Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Tư tưởng chính trị xã hội của plato và ảnh hưởng của nó đến aristotle

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HOÀNG THỊ NGÂN

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA PLATO VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ARISTOTLE

Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Triết học

Hà Nội - 2016
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HOÀNG THỊ NGÂN

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA PLATO VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ARISTOTLE

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Chí Hiếu

Hà Nội - 2016

2




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ··············································································· 5
NỘI DUNG ············································································ 13
Chương 1: BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI CỦA PLATO ······················································· 13
1.1 Bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội dẫn tới sự hình thành tư tưởng
chính trị - xã hội của Plato ························································ 13
1.2 Những tiền đề lý luận cho sự ra đời tư tưởng chính trị - xã hội của Plato
··························································································· 17
1.3 Khái lược về cuộc đời và sự nghiệp của Plato ····························· 22
Chương 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ -XÃ HỘI CỦA PLATO - 26
2.1 Học thuyết về ý niệm và linh hồn- cơ sở lý luận của tư tưởng chính trị xã hội của Plato ······································································· 26
2.2 Tư tưởng chính trị cơ bản của Plato ········································ 31
2.2.1 Tư tưởng của Plato về nguồn gốc nhà nước·········································· 31
2.2.2 Tư tưởng của Plato về nguồn gốc nhà nước·········································· 33
2.2.3 Sự phê phán đối với các hình thức nhà nước suy đồi ·························· 34
2.3 Nội dung tư tưởng xã hội của Plato ········································· 40
2.3.1 Cơ cấu tổ chức và các tầng lớp trong xã hội·········································· 40
2.3.2 Tư tưởng của Plato về sở hữu và hôn nhân··········································· 45
2.3.3 Tư tưởng của Plato về giáo dục con người ············································ 51
2.4 Những giá trị và hạn chế ······················································· 60
2.4.1 Những giá trị···························································································· 60
2.4.2 Những hạn chế ························································································ 67
Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ -XÃ HỘI
PLATO ĐẾN ARISTOTLE ······················································· 70
3.1 Sự phê phán của Aristotle đối với tư tưởng chính trị - xã hội của Plato
··························································································· 70
3



3.2 Sự kế thừa, phát triển của Aristotle đối với những tư tưởng chính trị - xã
hội Plato ················································································ 77
KẾT LUẬN············································································ 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ········································ 98

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triết học là kết tinh tinh thần của thời đại lịch sử, mà trước hết là kết quả
sự phản tư về lý luận của các vĩ nhân, các triết gia đối với thời đại của họ. Vì lẽ
đó, theo C.Mác, các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm
của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá nhất và vô
hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học. Do vậy, nghiên cứu những
tư tưởng triết học nói chung và tư tưởng chính trị - xã hội nói riêng là việc làm ý
nghĩa, có vai trò như là một mắt xích trong nhận thức dòng chảy tư tưởng của
nhân loại.
Plato là nhà một trong những nhà triết học vĩ đại nhất thời kỳ cổ đại.
Những đóng góp của ông cho nền triết học nhân loại là hết sức to lớn. Tư tưởng
chính trị - xã hội là một bộ phận quan trọng trong hệ thống triết học của ông. Ở
đó, những tư tưởng của Plato không chỉ phản ảnh hiện thực xã hội thời đại ông
đang sống mà trên hết, còn thể hiện quan điểm, lập trường tư tưởng của ông đối
với các vấn đề chính trị- xã hội.
Là một nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại, những tư tưởng triết học của
Plato hình thành trong bối cảnh xã hội Hy Lạp lúc đương thời đầy những biến
động, với sự khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô, sự gia tăng căng thẳng và
xung đột xã hội, làm con người mất phương hướng trong đời sống tinh thần.

Những tư tưởng của Plato là kết quả của việc nghiên cứu và nhìn nhận hiện thực
đương thời, vì vậy nó mang những giá trị sâu sắc, có đóng góp to lớn vào kho
tàng lịch sử tư tưởng nhân loại.
Những nghiên cứu của Plato về chính trị - xã hội chứa đựng nhiều tư tưởng
sâu sắc, đề cập đến nhiều vấn đề cấp bách trong xã hội như vấn đề công bằng xã
hội, giáo dục, sở hữu và chế độ hôn nhân... ; đồng thời còn thể hiện những quan
điểm về đạo đức, thẩm mỹ, nghệ thuật... Những tư tưởng chính trị - xã hội của
5


Plato mang nhiều giá trị tiến bộ, thể hiện ước muốn cải tổ xã hội Hy Lạp đầy biến
động thành một xã hội tốt đẹp. Xã hội đó sẽ được lãnh đạo bởi những nhà thông
thái- nhà triết học, được bảo vệ bởi lực lượng vệ quốc can đảm và tinh nhuệ, xã
hội mà mỗi người làm tròn vai trò của mình theo đúng khả năng tự nhiên của họ.
Là nhà triết học theo quan điểm duy tâm, cộng thêm lập trường chính trị
của giới quý tộc chủ nô, cùng với những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội
đương thời chi phối, cho nên tư tưởng Plato không thể tránh khỏi những hạn chế
nhất định. Những tư tưởng của ông còn chứa đựng cả những yếu tố không tưởng,
bảo thủ. Việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, chỉ ra những hạn chế trong tư tưởng
chính trị - xã hội của Plato là việc làm cần thiết.
Những tư tưởng chính trị - xã hội của Plato không chỉ là sự tiếp thu, kế
thừa và phát triển các tư tưởng chính trị - xã hội sơ khai của các triết gia đi trước
mà còn góp phần đặt nền móng và có ảnh hưởng rất lớn đến các triết gia đương
thời và cả về sau. Sự ảnh hưởng đó tiêu biểu nhất là ở người học trò của Plato Aristotle. Aritstotle có 20 năm gắn bó và học tập dưới sự chỉ dẫn của Plato, vì
vậy những tư tưởng của Plato nói chung và tư tưởng chính trị- xã hội của Plato
nói riêng có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của Aristotle. Là người đi sau,
Aristotle đã tiếp thu những tư tưởng của người đi trước nhưng sự tiếp thu đó
không phải là thụ động mà là sự tiếp thu có chọn lọc. Ngoài những điểm Aristotle
cho rằng hợp lý, ông còn không ngần ngại phê phán một cách khách quan quan
niệm của thầy mình, với phương châm “Plato là người thầy nhưng chân lý quý

hơn”. Trong lĩnh vực chính trị -xã hội, Aristotle đưa ra những quan điểm gần như
đối lập với quan điểm của Plato và sự phê phán của Aristotle đối với quan điểm
chính trị - xã hội của Plato là rất gay gắt.
Việc nghiên cứu hệ thống những quan niệm chính trị - xã hội của Plato và
ảnh hưởng của nó đến Aristotle, không chỉ nâng cao hiểu biết về một nhà tư
tưởng vĩ đại mà một lần nữa khẳng định vị trí cũng như giá trị của những tư
tưởng chính trị - xã hội của Plato đối với lịch sử tư tưởng nhân loại.
6


