Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Công tác xã hội nhóm với nạn nhân bom mìn (nghiên cứu trường hợp tại huyện triệu phong, tỉnh quảng trị)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.35 KB, 19 trang )

Công tác xã hội nhóm với nạn nhân bom mìn
(Nghiên cứu trường hợp tại huyện Triệu Phong,
tỉnh Quảng Trị)
Hồ Sỹ Thái
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn Thạc sĩ. Công tác xã hội; Mã số: 60 90 01 01
Nghd: PGS.TS Nguyễn Thị Kim Hoa
Năm bảo vệ: 2014

Keywords: Công tác xã hội; Nạn nhân; Bom mìn; Quảng Trị

Contents:
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Chiến tranh đi qua đã để lại hậu quả nghiêm trọng đối với mảnh đất và con người Việt
Nam, đặc biệt là dải đất miền Trung. Nhiều di chứng của chiến tranh cho đến nay vẫn chưa được
khắc phục triệt để. Trong đó, bom mìn còn sót lại đã và đang trở thành vấn đề nghiêm trọng, cản
trở sự phát triển kinh tế xã hội, đe dọa tính mạng người dân cũng như gây ra nhiều hậu quả về
môi trường và xã hội.
Huyện Triệu Phong là một trong những địa phương gánh chịu hậu quả chiến tranh khốc liệt
nhất của tỉnh Quảng Trị - chiến địa của những trận đánh ác liệt trong lịch sử (1954 - 1975). Đây
từng là địa bàn có các căn cứ quân sự lớn của Mỹ ngụy như sân bay Ái Tử, quân cảng Cửa Việt,
căn cứ Phượng Hoàng và nhiều vị trí phòng thủ trọng yếu khác.


Là vành đai bảo vệ thị xã Quảng Trị - thị xã tỉnh lỵ thời ngụy quyền Sài Gòn, là nơi từng
diễn ra những cuộc tranh chấp quyết liệt giữa hai bên nên nơi đây phải hứng chịu một khối lượng
lớn bom mìn. Hàng trăm ngàn tấn bom, đạn các loại đã trút xuống mảnh đất này. Các căn cứ
quân sự, đồn bốt của quân đội Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn được bố trí dày đặc, ẩn chứa xung
quanh là những bãi mìn sát thương. Mảnh đất này như oằn mình lên vì những vết sẹo bom mìn
cày xới.


Theo ước tính của chính quyền địa phương, hầu hết các địa bàn trong huyện đều bị ảnh
hưởng bởi bom mìn và đây là khu vực có mức độ ô nhiễm bom mìn cao nhất tỉnh Quảng Trị
(chiếm hơn 37% tỷ lệ bom mìn còn sót lại sau chiến tranh của toàn tỉnh) [53].
Gần 40 năm sau ngày giải phóng, các cấp chính quyền cùng nhân dân huyện Triệu Phong
đã và đang nỗ lực hết mình hàn gắn vết thương chiến tranh. Giờ đây, mảnh đất qua bao năm dài
chiến sự, chịu bao đau thương, mất mát, được sự đồng lòng, gắng sức của chính quyền và nhân
dân đang từng ngày hồi sinh.
Tuy nhiên, nhiều vùng đất tưởng rằng sẽ đem lại ấm no, thịnh vượng cho người dân lại ẩn
chứa trong nó những loại vũ khí chết người mà qua thời gian không mất đi tính năng tàn sát, hủy
diệt. Chúng vẫn chờ đợi để một ngày nào đó cướp đi sinh mạng hay để lại thương tật, sự ám ảnh
về tâm lý suốt đời cho các nạn nhân xấu số, đó có thể là những thanh niên khỏe mạnh, bác nông
dân, cụ già hay chỉ là em học sinh nhỏ… và gây nên những nỗi đau không thể nào bù đắp được
cho các gia đình nạn nhân, cho cộng đồng.
Theo thống kê của Văn phòng điều phối dự án Renew tỉnh Quảng Trị, từ sau ngày chiến
tranh kết thúc cho đến nay (1975 - 2013), số nạn nhân tai nạn bom mìn của huyện là 1293 người,
chiếm tỉ lệ cao nhất (18,4%) so với các địa phương khác trong tỉnh Quảng Trị. Số nạn nhân tử
vong do tai nạn bom mìn của huyện là 474 người, chiếm tỉ lệ 18,1% so với tổng số nạn nhân tử
vong toàn tỉnh (cao thứ hai sau huyện Hải Lăng) [78].
Rõ ràng là “Sau chiến tranh vẫn chưa hết chiến tranh”, “Sau những nỗi buồn vẫn còn lại
những nỗi buồn”. Ngày ngày, đâu đó trên những ruộng lúa, bãi ngô, cánh rừng, bãi cát hay trong
các khu dân cư, xóm làng thanh bình nơi đây vẫn vang lên tiếng nổ kinh hoàng và sau đó là biết
bao nỗi đau: người chết, kẻ bị thương, vợ mất chồng, con mất cha, mất mẹ, anh mất em… Phần
lớn tai nạn xảy ra do các nạn nhân tò mò; thiếu hiểu biết về các loại bom mìn, tác hại của chúng;


thiếu sự chú ý khi đi vào các khu vực nguy hiểm; thiếu những kỹ năng cơ bản để phòng tránh
cũng như cảnh báo cho người khác tránh nguy hiểm. Do đó, nguy cơ tai nạn không chỉ xảy ra đối
với những người dân bình thường mà với nạn nhân đã từng bị tai nạn thì mối nguy hiểm này vẫn
có khả năng lặp lại.
Với tầm quan trọng về lý luận và thực tiễn của vấn đề nêu trên, tôi đã chọn hướng nghiên

