể khác trên cơ sở quy định của pháp luật, thể hiện thành một tổng thể các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn
khả năng của chủ thể đối với các hoạt động pháp lý của mình trong phạm vi
các quyền và nghĩa vụ đó.
Khái niệm địa vị pháp lý của bị can và bị cáo được quy định trong hệ
thống pháp luật có thể được hiểu như sau:
Địa vị pháp lý của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người
đã bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Theo
khoản 1 Điều 49 BLTTHS 2003 có thể xác định bị can là người đã bị khởi tố
về hình sự và có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tư cách tham gia tố
tụng của mình.
Tại Điều 50 BLTTHS 2003 thì “bị cáo là người đã bị Tòa án quyết
định đưa ra xét xử”. Nhìn chung địa vị pháp lý của bị cáo là tổng thể quyền
và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho người đã bị Tòa án đưa ra xét xử.
Việc xác định rõ địa vị pháp lý của bị can, bị cáo có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình tiến hành các hoạt động TTHS, nó có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền, lợi ích của bị can, bị cáo cũng như giúp cho các hoạt động
của CQTHTT, NTHTT được nghiêm minh, công bằng, bảo giúp cho pháp
luật được thực thi nghiêm minh trên thực tế.

2


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TTHS
1. Những quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của bị can.

1.1. Những quy định về quyền của bị can.
Quyền của bị can được quy định tại Điều 49 BLTTHS 2003, gồm các
quyền:
(1). Được biết mình bị khởi tố về tội gì;
Đây là quyền quan trọng đầu tiên và quyền ảnh hưởng rất lớn đến việc
thực hiện các quyền khác của bị can, vì vậy các nhà làm luật đã đặt quyền
này lên đầu tiên khi xây dựng các quy định của pháp luật về quyền của bị
can. Bị can cần phải biết mình bị khởi tố về tội gì, theo điều nào của Bộ luật
hình sự để từ đó có thể chủ động tiến hành việc tự bào chữa hay nhờ NBC
cho mình. Quyết định khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền phải có đầy
đủ nội dung theo quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 126 BLTTHS
2003 và phải được tống đạt đến bị can. CQĐT có trách nhiệm phải giao ngay
quyết định khởi tố bị can và giải thích các quyền và nghĩa vụ của bị can.
Quy định này thể hiện sự công bằng, bình đẳng và tiến bộ của pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Khi nhà nước trao cho các cơ quan có thẩm quyền
quyền lực trong tay để tiến hành các hoạt động tố tụng với bị can, thì bị can
cần phải được biết mình bị khởi tố về tội gì một cách công khai, minh bạch
để có thể thực hiện tốt nhất việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của
mình.

3


BLTTHS 1988 quy định: “bị can có quyền biết mình bị khởi tố về tội
gì”, thì đến BLTTHS 2003 có sửa đổi, bổ sung thêm: “bị can có quyền được
biết mình bị khởi tố về tội gì”.
Việc thêm từ “được” đã làm thay đổi hoàn toàn trách nhiệm của các bên chủ
thể trong quan hệ pháp luật này: ở BLTTHS 1988 bị can ở vào thế chủ động,
bị can có thể phải tự mình tìm hiểu xem mình bị khởi tố về tội gì và các
CQTHTT phải tạo điều kiện để họ biết. Tuy nhiên BLTTHS 2003 thêm từ

“được” đã đưa bị can vào thế bị động,nhưng thế bị động này có lợi cho bị
can vì cùng với đó là trách nhiệm của CQTHTT cũng theo đó mà tăng lên,
CQTHTT bắt buộc phải cho bị can biết mình bị khởi tố về tội gì chứ không
phải là bị can tự tìm hiểu. Sự thay đổi này là một sự tiến bộ hơn, có ý nghĩa
quan trọng trong các quy định về quyền của bị can.
(2). Được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can cũng chính là CQTHTT,
NTHTT đã chỉ ra cho bị can hiểu rõ địa vị pháp lý của mình. Từ đó họ có thể
biết mình đang trong tình trạng pháp lý nào, đang có quyền và phải có nghĩa
vụ gì.
Theo quy định tại khoản 6, Điều 126 BLTTHS 2003 thì CQĐT phải
đảm bảo việc giao quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ
cho bị can được thực hiện. Bị can có quyền yêu cầu giải thích về các quyền
và nghĩa vụ mà mình chưa nắm rõ cũng như hỏi về cách thức thực hiện các
quyền mà pháp luật đã quy định cho họ để từ đó khi tham gia tố tụng họ có
thể bảo vệ được quyền lợi của mình một cách hợp pháp.
Trong thực tế có nhiều trường hợp bị can không hề được giải thích về
nghĩa vụ của mình mà chủ yếu là nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của cơ
quan có thẩm quyền, dẫn đến tình trạng nhiều trường hợp bị can vi phạm