Xuất phát từ những suy nghĩ trên đây, học viên mạnh dạn chọn vấn đề: Tư
tưởng chính trị - xã hội của Plato và ảnh hưởng của nó đến Aristotle làm đề tài
nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình phát triển lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại, tư tưởng
triết học của Plato và Aristotle có một vị trí đặc biệt quan trọng. Ở Việt Nam,
ngoài những tác phẩm được dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt, việc nghiên
cứu tư tưởng của Plato và Aristotle nói chung và tư tưởng chính trị - xã hội của
hai ông nói riêng luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Hiện nay, những tài liệu nghiên cứu về tư tưởng Plato và Aristotle rất
phong phú, có những nghiên cứu từ rất sớm về vấn đề này như: trước năm 1975,
có thể kể đến những công trình của các tác giả như: Lê Tôn Nghiêm với “Martin
Heidegger và sự thất bại của tư tưởng phương Tây hiện đại” (Tư tưởng, số
5/1969); “Lịch sử triết học Tây phương- thời kỳ khai nguyên triết lý Hy Lạp” (Lá
Bối, Sài Gòn, 1971) và “Triết học thời Thượng cổ và Trung cổ” (Lá Bối, Sài Gòn,
1973); “Lịch sử các học thuyết chánh trị” (Hùng Nguyên, Nguyễn Ngọc Huy;
Cấp tiến sản xuất, Sài Gòn, 1970); hay “Platon - Bữa tiệc” (bản dịch từ tiếng
Pháp của Nguyễn Văn, 1964); “Nietzsche: Triết lý Hy Lạp thời bi kịch” (bản dịch
Trần Xuân Kiêm, Nxb Tân An, Sài Gòn, 1975); “Câu truyện triết học” của Will
Durant (bản dịch của Trí Hải và Bửu Đính, Nha tu thủ và sưu khảo, Viện Đại học

Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1971)... Đây đều là những cuốn sách tập hợp có hệ thống
những tư tưởng triết học và cuộc đời của các nhà triết học trong lịch sử mà trong
đó tư tưởng triết học của Plato và Aristotle được phân tích và khái quát có hệ
thống.
Trong khoảng thời gian sau đó có thể kể đến những công trình nghiên cứu
về tư tưởng Plato và tư tưởng của Aristotle đáng chú ý như: “Lịch sử các học
thuyết chính trị trên thế giới” (Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái dịch, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993). “Văn học cổ điển Hy Lạp Homer- Anh hùng
7


ca Iliade” do Hoàng Hữu Đản dịch (tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1997); “Thần
thoại Hy Lạp” của Nguyễn Văn Khỏa (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1998, 2
tập). “Triết học Hy Lạp Cổ đại” của Đinh Ngọc Thạch (Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1999) hay “Lịch sử các học thuyết chính trị” của Doãn Chính và Nguyễn
Thế Nghĩa (Nxb Khoa học xã hội, 1999). “Triết học Hy Lạp, La Mã” của Hà Thúc
Minh (Nxb Mũi Cà Mau, 1998); “Lịch sử triết học” của Nguyễn Hữu Vui (Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998) là sự hệ thống, khái quát những tư tưởng triết
học của các nhà triết học trong dòng chảy lịch sử tư tưởng triết học từ thời cổ đại
đến hiện đại, bao gồm cả triết học phương Đông và Phương Tây tạo điều kiện cho
việc so sành, đối chiếu quan niệm triết học của Plato và Aristotle đối với các nhà
triết học khác cũng như thấy được vai trò, vị trí của tư tưởng triết học Plato, triết
học Aristotle đặc biệt là tư tưởng chính trị - xã hội. “Triết học Hy Lạp cổ đại” của
Thái Ninh (Nxb. Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1987), trong đó trình bày
khái quát những tư tưởng cơ bản của các nhà triết học cổ đại. Trong chương VI là
sự trình bày những tư tưởng cơ bản của Plato đồng thời nhấn mạnh những giá trị
tư tưởng trong quan niệm về đạo đức và chính trị xã hội... Gần đây, có công trình
đáng chú ý của các tác giả: Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Thanh - Nguyễn Anh Tuấn
(2006), “Đại cương lịch sử triết học phương Tây” (Dùng cho sinh viên các ngành
KHXH & NV không chuyên ngành triết học (Nxb. Tổng hợp TP HCM); Đỗ Minh

Hợp (2014), “Lịch sử triết học phương Tây (tập 2) - Triết học phương Tây cận
hiện đại” (Nxb. CTQG, Hà Nội). Các công trình này đều dành thời lượng khá dài
để bàn về những tư tưởng triết học của Plato, Aristotle nói chung và tư tưởng
chính trị - xã hội của hai ông nói riêng.
Ngoài ra còn có những luận văn, luận án nghiên cứu về tư tưởng của Plato
như luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh Thủy trường Khoa học xã hội và nhân
văn ĐHQGTPHCM với đề tài “Tư tưởng chính trị của Plato trong tác phẩm Nền
cộng hòa và ý nghĩa lịch sử của nó” Ở đây, luận văn đã phân tích sâu sắc và hệ
thống tư tưởng chính trị của Plato được thể hiện trong tác phẩm “Cộng hòa” đồng
8


thời phân tích ý nghĩa lịch sử của những tư tưởng đó. “Tư tưởng giáo dục của
Plato qua tác phẩm Cộng hòa” của Phạm Bá Điền, tác giả chỉ giới hạn nghiên
cứu của mình trong tư tưởng giáo dục được thể hiện trong tác phẩm Cộng hòa.
Về nhà triết học cổ đại Aristotle, có luận văn thạc sĩ của Mai Hoài Anh và Lưu
Văn Thắng trường Học viện báo chí và tuyên truyền có tên “Tư tưởng chính trị
Aristotle trong tác phẩm chính trị luận”. Luận văn trình bày điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội Hy Lạp cổ đại, các tư tưởng chính trị có ảnh hưởng đến Aristotle,
hoàn cảnh thân thế sự nghiệp và phân tích những tư tưởng chính trị chủ yếu của
Aristotle trong tác phẩm chính trị luận, từ đó đánh giá giá trị, hạn chế của tư
tưởng chính trị Aristotle. Trên Thông tin Khoa học xã hội số 12.1014 có bài viết
của PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền bài viết mang tên “Tư tưởng triết học về
nhà nước của Aristotle trong tác phẩm “Chính trị luận””. Đây là bài viết thể hiện
những tư tưởng cơ bản về nhà nước của Aristotle trong tác phẩm “Chính trị luận”.
Trong đó, tác giả phân tích rõ những vấn đề như về sự ra đời và bản chất của nhà
nước, về chính sách nhà nước, về các hình thức chính quyền và mô hình nhà
nước lý tưởng. Bài viết cũng của PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Huyền trên Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 31, Số 2(1015)21-28,
mang tên “Tư tưởng triết học giáo dục của Plato”. Ở đó, bài viết khẳng định quan

