Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn ngôi nhà bình yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.79 KB, 85 trang )

MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mua bán Phụ nữ và trẻ em đã trở thành vấn nạn toàn cầu nói chung, đặc biệt
đối với Việt Nam, quốc gia nằm trong khu vực Nam Á.
Theo Báo cáo tổng kết chương trình hành động phòng chống tội phạm buôn
bán phụ nữ và trẻ em của Chính phủ Việt Nam giai đoạn 2004- 2009, trong 5 năm
thực hiện chương trình, cả nước đã xảy ra 1.586 vụ mua bán người, trong đó có
2.888 đối tượng, lừa bán 4.008 nạn nhân. Con số này đã tăng so với 5 năm trước là
1.090 vụ, 2.117 đối tượng và 2935 nạn nhân. Trong đó, trên 60% số vụ là mua bán
sang Trung Quốc. Các địa phương xảy ra tình trạng này nhiều nhất là: Hà Giang,
Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Nội, Nghệ An, Lai Châu, Bắc Giang. Tuy
nhiên đây chỉ là số vụ bị phát hiện còn số lượng thực tế có thể lớn hơn nhiều[3].
Nạn nhân của mua bán người chủ yếu là phụ nữ tập trung trong độ tuổi từ 15
đến 35. Đa phần họ xuất thân từ các vùng nông thôn, trong các gia đình nghèo, trình
độ học vấn thấp hay trong các gia đình có những vấn đề xã hội như rượu chè, bạo
lực gia đình, gia đình khiếm khuyết hoặc không hạnh phúc… [14]. Trong hàng
nghìn nạn nhân của nạn buôn bán người, một số ít may mắn trốn thoát trở về.
Nhưng cuộc sống của họ sẽ ra sao khi những khó khăn về vật chất, những hậu quả
nặng nề về tâm lý, sức khỏe và định kiến xã hội cứ bám riết họ trong quá trình tái
hòa nhập cộng đồng? Liệu trong số họ, bao nhiêu người sẽ ổn định cuộc sống? Bao
nhiêu nạn nhân phải chấp nhận cuộc sống bấp bênh? Những ai trong số này rơi vào
các tệ nạn xã hội?
Hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về là một công tác toàn diện, phức tạp, liên
quan tới các vấn đề tâm lý, giáo dục và giáo dục lại, hỗ trợ hồi phục và tái hòa nhập
cộng đồng…Một số chính sách cụ thể để hỗ trợ các nạn nhân bị mua bán trở về đã
được áp dụng và có kết quả tích cực. Mặt khác, công tác hỗ trợ nạn nhân hồi phục
2
và tái hòa nhập cộng đồng vẫn đang tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về mặt thực tế và
chính sách.


Trong bối cảnh đó, nghiên cứu “Công xã hội đối với phụ nữ và trẻ em bị mua
bán trở về từ thực tiễn hoạt động dự án Ngôi nhà Bình Yên” mong muốn góp
phần đưa ra một cái nhìn toàn diện về công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán tại Ngôi
nhà Bình Yên, kết quả đạt được của mô hình hỗ trợ này, từ đó nêu lên những
khuyến nghị với Ban quản lý dự án nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Trên thế giới
Mỗi năm thế giới có khoảng 600.000 đến 800.000 người được đưa qua biên
giới và khoảng 2 đến 4 triệu người là nạn nhân bị mua bán trong chính quốc gia của
mình. Vấn đề buôn bán người, tập trung vào Phụ nữ và trẻ em đã được đề cập trong
xã hội từ những năm cuối của thế kỷ 19, khi nhà nữ quyền Josephin Butler người
Anh đã liên kết nạn buôn người để bóc lột tình dục cùng với chiến dịch chống
“Buôn bán nô lệ da trắng”. Từ đó trở đi, các hoạt động chống buôn bán phụ nữ trẻ
em gắn chặt với các phong trào nữ quyền và trở thành vấn đề trong chương trình
nghị sự của các Phong trào Phụ nữ quốc tế.
Tuy nhiên, phải tới năm 2000, thông qua nghị định thư Palermo của Liên
Hiệp Quốc thì vấn đề buôn bán người mới được nhìn nhận một cách toàn diện và
nạn mua bán người mới được đưa lên thành vấn đề toàn cầu. Do vậy đã có rất nhiều
các công trình nghiên cứu, sách báo và các dự án và chương trình hoạt động liên
quan đến buôn bán người và hoạt động phòng chống buôn bán người, đặc biệt là
phụ nữ và trẻ em.
Ủy ban kinh tế và xã hội châu Á Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc cho
ra đời bản báo cáo Combating human trafficking in Asia (Đấu tranh chống lại nạn
mua bán người ở châu Á) vào năm 2003. Đây là một tài liệu hướng dẫn cho công
tác đấu tranh phòng chống nạn mua bán người ở các nước châu Á Thái Bình
3
Dương, chủ yếu nhấn mạnh về việc xây dựng khung pháp lý đẩy lùi tệ nạn đồng
thời tạo điều kiện hỗ trợ các nạn nhân trở về xây dựng cuộc sống[41].
Ấn phẩm Toolkit to combat traffiking in persons (Công cụ cần thiết để chống
lại nạn mua bán người), công bố năm 2008 của UNODC (Tổ chức phòng chống ma

túy và tội phạm của Liên hiệp quốc), cung cấp hỗ trợ thực tiễn cho các chính phủ,
những nhà hoạch định chính sách, công an, các tổ chức phi chính phủ và những
thành phần liên quan khác trong việc đấu tranh chống lại nạn mua bán người một
cách có hiệu quả. Công trình đã đưa ra những phương pháp và cách thức thực hành
đang được sử dụng hiện nay trên thế giới như cách để xác định nạn nhân bị mua
bán, cách phỏng vấn và bảo vệ nạn nhân [42].
Một báo cáo khác mang tính chất toàn cầu về vấn đề buôn bán người, Global
report on trafficking in persons được thực hiện bởi UNODC tháng 2/2009 lại đưa ra
một cái nhìn mới mẻ về cách thế giới phản ứng với vấn đề mua bán người trong đó
chứa đựng các thông tin tương đối toàn diện về hệ thống luật pháp và việc thực thi
ở nhiều quốc gia trên thế giới [43].
Tác giả Louise Shelley với công trình toàn diện về nạn buôn bán người,
Human trafficking: A global perspective (Mua bán người: cái nhìn toàn cầu) đã
nhấn mạnh những nội dung như sự bùng nổ và hậu quả của nạn mua bán người; vấn
đề tài chính trong hệ thống buôn người; và tình trạng mua bán người tại nhiều khu
vực trên thế giới trong đó có châu Á, châu Âu, châu Mỹ và châu Phi. Tuy nhiên,
công trình này chỉ tập trung vào thực trạng mua bán người, những hậu quả của nó
chứ không nói nhiều về các phương pháp cụ thể nhằm hỗ trợ nạn nhân bị mua bán
trở về [39].
Công trình nhan đề Trafficking in women and children – current issues and
developments (Mua bán phụ nữ và trẻ em – các vấn đề hiện tại và xu hướng phát
triển) do Anna M. Troubnikoff chủ biên đã thảo luận về hậu quả của nạn mua bán
phụ nữ và trẻ em, trong đó chỉ ra các nạn nhân cụ thể cần được hỗ trợ và các chiến
lược cho những kế hoạch phòng chống tệ nạn này một cách hiệu quả [35].
4
Bài viết Human trafficking: Improving victim identification and service
provision (Mua bán người: Cải thiện vấn đề xác định nạn nhân và cung cấp dịch vụ)
năm 2011, đã đưa ra đánh giá Đạo luật bảo vệ nạn nhân của Mỹ (TVPA). Từ đó, bài
viết cho thấy cần phải cải thiện vấn đề xác định nạn nhân và tăng cường cung cấp
dịch vụ. Xu thế toàn cầu, những nỗ lực và nhược điểm trong việc hạn chế nạn buôn