cứu“CTXH nhóm với nạn nhân bom mìn (Nghiên cứu trường hợp tại huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành CTXH của mình.
Thực hiện nghiên cứu này, bản thân tôi mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé cùng
với các cấp, ban ngành, đoàn thể, các tổ chức trong nỗ lực chung phòng tránh và giảm thiểu hậu
quả chiến tranh, đặc biệt là hậu quả của bom mìn còn sót lại; thông qua các hoạt động CTXH
nhóm được đề xuất nhằm tạo môi trường sinh hoạt cho các nạn nhân, chia sẻ những kiến thức,
kinh nghiệm, kỹ năng trong nhóm, hỗ trợ nạn nhân vượt qua những khó khăn về mặt tâm lý. Từ
đó, giúp các nạn nhân tự vươn lên trong cuộc sống, nâng cao chất lượng đời sống người dân, góp
phần vào sự phát triển kinh tế xã hội huyện Triệu Phong nói riêng và tỉnh Quảng Trị nói chung.
2.Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Bom mìn còn sót lại và tai nạn bom mìn sau chiến tranh là vấn đề được các cấp chính
quyền, ban ngành, đoàn thể, đơn vị quân đội, nhân dân địa phương cũng như các tổ chức Phi
chính phủ trong và ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực này đặc biệt quan tâm.
Những năm qua, đã và đang có nhiều kế hoạch, chương trình, dự án được tiến hành tại tỉnh
Quảng Trị nói chung, huyện Triệu Phong nói riêng về thống kê, khảo sát thực trạng bom mìn sau
chiến tranh, tai nạn bom mìn và hỗ trợ nạn nhân… Đi kèm theo đó là những bài viết, nghiên cứu,
báo cáo được thực hiện một cách cụ thể, chi tiết về các vấn đề liên quan.
2.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Vấn đề bom mìn và hậu quả của nó trong các ấn phẩm nước ngoài trước đây chủ yếu là hồi
ký về những ngày tháng ở chiến trường của các cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam.
Trong cuốn hồi ký xuất bản tại Mỹ vào năm 1991 “The Vietnam Wars 1945 – 1990” của
tác giả Marilyn B.Young – một cựu binh từng tham gia nhiều chiến dịch ở Quảng Trị đã mô tả
về những trận đánh ác liệt như chiến dịch Lam Sơn 719, Dốc Miếu, Ái Tử, La Vang… Trong đó,


ông dành nhiều trang viết để tái hiện lại hình ảnh sân bay quân sự Ái Tử - nơi mà ông đã có thời
gian dài ở đây trong khoảng những năm 1967 – 1973 “…sân bay Ái Tử với hàng rào thép gai
kiên cố và những bãi mìn sát thương phân bố dày đặc phía bên trong và bên ngoài hàng rào
nhằm chống sự xâm nhập của Bắc Việt…” [72, tr43]. Hay những chi tiết kể về nỗi ám ảnh của
quân viễn chinh Mỹ đóng ở sân bay Ái Tử khi hàng ngày phải đối mặt với hiểm họa bom mìn do

chính họ gây ra “…đó là những ngày tháng chúng tôi luôn sống trong sợ hãi và lo lắng bởi
những tiếng nổ của bom, tiếng gầm rú của máy bay và sự hy sinh của những người bạn khi
vướng phải mìn do chính đất nước chúng tôi mang đến mảnh đất này…”[72, tr56].
Như vậy, mặc dù đã xa Việt Nam nhưng qua ký ức của người cựu binh Mỹ về một vùng
đất đầy bom mìn, tang thương, chết chóc cũng giúp chúng ta hình dung được mức độ ô nhiễm
bom mìn và tác hại to lớn của nó trên địa bàn huyện Triệu Phong.
Năm 1993, báo cáo do Quỹ tưởng niệm cựu chiến binh Mỹ (VVMF) thực hiện với tên gọi
Socio - Economic Report on the Impact of Landmines [77] đã đưa ra những đánh giá ban đầu về
các tác động kinh tế xã hội do tai nạn bom mìn gây nên tại Việt Nam, đặc biệt là khu vực tỉnh
Quảng Trị. Báo cáo cũng đi sâu, tập trung phân tích, mô tả, thống kê thực trạng bom mìn và tai
nạn bom mìn từ sau khi chiến tranh kết thúc và những số liệu ước tính về thiệt hại con người,
kinh tế, môi trường do tai nạn bom mìn gây nên. Báo cáo đặc biệt nhấn mạnh tác động về mặt
kinh tế của bom mìn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của các địa phương sau khi chiến tranh
kết thúc. Theo đó, bom mìn và tai nạn bom mìn là nguyên nhân hàng đầu cản trở những nỗ lực
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân bởi vì nó đã hạn chế diện tích đất sử dụng phục
vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, cơ sở sản
xuất công nghiệp, công trình dân sinh như nhà ở, bệnh viện, trường học… Từ đó, kéo theo những
hệ quả như tình trạng người dân thiếu đất sản xuất, không có việc làm, năng suất sản xuất nông
nghiệp bị giảm sút, cơ sở hạ tầng các địa phương đã bị tàn phá trong chiến tranh không có điều
kiện được khắc phục và phát triển, do đó càng trở nên thiếu thốn, lạc hậu. Tuy nhiên, có rất ít
trang đề cập đến vấn đề này tại huyện Triệu Phong.
Các nghiên cứu khác được công bố ở Mỹ, Úc và Anh như War of the Mines của tác giả
Davis, P. (1994) [69], After the Guns Fall Silent: The Enduring Legacy of Landmines của hai tác
giả Roberts & William J. (1995) [75], The Impact of Landmines on children in Quang Tri
Province, Central VietNam của Jim Monan (1996) [70]… đa phần là những hồi ký, ghi chép của


các cựu binh, nhà báo chiến trường, những nhà nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam. Trong các
nghiên cứu này chủ yếu mô tả toàn cảnh cuộc chiến và những hậu quả của nó để lại trong và sau
chiến tranh, trong đó có tai nạn bom mìn.