niệm về con người là cơ sở của tư tưởng triết học về giáo dục Plato, chỉ rõ quan
niệm về vai trò, đối tượng và nội dung giáo dục của Plato, đồng thời là sự đánh
giá những giá trị và hạn chế trong quan niệm giáo dục của Plato.
Những công trình nghiên cứu lịch sử triết học mà đặc biệt là công trình
nghiên cứu về triết học Plato và Aristotle ở nước ngoài đã được dịch ra tiếng việt
mà chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận như: Trong phần hai cuốn “Lịch sử triết học
phương Tây” vời tựa đề “Socrates, Platon, Aristoteles” tác giả Bertrand Russel đã
đề cập đến những vấn đề chính trị - xã hội trong những tác phẩm tiêu biểu đặc
biệt là những tác phẩm của Plato và Aristotle. Cuốn sách “Lịch sử triết học và các
luận đề” của tác giả Samuel Enoch Stumpf, được biên dịch bởi Đỗ Văn Thuấn,
9


Lưu Văn Hy, Nxb Lao động, Hà Nội, 2004, ở đó tác giả thể hiện những đánh giá
sâu sắc tư tưởng về Nhà nước của Plato. Tác giả Marcel Brélot và Georges
Lescuyes với công trình “Lịch sử các tư tưởng chính trị” được Bùi Ngọc Chương
dịch, là công trình nghiên cứu lịch sử các tư tưởng chính trị thế giới, trong đó đề
cập đến cuộc đấu tranh giữa tư tưởng chính trị dân chủ và chống dân chủ, đồng
thời tác giả cũng phân tích tư tưởng chính trị không tưởng của Plato.
Những nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình nghiên cứu lịch
sử triết học cũng đặc biệt quan tâm đến tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại, trong đó
dành nhiều sự quan tâm đến hai nhà triết học vĩ đại nhất thời cổ đại là Plato và
Aristotle. Điều này được thể hiện qua những nhận định, phân tích, đánh giá của
các nhà kinh điển cụ thể trong các tác phẩm như: Bản thảo Kinh tế - triết học năm
1844 của C.Mác, Chống Đuyrinh, Biện chứng của tự nhiên của Ph.Ăngghen, Bút
ký triết học của V.I Lênin.
Đồng thời, khi nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Plato và
Aristotle hiện nay đã có những bản dịch từ những tác phẩm chính của hai nhà
triết học này như: tác phẩm “Cộng hòa” của Plato do Đỗ Khánh Hoan dịch, hay
tập hợp những tác phẩm của Plato trong cuốn Benjamin Jowett & M.J. Knight:

Plato chuyên khảo do Lưu Minh Hy và Trí Tri biên dịch. Và tác phẩm tiêu biểu
của Aristotle bàn về vấn đề chính trị - xã hội là tác phẩm “Chính trị luận”, tác
phẩm này được Nông Duy Trường biên dịch.
Ngoài những nghiên cứu kể trên ở Việt Nam, ở nước ngoài có rất nhiều
những công trình nghiên cứu về tư tưởng Plato, trong đó có một số công trình
nghiên cứu đã được dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt. Vì vậy, việc nghiên
cứu về tư tưởng Plato nói chung và tư tưởng chính trị - xã hội của ông nói riêng
hiện nay cũng có những thuận lợi nhất định trong việc tiếp cận tài liệu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản tư tưởng chính trị xã hội của Plato, và ảnh hưởng của nó đến Aristotle.
10


Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Nghiên cứu, luận giải bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội và những tiền
đề lý luận dẫn đến sự hình thành tư tưởng chính trị - xã hội của Plato
- Tập trung trình bày và phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng
chính trị - xã hội của Plato và đánh giá những giá trị và hạn chế.
- Ảnh hưởng của tư tưởng chính trị - xã hội của Plato đến Aristotle:
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện đề tài này, tác giả vận dụng, kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: Ngoài phương pháp thống nhất lịch sử
- lôgic, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, phương pháp diễn dịch, quy nạp,
tác giả còn sử dụng kết hợp giữa phân tích và tổng hợp, so sánh, khái quát hóa để
nghiên cứu tư tưởng chính trị - xã hội của Plato và thấy được sự ảnh hưởng của
những tư tưởng ấy đến Aristotle

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng chính trị xã - hội của Plato và sự ảnh
hưởng của nó đến Aristotle.
Phạm vi nghiên cứu: tác giả luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nội dung cơ
bản của tư tưởng chính trị - xã hội của Plato và ảnh hưởng của nó đến Aristotle.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn “Tư tưởng chính trị - xã hội của Plato và ảnh hưởng của nó đến
Aristotle” góp phần tìm hiểu một cách khách quan, có hệ thống những tư tưởng
chính trị - xã hội của Plato, bước đầu đưa ra những đánh giá của người nghiên
cứu về những giá trị và hạn chế của những tư tưởng đó; đồng thời phân tích
những ảnh hưởng của nó đến Aristotle.
11


7. Ý nghĩa lý luận và thưc tiễn
Ý nghĩa lý luận:
Đề tài luận văn góp phần củng cố nhận thức, hiểu biết, sâu sắc hơn về
những tư tưởng chính trị - xã hội của Plato - một trong những nhà tư tưởng vĩ đại
nhất thời cổ đại; khẳng định những giá trị trong tư tưởng chính trị - xã hội của
Plato trong thời đại ngày nay. Đồng thời, tác giả còn chỉ ra sự ảnh hưởng của tư
tưởng chính trị - xã hội của Plato đến Aristotle.
Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập,
nghiên cứu, giảng dạy về lịch sử triết học phương Tây, giai đoạn Hy La cổ đại.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gổm 3 chương, 9 tiết.