4


nghĩa vụ này nên đã bị áp giải, bị truy nã trong khi bị can không hề có ý định
bỏ trốn.
Đây là một quyền quan trong của bị can nhưng trước đây, BLTTHS
1988 không ghi nhận cho bị can có quyền này. Trước nhu cầu của tình hình,
thực trạng nêu trên nên BLTTHS 2003 đã bổ sung, đấy là một sự thay đổi
tiến bộ hợp lý, tăng cường cho bị can những quyền cần thiết để bảo vệ mình
trước sự buộc tội của CQTHTT.

(3). Trình bày lời khai.
Là đối tượng bị buộc tội bị can có quyền bào chữa, gỡ tội. Việc trình
bày lời khai là một trong các cách thức để bào chữa cho mình của bị can. Bị
can có quyền trình bày các tình tiết, sự việc có liên quan đến vụ án để đưa ra
bằng chứng chứng minh cho mình trước sự buộc tội của CQTHTT. Việc khai
báo, trình bày lời khai là một quyền chứ không phải là một nghĩa vụ của bị
can. Do đó bị can có thể khai báo hoặc không khai báo. Pháp luật không đặt
ra trách nhiệm cho bị can trong trường hợp không khai báo hoặc khai báo
không đúng sự thật, nhưng pháp luật khuyến khích bị can khai báo thành
khẩn, đúng sự thật để có căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can.
Khi bị can trình bày lời khai của mình thì NTHTT phải tôn trọng và
có nhiệm vụ ghi chép thu thập những thông tin từ lời khai đó để làm chứng
cứ cho vụ án. Lời khai của bị can có thể được ghi lại dưới dạng văn bản hoặc
hình ảnh, âm thanh, sau đó điều tra viên đều cho bị can đọc lại, hoặc nghe lại
rồi ký tên vào biên bản. Việc trình bày lời khai chính là việc bị can đang
thực hiện quyền bào chữa của mình.
Theo luật định thì trình bày lời khai là quyền của bị can nhưng trên
thực tế có nhiều trường hợp điều tra viên vi phạm quy định này như đã dùng
hình thức hỏi cung, trái pháp luật (bức cung, ép cung bị can…). Cá biệt có
nhiều trường hợp bị can không khai báo, điều tra viên còn tra tấn, bức cung
5


dùng nhục hình để lấy được lời khai của bị can theo ý muốn của mình. Đây
là một sự vi phạm quyền nghiêm trọng cần được xem xét và xử lý.
Quyền trình bày lời khai là một quyền mới của bị can được quy định
trong BLTTHS 2003, làm tăng thêm cách thức thực hiện các quyền bào chữa
của bị can.
(4). Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Bị can có quyền đưa ra các đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án để

chứng minh cho sự vô tội của mình. Những đồ vật này có thể là vật dụng của
bị can, người bị hại, vũ khí hay vật dụng khác hoặc những tài liệu liên quan.
Trong BLTTHS 1988 quy định: “bị can có quyền đưa ra chứng cứ và những
yêu cầu”, đến BLTTHS 2003 thì: “bị can có quyền đưa ra đồ vật, tài liệu
yêu cầu”. Đây là một sự thay đổi hợp lý vì những đồ vật, tài liệu mà bị can
đưa ra sẽ được coi là chứng cứ nếu được NTHTT thu thập theo trình tự, thủ
tục luật định.
Bị can cũng có quyền đưa ra các yêu cầu: yêu cầu có luật sư bào chữa,
thay đổi người tiến hành tố tụng… hoặc đưa ra các yêu cầu khác như trưng
cầu giám định, giám định lại hoặc điều tra lại nếu thỏa mãn các yêu cầu về
thủ tục mà pháp luật quy định.
(5). Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch.
Pháp luật ghi nhận quyền yêu cầu thay đổi NTHTT của bị can tại
khoản 2 Điều 43 BLTTHS 2003. Bị can có quyền này vì họ là đối tượng bị
buộc tội trong vụ án, do vậy hơn ai hết họ là người trước tiên có quyền yêu
cầu thay đổi NTHTT. Tùy theo yêu cầu thay đổi từng NTHTT và chức vụ
khác nhau mà căn cứ vào từng điều luật theo quy định từ Điều 44 đến Điều
47 BLTTHS 2003 mà người có thẩm quyền quyết định thay đổi hay không
thay đổi NTHTT theo yêu cầu của bị can.
6


