Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Đánh giá sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ bảo hiểm tại bảo hiểm xã hội huyện vĩnh linh, tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.1 KB, 107 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

TRẦN ANH DŨNG

1


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là tổng hợp kết quả của quá trình học tập và nghiên cứu ở nhà
trường kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình công tác và sự nỗ lực cố gắng
của bản thân.
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới quý
Thầy giáo, Cô giáo và các cán bộ viên chức Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế
đã nhiệt tình giúp đỡ, hỗ trợ cho tôi. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
Thầy giáo - PGS.TS. Nguyễn Văn Phát là người trực tiếp hướng dẫn luận văn khoa
học kinh tế. Thầy đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận
văn.
Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn đến lãnh đạo Cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện
Vĩnh Linh, và các anh chị em đồng nghiệp đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong việc cung cấp số liệu, thu thập thông tin và tìm hiểu tình hình thực tế.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn và những tình cảm yêu mến nhất
đến gia đình, những người thân của tôi đã tạo điều kiện, động viên tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tuy đã có sự nỗ lực, cố gắng nhưng luận văn không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý Thầy, Cô và
đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn !


Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Tác giả luận văn

TRẦN ANH DŨNG

2


TÓM LƯỢC LUẬN VĂN
Họ và tên học viên: TRẦN ANH DŨNG
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

Niên khoá:

2014-

2016
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN PHÁT
Tên đề tài: ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LÒNG CỦA KHÁCH HÀNG ĐỐI VỚI DỊCH VỤ
BẢO HIỂM TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI HUYỆN VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là hoạt động mang tính
chia sẻ cao, trên nguyên tắc lấy số đông bù số ít, lấy lúc trẻ bù lúc già, lấy lúc khỏe
bù lúc ốm, lấy lúc thuận lợi bù lúc khó khăn. Để ngày càng nhiều người tham gia
BHXH, BHYT và đạt mục tiêu đến năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động
tham gia bảo hiểm thất nghiệp, có khoảng 35% lực lượng lao động tham gia bảo
hiểm thất nghiệp trên 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế thì một trong những yêu
cầu quan trọng đó là thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Việc thỏa mãn khách hàng
trở thành một tài sản quan trọng đối với các cơ quan và tổ chức trong nỗ lực nâng
cao chất lượng hoạt động, giữ vững sự niềm tin, nâng cao uy tín, vị thế của đơn vị.

Với ý nghĩa đó, Tôi chọn đề tài “Đánh giá sự hài lòng của khách hàng đối với
dịch vụ bảo hiểm tại Bảo hiểm xã hội huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị” làm đề tài
nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện việc thu thập số liệu từ các cơ quan chuyên môn trên địa
bàn huyện, điều tra đối tượng có tham gia giao dịch bảo hiểm xã hội trên địa bàn
huyện Vĩnh Linh để phân tích, đánh giá các vấn đề liên quan đến dịch vụ bảo hiểm.
Sử dụng phương pháp phân tổ thống kê, phương pháp phân tích, sử dụng phần mềm
excel và phần mềm thống kê SPSS để xử lý số liệu.
3. Kết quả nghiên cứu của luận văn
Chất lượng dịch vụ bảo hiểm tại BHXH huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị mà
luận văn đưa ra có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, điều hành quản lý
cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm hiện nay, góp phần phát triển dịch
vụ bảo hiểm và thỏa mãn khách hàng trên địa bàn huyện thời gian tới.

3


MỤC LỤC

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
BH

Bảo hiểm

BHTN


Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

CSVC

Cơ sở vật chất

DC

Sự đồng cảm của nhân viên

DN

Doanh nghiệp

HL

Hài lòng

KH

Khách hàng


NLNV

Năng lực nhân viên

QTTT

Quy trình thủ tục dịch vụ

TC

Độ tin cậy

TDPV

Thái độ phục vụ

UBND

Ủy ban nhân dân

5


DANH MỤC CÁC BẢNG

6


DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ


7


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp
(BHTN) là những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là trụ cột chính của hệ
thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn
định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, công tác
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đã đạt được những thành tựu
quan trọng, góp phần ổn định đời sống của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từng bước được
hoàn thiện phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; số người tham gia
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tăng qua các năm; thực hiện việc chi trả lương hưu
và các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật; quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm y tế ngày càng được mở rộng. Hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội
Việt Nam được hình thành và phát triển, cơ bản đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện
các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, công tác bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn một số hạn chế, yếu kém.
Diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn thấp. Tình
trạng doanh nghiệp nợ và trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp còn nhiều. Một trong những nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên
là do hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp chưa được hiện
đại hóa và còn thiếu chuyên nghiệp.
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là hoạt động mang tính chia sẻ cao, trên
nguyên tắc lấy số đông bù số ít, lấy lúc trẻ bù lúc già, lấy lúc khỏe bù lúc ốm, lấy
lúc thuận lợi bù lúc khó khăn. Để ngày càng nhiều người tham gia BHXH, BHYT,
BHTN và đạt mục tiêu đến năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia
BHXH, trên 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế, 35% lực lượng lao động tham gia
BHTN thì một trong những yêu cầu quan trọng đó là thỏa mãn nhu cầu của khách