12



NỘI DUNG
Chương 1
BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI CỦA PLATO
1.1 Bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội Hy Lạp cổ đại dẫn tới sự hình
thành tư tưởng chính trị - xã hội của Plato
Hy Lạp cổ đại là một vùng lãnh thổ vô cùng rộng lớn, lớn hơn nhiều quốc
gia Hy Lạp ngày nay. Lãnh thổ bao gồm phần lục địa miền Nam bán đảo
Bancăng, vùng ven biển Tiểu Á và các đảo của vùng Êgiê. Hy Lạp là quốc gia có
vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên thuận lợi cho phát triển đất
nước. Tuy nhiên, mỗi vùng miền trên lãnh thổ rộng lớn của Hy Lạp lại có những
thuận lơi đặc trưng riêng tạo ra sự phát triển các ngành khác nhau cho các vùng
lãnh thổ. Những thuận lợi về điều kiện tự nhiên cũng tác động làm cho tư duy
người Hy Lạp phóng khoáng và tự do bay bổng hơn, sự giao lưu kinh tế, văn hóa
luôn được mở rộng giữa Hy Lạp với các quốc gia, nền văn minh bên ngoài.
Lãnh thổ của Hy Lạp ngày càng được mở rộng, đây là kết quả của các cuộc
di dân thế kỷ VIII-VII TCN và những cuộc viễn chinh dành thắng lợi của
Alêchxanđrơ vào cuối thế kỷ IV TCN.
Những điều kiện tự nhiên cũng quy định nên khuynh hướng phát triển kinh
tế cũng như thể chế chính trị của mỗi vùng miền. Sự khác nhau về xu hướng phát
triển kinh tế, cách quản lý xã hội của các thế chế khác nhau gây nên sự xung đột
mâu thuẫn giữa các thành bang trên đất nước Hy Lạp. Đây là nguyên nhân gây ra
những cuộc chiến tranh thôn tính nhau của các thành bang, tạo nên những biến
đổi sâu sắc trong xã hội Hy Lạp lúc bấy giờ.
Plato được sinh ra trên đất nước Hy Lạp - một cái nôi của văn minh thế
giới, và thời đại diễn ra đầy những biến động trong xã hội. Những yếu tố này tác
động trực tiếp đến những tư tưởng triết học Plato nói chung và tư tưởng chính trị
- xã hội của ông nói riêng. Ở Hy Lạp, chế độ chiếm hữu nô lệ đã hình thành và
13



phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ X đến thế kỷ VIII TCN. Khi xã hội chiếm hữu nô lệ
ra đời, xã hội xuất hiện tình trạng phân chia giai cấp thành giai cấp nô lệ và giai
cấp chủ nô. Đồng thời với đó là sự phân công lao động trí óc và lao động chân
tay cũng diễn ra. Tầng lớp những người lao động trí óc được học hành trong giai
cấp chủ nô là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tư duy con người Hy Lạp, hình
thành và phát triển các ngành khoa học trong đó có triết học. Đây là những điều
kiện tác động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển tư tưởng triết học Plato,
khi bối cảnh xã hội tạo điều kiện cho phát triển tư duy và cũng được tiếp thu
những thành quả tư tưởng, nghiên cứu khoa học của những người đi trước.
Từ khoảng thế kỷ VI TCN, trong xã hội chiếm hữu nô lệ hình thành các
nhà nước thành bang. Nhà nước thành bang là các quốc gia thị thành trong đó lấy
một thị thành làm trung tâm. Nhà nước Hy Lạp lúc bấy giờ không phải là một sự
thống nhất từ trên xuống dưới mà là sự tồn tại của các thành bang trong đó có 2
thành bang lớn là Athens và Sparta.
Nhà nước lúc này được hình thành bằng con đường hòa bình, không phải
do sự can thiệp bằng bạo lực từ bên ngoài. Nhà nước ra đời bằng con đường tự
nhiên, do nhu cầu liên kết giữa con người với nhau.
Ở Hy Lạp lúc đó có một kiểu nhà nước nhưng có hai hình thức cơ bản:
Cộng hòa quý tộc (đại diện là thành bang Sparta) và Cộng hòa dân chủ (đại diện
là thành bang Athens). Do tầng lớp chủ nô nắm quyền, trong nhà nước cộng hòa
quý tộc người nắm quyền là giai cấp chủ nô quý tộc - những ông chủ ruộng đất,
còn trong nhà nước cộng hòa dân chủ người nắm quyền lại là giai cấp chủ nô dân
chủ- có xuất thân từ những ông chủ công thương mới nổi.
Khi tìm hiểu về hai thành bang Sparta và Athens có thể thấy rõ sự khác
biệt đặc trưng giữa hai hình thức nhà nước này.
Thành bang Sparta, nằm ở phía Nam đảo Peloponnesus, dân số khoảng 400
nghìn người, công dân là người Dorian. Đây là thành bang lạc hậu về kinh tế
nhưng pháp triển về quân sự, thành bang chẳng khác gì một trại lính tập trung với

14


những chiến binh hết sức tinh nhuệ. Họ sống bằng thanh gươm, bằng cách đi xâm
chiếm và bắt người bản địa phải lao động để đáp ứng nhu cầu kinh tế cho họ.
Những người trong thành bang quen đi xâm chiếm chứ không quen lao động sản
xuất. Chế độ nhà nước ở đây gần như độc tài.
Về văn hóa, dân tộc Dorian là dân tộc trì trệ nhất. Nguyên nhân của sự trì
trệ này là do sự cô lập của thành bang này. Vì vậy, thành bang không có cơ hội
tiếp thu những tiến bộ của thế giới bên ngoài.
Về mặt kinh tế: trong thành bang Sparta chế độ tư hữu không tồn tại theo
cách họ bắt dân bản địa nơi họ xâm chiếm được phải lao động sản xuất và
phương thức sản xuất thuộc về chính quyền. Tất cả nô lệ, ruộng đất đều thuộc về
nhà nước.
Trong thành bang không có giai cấp trung lưu, do vậy không có giai cấp
đứng ra giúp quần chúng trong cuộc đấu tranh cho tự do. Thành bang luôn duy trì
một kỷ luật sắt đối với mỗi công dân, bắt mỗi cá nhân tuân theo một cách nghiêm
ngặt quy định của nhà nước. Có thể gọi là chủ nghĩa tập thể Sparta. Trong xã hội
lúc bấy giờ chỉ tồn tại hai giai cấp cơ bản là: giai cấp những người cai trị và giai
cấp những người nô lệ. Ngoài ra, còn một tầng lớp là “những cư dân xung quanh”.
Các công dân phải cống hiến, hi sinh bản thân mình cho nhà nước.
Đây là thành bang đứng đầu trong một liên minh quân sự. Trong cuộc
chiến giữa liên minh do Sparta đứng đầu và liên minh do Athens đứng đầu, nhờ
sức mạnh quân sự Sparta đã chiến thắng làm cho Athens mất quyền tự chủ.
Thành bang Athens: Nơi Plato sinh ra và lớn lên, nằm trên vùng đồng
bằng Attích, tổ tiên của người Athens là dòng dõi từ người Êôlien. Khác với
thành bang Sparta, thành bang Athens đặc trưng bởi sự phát triển kinh tế, thương
mại và văn hóa đô thị. Vì Athens có nhiều hải cảng thuận tiện cho giao lưu
thương mậu dịch, quan hệ hàng hóa sớm phát triển làm cho giai cấp chủ nô giàu
lên nhanh chóng. Trong xã hội, một bộ phận dân cư tách khỏi lao động chân tay.