Cuốn sách The Impact of Landmines on children in Quang Tri Province, Central VietNam
của Jim Monan công bố năm 1996 đã phân tích những tác động của vấn đề bom mìn đối với đối
tượng là trẻ em. Phần đầu cuốn sách là những dòng hồi ức về vùng đất đầy bom mìn, vũ khí, sự
giao tranh mà tác giả đã có khoảng thời gian dài được chứng kiến. Qua việc mô tả lại sự ác liệt
trong thời kỳ chiến tranh tại Quảng Trị, tác giả một lần nữa khẳng định tính chất nguy hiểm và
ảnh hưởng lâu dài của chiến tranh đối với người dân sống tại vùng đất này. Với đối tượng trẻ em,
tác giả đưa ra những câu chuyện về các trường hợp các em nhỏ bị trúng bom, dẫm phải mìn hay
bị trúng đạn khi đi di tản trong thời kỳ chiến tranh diễn ra. Mặc dù không thống kê chính xác số
trẻ em bị chết trong chiến tranh do bom mìn nhưng theo tác giả thì “…con số đó thực sự là một
con số khiến chúng ta phải suy ngẫm và tự vấn bản thân…” [70, tr57]. Tác giả cũng bày tỏ sự
quan ngại khi chiến tranh đã kết thúc nhưng tình trạng trẻ em bị tai nạn bom mìn không giảm,
đặc biệt là các em bị tai nạn do đùa nghịch với các loại bom mìn còn sót lại. Qua việc phân tích
những ảnh hưởng của bom mìn đối với trẻ em, tác giả cho rằng vấn đề này cũng mang tính cấp
bách giống như vấn đề dinh dưỡng cho trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em… và cần có sự hỗ trợ của
các tổ chức quốc tế trong việc giảm thiểu, đẩy lùi hiểm họa này, mang lại cuộc sống an toàn cho
các em nhỏ.
Năm 2003, tại Mỹ, Quỹ tưởng niệm cựu chiến binh Mỹ và dự án Renew phối hợp xuất bản
cuốn sách A mine action program in Quang Tri Province, Viet Nam [73]. Đây là cuốn sách giới
thiệu toàn bộ dự án Renew về khắc phục hậu quả bom mìn ở tỉnh Quảng Trị. Cuốn sách đã phân
tích khá chi tiết thực trạng bom mìn sau chiến tranh tại địa phương, hậu quả của tai nạn bom mìn
đối với người dân và sự phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, cuốn sách cũng lần lượt giới thiệu các
vùng đất mà dự án Renew đang triển khai dự án, trong đó có địa bàn huyện Triệu Phong. Tuy
nhiên, những số liệu thống kê, phân tích, mô tả thực trạng bom mìn được đề cập trong cuốn sách
này chủ yếu là các số liệu định lượng, được thu thập và xử lý thông qua đội ngũ cán bộ dự án tại
các địa bàn mà chưa có những nghiên cứu định tính, những phỏng vấn dành riêng cho người dân,
nạn nhân, gia đình nạn nhân… để thấy được mức độ tác động của vấn đề đến người dân sống tại
đó như thế nào hay nguyện vọng, mong muốn của họ ra sao…


Như vậy, những bài viết, nghiên cứu được thực hiện ở nước ngoài về vấn đề bom mìn, hậu

quả chiến tranh ở Việt Nam, ở Triệu Phong tuy số lượng không nhiều nhưng cũng đã cho chúng
ta những góc nhìn khác nhau của các nhà nghiên cứu, cựu binh bên kia chiến tuyến về vấn đề
này. Điều đó cho thấy rằng, bom mìn và hậu quả của nó thực sự là ảnh hưởng lớn không chỉ đối
với người dân tại địa phương mà còn là mối quan tâm của những người đã và đang nghiên cứu
về nó.

2.2. Các nghiên cứu trong nước
Bên cạnh các bài viết, nghiên cứu được thực hiện và xuất bản ở nước ngoài; các nghiên cứu
được thực hiện trong nước cũng góp phần làm đa dạng bức tranh tổng quan về tình hình bom
mìn sau chiến tranh tại Quảng Trị, tại huyện Triệu Phong. Nghiên cứu được xem là sớm nhất về
vấn đề này được thực hiện tại địa bàn huyện với tên gọi “Mìn và sự chậm phát triển: Nghiên cứu
một trường hợp điển hình tại tỉnh Quảng Trị, miền Trung Việt Nam” thực hiện năm 1997, của
Jim Monan [12]. Thông qua việc tập trung phản ánh hậu quả chiến tranh và nêu ra câu chuyện
thực tế của nạn nhân và thân nhân của họ, nghiên cứu giúp chúng ta hiểu được hậu quả tàn khốc
mà bom mìn gây ra cho cuộc sống con người, cản trở đến sự phát triển của cộng đồng như thế
nào? Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào phân tích hậu quả do bom mìn để lại sau chiến tranh dưới
góc độ môi trường và kinh tế. Do đó chưa đưa ra được những giải pháp nhằm khắc phục hậu quả,
hỗ trợ nạn nhân và phát triển bền vững.
Ngoài ra, từ khi mới thành lập vào năm 2001 đến nay, hằng năm, Văn phòng điều phối dự
án Renew tỉnh Quảng Trị đều xuất bản Báo cáo thường niên của văn phòng về thực trạng bom
mìn tại các địa bàn dự án [53]. Báo cáo luôn cập nhật đầy đủ các số liệu về tình hình bom mìn
thống kê được, số bom mìn đã tháo gỡ, bản đồ khu vực có bom mìn, số vụ tai nạn bom mìn, các
hoạt động hỗ trợ nạn nhân, danh sách nạn nhân… Huyện Triệu Phong là một trong số những địa
bàn quan trọng của dự án.
Những nghiên cứu khác do Văn phòng Điều phối dự án Renew tỉnh Quảng Trị phối hợp
cùng các tổ chức, ban ngành, vùng dự án thực hiện cũng được xem là khá đầy đủ và cụ thể. Có


thể kể đến như: “Nghiên cứu nhận thức - thái độ - hành vi về hiểm họa của bom mìn và tai nạn
bom mìn sau chiến tranh tại tỉnh Quảng Trị, Việt Nam” [63] hoàn thành tháng 12/2002 do