hàng. Việc thỏa mãn khách hàng trở thành một tài sản quan trọng đối với các cơ
quan và tổ chức trong nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động, giữ vững sự niềm tin,
nâng cao uy tín, vị thế của đơn vị.

8


Với ý nghĩa đó, Tôi chọn đề tài “Đánh giá sự hài lòng của khách hàng đối với
dịch vụ bảo hiểm tại Bảo hiểm xã hội huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị” làm đề tài
nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng mức độ hài lòng của khách hàng
tại Bảo hiểm xã hội huyện Vĩnh Linh, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng dịch vụ của ngành Bảo hiểm xã hội nói chung và Bảo hiểm xã hội huyện
Vĩnh Linh nói riêng.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự hài lòng của khách
hàng đối với dịch vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
- Phân tích và đánh giá thực trạng mức độ hài lòng của khách đối với dịch vụ
bảo hiểm tại Bảo hiểm xã hội huyện Vĩnh Linh.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách
hàng tại BHXH huyện Vĩnh Linh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vần đề liên quan đến dịch vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp; Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng tại Bảo
hiểm xã hội huyện Vĩnh Linh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Bảo hiểm xã hội huyện Vĩnh Linh.

- Về thời gian: Số liệu thứ cấp được thu thập từ năm 2011 đến năm 2015 và
nguồn số liệu sơ cấp có được thu thập qua điều tra từ khách hàng trong năm 2015;
đề xuất giải pháp cho thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập thông tin
- Số liệu thứ cấp: Các số liệu và thông tin về tình hình hoạt động của Bảo
hiểm xã hội huyện được thu thập từ các báo cáo như: Báo cáo tổng kết cuối năm;

9


Báo cáo và biên bản quyết toán trên các lĩnh vực thu, chi, giải quyết chế độ chính
sách BHXH, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, giám định bảo hiểm y tế, tiếp nhận và giải
quyết hồ sơ; các thông tin, số liệu đã được công bố đăng tải trên sách báo, tạp chí và
nguồn thông tin phong phú trên mạng Internet.
- Số liệu sơ cấp:
Nghiên cứu sơ bộ được tiến hành bằng phương pháp định tính qua kỹ thuật
nghiên cứu qui định văn bản pháp luật, phỏng vấn trực tiếp chuyên viên, chuyên
gia trong lĩnh vực hành chính theo nội dung chuẩn bị trước.
Bước nghiên cứu này nhằm khám phá, hiệu chỉnh những nhân tố ảnh
hưởng đến sự hài lòng, cũng như những biến quan sát dùng trong đo lường các
nhân tố nghiên cứu trong mô hình. Qua đó xây dựng bảng câu hỏi chi tiết cho
nghiên cứu định lượng cũng như xây dựng mô hình nghiên cứu hợp lý với thực
tế hoạt động của bộ máy hành chính cung ứng dịch vụ công tại BHXH huyện
Vĩnh Linh. Bảng câu hỏi sẽ được tham khảo ý kiến của các chuyên gia quản lý
chất lượng dịch vụ và lãnh đạo đại diện quản lý chất lượng của BHXH huyện
Vĩnh Linh trước khi tiến hành nghiên cứu chính thức.
Nghiên cứu chính thức thực hiện bằng phương pháp định lượng thông qua
bản câu hỏi phỏng vấn. Mục đích nghiên cứu này nhằm đánh giá thang đo, xác
định tầm quan trọng của các yếu tố, đo lường mức độ hài lòng của khách hàng

cũng như để kiểm định giả thuyết.
* Xác định kích thước mẫu
Theo kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu trước cho rằng, nếu sử dụng
phương pháp ước lượng thì kích thước mẫu tối thiểu phải từ 100 đến 150 (Hair &
Ctg 1988). Theo Hair và Bollen (1989) thì kích thước mẫu tối thiểu là 5 mẫu cho 1
tham số ước lượng. Ngoài ra, theo Tabachnick & Fidell (1991), để phân tích hồi
quy đa biến đạt được kết quả tốt nhất, thì kích cỡ mẫu phải thỏa mãn công thức n ≥
8m + 50. Trong đó: n là kích cỡ mẫu – m là số biến độc lập của mô hình.
Căn cứ vào các kinh nghiệm chọn mẫu kể trên, kết hợp với thực tiễn của
nghiên cứu (với thang đo đánh giá sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ bảo hiểm