bán người. Đặc biệt, tác giả đưa ra những can thiệp cụ thể của nhân viên xã hội
trong việc xác định nạn nhân và cung cấp dịch vụ [37].
Nghiên cứu Reintegration in Aftercare: Theory and Practice – Developing
an instrument to measure success of reintegration of traffic survivors; formulating a
philosophy and program of reintegration based on the instrument (Tái hòa nhập sau
hỗ trợ: Lý thuyết và thực hành _ Phát triển bộ công cụ tái hòa nhập thành công của
những người bị mua bán trở về; Xây dựng lý luận và chương trình tái hòa nhập dựa
trên bộ công cụ), nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 67 người tại 11 khu vực tại
Mindano Philipines nhằm tìm hiểu những gì cần có để tái hòa nhập thành công và
để bảo vệ nạn nhân không bị tái buôn bán. Qua nghiên cứu, nhóm tác giả xây dựng
bộ công cụ gồm 43 tiêu chí để đánh giá mức độ thành công của công tác tái hòa
nhập cộng đồng cho nạn nhân bị mua bán trở về. Nghiên cứu cũng đề cập tới mô
hình nhà hỗ trợ của tổ chức Love 146, trong đó nhấn mạnh hỗ trợ nạn nhân bị mua
bán trở về cần phải tạo cơ hội để họ đạt được mức giá trị bản thân nhất định; phát
triển tiềm năng và khuyến khích họ áp dụng các khả năng của mình vào cuộc sống.
Cùng với việc chăm sóc chữa lành các vết thương thể chất, tinh thần, hoạt động hỗ
trợ đồng còn phải giúp nạn nhân trở nên mạnh mẽ để sẵn sàng bước ra thế giới bên
ngoài nơi có sự tàn ác, thiếu thốn và tuyệt vọng…; ngăn chặn những điều đó có thể
làm tổn thương nạn nhân [38].
Bài báo gần đây nhất, Human Trafficking Is More Than Sex Trafficking and
Prostitution: Implications for social work (Mua bán người, hơn cả mại dâm và buôn
bán tình dục: Những ảnh hưởng của nó tới Công tác xã hội) năm 2012, đã đề cập tới
một vấn đề mới trong việc mua bán người: không chỉ là để bóc lột tình dục mà còn
để bóc lột sức lao động và ăn cắp nội tạng. Nhóm tác giả nhận định rằng chủ đề này
5
đã không được thảo luận rộng rãi trong công tác xã hội và nhấn mạnh tới nhiệm vụ
nghề nghiệp của Công tác xã hội là thúc đẩy nhân quyền và công bằng kinh tế và xã
hội và nhân viên xã hội được đặt ở một vị trí lý tưởng để giải quyết vấn đề này”
[36]. Nhóm tác giả bài viết cũng nêu ra các phương thực để liên kết giữa phòng
chống mại dâm và phòng chống buôn bán người nói chung, từ đó gợi ý một mô

hình cho lĩnh vực Công tác xã hội trợ giúp nạn nhân bị buôn bán [36].
2.2. Tại Việt Nam
Nghiên cứu khảo sát “Tình hình buôn bán phụ nữ - trẻ em nhằm đề xuất các
hoạt động can thiệp phù hợp tại một số vùng phát triển” do Tổ chức Action Aid
Việt Nam được thực hiện tháng 10/2008 [1].
Nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của thực trạng buôn bán phụ nữ-
trẻ em tại 4 tỉnh như đối tượng nạn nhân bị buôn bán, thủ phạm buôn bán, điểm bị
buôn bán, nhận thức của cộng đồng về vấn đề buôn bán, các hoạt động phòng chống
buôn bán người và tìm hiểu cuộc sống của các nạn nhân sau khi trở về tái hòa nhập
cộng đồng. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp hữu ích như truyền thông, nâng
cao nhận thức cho cộng đồng, đồng thời hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng và trao
quyền cho người trở về, phòng ngừa tội phạm, thúc đẩy sự phát triển xã hội để
cùng với Chính phủ Việt Nam thực hiện tốt hoạt động phòng chống mua bán phụ nữ
trẻ em, giảm thiểu số lượng phụ nữ và trẻ em bị mua bán cả ở trong nước và nước
ngoài. Nghiên cứu cũng đưa ra những khuyến nghị liên quan đến việc nâng cao
hiệu quả truyền thông, hoạt động tái hòa nhập cộng đồng và công tác phòng chống
tội phạm buôn bán người.
Nghiên cứu “Mua bán trẻ em trai tại Việt Nam” là một phần trong Chương
trình chung về Bình đẳng giới do chính phủ Việt Nam và các cơ quan Liên hợp
quốc tại Việt Nam cùng phối hợp thực hiện [6].
Nghiên cứu đã đưa ra những bằng chứng ban đầu khẳng định rằng tình trạng
mua bán trẻ em trai có xảy ra ở Việt Nam, cả trong nước và nước ngoài. Trẻ em trai
bị mua bán phải làm các công việc khác nhau: làm ăn xin và bán rong trên đường
6
phố, trong không ít trường hợp các em bị bóc lột tình dục. Một điều đáng lưu ý là
dù báo cáo này đã phát hiện các trường hợp trẻ em trai bị mua bán nhưng trong hệ
thống báo cáo chính thức của chính quyền địa phương lại không có trường hợp mua
bán trẻ em trai nào hoặc không có số liệu thống kê chính thức về tình hình này.
Liên quan đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng, các nạn nhân được giải
cứu đề cập trong nghiên cứu đều được hỗ trợ tiền để trở về nhà như tiền đi lại và