Renew phối hợp với Sở Y tế tỉnh Quảng Trị thực hiện.
Cũng trong năm 2002, Renew phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện Triệu Phong và Đại
học Huế tiến hành nghiên cứu “Báo cáo khảo sát ảnh hưởng bom mìn ở huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị” [65] nhằm đánh giá ảnh hưởng của nó đối với đời sống người dân và tình hình kinh
tế xã hội của huyện Triệu Phong .
Tiếp theo các nghiên cứu đã thực hiện, tháng 9/2006, Văn phòng điều phối dự án Renew
phối hợp với Sở Ngoại vụ, Sở Y tế tỉnh Quảng Trị thực hiện “Nghiên cứu tình hình nạn nhân
bom mìn và nhận thức về hiểm họa bom mìn sau chiến tranh tại tỉnh Quảng Trị, Việt Nam” [62].
Tuy nhiên, nhìn chung, các nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở tính chất những điều tra xã
hội học. Kết quả nghiên cứu định lượng mới đưa ra số liệu thống kê số lượng bom mìn còn sót
lại; số lượng nạn nhân đồng thời nêu lên nguyên nhân, hậu quả của thực trạng đó.
Trong “Tham luận về vai trò lực lượng quân sự địa phương trong việc hợp tác với các tổ
chức quốc tế thực hiện các hoạt động dò tìm, xử lý bom mìn, vật nổ nhân đạo” của Bộ Chỉ huy
Quân sự tỉnh Quảng Trị năm 2005 tại Hội nghị tổng kết 5 năm công tác khắc phục hậu quả bom
mìn và hỗ trợ nạn nhân đã tiếp tục khẳng định “Triệu Phong là một trong những địa bàn trọng
điểm của các dự án rà phá bom mìn, phục hồi đất đai và hỗ trợ nạn nhân bởi vì tính chất và mức
độ ô nhiễm bom mìn của địa phương trầm trọng so với những địa bàn khác trong toàn tỉnh. Do
đó, mức độ ảnh hưởng của vấn đề đối với các nạn nhân cũng tăng lên” [4, tr15]. Bài viết đã
nhấn mạnh tầm quan trọng của các hoạt động GDPTBM cho nạn nhân như tuyên truyền, tập
huấn, trang bị những kỹ năng cơ bản cho người dân, cán bộ địa phương khi gặp bom mìn, khi
cứu chữa người bị tai nạn bom mìn. Tuy nhiên, những hoạt động trên mới chỉ dừng lại ở tính
chất định hướng, hướng dẫn phải làm như thế nào chứ chưa đi sâu phân tích hiệu quả, hạn chế
của từng hoạt động hoặc dự trù quy mô triển khai của hoạt động, chưa có sự chú ý đối với những
hoạt động GDPTBM đặc thù dành cho nhóm đối tượng như người cao tuổi, trẻ em, phụ nữ…
Sau đó, Văn phòng điều phối dự án Renew tiếp tục phối hợp cùng với chính quyền ba tỉnh
Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế và Trung tâm Khoa học xã hội nhân văn Huế thực hiện
“Nghiên cứu về Nghề rà tìm và buôn bán phế liệu ở Quảng Trị, Quảng Bình và Thừa Thiên


Huế”, nghiên cứu hoàn thành tháng 7/2008 [64]. Nghiên cứu tập trung vào việc nêu lên tác hại

của bom mìn sau chiến tranh khi người dân thực hiện các hoạt động nguy hiểm như rà tìm, mua
bán, vận chuyển phế liệu, trong đó có cả các loại bom mìn, vật nổ. Thông qua việc tiếp cận,
phỏng vấn những người dân địa phương trực tiếp thực hiện những công việc nguy hiểm này,
nghiên cứu đã chỉ ra một trong những nguyên nhân của việc gia tăng các vụ tai nạn bom mìn tại
các địa phương là xuất phát từ khó khăn về kinh tế, buộc người dân phải tham gia các công việc
nguy hiểm liên quan đến bom mìn. Ngoài ra, một phần nguyên nhân cũng thuộc về nhận thức
còn thấp của người dân. Tuy nhiên, những biện pháp khắc phục tình trạng này của nghiên cứu
đưa ra mới chỉ tập trung vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân hoặc
các giải pháp về kinh tế, phát triển đời sống, tạo công ăn việc làm… chứ chưa có những hoạt
động mang tính chất trợ giúp, hỗ trợ về mặt tâm lý cho họ hoặc trao truyền năng lực, kỹ năng
cho người dân để họ có thể tự bảo vệ mình trước các hiểm họa hoặc tự vươn lên hòa nhập cuộc
sống sau khi gặp tai nạn bom mìn…
Một điểm đáng chú ý là những năm gần đây đã có các nghiên cứu khoa học là khóa luận tốt
nghiệp cử nhân chuyên ngành CTXH của trường Đại học Khoa học, Đại học Huế đã đề cập đến
vấn đề này như: Khóa luận tốt nghiệp “CTXH với nạn nhân tai nạn bom mìn, vật liệu nổ tại
huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị” [31] của Hồ Sỹ Thái thực hiện tháng 5/2009, khóa luận
“Vai trò của CTXH đối với nghề thu gom phế liệu chiến tranh (Nghiên cứu trường hợp tại huyện
Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị)” [14] của Trần Thanh Loan và khóa luận “Thực hành CTXH đối với
nạn nhân bom mìn (Nghiên cứu trường hợp tại huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị)” [42] của Hồ
Thanh Tuấn cùng thực hiện vào tháng 5/2011.
Các nghiên cứu này bên cạnh việc điều tra, mô tả thực trạng bom mìn và tai nạn bom mìn
tại các địa phương nghiên cứu, bước đầu cũng đã đưa ra một số hướng thực hành, can thiệp
CTXH với nạn nhân bom mìn, chủ yếu là CTXH cá nhân với các thân chủ cụ thể nhằm giúp nạn
nhân ổn định về tâm lý, khôi phục lại các chức năng xã hội đã bị giảm sút hoặc mất đi, hòa nhập
với cuộc sống... Đây được xem là những hướng đi khá mới mẻ trong việc hỗ trợ nạn nhân bom
mìn sau tai nạn, khác hẳn với các cách thức hỗ trợ truyền thống trước đây. Tuy nhiên, các nghiên
cứu trên vẫn chưa đi sâu vào việc phân tích làm rõ vai trò của phương pháp CTXH đã áp dụng
cũng như tiến trình thực hành CTXH cụ thể đối với các đối tượng.