Người giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám
định theo quy định của pháp luật. Kết quả giám định chứng minh cho hành
vi của bị can có cấu thành tội phạm hay không, do đó bị can có quyền yêu
cầu thay đổi người giám định.
Trong trường hợp có người phiên dịch, nếu người này phiên dịch không
trung thực hoặc không có khả năng phiên dịch chính xác thì cũng có thể làm
sai lệch vụ án, có thể sẽ ảnh hưởng đến bị can, do đó bị can có quyền yêu

cầu thay đổi người phiên dịch. Người phiên dịch phải từ chối hoặc thay đổi
nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 62 BLTTHS
2003.
(6). Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
Quyền bào chữa của bị can là một nguyên tắc được Hiến định (Điều
132 hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001), và luật định. Điều 12 BLTTHS
2003 ghi nhận: “bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa, CQĐT, VKS và TA có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của họ”.
Quyền bào chữa của bị can được thể hiện dưới 2 hình thức: tự bào
chữa và nhờ người khác bào chữa.
Đối với quyền tự bào chữa của bị can được thực hiện trong tất cả các
giai đoạn mà bị can tham gia. Bị can có thể dùng lời khai, đưa ra những đồ
vật, tài liệu để chứng minh cho sự vô tội của mình.
Bên cạnh quyền tự bào chữa, pháp luật cũng quy định cho bị can
quyền nhờ người bào chữa cho mình. NBC có thể là luật sư, bào chữa viên
nhân dân hoặc người đại diện hợp pháp của bị can. NBC sử dụng quyền
năng mà pháp luật cho phép để bảo vệ tốt nhất cho thân chủ của mình.
Thông thường, NBC do bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ
lựa chọn. Nhưng trong trường hợp bị can bị truy tố về tội có mức hình phạt
7


cao nhất là tử hình theo BLHS hoặc bị can là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, mà bị can hoặc người đại diện hợp
pháp của bị can không mời NBC thì pháp luật bắt buộc CQTHTT phải cử
NBC cho bị can vì trong trường hợp này bị can bất lợi hơn và khả năng thực
hiện được quyền tự bào chữa của bị can là không cao.
(7). Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng.
Bị can có quyền được nhận các quyết định khởi tố quyết định áp

dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, bản kết luận điều tra,
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản cáo trạng, quyết định truy tố, và
các quyết định khác theo quy định của pháp luật có liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của bị can. Việc nhận các quyết định tố tụng này giúp vị can nắm
được tình hình giải quyết vụ án cũng như tình trạng pháp lý của mình, để từ
đó có thể chủ động trong các hoạt động tố tụng mà mình tham gia. Đây cũng
là một quyền bổ trợ cho bị can thực hiện quyền bào chữa cho mình.
(8). Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Các quyết định của CQTHTT, NTHTT ban hành trong các giai đoạn
tố tụng có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can, thì bị can có
quyền khiếu nại đối với các quyết định đó. Pháp luật chỉ quy định bị can có
quyền khiếu nại đối với các quyết định tố tụng nói chung nên ta có thể hiểu
tất cả các quyết định tố tụng liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can
đều có thể trở thành đối tượng khiếu nại. Trình tự thủ tục tiến hành khiếu nại
và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ở đây được pháp luật quy định
rõ ràng tại chương XXXV của BLTTHS 2003.
Quyền khiếu nại của bị can là sự đảm bảo của pháp luật để bị can có
thể bảo vệ quyền lợi của mình và cũng là căn cứ để đánh giá sự tuân thủ
đúng pháp luật của các CQTHTT, NTHTT.
8


1.2. Nghĩa vụ của bị can
Pháp luật không quy định nhiều về nghĩa vụ của bị can, trong khi
trách nhiệm và nghĩa vụ của NTHTT lại rất lớn. Quy định tại khoản 3 Điều
49 BLTTHS 2003 Bị can có nghĩa vụ: “phải có mặt theo giấy triệu tập cảu
CQĐT, VKS. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có
thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã”.
Bị can tại ngoại được triệu tập bằng giấy triệu tập bị can gửi cho cơ