Vốn xuất phát từ giai cấp chủ nô nên họ có điều kiện học hành và giao lưu tiếp
15


thu được với những nền văn hóa khác nhau từ các vùng khác, các quốc gia khác.
Điều này góp phần hình thành nên một Athens là trung tâm văn hóa của Hy Lạp
cổ đại, cái nôi của triết học châu Âu. Đây cũng là điều kiện hình thành nên một
thể chế chính trị tiên tiến- chế độ cộng hòa dân chủ.
Chế độ nhà nước Athens theo hình thức nhà nước quân chủ, sau đó cùng
với sự phát triển kinh tế dẫn đến quyền lực của nhà Vua bị dỡ bỏ thay vì quyền
lực của quý tộc. Cũng do sự phát triển kinh tế, rất nhiều nông dân (trồng nho và ô
liu) rơi vào nợ nần. Trong xã hội hình thành tầng lớp trung lưu, tầng lớp này ủng
hộ những người nông dân bị phá sản, vì vậy yêu cầu tự do hóa chính quyền xuất
hiện. Từ yêu cầu đấu tranh của những người nông dân đã dẫn đến hàng loạt các
cuộc cải cách dân chủ diễn ra dần hoàn thiện chế độ dân chủ. Có thể kể đến 3
cuộc cải cách tiêu biểu đó là: cuộc cải cách đầu tiên là của Solon, tiếp theo là
cuộc cải cách của Clerthenes và cuộc cải cách của Pericles. Sau ba cuộc cải cách
thì chế độ dân chủ ngày được hoàn thiện.
Các triết gia ở Athens lúc bấy giờ không ủng hộ hai hình thức nhà nước
này. Vì họ cho rằng không thể chọn được những người ưu tú để lãnh đạo nhà
nước. Từ đây có thể thấy, tuy Athens có sự phát triển về kinh tế, văn hóa nhưng
chế độ dân chủ chỉ cho một bộ phận tầng lớp công dân, chứ không phải cho toàn
bộ công dân. Trong xã hội, nô lệ không được coi là công dân.
Đặc trưng của đấu tranh giai cấp lúc này không phải là cuộc đấu tranh giữa
giai cấp chủ nô và nô lệ mà là cuộc đấu tranh giữa hai phe chủ nô quý tộc và chủ
nô dân chủ mà đại diện là hai liên minh thành bang.
Tóm lại, sự phát triển của thương nghiệp và thủ công nghiệp đã dần hình
thành nên tầng lớp chủ nô dân chủ. Địa vị về kinh tế và chính trị của phái chủ nô
dân chủ ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, giai cấp này luôn bị cản trở kìm hãm bởi
phái chủ nô quý tộc. Đây là nguyên nhân diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai

giai cấp này. Đại diện cho hai giai cấp này là hai thành bang Sparta và thành bang

16


Athens, cuộc đấu tranh giữa hai thành bang diễn ra gay gắt, phức tạp trên 30 năm
làm cho đất nước Hy Lap trải qua thời kỳ đầy biến động.
Cùng với sự phát triển về kinh tế, sự hình thành, phát triển và biến đổi của
xã hội chiếm hữu nô lệ, Hy Lạp thời kỳ này cũng đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong các ngành khoa học, nghệ thuật ...
Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội Hy Lạp là điều kiện khách quan hình
thành nên những tư tưởng triết học cũng như tư tưởng chính trị - xã hội Plato.
Chứng kiến những biến đổi lịch sử trong xã hội Hy Lạp, Plato nhận ra những
khiếm khuyết hiện hữu trong những thể chế chính trị đương thời. Đây là lý do
thôi thúc khiến Plato cũng như những nhà triết học cùng thời dành nhiều thời
gian công sức, nghiên cứu, kiếm tìm những mô hình nhà nước hoàn thiện, có thể
khắc phục được những hạn chế trong các mô hình trong hiện thực lúc bấy giờ.
Những tư tưởng chính trị - xã hội của Plato là kết quả nghiên cứu, tiếp thu và phê
phán hiện thực xã hội Hy Lạp và những tư duy mang tính dự báo, khai sáng của
Plato về sự phát triển xã hội trong tương lai.
1.2 Những tiền đề lý luận cho sự ra đời tư tưởng chính trị - xã hội của
Plato
Trong tiến trình lịch sử tư tưởng nhân loại, bất kể một triết gia nào khi đưa
ra những quan điểm của mình đều có sự kế thừa, tiếp thu và phát triển những tư
tưởng của người đi trước. Plato cũng vậy, tiền đề lý luận cho sự ra đời tư tưởng
chính trị xã hội của Plato là cuộc đấu tranh tư tưởng giữa một bên là tư tưởng dân
chủ và bên kia là phản dân chủ, và sự ảnh hưởng từ những tư tưởng triết học
chính trị -xã hội trước đó. Đặc biệt đó là sự ảnh hưởng trực tiếp những tư tưởng
từ người thầy của Plato đó là Socrates.
Trước nhà triết học Socrates, đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của các triết

gia Hy Lạp cổ đại thường chỉ đề cập đến những vấn đề tự nhiên, nguồn gốc của
vạn vật vũ trụ mà chưa quan tâm đến những vấn đề về cuộc sống xã hội loài
người. Những tư tưởng chính trị - xã hội có chăng cũng chỉ là một vài khái niệm
17