tiền ăn. Hầu hết các trường hợp mua bán trong nước cho mục đích bóc lột lao động
được chuyển đến Trung tâm bảo trợ, hoặc Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề cho
Thanh niên, cũng như các trung tâm tiếp nhận và đánh giá nạn nhân. Tuy nhiên, đối
với những nạn nhân tự trở về, các em không nhận được sự hỗ trợ ban đầu từ các cơ
quan nhà nước.
Báo cáo “Tác động của khủng hoảng tài chính kinh tế đối với công nhân nữ
nhập cư và những nguy cơ về mua bán người”, kết quả từ một nghiên cứu của
Trung tâm hợp tác phát triển nguồn nhân lực (C&D) và tổ chức Action Aid Việt
Nam, tập trung vào thực trạng lao động nữ nhập cư bao gồm điều kiện làm việc, các
chế độ phúc lợi, điều kiện sống… và những nguy cơ khiến những lao động nữ này
có thể trở thành nạn nhân bị buôn bán [31].
Tác giả Lê Thị Quý với cuốn sách Ngăn ngừa nạn buôn bán phụ nữ ở Việt
Nam (bản tiếng Anh: Prevention of trafficking women in Vietnam), mô tả khá chi
tiết về thực trạng buôn bán phụ nữ qua biên giới ở Việt Nam những năm 1990 của
thế kỷ XX cũng như những ứng phó của chính phủ nước ta với vấn đề này [15].
Báo cáo kết quả nghiên cứu: Khảo sát thực trạng những nạn nhân nữ trở về
do buôn bán phụ nữ ở Tây Ninh, 2002, đã cho thấy trong nhóm xã hội phụ nữ bị lừa
bán trở về cũng như nhóm xã hội phụ nữ có nguy cơ cao bị lừa bán không có việc
làm hoặc việc làm thu nhập không ổn định. Do đó, chế độ an toàn về lương thực
thực phẩm còn rất bấp bênh dẫn đến tình trạng những nhóm phụ nữ này chưa được
ổn định về cuộc sống. Một số chương trình được triển khai tại địa phương chưa đem
lại hiệu quả cao vì chưa có hình thức triển khai dựa trên những nhu cầu cụ thể của
7
những nhóm xã hội này và chưa tính đến những biện pháp kết hợp để duy trì tính
hiệu quả. Ý thức của cộng đồng bao giờ cũng "định kiến" với những nhóm xã hội
này, đặc biệt là nhóm xã hội phụ nữ bị lừa bán trở về, đã gây cản trở lớn lao đến
việc tái hoà nhập cộng đồng, làm lại cuộc đời kể cả mặt thể chất cũng như mặt xã
hội của họ. Điều kiện ăn ở, vệ sinh và chăm sóc sức khoẻ trong những nhóm xã hội
này chưa đảm bảo dễ bị lừa bán trở lại. Sức khoẻ luôn là vấn đề gây ra những khó
khăn nghiêm trọng về kinh tế gia đình. Đại bộ phận phụ nữ khi trở về đều bị mắc

bệnh lây qua đường tình dục một cách trầm trọng, trong đó có chị em bị nhiễm
HIV/AIDS, phải tự bỏ tiền chữa khám bệnh đã phải vay mượn do đó điều kiện kinh
tế ngày càng kiệt quệ. Việc tiếp cận cơ sở dịch vụ y tế chính thức của những nhóm
xã hội này gặp nhiều khó khăn do bản thân họ muốn che dấu tình trạng bệnh tật của
mình vì liên quan đến "định kiến" của cộng đồng, đồng thời do các cơ sở phi chính
thức phục vụ tiện lợi hơn, "bí mật" hơn tuy giá thành đắt đỏ. Kết quả nghiên cứu
cho thấy giải pháp cơ bản để giúp những nhóm xã hội phụ nữ này thoát khỏi những
điều kiện sống bất lợi hiện nay là xoá đói giảm nghèo trên cơ sở tạo việc làm, cho
vay vốn, nâng cao trình độ học vấn, trang bị khoa học kỹ thuật và hỗ trợ các vấn đề
xã hội khác [34].
Dự án Phòng chống buôn người khu vực châu Á (ARTIP) là sáng kiến của
Chính phủ Úc nhằm tăng cường việc đáp ứng tư pháp hình sự đối với việc buôn bán
người ở khu vực châu Á. Dự án này được bắt đầu từ tháng 8 năm 2006 và hoạt động
trong 5 năm, ARTIP chú trọng vào việc chấm dứt sự trốn tránh bị trừng phạt của tội
phạm và bảo đảm công lý cho các nạn nhân. Các nội dung chính của dự án là tăng
cường đáp ứng hành pháp chuyên sâu và bao quát chung đối với tệ buôn bán người;
Tăng cường đáp ứng về truy tố và xét xử đối với tệ buôn người và dự án cũng cung
cấp tư vấn và hỗ trợ cho các chính phủ trong việc phát triển hoặc chỉnh sửa khung
pháp lý quốc gia về nạn buôn người [2].
Trong báo cáo Thúc đẩy bình đẳng giới để chống buôn bán phụ nữ và trẻ em,
tác giả đã nêu rõ các khái niệm cơ bản về giới và bình đẳng giới; những khác biệt
giới cơ bản trong lao động trẻ em và buôn bán lao động trẻ em; những chiến lược và
8
kỹ thuật chính trong việc lồng ghép giới vào các chương trình, dự án phòng chống
buôn bán phụ nữ và trẻ em [27].
Cuốn sách Kết quả và kinh nghiệm thực hiện các chương trình ngăn ngừa
nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em giai đoạn 2002-2007 của Quỹ Châu Á tóm tắt các
hoạt động và dự án mà Quỹ châu Á hỗ trợ các cơ quan đối tác Việt Nam trong giai
đoạn 2002 – 2007. Nội dung chủ yếu bao gồm các chương trình tuyên truyền giáo
dục phòng ngừa; các chương trình nâng cao năng lực kinh tế và nâng cao địa vị xã

hội của phụ nữ; các chương trình di cư an toàn; chương trình hợp tác song phương
với các nước có chung biên giới; chương trình hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng
đồng; chương trình hỗ trợ học bổng cho các em gái có nguy cơ bỏ học; chương
trình hỗ trợ nạn nhân trở về [23].
Trao đổi một số kinh nghiệm khi nghiên cứu hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán
qua nước ngoài để bóc lột tình dục của Phạm Thị Tâm, 2012, đã đưa ra câu hỏi “Tại
sao các nạn nhân của buôn bán người từ chối sự hỗ trợ?”. Theo đó, tác giả nhấn
mạnh: nghèo khó, thất học và thiếu hiểu biết về nạn buôn bán người không phải là
yếu tố dễ tổn thương chính. Mối quan tâm của các nạn nhân sau khi trở về là sự ủng
hộ của các thành viên trong gia đình, có việc làm ổn định và không phải nợ nần.
Điều đó đối với họ còn quan trọng hơn cả sự phản ứng, kỳ thị của cộng đồng. Bên
cạnh đó, bài viết cũng đưa ra hướng hỗ trợ nạn nhân cần hướng đến mô hình hỗ trợ
tại cộng đồng, nhấn mạnh đến công tác hỗ trợ học nghề để đảm bảo công ăn việc
làm cho nạn nhân sau khi được đào tạo. Đó chính là yếu tố căn bản giúp các nạn
nhân hòa nhập và tránh được tình trạng tái buôn bán [22].
Báo cáo đánh giá các mô hình hỗ trợ tái hòa nhập cho nạn nhân bị mua bán
trở về tại Việt Nam của nhóm tác giả David Trees, Vũ Phạm Thị Nguyên Thanh và
Trần Ban Hùng, 2012, đã tiến hành đánh giá hai mô hình Trung tâm tiếp nhận và
Nhóm tự lực trợ giúp nạn nhân bị mua bán trở về do IOM và Bộ LĐTBXH phối
hợp thực hiện. Báo cáo đã nêu lên những kết quả mà hai mô hình hỗ trợ đạt được,
bài học kinh nghiệm thu được trong quá trình vận hành hai mô hình hỗ trợ này. Qua
đó, khẳng định cả hai mô hình đều là những phương pháp tiếp cận phù hợp để hỗ
9
trợ nạn nhân hồi hương tái hòa nhập [29].
Nhìn chung, các nghiên cứu về nạn nhân bị mua bán trở về mới dừng lại ở
tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng của nạn mua bán người, những khó khăn nạn nhân
thường gặp sau khi bị mua bán trở về. Một vài nghiên cứu cũng đề cập tới mô hình
hỗ trợ nạn nhân nhưng chỉ mới dừng lại trên phương diện đào tạo nghề và các dịch
vụ ngắn hạn nhưng kết quả của sau hỗ trợ dường như đang bị bỏ ngỏ. Do vậy, mô
hình cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về một cách toàn diện và hiệu