quan, tổ chức nơi bị can cư trú hoặc làm việc. Khi nhận giấy triệu tập, bị can
phải ký nhận, có ghi rõ ngày giờ nhận, nếu bị can vắng mặt thì giấy triệu tập
có thể giao cho người đã thành niên trong gia đình để ký xác nhận và chuyển
cho bị can. Nếu bị can đang bị tạm giam thì được triệu tập thông qua Ban
giám thị trại tạm giam.
Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập. Trong trường hợp vắng mặt
không lý do chính đáng hoặc có biểu hiện trốn tránh thì CQĐT có thể ra
quyết định áp giải. Tuy nhiên không được áp giải bị can vào ban đêm để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can; trường hợp bỏ trốn thì bị can sẽ bị
truy nã.
Xét quy định tại khoản 3 Điều 49 BLTTHS 2003 thì bị can chỉ có
nghĩa vụ có mặt khi có giấy triệu tập của CQĐT, VKS mà không hề có nghĩa
vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Nhưng trong thực tế tiến hành
tố tụng nhiều trường hợp, trong khi Tòa án chuẩn bị xét xử “Tòa án vẫn
triệu tập bị can đến để giải quyết vấn đề dân sự hoặc cam đoan trước khi
quyết định biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản
có giá trị để bảo đảm những không căn cứ” (Nguyễn Mai Bộ-Một số vướng
mắc, bất cập trong các quy định của BLTTHS và hướng hoàn thiện. Tạp chí
nhà nước và pháp luật số 4/2009). Vì vậy cần phải bổ sung nghĩa vụ có mặt
theo giấy triệu tập của Tòa án cho bị can.
9


2. Những quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của bị cáo.
2.1. Quyền của bị cáo
Theo quy định tại khoản 2 Điều 50 BLTTHS 2003 thì bị cáo có các
quyền sau:
(1). Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng;
Bị cáo có quyền được nhận các quyết định tố tụng do CQTHTT,
NTHTT ban hành. Trong đó quan trọng nhất là quyết định đưa vụ án ra xét

xử, vì từ đó tư cách bị can chuyển thành bị cáo trong quá trình tố tụng, đồng
thời quyền và nghĩa vụ của bị cáo được xác định, đây cũng là căn cứ để áp
dụng các biện pháp tố tụng đối với bị cáo. Quyết định này phải được giao
cho bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Kết quả của giai
đoạn xét xử có ý nghĩa quyết định đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị cáo. Các
quyết định đình chỉ vụ án, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện
pháp ngăn chặn cũng cần phải giao cho bị cáo. Kết quả xét xử được thể hiện
trong bản án, xác định bị cáo phạm tội hay không phạm tội, phạm tội gì, căn
cứ pháp lý, hình phạt và các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với bị cáo.
Bản án phải được giao cho bị cáo trong vòng 10 ngày kể từ ngày tuyên án
để bị cáo có điều kiện biết rõ để nếu có thể thì sẽ thực hiện tốt nhất việc
kháng bảo vệ quyền lợi của mình.
Bị cáo cũng có quyền nhận các quyết định tố tụng khác theo quy định
của pháp luật. Các quyết định này được giao đến bị cáo dưới nhiều hình thức
khác nhau nhưng phải đảm bảo là bị cáo nhận được quyết định.
(2). Được tham gia phiên tòa;
Phiên tòa được mở ra để xét xử bị cáo vì vậy việc bị cáo có mặt tại
phiên tòa là quyền đương nhiên của bị cáo.

10


Trường hợp bị cáo vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do chính
đáng thì sẽ bị áp giải theo thủ tục áp giải. Nếu bị cáo vắng mặt có lý do
chính đáng thì phải hoãn phiên tòa; trường hợp bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc
bị bệnh hiểm nghèo khác mà không thể tham gia phiên tòa để bào chữa cho
mình thì HĐXX phải tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh; trong
trường hợp bị cáo trốn tránh và việc truy nã không hiệu quả; bị cáo ở nước
ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa; hoặc nếu sự vắng mặt của bị cáo
không gây trở ngại đến việc xét xử và bị cáo đã được giao quyết định triệu

tập một cách hợp lệ thì TA vẫn có thể tiến hành xét xử bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo có thể đưa ra các lý lẽ, đồ vật, tài liệu để gỡ tội
cho mình, cho nên bị cáo cần nhận thức rõ về quyền tham gia phiên tòa của
mình và nên tích cực tham gia để bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của mình.
(3). Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
Ở đây, quyền và nghĩa vụ của bị cáo có sự thay đổi khác với tư cách bị
can trước đó. Vì vậy, chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền lợi và nghĩa vụ
cho bị cáo trong thủ tục bắt đầu phiên tòa. Điều này có ý nghĩa đặc biệt nhất
là với các bị cáo lần đầu tiên tham gia phiên tòa xét xử thì việc giải thích
quyền lợi và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa sẽ giúp họ ổn định tâm lý, như
vậy sẽ giúp họ hợp tác với CQTHTT, NTHTT được tốt nhất.
(4). Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của pháp luật;
Bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi NTHTT, người phiên dịch, người
giám định, trong các trường hợp quy định của pháp luật nếu thấy quyền và
lợi ích hợp pháp của họ có thể bị xâm hại.
Tại phiên tòa nếu bị cáo có yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm thì
HĐXX sẽ biểu quyết tại phòng nghị án để quyết định việc có thay đổi hay