chính trị - xã hội mà chưa đề cập một cách có hệ thống. Tiêu biểu cho những tư
tưởng chính trị - xã hội cổ đại Hy Lạp có thể kể đến như:
Solon (638-559 TCN) là đại diện tiêu biểu của phe dân chủ. Ông là người
khởi xướng cho cuộc cải cách dân chủ trên đất nước Athens. Solon thực hiện
cuộc cải cách mang tên Sêsasơchêia ngay sau khi ông lên nắm chính quyền năm
594 TCN. Với cuộc cải cách này ông đã đưa ra những chủ trương như: cấm cầm
cố tài sản, thậm chí dù con nợ có đồng ý thì chủ nợ cũng không được bắt họ và
gia đình làm nô lệ. Những người bị bán làm nô lệ và những người nô lệ bị bán
cho người ngoại quốc khi trở lại Athens đều được trả tự do. Solon cũng ra lệnh
xóa bỏ những món nợ quá lớn, từ đó xóa bỏ mọi hoạt động cầm cố đất đai.
Solon cho phép người giàu tiếp tục giữ các chức vụ trong chính quyền
nhưng ông cũng muốn người nghèo tham gia vào việc điều hành đất nước. Bởi
vậy ông chia dân chúng thành những đẳng cấp khác nhau căn cứ theo thu nhập
của họ. Lớp thấp nhất là thetes gồm những người bần nông, tá điền và không
được nhận bất kỳ chức vụ nào. Tuy nhiên, đẳng cấp thetes được phép tham dự đại
hội dân chúng và được quyền xử kiện. Ngoài ra ông còn lập nên một tòa án tối
cao với thành viên là những quan chấp chính của Athens đã hết nhiệm kỳ và một
cơ quan quyền lực mới là Hội đồng bốn trăm. Mỗi bộ lạc trong 4 bộ lạc sẽ cử ra
100 đại biều tham gia hội đồng này.
Những cải cách của Solon là những cải cách tiến bộ và có ý nghĩa to lớn
đối vời lịch sử nhân loại. Những chủ trương của Solon đã mở đầu cho một cuộc
cách mạng chính trị trên thành bang Athens lúc bấy giờ. Những cuộc cải cách của
Solon hay những cuộc cải cách sau đó của Pericles làm cho mâu thuẫn trong cuộc
đấu tranh giữa hai phe dân chủ và phản dân chủ càng thêm sâu sắc. Plato là một

trong những nhà triết học tham gia cuộc đấu tranh này. Do đứng trên lập trường
của phái chủ nô quý tộc nên ông gay gắy chống đối lại với những chủ trương của
phe chủ nô dân chủ. Bởi vậy, triết học Plato mà đặc biệt là triết học chính trị xã

18


hội của Plato là sự phán ánh hiện thực cuộc đấu tranh này và qua đó ông đã thể
hiện rõ ràng lập trường tư tưởng chính trị của mình.
Héraclite (530-470 TCN), đứng trên lập trường của phe chủ nô quý tộc
chống đối quyết liệt tư tưởng dân chủ của tầng lớp chủ nô dân chủ. Ông cho rằng:
“Đấu tranh là nguồn gốc của sự hiện hữu và khởi nguyên của sự sống và tồn tại”.
Đấu tranh theo ông là điều kiện để tạo nên sự hài hòa và phân hóa xã hội. Thông
qua đấu tranh, bản chất của sự vật được bộc lộ và từ đó con người mới chấp nhận
được sự vật. Những tư tưởng của Héraclite còn bảo thủ và phiếm diện vì ông
tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân ưu tú: đối với ông một cá nhân ưu tú thì hơn cả
vạn người bình thường. Ông cũng tỏ ra khinh miệt tầng lớp quần chúng và chủ
trương đàn áp triệt để bất cứ cuộc khởi nghĩa nào của quần chúng nhân dân.
Những tư tưởng này hầu như đều có trong tư tưởng của Plato, Plato cũng cùng
chiến tuyến với Héraclite trong cuộc đấu tranh chống lại phe chủ nô dân chủ.
Hơn nữa tầng lớp quần chúng, hay ở Plato là tầng lớp những người lao động vẫn
là những tầng lớp người thấp kém trong mắt các triết gia cổ đại này. Và những
người ưu tú luôn được coi trọng và tuyệt đối hóa vai trò của họ nhà nước.
Pythagore (571-497 TCN) cũng là nhà triết học chủ trương chống lại phe
chủ nô dân chủ. Ông kịch liệt chống đối trước tình hình phái chủ nô quý tộc bị
phái chủ nô dân chủ đánh chiếm và cướp chính quyền. Bởi vậy, ông đã thành lập
một tổ chức chính trị và triết học để kêu gọi đấu tranh giành lại chính quyền. Đây
cũng là đường lối mà cả Socrate và Plato đi theo.
Plato sống trong thời kỳ đất nước Hy Lạp chia cắt thành các thành bang
với những thiết chế xã hội khác nhau, mà nổi bật là 2 thiết chế dân chủ và quý tộc,

đại diện cho hai mô hình này là thanh bang Athens và thành bang Sparta. Từ cuộc
đấu tranh về chính trị làm hình thành nên hai khuynh hướng tư tưởng đối lập
nhau. Một bên là tư tưởng ủng hộ, bảo vệ nền dân chủ mà đại diện cho tư tưởng
này là Solon một bên là tư tưởng phản dân chủ, đấu tranh chống lại tư tưởng dân

19


chủ, đi theo khuynh hướng này là Héraclite, Pythagore, Socrates và sau này tiếp
thu là Plato.
Socrates (469-399 TCN) là nhà triết học có ảnh hưởng trực tiếp đến Plato.
Những tư tưởng quan điểm triết học của Socrates đặc biệt là cái chết của Socrates
đã tác động mạnh mẽ đến Plato. Socrates là người ủng hộ cho thể chế quý tộc của
Sparte. Ông không thể chấp nhận được việc số đông dân thường lên nắm chính
quyền. Vì trong suy nghĩ của ông đó là những con người tầm thường và dốt nán,
do đó không thể đặt chính quyền vào tay họ được. Những người có thể lãnh đạo
đất nước phải là những người có năng lực và được chuẩn bị những điều cần thiết
mới có thể lãnh đạo được và đây phải là thiểu số. Yêu cầu dân chúng phải phục
tùng mọi đòi hỏi của chính quyền và đặc biệt là phải tuyệt đối tuân thủ luật pháp
dù luật pháp đó là tốt hay xấu. Tất cả những điều đó là muốn cho dân chúng phải
phục tùng một cách vô điều kiện chính quyền. Ông cho rằng, xã hội không thể
tồn tại nếu như các đạo luật bất lực. Giá trị cao nhất theo ông là việc sống tuân
thủ pháp luật. Tất cả những tinh thần trên của Socrates đều được Plato kế thừa và
phát huy, mặc dù những tư tưởng đó có phần bảo thủ và phiếm diện
Là một trong những học trò sất sắc của Socrates, Plato chịu ảnh hưởng trực
tiếp và sâu sắc những tư tưởng của Socrates cả về thế giới quan và nhân sinh
quan, trong đó có những tư tưởng về chính trị - xã hội. Nhân vật mà Plato thường
sử dụng trong các tác phẩm của mình chính là Socrates. Học thầy của mình cả
trong cách truyền đạt tri thức, Plato trình bày quan điểm của mình hầu hết dưới
dạng những cuộc đối thoại để truy tìm chân lý.