Do đó, luận văn tốt nghiệp với đề tài “CTXH nhóm với nạn nhân bom mìn (Nghiên cứu
trường hợp tại huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị)” hoàn toàn không phải là một “phát kiến”,
một chủ đề mới trong hoạt động thực tiễn cũng như trong khoa học nghiên cứu. Thế nhưng cái
mới của luận văn chính là việc cùng một lúc lột tả hai vấn đề đó là thực trạng bom mìn, tai nạn
bom mìn, công tác khắc phục hậu quả bom mìn, nạn nhân bom mìn và nhận thức của họ đối với
vấn đề bom mìn như thế nào?; đồng thời đề xuất các hoạt động CTXH nhóm nhằm thông qua đó
trị liệu về tâm lý cung cấp các kiến thức cơ bản về bom mìn, hình thành kỹ năng phòng tránh tai
nạn bom mìn, tạo môi trường nhóm để các nạn nhân và gia đình có thể chia sẻ những vấn đề khó
khăn gặp phải sau tai nạn, những mong muốn, nhu cầu hiện tại và hỗ trợ họ vươn lên trong cuộc
sống.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc góp phần giảm thiểu hậu quả tai nạn
bom mìn đối với người dân địa phương, hướng họ đến một cuộc sống an toàn, tốt đẹp.
3.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu đã vận dụng một số lý thuyết Xã hội học và CTXH như: thuyết nhu cầu, thuyết
vai trò, thuyết trao đổi xã hội… để xác định nhu cầu của nhóm; vị trí, vai trò của các nhóm viên.
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần vào việc bổ sung và phát triển hệ thống các lý luận, phương
pháp trong nghiên cứu về các vấn đề liên quan như CTXH, CTXH nhóm, nhu cầu, vai trò của
nhóm xã hội…
Đề tài góp phần làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu đi sau.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu đưa ra cái nhìn tổng thể về thực trạng bom mìn còn sót lại, nạn nhân bom mìn,
tai nạn bom mìn sau chiến tranh tại địa phương. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các hoạt động CTXH
nhóm với nạn nhân nhằm mục tiêu hỗ trợ về tâm lý và trao truyền cho họ những kiến thức, kinh
nghiệm, kỹ năng để phòng tránh tai nạn lặp lại đối với bản thân, gia đình và cộng đồng.
Đối với bản thân nhà nghiên cứu, qua quá trình tìm hiểu thực tế đã có cơ hội áp dụng
những lý thuyết và phương pháp đã được học vào thực tiễn cuộc sống. Từ đó, giúp nhà nghiên


cứu nắm vững kiến thức, rèn luyện kỹ năng và có thêm nhiều kinh nghiệm trong những nghiên

cứu tiếp theo và quá trình công tác của bản thân.
4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng vấn đề bom mìn, tai nạn bom mìn, nạn nhân bom mìn
và mức độ nhận thức của các nạn nhân về vấn đề bom mìn sau chiến tranh tại huyện Triệu Phong
từ đó đề xuất các hoạt động CTXH nhóm với nạn nhân bom mìn nhằm góp phần trị liệu về tâm
lý và nâng cao nhận thức về vấn đề bom mìn cho nạn nhân.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ các khái niệm lý thuyết như bom mìn, nạn nhân bom mìn, CTXH, CTXH nhóm.
Tìm hiểu, mô tả, phân tích thực trạng bom mìn, tai nạn bom mìn và các hoạt động khắc
phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh đã được triển khai tại huyện Triệu Phong.
Tìm hiểu, phân tích thực trạng nạn nhân và mức độ nhận thức của nạn nhân đối với vấn đề
bom mìn sau chiến tranh.
Đề xuất các hoạt động CTXH nhóm với nạn nhân bom mìn nhằm hỗ trợ giải quyết những
khó khăn về mặt tâm lý và nâng cao nhận thức về vấn đề bom mìn cho nạn nhân.
5.Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5.1.

Đối tượng nghiên cứu

CTXH nhóm với nạn nhân bom mìn.
5.2.

Khách thể nghiên cứu

Nạn nhân bom mìn: với cơ cấu sau

Loại hình

Cụt một hoặc


Chấn thương

thương tật

hai chân

đa phần

Mất một,
hai tay hoặc
hỏng mắt

Chấn thương
tâm lý


Số lượng
(người)

7

64

4

15

Gia đình nạn nhân bom mìn.
Cán bộ chính quyền, ban ngành, đoàn thể địa phương.

Cán bộ dự án Renew.

5.3.