11


không, nhưng lưu ý đề nghị này chỉ được phép thực hiện trước khi HĐXX,
nếu thay đổi thì phải hoãn phiên tòa.
(5). Đưa ra đồ vật, tài liệu yêu cầu
Quyền này của bị cáo giống với quyền của bị can. Bị cáo cũng có
quyền đưa ra các đồ vật, tài liệu để chứng minh cho mình vô tội và đưa ra
các yêu cầu tại phiên tòa.
(6). Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
Quyền bào chữa là quyền cơ bản của đối tượng bị buộc tội xuyên suốt

trong quá trình tố tụng, nên với tư cách là bị can hay bị cáo đều được pháp
luật thừa nhận quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Nhìn chung,
cách thức thực hiện quyền này của bị can và bị cáo là giống nhau. Bị cáo tự
bào chữa bằng cách đưa ra những đồ vật, tài liệu, lời khai, lý lẽ.
Tuy nhiên quyền nhờ NBC ở giai đoạn xét xử được quy định chặt chẽ
hơn ở chỗ: tại các buổi hỏi cung bị can, người bào chữa có quyền được có
mặt để tham gia bảo vệ quyền lợi cho bị can, nhưng tại phiên tòa thì việc
tham gia của NBC là một nghĩa vụ bắt buộc, nhưng nếu vắng mặt NBC thì
TA vẫn mở phiên tòa xét xử. Những trường hợp phiên tòa phải hoãn khi
vắng mặt NBC là khi bị cáo bị đưa ra xét xử với khung hình phạt cao nhất là
tử hình, hoặc bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất và tinh thần.
(7). Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa;
“Mô hình xét xử của Việt Nam là xét hỏi”, tuy nhiên tại phiên tòa việc
tranh luận vẫn được diễn ra giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Bị cáo có quyền
trình bày những ý kiến của mình về về vấn đề mà Kiểm sát viên hoặc Thẩm
phán đưa ra, có quyền tranh luận với Kiểm sát viên. Ngay cả khi có NBC thì
bị cáo vẫn có quyền bổ sung các ý kiến để bào chữa cho mình. BLTTHS
2003 đã quy định cho bị cáo và NBC cho bị cáo có quyền tranh luận nhiều
12


lần tại phiên tòa chứ không phải một lần. Đây cũng là một quyền bổ trợ cho
quyền bào chữa của bị cáo. BLTTHS 1988 đã không quy định cho bị cáo
quyền này. BLTTHS 2003 đã bổ sung, thể hiện sự tiến bộ của pháp luật,
hoàn thiện hơn nữa các quyền cho bị cáo.
(8). Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
Quy định cho bị cáo quyền nói lời sau cùng thể hiện tính nhân đạo
trong pháp luật Việt Nam, đó là pháp luật đặt ra ngoài mục đích trừng phạt
còn mang tính răn đe giáo dục con người. Lời nói sau cùng của bị cáo sẽ

phản ánh thái độ của bị cáo đối với toàn bộ sự việc đã xảy ra: có những bị
cáo vẫn ngoan cố không chịu thừa nhận hành vi phạm tội, có bị cáo thành
thật cúi đầu nhận tội xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Thái độ
của bị cáo lúc này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc quyết định vụ án. Vì
vậy đây có thể được coi như một đặc quyền mà bị cáo được sử dụng để thực
hiện việc bào chữa cho mình.
Khi bị cáo nói lời sau cùng, HĐXX không được đặt câu hỏi cho bị
cáo, cũng không được hạn chế thời gian, tuy nhiên chủ tọa phiên tòa có thể
yêu cầu bị cáo không được nói những gì không liên quan đến vụ án. Khi bị
cáo nói lời sau cùng mà đưa ra những tình tiết mới liên quan đến vụ án thì
HĐXX phải quyết định trở lại việc xét hỏi để đảm bảo quyền lợi cho bị cáo.
Ý nghĩa của quy định này không chỉ dừng lại ở việc bảo đảm tốt nhất
quyền lợi cho bị cáo mà khi xét xử công khai một vụ án, thì những lời nói
sau cùng của bị cáo cũng chính là một cách thức tuyên truyền, giáo dục ý
thức pháp luật cho người dân đạt hiệu quả cao.
(9). Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
Sau khi nghị án, hội đồng xét xử sẽ đưa ra quyết định sau cùng để giải
quyết vụ án thể hiện trong bản án tại phiên tòa, quyền kháng cáo của bị cáo
cũng được ghi trong nhận trong bản án này.
13