quả của nó đang là vấn đề cần được quan tâm tìm hiểu kỹ hơn. Qua nghiên cứu
“Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn Ngôi nhà Bình
yên”, tác giả muốn đi sâu vào tìm hiểu các dịch vụ được cung cấp tại Ngôi nhà Bình
yên đối với phụ nữ và trẻ em bị mua bán trở về, phản hồi của thân chủ và những kết
quả đạt được.
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng công tác hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị mua bán trở về tại Ngôi nhà
Bình Yên như thế nào?
- Mô hình hỗ trợ này đáp ứng được nhu cầu của nạn nhân và ảnh hưởng và tới
cộng đồng như thế nào?
- Làm thế nào để nâng cao hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ cho nạn nhân bị
buôn bán trở về tại Ngôi nhà Bình Yên.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán tại Ngôi nhà Bình Yên là chuyên nghiệp.
Mô hình Dự án ngôi nhà Bình yên đã đáp ứng đúng nhu cầu của các nạn nhân bị
mua bán trở về. Đồng thời các hoạt động của dự án đã góp phần đẩy mạnh công tác
phòng chống hoạt động mua bán phụ nữ, trẻ em và hoạt động hỗ trợ nạn nhân.
Mô hình vẫn còn những hạn chế nhất định về quy mô nhà hỗ trợ cũng như
trong lĩnh vực chuyên môn, kỹ thuật.
5. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
10
Cung cấp thông tin, giới thiệu cho các tổ chức, cá nhân có liên quan về một
mô hình hoạt động hiệu quả trong việc hỗ trợ nạn nhân bị mua bán. Đồng thời, đề
xuất một số kiến nghị giúp mô hình trở nên hoàn thiện hơn.
- Mục tiêu nghiên cứu:
Tìm hiểu thực trạng công tác hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị mua bán trở về, đồng
thời góp phần phát hiện vấn đề trong công tác hỗ trợ bền vững cho nạn nhân.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Thực trạng công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tại Ngôi nhà Bình Yên.

+ Hiệu quả của mô hình trợ giúp nạn nhân tại Ngôi nhà Bình yên.
+ Đưa ra một số giải pháp khắc phục các hạn chế và nâng cao hiệu quả của
mô hình hỗ trợ.
5.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu
- Vận dụng lý thuyết vào nghiên cứu cụ thể.
- Nghiên cứu thực địa.
- Xác định vai trò, nhiệm vụ của CTXH.
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
- Tiếp cận liên ngành (Công tác xã hội, tâm lý học, xã hội học…)
- Tiếp cận trên cơ sở quyền
6.2. Phương pháp và kỹ thuật thu thập thông tin
- Phương pháp phân tích tài liệu: phân tích các số liệu, báo cáo, ấn phẩm liên
quan đến hoạt động hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tại Dự án Ngôi nhà
Bình Yên.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: 20 trường hợp, trong đó có 10 nạn nhân bị mua
bán trở về đã và đang tạm trú tại Ngôi nhà Bình yên, 3 nạn nhân đã nhận sự
hỗ trợ của dự án, 2 nhân viên công tác xã hội, 2 nhân viên tham vấn, 2 cán
bộ dự án, 1 cán bộ Trung tâm Phụ nữ và Phát triển- Hội LHPNVN.
- Phương pháp quan sát: quan sát hoạt động hỗ trợ nạn nhân tại Ngôi nhà Bình
Yên.
7. Đối tượng và khách thể của nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác xã hội đối với phụ nữ và trẻ em bị mua bán
trở về từ thực tiễn hoạt động Ngôi nhà Bình yên
11
- Khách thể nghiên cứu:
+ Những người tạm trú là nạn nhân bị mua bán đang nhận sự hỗ trợ tại Ngôi
nhà Bình yên
+ Những người đã từng nhận sự hỗ trợ của ngôi nhà Bình yên.
+ Cán bộ quản lý dự án ngôi nhà Bình yên

+ Nhân viên công tác xã hội tại Ngôi nhà Bình yên.
8. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: 05 tháng, từ tháng 1/2014 đến tháng 05/2014.
- Không gian nghiên cứu: Ngôi nhà Bình Yên, Trung tâm Phụ nữ và Phát triển,
Hội LHPNVN.
- Giới hạn nghiên cứu: Các hoạt động hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị mua bán trở
về tại Ngôi nhà Bình Yên.
9. Ý nghĩa của nghiên cứu
9.1. Về khoa học
Thông qua thực tiễn hoạt động hỗ trợ nạn nhân tại Ngôi nhà Bình yên, đề tài
sẽ đóng góp vào việc làm rõ một số luận điểm lý luận công tác xã hội liên quan tới
quá trình tái hòa nhập cộng đồng của các nạn nhân tệ mua bán người.
9.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả của đề tài sẽ:
- Góp phần làm rõ thực trạng công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về.
- Đề xuất kiến nghị để điều chỉnh các hoạt động hỗ trợ nạn nhân bị mua bán
trở về, hướng tới xây dựng mô hình hỗ trợ toàn diện và bền vững.
10. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận văn còn có 3 chương sau:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu
Chương II: Thực trạng hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về
Chương III: Hiệu quả mô hình công tác xã hội trong trợ giúp nạn nhân bị
mua bán trở về tại Dự án Ngôi nhà Bình Yên
12
NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.1.1. Thuyết nhân quyền

Quyền con người (nhân quyền) là một khái niệm có tính toàn cầu. Quyền con
người bao gồm quyền được sống, quyền được an toàn và riêng tư, quyền không bị
tra tấn, bắt bớ hay giam cầm, quyền không bị phân biệt đối xử, quyền tự do thể
hiện, hội họp, gặp gỡ một cách hòa bình, quyền được mưu cầu hạnh phúc… Theo
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, nhân quyền là của mọi người và bình đẳng với
tất cả mọi người. Khát vọng bảo vệ phẩm giá con người và ngăn chặn các hành vi
tàn ác là giá trị cốt lõi của quyền con người.
Theo đó, hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em dù với mục đích gì cũng là hành
vi xâm hại nghiêm trọng quyền con người. Nạn nhân của mua bán người bị tước đi
cái quyền tự định đoạt cuộc sống của mình. Họ bị giam cầm, đánh đập, ép buộc
phục vụ lợi ích của nhóm buôn bán. Sự bất công đó không chỉ gây ra bởi những tội
phạm mua bán người mà nhiều khi xuất phát từ chính gia đình và cộng đồng nạn
nhân sinh sống. Đó là sự kỳ thị dè bỉu cái quá khứ mà họ không chủ động tạo ra.
Nỗi lo bị trả thù cũng khiến cuộc sống của họ chứa đầy bất an.
1.1.2. Thuyết tái hòa nhập xã hội
Lý thuyết tái hòa nhập xã hội là một lý thuyết rất rộng, có sự biến đổi tùy
thuộc theo quốc gia, các vùng miền và hiện tại chưa có một định nghĩa được công
nhận trên toàn cầu.
Trên lĩnh vực hoạt động hỗ trợ nạn nhân bị mua bán người, nhiều tác giả quan
niệm rằng: Tái hòa nhập là tái thống nhất thân chủ với cuộc sống trước đây của họ
trong đó có cả gia đình và cộng đồng sinh sống của họ. Tuy nhiên, tái hòa nhập
không chỉ để trả lại cho thân chủ cuộc sống cũ mà ở đây còn có sự giúp đỡ, hỗ trợ
cho họ điều kiện tốt hơn để đưa họ trở lại với gia đình và xã hội của họ.
13
Trong các nghiên cứu về tái hòa nhập, một số các tiêu chí đánh giá sự thành
công của tái hòa nhập được đưa ra có thể nhiều, ít khác nhau. Tuy nhiên tựu chung
lại có thể thấy các nhà nghiên cứu đều đề cập đến các yếu tố hỗ trợ nạn nhân bị mua
bán như sau:
1. Ngăn chặn sự kỳ thị bằng cách hỗ trợ các nạn nhân bày tỏ sự lo lắng của mình
với cộng đồng.

2. Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu của trẻ em.
3. Đào tạo nghề và việc làm để đảm bảo sau chương trình tái hòa nhập các nạn
nhân có thể có việc làm tốt hơn.
4. Hỗ trợ pháp lý. Theo đó công an và cộng đồng địa phương nên làm việc cùng
nhau chống lại nạn buôn người.
5. Hoạt động chăm sóc sức khỏe, y tế cần được cung cấp cho các nạn nhân trong
quá trình hội nhập.
6. Dịch vụ xã hội để bảo vệ nạn nhân, những người thường lo lắng bị trả thù bởi
những kẻ buôn người, và họ có lý do để cảm thấy không an toàn.
7. Dịch vụ hỗ trợ tâm lý cho các nạn nhân bị lạm dụng, căng thẳng, trầm cảm và
chịu hậu quả của sang chấn. Hỗ trợ tâm lý cần được cung cấp trong suốt quá
trình tái hòa nhập.
“Hỗ trợ tái hòa nhập cần được làm sẵn để ngăn chặn tình trạng kỳ thị, đào
tạo nghề, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ giáo dục, ngay cả thực phẩm và tạo thu nhập để
hỗ trợ họ đảm bảo tái hòa nhập thành công.” [39]
Trong luận văn này, tái hòa nhập được xem xét như một quá trình hoạt động
hỗ trợ thân chủ phục hồi vị thế trở về với cuộc sống, gia đình và cộng đồng của
mình với điều kiện tốt hơn, an toàn hơn.
1.1.3. Quan niệm sức mạnh thân chủ
Lối tiếp cận này được đề cập từ giữa thập niên 1990 và được sử dụng dựa trên
các nguyên tắc sau:
Mọi cá nhân, nhóm, cộng đồng đều có sức mạnh nội tại của họ. Nhân viên
xã hội phải giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng đó phát hiện ra sức mạnh của họ,
tạo nên khả năng thích ứng, đối phó với những khó khăn, thách thức trong mọi hoàn
cảnh. Thân chủ lâm vào những tình huống khó khăn: bị lạm dụng tình dục, bệnh tật,
14
nghèo đói v.v… Vấn đề là ở chỗ cần phải đánh giá những khó khăn này một cách
chính xác, tìm ra được các cơ hội và đường hướng để giải quyết nó theo cách tích
cực nhất. Một trong những biện pháp làm việc từ phía nhân viên xã hội là cần xác
định rõ những khả năng của thân chủ, khám phá thân chủ muốn gì và nhìn ra các

nguồn lực trong môi trường của thân chủ, và biết sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực đó. Nhân viên xã hội cùng làm với thân chủ chứ không đứng yên chỉ đạo hay
làm thay, làm thế cho thân chủ.
Điểm then chốt của lý thuyết này là ở chỗ nhân viên xã hội có niềm tin đối với
thân chủ của mình, rằng anh ta là người trung thực. Niềm tin này đặt trên một giả định là
không ai đi tìm sự giúp đỡ của các dịch vụ xã hội lại có thể nói dối. Xét đoán thân chủ là
người không trung thực chính là vi phạm giá trị của công tác xã hội.
Sử dụng lối tiếp cận này trong hoạt động hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về
giúp cho nhân viên xã hội ý thức rõ hơn việc phát huy tối đa khả năng của thân chủ,
góp phần tích cực cho sự thành công của việc tái hòa nhập.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Mua bán phụ nữ, trẻ em
Hiện tại có sự sử dụng đồng thời hai thuật ngữ “Buôn bán người” (được sử
dụng trong các văn bản pháp luật quốc tế) và “Mua bán người” (được sử dụng trong
các văn bản pháp luật Việt Nam).
Theo Nghi định thư Palermo bố sung Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia, khái niệm “Buôn bán người được hiểu như sau:
(a) “Buôn bán người” là việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp
hoặc nhân người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay đe dọa
sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa
gạt, hay lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc
đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người
đang kiểm soát những người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm ít nhất
việc bóc lột mại dâm hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các
15
hình thức lao động hay phục vụ cưỡng bức nô lệ hay những hình thức
tương tự nô lệ, khổ sai hoặc lấy đi bộ phận cơ thể.
(b) Việc một nạn nhân của buôn bán người chấp nhận sự bóc lột có chủ ý
được nêu tại khoản (a) trên đây sẽ không được tính đến nếu bất kỳ một
cách thức nào trong khoản (a) đã được sử dụng.

(c) Việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận một đứa
trẻ nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là “buôn bán người” ngay cả khi việc
này được thực hiện không cần dùng tới bất cứ hình thức nào được nói
đến trong khoản (a) điều này;
(d) “Trẻ em” có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi.
Trong luật pháp Việt Nam hiện chưa có một khái niệm chính thức về mua
bán người. Tuy nhiên trong Nghị định số 62/2012/NĐ-CP về căn cứ xác định nạn
nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân và người thân thích của họ, mua
bán người được hiểu là viêc “coi người như một loại hàng hóa để trao đổi bằng
tiền và lợi ích vật chất khác”
Như vậy, các yếu tố cấu thành trong việc mua bán người lớn hay trẻ em đều
giống nhau, bao gồm:
• Đối tượng bị mua bán: bao gồm cả người lớn và trẻ em, cả nam và nữ
• Hành vi: thực hiện hành vi mua bán (dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác
để đổi lấy người)
• Phương thức: không tính tới
• Mục đích: không phải yếu tố bắt buộc
Độ tuổi của nạn nhân chỉ có ý nghĩa xác định mức độ nghiêm trọng của tội
phạm. Nếu nạn nhân chưa đủ 16 tuổi, thì kẻ phạm tội sẽ bị xử với khung hình phạt
nặng hơn theo khung hình phạt Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.
1.2.2. Công tác xã hội
Theo Hiệp hội Quốc gia Nhân viên CTXH của Mỹ (NASW): “CTXH là hoạt
động nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm nâng cao
hay khôi phục tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo ra
các điều kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của họ.”
16
Cũng với cách tiếp cận trên, TS Bùi Thị Xuân Mai trong giáo trình “Nhập
môn công tác xã hội”, đã đưa ra khái niệm “CTXH là một nghề, một hoạt động
chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng
lực, đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi

trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và
cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh
xã hội.” [5, tr.63]
Như vậy, đối tượng tiếp cận của công tác xã hội là cá nhân, nhóm, gia đình
hay cộng đồng gặp những vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Về phương diện cá
nhân, họ có thể là những đối tượng xã hội như người già cô đơn không nơi nương
tựa, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nạn nhân của bạo lực gia đình, người
khuyết tật… Trong khuôn khổ đề tài này, đối tượng tác động của công tác xã hội là
phụ nữ trẻ em bị mua bán trở về.
1.2.3. Nhà tạm lánh
Nhà tạm lánh (shelter), theo Từ điển Oxford, “là một nơi cung cấp sự bảo vệ
tạm thời khỏi thời tiết xấu hoặc nguy hiểm” (a place giving temporary protection
from bad weather or danger).
Theo Trung tâm thông tin cộng đồng (Community Resources Information,
Inc.) Hoa Kỳ, Mái ấm gia đình (Family shelter) là nơi cung cấp chỗ ở khẩn cấp tạm
thời đối với phụ nữ mang thai và cho gia đình có trẻ em. Người được phép lưu trú
trong những nơi trú ẩn cho đến khi họ có thể tìm thấy nhà kiên cố an toàn. Mái ấm
gia đình thường mở cửa 24 giờ một ngày và cung cấp một loạt các dịch vụ hỗ trợ.
Hay, Nhà tạm lánh cho thanh thiếu niên bỏ nhà và vô gia cư (Shelter for runaway
and homeless adolescents) cung cấp chỗ ở khẩn cấp và dịch vụ hỗ trợ cho thanh
niên, những người không thể sống ở nhà và cần sự giúp đỡ. Tại đây, các thanh niên
này được cung cấp một loạt các dịch vụ, từ tư vấn, giáo dục cho tới các chương
trình trị liệu với những vấn đề nghiêm trọng…
Tại Việt Nam, Ngôi nhà Bình yên là mô hình nhà tạm lánh đầu tiên được
thành lập nhằm cung cấp chỗ ăn ở an toàn dài hạn cho phụ nữ và trẻ em yếu thế,
17
thiệt thòi là nạn nhân bị mua bán trở về và nạn nhân bị bạo lực gia đình. Phụ nữ và
trẻ em bị mua bán trở về có thể sống tại nhà tạm lánh tối đa là 18 tháng. Đối với
phần lớn các phụ nữ đến với nhà tạm lánh, thì đây là lần đầu tiên sau một thời gian
dài họ được sống trong một môi trường không có bạo lực và lạm dụng. Ngôi nhà

Bình yên đồng thời cũng cung cấp hàng loạt các dịch vụ hỗ trợ để các thân chủ
phục hồi và nâng cao năng lực bản thân phục vụ cho quá trình tái hòa nhập.
1.2.4. Trao quyền
“Trao quyền là tiến trình trợ giúp cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng
hướng đến gia tăng những điểm mạnh cá nhân, liên cá nhân, kinh tế, chính trị và tạo
những ảnh hưởng để thay đổi bối cảnh sống” [26].
Như vậy, trao quyền hướng đến giúp các thân chủ đạt được quyền ra quyết
định và hành động thông qua cuộc sống của họ bằng việc làm giảm đi những tác
động về những giới hạn/hạn chế của cá nhân hoặc xã hội trong việc thực hiện quyền
lực hiện hữu, qua việc gia tăng khả năng và sự tự tin nhằm sử dụng quyền lực và
chuyển đổi quyền lực từ môi trường đến với thân chủ.
Việc trao quyền cho phụ nữ và trẻ em bị mua bán trở về là hết sức cần thiết.
Thông qua trao quyền, thân chủ sẽ trở nên tự tin hơn, trân trọng giá trị bản thân
mình hơn và kiểm soát cuộc sống của họ tốt hơn. Trao quyền tại Ngôi nhà Bình yên
được thực hiện thông qua việc đào tạo kĩ năng và các giá trị cuộc sống như học cách
giải quyết các yêu cầu công việc hàng ngày, công việc gia đình như đi chợ, nấu
nướng, dọn dẹp, kỹ năng quản lý tài chính… Qua đó, thân chủ có khả năng tự làm
chủ cuộc sống của mình.
1.3. Các văn bản pháp luật liên quan đến mua bán phụ nữ và trẻ em
1.3.1. Luật pháp quốc tế
Mua bán phụ nữ, trẻ em là vấn nạn tồn tại từ lâu trong đời sống xã hội mà
nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ sự bất bình đẳng giới. Cùng với sự lớn mạnh của
các phong trào nữ quyền, vấn đề mua bán phụ nữ lần đầu tiên được nhắc đến trong
một văn bản pháp luật quốc tế vào năm 1979, “Công ước về xóa bỏ các hình thức
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ”. Công ước kêu gọi “các quốc gia thành viên phải
18
tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp kể cả về pháp luật để xóa bỏ mọi hình thức
buôn bán và bóc lột mại dâm phụ nữ” [4;31]. Mặc dù chỉ được đề cập một cách sơ
sài như vậy trong điều 6, Phần I của Công ước, nhưng đây là tiếng nói phản đối đầu
tiên của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề này.

Tiếp sau đó, trong Công ước Quyền trẻ em (1989) và Nghị định thư bổ sung
Công ước quốc tế về quyền trẻ em, buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa
phẩm khiêu dâm trẻ em (2000) đã đưa ra yêu cầu các quốc gia cần thúc đẩy các hoạt
động chống lại mua bán trẻ em.
Tuy nhiên, phải đến khi công ước của Liên hiệp quốc về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia hiệu lực và Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn át tội
phạm mua bán người, đặc biệt là phụ nữ trẻ em (2000) thì hành động chống lại nạn
mua bán người mới được đặt ra một cách cụ thể và được đưa lên thành vấn đề toàn
cầu. Nghị định thư nêu rõ hành động hiệu quả để phòng ngừa và đấu tranh chống
nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đòi hỏi một cách tiếp cận quốc tế
toàn diện tại các nước gốc, nước quá cảnh và nước đến, trong đó bao gồm cả những
biện pháp để phòng ngừa, trừng trị bọn buôn bán người và bảo vệ nạn nhân, bao
gồm cả việc bảo vệ những quyền con người của họ được quốc tế công nhận.
Bằng việc đưa nạn mua bán người lên thành vấn đề toàn cầu, tổ chức Liên hiệp
quốc kêu gọi các nước thúc đẩy hợp tác đa phương, song phương để có các biện
pháp cụ thể và hiệu quả cho từng quốc gia, khu vực trong vấn đề phòng chống mua
bán người.
Là một trong những điểm nóng của nạn buôn bán người, ASEAN cũng đã đưa
ra tuyên bố chung về Phòng chống mua bán người, đặc biệt là mua bán phụ nữ và
trẻ em (1998). Trong tuyên bố này, Asean nhấn mạnh nhu cầu cấp bách của khu vực
trong việc phòng chống mua bán người cũng như khẳng định các nhân tố kinh tế xã
hội và các nhân tố khác khiến người dân phải di cư dễ làm họ trở thành nạn nhân
của mua bán người. Qua đó, Hiệp hội cũng kêu gọi các quốc gia cùng nhau nỗ lực
phòng, chống mua bán người.
1.3.2. Luật pháp Việt Nam
19
Trước thực trạng nạn mua bán phụ nữ trẻ em ngày càng diễn biến phức tạp
và có dấu hiệu gia tăng, Việt Nam thể hiện cam kết mạnh mẽ bằng việc tham gia
tuyên bố chung của Asean, phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về chống tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội

phạm buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Đồng thời, chúng ta ký kết các
thỏa thuận đa phương, song phương (Văn kiện ghi nhớ và kế hoạch hành động 6
nước tiểu vùng sông Mekong; Hiệp định song phương với Campuchia (2005); Hiệp
định Việt Nam- Thái Lan (2008) và Hiệp định Việt Nam – Trung Quốc (2010)…),
nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm mua bán người và hỗ trợ nạn nhân
bị mua bán trở về.
Đảng và Nhà nước đã sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật để tạo nên
một khung pháp lý tương đối toàn diện, bao gồm các qui định pháp luật mang tính
phòng ngừa và các qui định về bảo vệ nạn nhân, hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng
đồng.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28
tháng 11 năm 2013. Trong đó, điều 20 của Hiến pháp đã quy định: “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự
và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức
đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Như vậy, mọi công dân Việt Nam trong đó có phụ nữ và trẻ em được Nhà nước bảo
hộ về tính mạng, danh dự và nhân phẩm. Quy định này chính là nền tảng pháp lý
chống lại các hành vi xâm hại đến con người, danh dự, nhân phẩm phụ nữ nói
chung và mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng.
Thể chế các quy định của Hiến pháp, có nhiều văn bản luật như Luật Hôn
nhân và gia đình, Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Luật Bình đẳng giới, Bộ Luật
Hình sự v.v đã đưa ra các quy định và mức hình phạt cụ thể cho các hành vi liên
quan đến hoạt động mua bán phụ nữ, trẻ em.
20
Tại điều 6, Luật Hôn nhân và Gia đình (2000) có đề cập đến việc nhận con
nuôi, luật quy định “nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao
động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác”. Các quy
định liên quan đến thủ tục cho, nhận con nuôi (từ Điều 68 đến 77) đều được Luật
quy định rất chặt chẽ nhằm bảo đảm cho việc nuôi con nuôi được thực hiện đúng

mục đích. Nếu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về vấn đề này nghi ngờ về mục
đích, động cơ của việc nuôi con nuôi thì có thể không cho phép việc nhận nuôi con
nuôi. Trong thực tế, nhiều đối tượng mua bán trẻ em đã lợi dụng việc cho và nhận
con nuôi để thực hiện các hành vi tội ác. Vì vậy, quy định này là hết sức cần thiết để
phòng ngừa các hành vi tội phạm của chúng tiếp diễn sau việc nhận nuôi con nuôi.
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 nhấn mạnh đến việc bảo
vệ trẻ em khỏi các nguy cơ trở thành nạn nhân bị lạm dụng tình dục, sức lao động,
bị bắt cóc, buôn bán… và nhiều điều khoản quy định trực tiếp đến việc chống mua
bán, xâm phạm quyền trẻ em (Điều 6, Điều 7). Luật còn dành một chương riêng quy
định về việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó bao gồm cả trẻ
em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em nghiện ma tuý, trẻ em vi phạm
pháp luật. Đây là những đối tượng có nguy cơ cao bị xâm hại, dễ trở thành nạn nhân
của tội phạm, trong đó có tội mua bán người, nếu không được sự quan tâm hỗ trợ
của gia đình, Nhà nước và xã hội. Có thể nói, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em là công cụ pháp lý hết sức quan trọng trong việc bảo vệ trẻ em khỏi các nguy cơ
bị xâm phạm, lạm dụng nói chung và khỏi các nguy cơ trở thành nạn nhân bị buôn
bán nói riêng.
Bộ Luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được Quốc hội
thông qua ngày 21/12/1999) có nhiều điều liên quan đến việc phòng chống mua bán
phụ nữ, trẻ em như điều 111 (tội hiếp dâm), điều 112 (tội hiếp dâm trẻ em), điều 113
(tội cưỡng dâm), điều 114 (tội cưỡng dâm trẻ em), điều 115 (tội giao cấu với trẻ
em), điều 245 (tội chứa mại dâm), điều 255 (tội môi giới mại dâm), điều 256 (tội
mua dâm người chưa thành niên), điều 116 (tội dâm ô với trẻ em), điều 119 (tội mua
bán phụ nữ), điều 120 (tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em), Bộ Luật
21
Hình sự đã thể hiện rõ tính kiên quyết trong đấu tranh chống các loại tội phạm, quy
định khá chi tiết và cụ thể mức độ hình phạt đối với các hành vi phạm tội, không chỉ
nhằm trừng trị tội phạm mà còn có tác dụng giáo dục phòng ngừa cao. Đặc biệt
hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em đã được qui định cụ thể trong điều 119, 120 Bộ
Luật Hình sự sửa đổi, bổ sung.

Bên cạnh các văn bản luật quy định trực tiếp những vấn đề liên quan đến
mua bán phụ nữ, Việt Nam cũng đã có các văn bản luật đưa ra những quy định gián
tiếp nhằm ngăn chặn, phòng ngừa tệ mua bán người. Luật Người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định: “nghiêm cấm lợi dụng hoạt động
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài để tổ chức đưa công dân Việt Nam ra
nước ngoài cũng như đưa người lao động đi làm việc ở khu vực, ngành, nghề và
công việc bị cấm theo quy định của Chính phủ hoặc không được nước tiếp nhận
cho phép”. Hiện nay, Nhà nước đang khuyến khích các hoạt động nhằm mở rộng
thị trường, tìm đối tác, hợp đồng để tạo điều kiện cho người lao động đi làm việc ở
nước ngoài. Tuy nhiên, hoạt động này cũng dễ bị lợi dụng để tổ chức đưa người
Việt Nam di cư bất hợp pháp, bóc lột sức lao động của người lao động, mua bán
phụ nữ trẻ em.
Không chỉ đưa ra những quy định chung về vấn đề này, hoạt động liên quan
đến phòng ngừa mua bán phụ nữ trẻ em cũng được các văn bản luật đưa ra các chế
tài cụ thể cho từng hành vi phạm tội. Mua bán phụ nữ trẻ em là loại tội phạm xâm
hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm con người. Vì vậy, các chế tài
hình sự đối với loại tội phạm này được quy định trong Bộ Luật Hình sự rất nghiêm
khắc. Có 2 điều luật quy định các chế tài cụ thể áp dụng đối với hành vi này là điều
119 (Tội mua bán phụ nữ) và điều 120 (Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ
em). Trong đó, hình phạt chính đối với tội mua bán phụ nữ tối thiểu 2 năm tù, tối đa
20 năm tù và hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu, phạt quản chế
hoặc cấm cư trú từ 1 đến 5 năm. Hình phạt chính đối với tội mua bán trẻ em tối
thiểu 3 năm tù, tối đa tù chung thân và hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5 triệu đến
50 triệu, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định hoặc
22
phạt quản chế từ 1 đến 5 năm. Về chế tài dân sự, hành chính, pháp luật dân sự
không có quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi
mua bán người, nhưng theo nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại, thì người nào
có lỗi trong việc xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, các quyền và lợi ích của nguời khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Theo