Phạm vi nghiên cứu

Không gian: 19 xã, thị trấn thuộc huyện Triệu Phong.
Thời gian: nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu thực trạng bom mìn, tai
nạn bom mìn, nạn nhân bom mìn và nhận thức của nạn nhân đối với thực trạng bom mìn sau
chiến tranh tại huyện Triệu Phong, đề xuất các hoạt động CTXH nhóm với nạn nhân bom mìn.
6. Câu hỏi nghiên cứu
(1) Thực trạng bom mìn, tai nạn bom mìn và các hoạt động khắc phục hậu quả bom mìn
sau chiến tranh tại huyện Triệu Phong như thế nào?
(2) Tình hình nạn nhân và nhận thức của các nạn nhân về hiểm họa bom mìn sau chiến
tranh tại huyện Triệu Phong ra sao?
(3) Các hoạt động CTXH nhóm có vai trò như thế nào đối với nạn nhân bom mìn tại huyện
Triệu Phong?
7. Giả thuyết nghiên cứu
(1)Bom mìn còn sót lại, tai nạn bom mìn đã và đang đe dọa cuộc sống của người dân và có
nhiều hoạt động khắc phục hậu quả bom mìn được triển khai tại huyện Triệu Phong.
(2)Nạn nhân bom mìn tại huyện Triệu Phong gồm nhiều thành phần, lứa tuổi và có nhận
thức nhất định đối với hiểm họa bom mìn sau chiến tranh.


(3)Các hoạt động CTXH nhóm có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nạn nhân về mặt tâm
lý và nâng cao nhận thức về vấn đề bom mìn và cách phòng tránh tai nạn bom mìn.
8.Phương pháp thu thập thông tin
8.1.


Phương pháp phân tích tài liệu

Để có số liệu cụ thể, chính xác về các vấn đề liên quan, nhà nghiên cứu đã tìm hiểu một số tài
liệu về vấn đề bom mìn của các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước; đặc biệt là của Văn phòng
điều phối dự án Renew tỉnh Quảng Trị; báo cáo tình hình kinh tế xã hội hàng năm của huyện và
các xã, thị trấn; báo cáo tổng kết hoạt động hàng năm của các cơ quan, đoàn thể huyện Triệu
Phong… và các tài liệu liên quan khác (xem phần Danh mục tài liệu tham khảo).
8.2.

Phương pháp phỏng vấn sâu

Trong quá trình thực hiện đề tài, nhà nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu 17 người,
trong đó: 7 nạn nhân bom mìn; 8 cán bộ chính quyền, ban ngành, đoàn thể cấp huyện (Phó chủ
tịch huyện và cán bộ Phòng Lao động thương binh và xã hội, Phòng Văn hóa thông tin, Phòng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Hội Phụ nữ, Hội nông dân, Ban chỉ huy quân sự, Trung
tâm y tế huyện); 2 cán bộ Dự án Renew.
8.3.

Phương pháp phỏng vấn bảng hỏi

Trong nghiên cứu này, nhà nghiên cứu tiến hành phỏng vấn theo bảng hỏi (xem phụ lục 3)
đối với 76 nạn nhân bom mìn được chọn ngẫu nhiên.
Số lượng phỏng vấn

76 nạn nhân (04 nạn nhân/ 01 xã, thị trấn)
25% nạn nhân dưới 15 tuổi.
25% nạn nhân 16 - 30 tuổi.

Cơ cấu độ tuổi
25% nạn nhân 31 - 49 tuổi.

25% nạn nhân từ 50 tuổi trở lên.
Cơ cấu giới tính

8.4.

50% nam, 50% nữ.

Phương pháp thảo luận nhóm tập trung


Trong nghiên cứu này, nhà nghiên cứu tiến hành 3 cuộc thảo luận nhóm, mỗi nhóm 7
người. Bao gồm: Nhóm nạn nhân bom mìn; nhóm cán bộ chính quyền, ban ngành, đoàn thể cấp
xã; nhóm người thân trong gia đình nạn nhân bom mìn.

8.5.

Phương pháp quan sát

Trong thời gian thực tế tại địa bàn, nhà nghiên cứu đã tiến hành quan sát thực trạng đời
sống kinh tế xã hội địa phương; thái độ, hành vi của người dân, của các nạn nhân bom mìn đối
với các vấn đề liên quan.
Những quan sát này góp phần làm sáng tỏ thêm những kết quả nghiên cứu định lượng đã
thu thập được.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1.

Lê Chí An (1999), Nhập môn Công tác xã hội cá nhân, Đại học Mở Bán công, thành phố

Hồ Chí Minh.

2.

Arms Project (1992), Mìn: một di sản chết người (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều
phối Dự án Renew, Quảng Trị.

3.

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Trị, tập 3,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4.

Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Trị (2005), Tham luận về vai trò lực lượng quân sự địa
phương trong việc hợp tác với các tổ chức quốc tế thực hiện các hoạt động dò tìm, xử lý
bom mìn, vật nổ nhân đạo.

5.

Bộ Giáo dục và đào tạo (2010), Giáo trình Triết học Mác Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.

6.

Bộ Lao động thương binh và xã hội (2003), Nghèo đói và bất bình đẳng tại Việt Nam, Nxb
Lao động xã hội, Hà Nội.

7.


Cục thống kê tỉnh Quảng Trị (2013), Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị 2012, Nxb Thống
kê, Hà Nội.

8.

Elizabeth Hobbs (2008), Đời sống sau chấn thương: Cẩm nang phục hồi chức năng cho
người bị chấn thương và những người trợ giúp (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều
phối Dự án Renew, Quảng Trị.

9.

Nguyễn Thị Kim Hoa (chủ biên) (2014), Công tác xã hội với người khuyết tật, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

10.