Pháp luật quy định cho bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ nội dung
bản án, quyết định của TA, trong khi các chủ thể khác chỉ có thể kháng cáo
phần nội dung của vụ án, quyết định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
họ.
Bị cáo có thể tự mình thực hiện quyền kháng cáo hoặc người đại diện
hợp pháp của bị cáo trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể
từ ngày tuyên án, đối với trường hợp bị cáo vắng mặt tại phiên tòa thì thời

hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc giao cho bị
cáo.
Có nhiều chủ thể có quyền kháng cáo, tuy nhiên nếu chỉ có kháng cáo
của bị cáo mà không có kháng cáo hay kháng nghị của chủ thể nào khác theo
hướng bất lợi cho bị cáo, thì TA không được sửa bản án theo hướng tăng
nặng cho bị cáo. Đây là một sự đảm bảo của pháp luật để bị cáo có thể thực
hiện quyền kháng cáo của mình mà không lo sợ đến hậu quả bất lợi khi TA
quyết định xét xử phúc thẩm.
Bị cáo cũng có quyền kháng cáo các quyết định của TA như quyết
định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án hoặc quyết định áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh khi các quyết định này chưa có hiệu lực pháp luật. Bị
cáo thực hiện việc kháng cáo theo những điều kiện mà pháp luật quy định.
Bị cáo cũng có quyền thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ hay một phần
kháng cáo của mình trước hoặc trong phiên tòa phúc thẩm. Quyền kháng cáo
bản án và quyết định sơ thẩm là một quyền quan trọng của bị cáo. Trình tự,
thủ tục kháng cáo và trách nhiệm của các chủ thể thực hiện tố tụng bảo đảm
cho bị cáo thực hiện quyền này được quy định từ Điều 231 đến Điều 240 của
BLTTHS. Việc kháng cáo của bị cáo đối với các quyết định của bản án sơ
thẩm sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là khi có kháng cáo thì bản án sơ thẩm
14


chưa được đem ra thi hành ngay. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 255 BLTTHS quy
định trường hợp mà bị cáo đang bị tam giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết
định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
cho bị cáo, tuyên các hình phạt không tước tự do hoặc tuyên án tù nhưng
ngắn hạn hơn (hoặc bằng) thời hạn tạm giam thì bản án hoặc quyết định của
Tòa án sơ thẩm thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo (hoặc kháng
nghị).
Pháp luật quy định quyền kháng cáo với các yêu cầu về thời hạn, cách

thức kháng cáo mà không quy định phải có căn cứ kháng cáo, nên trong thực
tế nhiều trường hợp bị cáo kháng cáo để “cầu may”, dẫn đến tình trạng số
lượng án phúc thẩm nhiều, gây tồn đọng và khó khăn trong công tác xét xử
phúc thẩm, trong khi bản án sơ thẩm đã hoàn toàn phù hợp do vậy cần phải
có sự xem xét quy định này cho hợp lý.
(10). Khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng;
Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có
quyết định hoặc hành vi tố tụng mà bị cáo cho rằng có sự vi phạm pháp luật.
BLTTHS 2003 quy định cụ thể trình tự, thủ tục, và người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại của bị cáo trong từng trường hợp cụ thể. Tùy từng đối tượng
bị khiếu nại mà pháp luật quy định người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
là khác nhau.
Bị cáo chỉ có quyền khiếu nại những quyết định của cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng mà những quyết định đó không phải là đối
tượng của kháng cáo (đối tượng của kháng cáo là các bản án, quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án). BLTTHS 1988 không quy định cho bị cáo có
quyền khiếu nại các quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người
15


tiến hành tố tụng, cũng không quy định về trình tự thủ tục giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong hoạt động TTHS trong một chương riêng như BLTTHS
2003. Đến BLTTHS 2003 mới quy định và quy định rất chi tiết cho cả bị
can, bị cáo đều có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của
CQTHTT, NTHTT. Đây là một sự tiến bộ rõ rệt trong quy định của pháp luật
để đưa quyền khiếu nại của bị can, bị cáo vào áp dụng được trên thực tế và
có cơ chế bảo đảm thi hành chứ không chỉ dừng lại ở việc quy định chung
như trước đó.