10


mà đề tài sử dụng, có tất cả 6 biến độc lập trong mô hình và 30 tiêu chí), nên số
lượng mẫu tối thiểu theo từng cách chọn mẫu kể trên là: 5*30 = 150 mẫu (Hair và
Bollen, 1989) và n ≥ 8*6 + 50 = 98 mẫu (Tabachnick & Fidell, 1991). Để đảm bảo
tính đại diện cao hơn của mẫu cho tổng thể, nghiên cứu lựa chọn cỡ mẫu khảo sát là
150 phiếu (phù hợp với Hair & Ctg, 1988). Tuy nhiên để đảm bảo số phiếu thu về
đạt yêu cầu, tổng số phiếu được phát ra là 186 phiếu.
Điều tra phỏng vấn trực tiếp đến những người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đang sinh sống và làm việc tại 22 xã, thị trấn trên
địa bàn huyện Vĩnh Linh.
* Phương pháp chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu được sử dụng là chọn mẫu
thuận tiện. Xuất phát từ đặc thù nghiên cứu có nhiều khó khăn trong việc tiếp cận đối
tượng khách hàng dựa trên danh sách có sẵn nên đây là phương pháp phù hợp nhất.
* Nội dung điều tra: Sử dụng phiếu điều tra khách hàng về mức độ hài lòng
của khách hàng đối với dịch vụ bảo hiểm tại Bảo hiểm xã hội huyện Vĩnh Linh với các
thuộc tính sau: Sự tin cậy, cơ sở vật chất, năng lực nhân viên, thái độ phục vụ, sự đồng
cảm của nhân viên, quy trình thủ tục hành chính . Người được thăm dò điều tra thu thập

thông tin có thể lựa chọn một trong năm phương án mà mình cho rằng đúng nhất: Rất
không hài lòng; Không hài lòng; Khá hài lòng; Hài lòng; Rất hài lòng.
4.2. Phương pháp tổng hợp và phân tích dữ liệu
* Xử lý số liệu: Áp dụng phần mềm SPSS và Excel.
* Phương pháp phân tích
- Phân tích nhân tố khám phá (EFA):
Phân tích nhân tố nhằm rút gọn một tập hợp gồm nhiều biến quan sát phụ
thuộc lẫn nhau thành một tập biến ít hơn (nhân tố) để chúng có ý nghĩa hơn
nhưng vẫn chứa đựng hầu hết nội dung thông tin của tập biến ban đầu (Hair và
cộng sự, 1998). Phân tích nhân tố khám phá được cho là phù hợp khi các tiêu
chuẩn sau đây được thỏa mãn điều kiện:
Tiêu chuẩn quan trọng đối với Factor Loading lớn nhất cần được quan tâm:
Theo Hair và cộng sự (1998), Factor loading là chỉ tiêu đảm bảo mức ý
nghĩa của EFA. Factor loading lớn hơn 0,3 là tối thiểu, lớn hơn 0,4 được xem là quan

11


trọng, lớn hơn 0,5 được xem là có ý nghĩa thiết thực. Factor loading lớn nhất của các biến
quan sát phải lớn nhất của các biến quan sát phải lớn hơn hoặc bằng 0,5.
Kaiser-Meyer-Olkin (KMO) là chỉ số dùng để xem xét sự thích hợp của
EFA: 0,5≤KMO ≤ 1 thì phân tích nhân tố là thích hợp.
Jabnoun & Al-Tamimi (2003) tiêu chuẩn khác biệt hệ số tải nhân tố của một
biến quan sát giữa các nhân tố ≥ 0,3 để đảm bảo giá trị phân biệt giữa các nhân tố.
Kiểm định Bartlett’s test sphericity xem xét giả thuyết H : độ tương quan
0
giữa các biến quan sát bằng không trong tổng thể. Nếu kiểm định này có ý nghĩa
thống kê (Sig < 0,05) thì các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể
và bác bỏ giả thuyết H .
0