Hội Cựu chiến binh Việt Nam (2009), Báo cáo kinh tế xã hội về ảnh hưởng của bom mìn,
Hà Nội.

11.

Huyện ủy Triệu Phong (1996), Lịch sử Đảng bộ huyện Triệu Phong 1930 - 1975.

12.

Jim Monan (1997), Mìn và sự chậm phát triển: Nghiên cứu một trường hợp điển hình tại
tỉnh Quảng Trị, miền Trung Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13.


Nguyễn Thị Thái Lan (chủ biên) (2012), Giáo trình Công tác xã hội nhóm, Nxb Lao động
xã hội, Hà Nội.


14.

Trần Thanh Loan (2011), Vai trò của công tác xã hội đối với nghề thu gom phế liệu chiến
tranh (Nghiên cứu trường hợp tại huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị , Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Khoa học Huế.

15.

Trần Thị Hải Lý (2007), Báo cáo chia sẻ kinh nghiệm áp dụng chương trình giáo dục
phòng tránh tai nạn bom mìn trong trường tiểu học, Trường tiểu học số 1 Triệu Thượng,
Triệu Phong.

16.

Bùi Thị Xuân Mai (2012), Giáo trình nhập môn công tác xã hội, Nxb Lao động xã hội, Hà
Nội.

17.

Nguyễn Văn Mạnh (chủ biên) (2007), Công tác xã hội ở miền Trung Việt Nam, Nxb Thuận
Hóa, Huế.

18.

Nhà thiếu nhi huyện Triệu Phong (2004), Báo cáo tổng kết chương trình giáo dục bom mìn
đồng đẳng cho trẻ em huyện Triệu Phong năm 2004.


19.

Nhà thiếu nhi huyện Triệu Phong (2004), Tập trò chơi dự thi giáo dục phòng tránh bom
mìn.

20.

Nguyễn Duy Nhiên (2010), Giáo trình Công tác xã hội nhóm, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội.

21.

Nguyễn Duy Nhiên (2008), Nhập môn Công tác xã hội, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

22.

Lê Thị Ngọc Oanh (2007), Báo cáo về việc thành lập đội tuyên truyền và tổ chức giao lưu
với cộng đồng về “Giáo dục phòng tránh tai nạn bom mìn”, Trường Tiểu học số 2 Triệu
Thượng, Triệu Phong.

23.

Oxford (1994), Mìn: di sản của sự xung đột (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối
Dự án Renew, Quảng Trị.

24.

Oxford (1992), Việt Nam: cái giá của hòa bình (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều
phối Dự án Renew, Quảng Trị.


25.

Phong trào Quốc tế vận động cấm mìn sát thương (2005), Báo cáo giám sát hoạt động bom
mìn năm 2005 (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Quảng Trị.

26.

Lê Văn Phú (2004), Công tác xã hội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

27.

Ronal B.Frankum Jr và Stephen F.Maxner (2003), Tìm hiểu về cuộc chiến tranh Việt Nam,
Nxb Wiley, USA. (Phiên bản tiếng Việt)

28.

Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Quảng Trị (2006), Tài liệu bồi dưỡng về giáo dục phòng tránh
tai nạn bom mìn và vật liệu chưa nổ.


29.

Sở Ngoại vụ tỉnh Quảng Trị (2012), Các báo cáo liên quan về tình hình hoạt động phòng
chống bom mìn.

30.

Mai Kim Thanh (2010), Nhập môn Công tác xã hội, Nxb Giáo dục, Hà Nội


31.

Hồ Sỹ Thái (2009), Công tác xã hội với nạn nhân tai nạn bom mìn, vật liệu nổ tại huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Khoa học Huế.

32.

Tổ chức các giải pháp bom mìn châu Á ALS (2001), Giới thiệu tổng quát về các hoạt động
phòng chống bom mìn nhân đạo (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án
Renew, Quảng Trị.

33.

Tổ chức Cứu trợ và phát triển CRS, Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Quảng Trị (2006), Tài liệu
tập huấn giáo viên tiểu học về giáo dục phòng tránh tai nạn bom mìn và vật liệu chưa nổ.

34.

Tổ chức Cứu trợ và phát triển CRS, Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Quảng Trị (2005), Tài liệu
tập huấn về giáo dục phòng tránh tai nạn bom mìn và vật liệu chưa nổ.

35.

Tổ chức Handicap International (2001), Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phòng
tránh bom mìn và vật liệu chưa nổ (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án
Renew, Quảng Trị.

36.

Tổ chức Handicap International (2001), Hướng dẫn thực hiện hoạt động giáo dục phòng

tránh bom mìn (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Quảng Trị.

37.

Tổ chức Landmine Monitor (2001), Báo cáo về tình hình và hoạt động phòng tránh bom
mìn và vật liệu chưa nổ ở Việt Nam (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án
Renew, Quảng Trị.

38.

Tổ chức Những vấn đề phát triển môi trường và kỹ thuật (1994), Một phương pháp tiếp
cận tổng hợp về nghiên cứu, lập kế hoạch và tháo gỡ bom mìn (Phiên bản tiếng Việt), Văn
phòng Điều phối Dự án Renew, Quảng Trị.

39.

Tổ chức Phong trào Quốc tế chống sử dụng mìn sát thương (2001), Hướng dẫn chung về
điều trị và phục hồi cho nạn nhân - Nhóm công tác về hỗ trợ nạn nhân, Văn phòng Điều
phối Dự án Renew, Quảng Trị.

40.

Tổ chức Y tế thế giới (2001), Chương trình hoạt động phối hợp về y tế cộng đồng đối với
vấn đề mìn sát thương (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Quảng
Trị.


41.

Tổ chức Y tế thế giới, Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế (1998), Khuôn khổ chiến lược hỗ trợ

nạn nhân bom mìn, sáng kiến BERN MANIFESTO (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều
phối Dự án Renew, Quảng Trị.