Các quyền mà pháp luật quy định cho bị cáo đều nhằm mục đích phục
vụ quyền bào chữa của bị cáo. Mỗi quyền khác nhau tạo cho bị cáo cách
thức khác nhau để thực hiện quyền bào chữa để bảo vệ quyền lợi cho mình.
2.2. Nghĩa vụ của bị cáo.
Bị cáo chỉ có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của TA và trong
trường hợp bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải,
nếu bị cáo bỏ trốn thì bị truy nã.
Trong giai đoạn xét xử, TA triệu tập bằng giấy triệu tập khi cần có mặt
của bị cáo. Giấy triêu tập bị cáo chỉ rõ đích danh bị cáo và thời gian bị cáo
phải có mặt. Trong một số trường hợp bị cáo vắng mặt vì những lý do khách
quan như do sức khỏe hoặc do bi cáo không nhận được giấy triệu tập của TA
thì việc bị cáo vắng mặt được Tòa án chấp thuận. Nhưng nếu bị cáo vắng
mặt không lý do chính đáng thì sẽ bị dẫn giải. trong trường hợp bị cáo cố
tình bỏ trốn thì bị truy nã theo quy định của pháp luật.
Nhìn nhận một cách khách quan thì việc có mặt theo giấy triệu tập
không chỉ là nghĩa vụ mà còn là một quyền của bị cáo. Vì bị cáo có quyền
được tham gia vào các hoạt động tố tụng để trực tiếp thấy được các hoạt
động của CQTHTT tiến hành những hoạt động nào, có những quyết định gì
đối với mình để từ đó mới có thể tiến hành bào chữa cho bản thân một cách
16


hiệu quả nhất. Nhưng trên thực tế rất nhiều bị cáo không hiểu được điều này
mà cố tình trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ của mình và buộc các
CQTHTT sử dụng các biện pháp dẫn giải, hay truy nã bị cáo. Điều này sẽ
gây hậu quả bất lợi hơn cho bị cáo.
Bị can, bị cáo cùng là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự chỉ có
tư cách pháp lý là khác nhau trong các giai đoạn tố tụng khác nhau. Do đó
rất nhiều quyền của bị can, bị cáo giống nhau như quyền bào chữa, quyền
được giải thích về các quyền lợi và nghĩa vụ, … Nhưng trong các giai đoạn

tố tụng khác nhau thì các hoạt động tố tụng được tiến hành cũng khác nhau,
do đó quyền của bị can, bị cáo cũng có nhiều điểm khác nhau, sự khác nhau
này chính là đặc điểm để phân biệt về địa vị pháp lý của 2 chủ thể này.

II. ĐỀ XUẤT HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ
PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Để TTHS đạt hiệu quả cao thì việc sửa đổi,bổ xung nhằm hoàn thiện
các quy định về bị can,bị cáo cần được tiến hành theo hướng các quy định
phải chi tiết, cụ thể, dễ hiểu hơn nữa để tránh tình trạng hiểu và áp dụng
không thống nhất các quy định của BLTTHS về quyền lợi, nghĩa vụ và trách
nhiệm của bị can, bị cáo và những CQTHTT, NTHTT có liên quan đến bị
can, bị cáo.
Từ việc phân tích các quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo
trong TTHS, xin đưa ra một số kiến nghị sửa đổi bổ sung những quy định
của BLTTHS 2003 về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo và những quy định
liên quan như sau:

17


Do pháp luật quy định chỉ mới khái quát rằng “bị can là người đã bị
khởi tố về hình sự” gây khó khăn cho việc xác định thời điểm chuyển hóa tư
cách bị can thành bị cáo, nên cần có hướng dẫn chi tiết cho quy định này
trong các văn bản dưới luật hoặc sửa đổi lại khoản 1 Điều 49 theo hướng
quy định rõ thời điểm xác định tư cách bị can.
Nên sửa đổi quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 179 thành: “khi có căn
cứ cho rằng bị can, bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” để
tránh tình trạng không xác định được thời điểm chuyển tư cách từ bị can
sang bị cáo.
Việc xác định không chính xác người tham gia tố tụng, đặc biệt là

trong trường hợp bị can, bị cáo có người đại diện hợp pháp sẽ dẫn đến
những hậu quả pháp lý khác nhau trong bản án, quyết định của TA. Nhưng
trong BLTTHS lại không quy định về người đại diện hợp pháp của bị can, bị
cáo trong quy định tại Điều 49 và Điều 50 về bị can, bị cáo, mà quy định rải
rác ở các điều luật khác (như Điều 56 về người bào chữa, Điều 57 về Lựa
chọ và thay đổi người bào chữa, Điều 303 về Việc giám sát đối với người
chưa thành niên phạm tội, Điều 305 về Bào chữa). Vì vậy nên quy định trực
tiếp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất hoặc tinh thần có người đại diện hợp pháp vào chung trong Điều 49 và
Điều 50 của BLTTHS.
Quy định tại khoản b Điều 49 và khoản c Điều 50 BLTTHS, thì bị
can, bị cáo có quyền “được giải thích về quyền và nghĩa vụ”, tuy nhiên trên
thực tế việc thực hiện những quyền này chưa có sự bảo đảm về mặt pháp lý
nên còn có nhiều vi phạm, vì vậy để có tính khả thi hơn nên quy định thêm
phần chế tài cho những quy định này cho những hành vi vi phạm quy định
về quyền này của bị can, bị cáo.