Có thể nhận thấy rằng Plato đã tiếp thu và phát triển quan niệm của
Socrates trên nhiều phương diện: về lập trường chính trị ủng hộ giai cấp quý tộc,
đấu tranh chống lại tư tưởng dân chủ vì cho rằng tư tưởng dân chủ còn bộc lộ
nhiều hạn chế, bất công và vì vậy, cần xóa bỏ. Từ đây, ông đưa ra ý tưởng xây
dựng một nhà nước cộng hòa quý tộc lý tưởng, nhấn mạnh cả về vấn đề đức hạnh
chính trị.
20


Những quan điểm chính trị - xã hội của Plato thể hiện sự thống nhất, chặt
chẽ và nhất quán với những quan niệm thế giới quan, nhân sinh quan của ông.
Trong thế giới quan, Plato cho rẳng tồn tại đích thực là ý niệm, ý niệm của ông
thuộc về thế giới tinh thần. Vì vậy, Plato là một nhà triết học duy tâm khách quan.
Sự phân chia những thang bậc trong thế giới ý niệm như thế nào thì ông cũng thể
hiện sự phân chia ấy trong xã hội hiện thực. Quan điểm chính trị xã hội của Plato
thể hiện rõ nét thế giới quan duy tâm của ông khi ông tuyệt đối hóa tri thức, yếu
tố thuộc về tinh thần mà hạ thấp vật chất, người lãnh đạo trong thành bang lý
tưởng là người có tri thức chứ không phải là người giàu có.
Về nhân sinh quan, theo Plato, con người được tạo thành từ thể xác và linh
hồn nhưng thể xác chỉ là nơi cầm tù linh hồn, ràng buộc linh hồn vào những ham
muốn, dục vọng tầm thường. Linh hồn là do Thượng đế ban cho, cái có trước ở
thế giới ý niệm và trú ngụ trên các vì sao. Và có các loại linh hồn khác nhau, vì
vậy, cũng có những loại người khác nhau. Trong tác phẩm “Cộng hòa”, sự phân
chia các giai cấp trong xã hội dựa trên những khả năng tự nhiên của con người,
khả năng đó bị quy định bởi những linh hồn khác nhau ở thế giới ý niệm. Khi
những linh hồn tốt trú ngụ trong thể xác con người sẽ tạo ra những người có khả
năng tự nhiên vượt trội và người này khi được giáo dục bài bản trong nhà nước lý
tưởng sẽ trở thành những nhà cai trị thành bang. Trong khi những linh hồn không
tốt trú ngụ trong thân xác con người sẽ tạo nên khả năng tự nhiên của con người
ấy không tốt và trở thành tầng lớp lao động.

Từ đây, có thể thấy cách nhìn nhận thế giới và con người của Plato quy
định đến những tư tưởng chính trị - xã hội của ông. Thể hiện tính nhất quán trong
hệ thống quan niệm triết học Plato.
Tóm lại, những tư tưởng chính trị xã hội của Plato có tiền đề lý luận sâu xa
từ cuộc đấu tranh tư tưởng giữa hai luồng tư tưởng dân chủ và phản dân chủ.
Tiền đề lý luận trực tiếp tác động sâu sắc đến Plato là những tư tưởng chính trị xã hội của những nhà tư tưởng trước đó đặc biệt là của Socrates. Đồng thời quan
21


điểm chính trị - xã hội của Plato là sự nhất quán trong quan điểm với thế giới
quan và nhân sinh quan của ông.
1.3 Khái lược về cuộc đời và sự nghiệp của Plato
Plato là nhà triết học Hy Lạp cổ đại, tên thực là Aristocles, Plato là biệt
danh lúc trẻ của ông. Tên Aistocles được đặt giống tên ông nội, theo phong tục
xứ sở là con trưởng và cháu đích tôn. Có nhiều tài liệu khác nhau viết về năm
sinh, năm mất và nơi sinh của Plato: có tài liệu cho rằng ông sinh năm 430 TCN
cũng có tài liệu ghi rằng ông sinh năm 428 TCN, hay 427 TCN; nơi sinh ở thành
Athens hoặc đảo Aegina, mất năm 348 TCN hoặc 347 TCN. Cha ông là Ariston,
mẹ ông là Perictione thuộc dòng dõi quý tộc, mà nổi tiếng nhất là Solon (638-558
TCN) pháp quan Athens nhiệm kỳ 594-3TCN. Em họ bà là Critias là thủ lĩnh
nhóm Ba mươi bạo chúa. Ông có 2 em trai và một em gái. Sau khi cha ông qua
đời, lúc Plato còn rất nhỏ, mẹ ông tái giá với ông Pyrilampes, nhân vật giàu có,
thế lực trong nhóm dân chủ ủng hộ lãnh tụ Pericles. Plato có em trai cùng mẹ
khác cha tên Antipphone. Có thể thấy Plato có liên hệ mật thiết với giai cấp quý
tộc Athens, tuy nhiên ông vẫn giữ được thái độ cơ bản của một bậc sĩ phu: ngay
thẳng, khách quan trong lối sống cũng như trong sáng tác.
Thời kỳ mà Plato sống, thành bang Athens diễn ra rất nhiều những biến
động về chính trị - xã hội, vì vậy Plato đã chứng kiến liên tục chính sự phát triển,
suy đồi, sụp đổ của của các hình thức chính thể. Những quan sát trên thực tế cùng
với đầu óc nhanh nhạy trong nhìn nhận những sự kiện lịch sử đã ảnh hưởng trực

tiếp đến tư tưởng và tác phẩm của ông.
Ông là người có nhiều ưu thế hơn các thanh niên cùng thời như: là con nhà
giàu có, gia đình quý tộc, dòng họ quyền thế, thân thể cường tráng và được tiếp
thu đầy đủ giáo dục thời đại. Nhưng ông lại không theo đuổi sự nghiệp chính trị.
Bởi ông nhận thấy, nhóm Ba mươi bạo chúa khi mời ông tham gia điều hành
thành bang vẫn còn duy trì tình trạng bất công, tàn bạo. Và thêm vào đó, sự kiện