đó, bất cứ người nào có hành vi mua bán phụ nữ trẻ em hoặc các hành vi liên quan
gây thiệt hại cho nạn nhân, thì ngoài việc bị áp dụng các chế tài xử lý theo quy định
của pháp luật còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nạn nhân và chế tài
xử phạt hành chính là phạt cảnh cáo, phạt tiền, tước giấy phép hành nghề, tịch thu
tang vật, phương tiện vi phạm, trục xuất… được áp dụng đối với hành vi vi phạm
liên quan đến mua bán người chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, pháp luật không chỉ quy định trách nhiệm pháp lý đối với cá nhân
mà còn quy định trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức (pháp nhân) vì đôi khi những
kẻ mua bán phụ nữ trẻ em hành động thông qua hoạt động của các tổ chức hoặc cơ
sở kinh doanh, dịch vụ như: công ty du lịch, trung tâm môi giới hôn nhân, quầy
rượu, nhà hàng, văn phòng giới thiệu việc làm… Trong những trường hợp như vậy,
việc truy tố các cá nhân liên quan có thể là không đủ để chấm dứt việc mua bán
người vì hoạt động này có thể được người khác tiếp tục thực hiện. Tùy từng mức độ
vi phạm pháp nhân có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, tước giấy phép hoạt động
hoặc chứng chỉ hành nghề, tịch thu công cụ, phương tiện hoặc tịch thu các khoản lợi
có được từ việc mua bán phụ nữ trẻ em để đền bù cho các nạn nhân bị buôn bán.
Tuy nhiên buôn bán người đặc biệt là buôn bán phụ nữ và trẻ em là một hoạt
động siêu lợi nhuận nên dù pháp luật đã có những biện pháp phòng ngừa nhưng tình
hình mua bán phụ nữ và trẻ em diễn ra ngày một tinh vi, đòi hỏi phải có một văn
bản luật với những quy định riêng dành cho tội phạm mua bán người.
Năm 2012, Luật phòng, chống mua bán người được thông qua đã cho thấy
sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc thực hiện cam kết trấn áp tội phạm
mua bán người . Luật đã nêu các vấn đề về quy định các biện pháp phòng, chống
mua bán người; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng,
23
chống mua bán người; xác minh, tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán;
hợp tác quốc tế trong phòng chống mua bán người…
Đồng thời Luật cũng đề cập đến vấn đề tiếp nhận, xác minh nạn nhân từ
nước ngoài trở về, trong đó nêu rõ trách nhiệm của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự hoặc cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của

Việt Nam ở nước ngoài về việc tiếp nhận và xử lý thông tin, tài liệu về nạn nhân và
phối hợp với Bộ Công an trong việc xác minh nhân thân của nạn nhân, cấp giấy tờ
cần thiết, làm thủ tục đưa họ về nước; trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền của
Bộ Công an thực hiện việc tiếp nhận nạn nhân, nếu họ có nguyện vọng tự trở về nơi
cư trú, thì hỗ trợ tiền tàu xe, tiền ăn trong thời gian đi đường và hướng dẫn họ làm
thủ tục nhận các chế độ hỗ trợ quy định tại Điều 24 của Luật này. Trường hợp họ
không có nơi cư trú hoặc có nguyện vọng được lưu trú tại cơ sở bảo trợ xã hội hoặc
cơ sở hỗ trợ nạn nhân thì chuyển giao họ cho những cơ sở này. Công tác hỗ trợ nạn
nhân cũng được Luật đề cập đến (từ các điều 32 – 40 về hỗ trợ các nhu cầu thiết
yếu, hỗ trợ y tế, hỗ trợ tâm lý, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ học văn hóa, học nghề, trợ
cấp khó khăn ban đầu và hỗ trợ vay vốn).
Như vậy, theo pháp luật hiện hành, việc tái hòa nhập cộng đồng của nạn
nhân bị buôn bán được quy định như sau:
- Tất cả phụ nữ, trẻ em bị buôn bán khi trở về địa phương cư trú đều dược
hưởng các chế độ hỗ trợ, giáo dục để ổn định cuộc sống và tái hòa nhập
cộng đồng.
- Trợ giúp đối tượng trong việc làm chứng minh thư nhân dân, nhập hộ khẩu,
xóa mù chữ, làm giấy khai sinh cho trẻ em đi học, tùy từng đối tượng và khả
năng mà hỗ trợ đất đai canh tác, làm nhà ở…
- Tùy hoàn cảnh địa phương mà tổ chức các lớp dạy nghề cho phụ nữ, trẻ em
bị buôn bán trở về.
- Tạo việc làm cho đối tượng phù hợp với hoàn cảnh, hỗ trợ phụ nữ tiếp cận
các nguồn vốn vay.
24
- Trợ cấp cho nạn nhân trở về, hỗ trợ kinh phí hòa nhập cộng đồng, tư vấn
pháp luật, y tế, giáo dục, xã hội… cho nạn nhân.
- Đa dạng hoá các mô hình hỗ trợ nạn nhân tại cộng đồng. Luật đã đề cập đến
việc thành lập các cơ sở hỗ trợ của tổ chức cá nhân Việt Nam, tạo điều kiện
xã hội hóa hoạt động hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về.
Đồng thời với việc ban hành các văn bản pháp luật, Thủ tướng chính phủ đã

ban hành Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán người với
những mục tiêu và đề án cụ thể. Giai đoạn 2004-2010 mục tiêu đưa ra là“Làm
chuyển biến nhận thức và hành động trong các ngành, đoàn thể và toàn xã hội
trong đấu tranh chống BBN nhằm ngăn chặn và giảm cơ bản vào năm 2010 tình
trạng phụ nữ, trẻ em bị buôn bán”. Giai đoạn 2011- 2015 nhấn mạnh “Tạo sự
chuyển biến cơ bản về nhận thức và hành động trong toàn xã hội về phòng, chống
tội phạm mua bán người nhằm giảm các nguy cơ, tội phạm liên quan đến mua bán
người và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về”.
Có thể nói, hiện nay Việt Nam đã có được khung pháp luật phòng chống mua
bán người tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, vấn đề phòng, chống mua bán người,
đặc biệt là công tác tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân trở về không chỉ là trách nhiệm của
riêng nhà nước, riêng các cấp chính quyền hay các ban ngành liên quan mà nó cần
sự tham gia đóng góp của các tổ chức và của cả cộng đồng.
1.4. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Ngôi nhà Bình yên được thành lập tại Hà Nội và đi vào hoạt động từ tháng 3
năm 2007, dưới sự quản lý của Trung tâm Phụ nữ và Phát triển trực thuộc Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam. Nhiều phụ nữ từ khắp nơi trên đất nước về tạm trú ở đây
trong quá trình hồi phục sau khi là nạn nhân của bạo lực gia đình và buôn bán
người.
Được thành lập như một mô hình can thiệp toàn diện, Ngôi nhà Bình yên
không chỉ là nơi tạm trú trong trường hợp khẩn cấp cho phụ nữ và trẻ em, mà còn
không ngừng cung cấp các dịch vụ nhằm hỗ trợ quá trình hồi phục và tái hòa nhập
cho các đối tượng này. Hầu hết những phụ nữ đến với nhà tạm lánh đều có trình độ
25

×