18


Khoản e Điều 49 và khoản e Điều 50 thì bị can, bị cáo “có quyền tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Theo quy định này thì bị can, bị
cáo là chủ thể có quyền bào chữa. Để thực hiện tốt quyền trên thì nên bổ
sung cho bị cáo một số quyền như được xem hồ sơ, được sao chép, được ghi
chép những tài liệu có trong hồ sơ có liên quan tới việc bào chữa sau khi có
kết quả điều tra theo quy định của pháp luật. Đồng thời nên quy định biện
pháp bảo đảm cho quy định này như bị can, bị cáo có hành vi vi phạm việc
quản lý, bảo vệ, lưu trữ hồ sơ thì sẽ đương nhiên bị mất quyền này tại bất kỳ
thời điểm nào. Theo đó cần bổ sung cho Điều 50 cho phép bị cáo có quyền
sử dụng những gì ghi chép được trước Tòa để bảo vệ mình.

Để đảm bảo và mở rộng quyền nhờ người khác bào chữa của bị can,
bị cáo thì cũng cần sửa đổi bổ sung Điều 56 và Điều 57 BLTTHS về vấn đề
này. Cụ thể, tại Điều 56 về người bào chữa nên quy định NBC là người có
kiến thức pháp luật được bị can, bị cáo mời và CQTHTT cấp giấy chứng
nhận bào chữa thì được tham gia bào chữa; tại Điều 57 về lựa chọn người
bào chữa, nên quy định: NBC cho bị can, bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của
họ hoặc gia đình họ lựa chọn.
Vì NBC là người có quyền lợi, nghĩa vụ trực tiếp liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của bị can, bị cáo. Nên tăng cường quyền của NBC cũng chính
là tăng cường quyền của bị can, bị cáo.
Theo điểm b khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì NBC phải đề nghị CQĐT báo
trước về thời gian và địa điểm “hỏi cung” bị can, vì vậy CQĐT không có
trách nhiệm thông báo cho NBC nếu như không có yêu cầu và nếu chỉ thông
báo mà không phải là thông báo hợp lệ qua nhắn tin, qua đường bưu điện,
fax hoặc email thì nhiều khả năng không nhận được thông báo. Bên cạnh đó,
quy định này chỉ yêu cầu thông báo về lịch “hỏi cung” còn các hoạt động tố

19


tụng khác thì CQĐT không phải thông báo. Như vậy cần phải sửa đổi, bổ
sung các quy định này nhằm nâng cao hơn nữa các quyền của NBC.
Luật không quy định cụ thể CQTHTT phải chịu chế tài thế nào nếu
không tạo điều kiện cho luật sư hành nghề nên nhiều quyền của NBC không
được thực hiện và hầu như bị vi phạm. Do vậy cần quy định các chế tài cụ
thể đối với các hành vi cản trở của điều tra viên cũng như cơ quan điều tra
đối với sự tham gia của luật sư.
Với xu thế dân chủ hóa và hội nhập quốc tế nên cũng như hệ thống pháp
luật nói chung, các quy định về bị can, bị cáo trong BLTTHS cần được hoàn
thiện theo hướng đảm bảo cho nền tư pháp dân chủ hơn, hoàn thiện hơn.

C. KẾT LUẬN
Thông qua việc tìm hiểu các quy định của luật TTHS về địa vị pháp lý
của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự có thể thấy tổng thể các quyền và
nghĩa vụ của bị can, bị cáo theo quy định của luật TTHS đã tạo nên địa vị
pháp lý riêng biệt cho bị can, bị cáo. Nhờ đó ta có thể dễ dàng phân biệt
được địa vị pháp lý của bị can, bị cáo với các chủ thể khác trong TTHS. Bị
can, bị cáo được pháp luật quy định cho nhiều quyền khác nhau tạo điều
kiện cho việc thực hiện một quyền chủ đạo của họ là quyền bào chữa, quyền
đặc thù của đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự. Và qua các đề xuất
hướng hoàn thiện các quy định này góp phần đưa những quy định của pháp
luật áp dụng vào thực tế đạt được hiệu quả cao nhất, đảm bảo cho quyền và
lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo được trong TTHS.

20


21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam . - : Công an nhân dân, 2003
Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt nam / Trường Đại học Luật Hà Nội . H.: Công an nhân dân, 2000.

22


MỤC LỤC

23




×