22


người thầy của ông là Socrates bị kết án tử hình đã gây chấn động và ông quyết
định vĩnh biệt chính trị.
Sau khi Socrates qua đời năm 339TCN, khi đó Plato mới 28 tuổi, ông lui về
Megara thành phố trong vùng Megaris nằm giữa vịnh Corinth và vịnh Saronic,
gặp gỡ các thân hữu từng là học trò của Socrates. Sau đó, ông đi thăm thú nhiều
nơi như: đến thành phố Cyrene trong vùng Cyrenaica thuộc địa Bắc Phi diện kiến
nhà toán học Eudoxus, tới Ai Cập, rồi đến Ý và đảo Sicile thăm viếng triết phái
Pythagora. Khi đến thành phố Syracuse, ông tiếp xúc với Dion, em vợ Dionysius.
Khi đó Dionysius đang ở cực đỉnh quyền thế, mới 25 tuổi đã được bầu làm
strategos, nguyên soái tướng quân. Ngoài chuyện toàn quyền hành động,
Dionysius giải phóng người Hy Lạp trên đảo Sicile khỏi áp bức, hiếp đáp, đe dọa
của Carthage, đồng thời tạo dựng cho họ sức mạnh chính trị để có thể có chỗ
đứng đáng kể trong thế giới Hy Lạp. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà quan hệ
đôi bên chở nên căng thẳng, bạo chúa trẻ tuổi này lại kiếm cớ đưa ông lên thuyền
đem đến đảo Aegina bán làm nô lệ và tù binh chiến tranh. Nhưng nhờ có người
quen từ Cyrene tên là Anniceris bỏ tiền ra chuộc, ông mới trở về được Athens.
Định cư ở đây ít lâu, năm 387 TCN, ông thành lập Học viện nhằm truyền bá khoa
học và triết học trong khu rừng ven biên thành phố, ông bắt đầu giảng dạy triết
học. Cũng giống như Socrates, ông dạy học không lấy tiền và khi dạy ông thường
sử dụng phương pháp đối thoại, đàm đạo. Ông thu hút nhiều đệ tử theo học, trong

đó có Aristotle.
Ông luôn mong muốn áp dụng học thuyết chính trị tổ chức cơ chế xã hội,
chính thể quốc gia vào thực tiễn xã hội. Khi Dionysius I qua đời, Dionysius II nối
ngôi, nắm quyền cai trị vẫn còn non nớt nên phải trông cậy vào cậu ruột là Dionngười thân hữu chí tình của Plato. Đây là cơ hội để học thuyết của Plato có thể
được áp dụng. Dionysius sẵn sàng đón nhận và Dion tha thiết yêu cầu Plato đến
cố vấn. Plato đã đến Syracuse nhằm thực hiện hoài bão, nhưng chuyến đi không
thành công. Ông tỏ ra không mặn nồng với việc điều hành quốc sự của Dionysius
23


và Dionysius cũng không còn lắng nghe ý kiến của Plato. Vì vậy, ông trở về
Athens và sau đó, ông một lần nữa đến thăm Dionysius nhưng cũng không có kết
quả gì. Phần đời còn lại ông dành cho việc sáng tác và tiếp tục giảng dạy ở Học
viện. Ông qua đời khoảng năm 348-347TCN và được mai táng tại ven biển gần
Học viện.
Về sự nghiệp sáng tác, ông để lại những tác phẩm có giá trị ảnh hưởng sâu
sắc đối với lịch sử tư tưởng của nhân loại. Sau khi Socrates qua đời, ông viết tác
phẩm “Biện giải” và một số là thư đều dưới hình thức đối thoại. Có khoảng 25
tác phẩm chân thực mang tên ông. Phần lớn đối thoại chia làm 3 nhóm: đối thoại
theo kiểu Socrates thường dùng, luận thuyết chính trị và đối thoại có tính cách
lôgic và phương pháp. Những đối thoại theo kiểu Socrates tiêu biểu và chủ đề nổi
bật như “Euthyphro” (mộ đạo, hiếu thảo), “Charmides” (tiết độ), “Lysis” (tình
bạn), “Meno, Protagoras” (đạo đức), “Laches” (can đảm), “Hippias Lớn” (cái
đẹp), “Hippias Nhỏ” (cái giả), “Philebus” (cái tốt), “Cộng hòa”. Luận thuyết
chính trị gồm “Cộng hòa”, “Chính Khách”, “Luật Pháp”. Nhiều đối thoại tìm
hiểu triết học và phương pháp triết học như: “Phaedo”, “Symposium”, “Sophist”,
“Phaedrus”, “Timaeus”, “Philebus”.
Tiểu kết chương 1
Với bất cứ nhà tư tưởng nào, những tình hình kinh tế, chính trị -xã hội
đương thời cũng có tác động nhất định trong việc hình thành những tư tưởng của

nhà tư tưởng đó. Plato cũng vậy, bối cảnh kinh tế, chính trị - xã hội của Hy Lạp
cổ đại có tác động trực tiếp dẫn đến sự hình thành tư tưởng chính trị -xã hội của
Plato. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi lại thêm tài nguyên thiên nhiên phong phú,
đất nước Hy Lạp cổ đại rộng lớn có những điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, là một vùng lãnh thổ rộng lớn nên mỗi
vùng miền của đất nước Hy Lạp lại có những thuận lợi đặc trưng riêng, đây là
đặc điểm quy định nên những xu hướng phát triển kinh tế cũng như thể chế chính
trị riêng.
24


Về tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng chính trị xã hội của Plato,
những tư tưởng chính trị - xã hội của Plato có tiền đề sâu xa là sự tác động của
cuộc đấu tranh giữa hai xu hướng chính trị một bên là chủ nô dân chủ và một bên
là chủ nô quý tộc. Trong cuộc đấu tranh gay gắt này Plato đứng trên lập trường
của giai cấp quý tộc bảo vệ quyền lợi và lợi ích cho giai cấp mình. Tiền đề lý
luận trực tiếp đó là sự ảnh hưởng của những tư tưởng chính trị - xã hội của những
nhà tư tưởng trước đó như Solon, Hêraclite, Pythagore, Democrite nhưng người
có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc nhất là Socrates. Socrates ảnh hưởng tới Plato
trên nhiều phương diện cả thế giới quan lẫn nhân sinh quan. Đồng thời tư tưởng
chính trị - xã hội của Plato là sự thể hiện quan điểm nhất quán giữa thế giới quan
và nhân sinh quan của ông.
Tóm lại, tư tưởng chính trị - xã hội của Plato được hình thành là kết quả
trực tiếp từ sự tác động của bối cảnh kinh tế, chính trị - xã hội của đất nước Hy
Lạp cổ đại đầy biến động. Những tư tưởng chính trị - xã hội là có tiền đề lý luận
sâu xa từ cuộc đấu tranh giữa quý tộc chủ nô và dân chủ chủ nô, nhưng tiền đề lý
luân trực tiếp là từ những nhà tư tưởng đi trước. Những tư tưởng chính trị - xã hội
của Plato thể hiện nhất quán giữa thế giới quan và nhân sinh sinh quan của ông.
Cuộc đời và sự nghiệp của Plato cũng trải qua không ít thăng trầm và những biến
cố, ông cũng đã để lại cho lịch sử nhân loại một kho tàng những tác phẩm có ý

nghĩa lịch sử. Plato xứng danh là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất thời
kỳ Hy Lạp cổ đại.

25


×