42.

Hồ Thanh Tuấn (2011), Thực hành công tác xã hội đối với nạn nhân bom mìn (Nghiên cứu
trường hợp tại huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị , Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Khoa học Huế.

43.

Uỷ ban nhân dân huyện Triệu Phong (1998 - 2013), Báo cáo tình hình kinh tế xã hội huyện
các năm.

44.

Ủy ban nhân dân huyện Triệu Phong (2010), Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội huyện
Triệu Phong đến năm 2020.

45.

Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị (2012), Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tỉnh Quảng Trị
năm 2012.

46.

UNDP (1999), Nghiên cứu các phương pháp tiếp cận về mặt kinh tế xã hội trong hoạt
động phòng chống bom mìn (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án Renew,
Quảng Trị.


47.

UNICEF (2001), Chương trình hoạt động phòng chống bom mìn nhìn từ khía cạnh phát
triển (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Quảng Trị.

48.

UNICEF (2001), Hội thảo quốc tế về công tác thiết kế các tài liệu, nguồn lực và phương
tiện truyền thông khác phục vụ cho các chương trình giáo dục phòng tránh bom mìn
(Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Quảng Trị.

49.

UNICEF (2001), Những hướng dẫn quốc tế đối với chương trình giáo dục phòng tránh
bom mìn/ vật liệu chưa nổ (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án Renew,
Quảng Trị.

50.

UNICEF (2005), Tiêu chuẩn quốc tế đối với hoạt động giáo dục phòng tránh bom mìn
(Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Quảng Trị.

51.

UNMAS (1998), Hoạt động phòng chống bom mìn và sự phối hợp hành động: Chính sách
của Liên Hợp Quốc (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Quảng
Trị.

52.


UNMAS (2001), Khảo sát kỹ thuật: Tiêu chuẩn hoạt động phòng chống bom mìn quốc tế.
(Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Quảng Trị..


53.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew (2001- 2013), Báo cáo thường niên của văn phòng về
thực trạng bom mìn tại các địa bàn dự án.

54.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew (2001), Hướng dẫn cộng tác viên tuyên truyền phòng
tránh bom mìn qua bộ tranh ảnh mẫu.

55.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew (2004), Hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi một số loại gia
súc, gia cầm: chương trình hỗ trợ nạn nhân bom mìn.

56.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew (2002), Phục hồi việc sử dụng đất cho người Việt Nam
thông qua các hoạt động giáo dục phòng tránh bom mìn và khắc phục hậu quả chiến
tranh.

57.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew (2004), Sổ tay hướng dẫn nhận dạng bom mìn và vật
liệu nổ.


58.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew (2008), Sổ tay nhận dạng bom mìn và vật nổ.

59.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew (2004), Sơ cứu tai nạn bom mìn và các chấn thương
khác tại cộng đồng.

60.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew (2005), Sử dụng phương tiện trực quan trong tuyên
truyền giáo dục phòng tránh bom mìn (Sổ tay dành cho các cộng tác viên dự án Renew).

61.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tỉnh Quảng Trị
(2003), Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phòng tránh bom mìn.

62.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Sở Ngoại vụ, Sở Y tế tỉnh Quảng Trị (2006), Nghiên
cứu tình hình nạn nhân bom mìn và nhận thức về hiểm họa bom mìn sau chiến tranh tại
tỉnh Quảng Trị, Việt Nam.

63.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Sở Y tế tỉnh Quảng Trị (2002), Nghiên cứu nhận thức
- thái độ - hành vi về hiểm họa của bom mìn và tai nạn bom mìn sau chiến tranh tại tỉnh
Quảng Trị, Việt Nam.


64.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew, Trung tâm Khoa học xã hội nhân văn Huế (2008),
Nghiên cứu về Nghề rà tìm và buôn bán phế liệu ở Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên
Huế.

65.

Văn phòng Điều phối Dự án Renew, UBND huyện Triệu Phong, Đại học Huế (2002), Báo
cáo khảo sát ảnh hưởng bom mìn ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

66.

Hồ Sỹ Vịnh (chủ biên) (2005), Người Quảng Trị - Nhân vật chí, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.


67.

VVAF (1993), Cứu giúp và phá hủy cuộc sống (Phiên bản tiếng Việt), Văn phòng Điều
phối Dự án Renew, Quảng Trị.

Tài liệu tiếng nước ngoài
68.

Barker, R.L (1999), Social Work Dictionary, NASW Press, 4th Edition, New York.

69.


Davis, P. (1994), War of the Mines, Pluto Press, London, England.

70.

Jim Monan (1996), The Impact of Landmines on children in Quang Tri, Province, Central
VietNam, VVAF, UNICEF, Lucins and Eva East man Fund, USA.

71.

Landmine Monitor (2000), ASEAN and the Banning of Anti - personnel Landmines.

72.

Marilyn B. Young (1991), The Vietnam Wars 1945 - 1990, Harper Perennial, NewYork,
USA.

73.

Project Renew (2003), A mine action program in Quang Tri Province, Viet Nam,USA.

74.

Quang Tri Department of Foreign Affairs, VVMF (2005), Update for Donors and
Supporters Project Renew Quang Tri Province,USA.

75.

Roberts & William J. (1995), After the Guns Fall Silent: The Enduring Legacy of
Landmines, VVAF, Washington D.C, USA.


76.

Spooner B. (1994), A Fully Integrated Approach to the Survey, Planning and Removal of
Landmines by Incorporating Development and Environmental Issues and Impact
Assessment Techniques, Unpublished Paper, United Kingdom.

77.

VVMF (1993), Socio - Economic Report on the Impact of Landmines, USA.

Tài liệu website
78.

Website: www.landmines.org.vn

79.

Website: www.quangtri.gov.vn

80.

Website: www.trieuphong.gov.vn



×