Phương sai trích (cumulative % of variance): phần trăm biến thiên của các biến
quan sát (hay dữ liệu) được giải thích bởi các nhân tố phải đảm bảo ≥ 50%.
Phương pháp trích hệ số được sử dụng là Principal Component Analysis
với phép xoay Varimax để tối thiểu hóa số lượng biến có hệ số lớn tại cùng một
nhân tố, và các nhân tố không có sự tương quan lẫn nhau.
Xác định

số nhân tố bằng phương pháp

dựa

vào

eigenvalue

(Determination based on eigenvalue): chỉ giữ lại những nhân tố có eigenvalue lớn
hơn 1 trong mô hình phân tích.
Sau khi phân tích EFA, các giả thuyết nghiên cứu được điều chỉnh lại theo các
nhân tố mới. Phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính bội sẽ được ứng dụng trong
việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự hài lòng của Khách hàng.
-

Phân tích hồi quy tuyến tính đa biến
Phân tích hồi qui đa biến: là một phương pháp được sử dụng dùng để phân
tích mối quan hệ giữa một biến phụ thuộc với nhiều biến độc lập. Phương
trình hồi qui tuyến tính đa biến có dạng:
Y = β + β X +β X +... +β X +e
i 0
1 1i 2 2i
p pi i

Mục đích của việc phân tích hồi qui đa biến là dự đóan mức độ của biến
phụ thuộc (với độ chính xác trong phạm vi giới hạn) khi biết trước giá trị của

12


biến độc lập. Theo (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc - 2008) các
tham số quan trọng trong phân tích hồi qui đa biến bao gồm:
Hệ số hồi qui riêng phần B : là hệ số đo lường sự thay đổi trong giá trị trung
k
bình Y khi X thay đổi một đơn vị, giữa các biến độc lập còn lại không đổi.
k
2
Hệ số xác định R điều chỉnh: Hệ số xác định tỉ lệ biến thiên của biến
phụ thuộc được giải thích bởi biến độc lập trong mô hình hồi qui. Đó cũng là
2
thông số đo lường độ thích hợp của đường hồi qui theo qui tắc R càng gần 1 thì
2
mô hình xây dựng càng thích hợp, R càng gần 0 mô hình càng kém phù hợp
2
với tập dữ liệu mẫu. Tuy nhiên, R có khuynh hướng là một ước lượng lạc quan
của thước đo sự phù hợp của mô hình đối với dữ liệu trong trường hợp có hơn
1 biến giải thích trong mô hình. Trong tình huốn này R

2

điều chỉnh (Adjusted

R square) được sử dụng để phản ánh sát hơn mức độ phù hợp của mô hình
2

tuyến tính đa biến vì nó không phụ thuộc vào độ lệch phóng đại của R .
Kiểm định F trong phân tích phương sai là một phép kiểm định giả thuyết
về độ phù hợp của mô hình tuyến tính tổng thể. Nếu giả thuyết H của kiểm định
o
F bị bác bỏ thì có thể kết luận mô hình hồi qui tuyến tính đa biến phù hợp với tập
dữ liệu và có thể sử dụng được.
Kiểm định In dependent-samples T-test, và kiểm định One way ANOVA
được dùng để xem xét ảnh hưởng của các biến liên quan đến đặc điểm cá nhân
người khảo sát đến mức độ hài lòng chung của Khách hàng và một số phân tích
khác.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề xuất, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo...Luận văn gồm ba phần chính:

13


Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về sự hài lòng của khách hàng
đối với dịch vụ bảo hiểm.
Chương 2: Đánh gía mức độ hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ bảo
hiểm tại Bảo hiểm xã hội huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao sự hài lòng của khách hàng đối
với dịch vụ bảo hiểm tại BHXH huyện Vĩnh Linh.

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHÊN CỨU
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỰ HÀI LÒNG
CỦA KHÁCH HÀNG ĐỐI VỚI DỊCH VỤ BẢO HIỂM
1.1. DỊCH VỤ VÀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM
1.1.1. Khái niệm về dịch vụ

Theo Tôn Thất Nguyễn Thiêm (2003, trang 38): “Dịch vụ là thực hiện những
gì doanh nghiệp đã hứa hẹn nhằm thiết lập, củng cố và mở rộng những mối quan hệ
đối tác lâu dài với khách hàng và thị trường. Và dịch vụ chỉ đạt chất lượng khi
khách hàng cảm nhận rõ ràng là việc thực hiện các hứa hẹn đó của doanh nghiệp
mang đến cho khách hàng giá trị gia tăng nhiều hơn các doanh nghiệp khác hoạt
động trong cùng lĩnh vực”.
Theo Lưu Văn Nghiêm (2008, trang 46): “Dịch vụ là một quá trình hoạt động
bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các mối quan hệ giữa người cung
cấp với khách hàng hoặc tài sản cuả khách hàng mà không có sự thay đổi quyền sở
hữu. Sản phẩm của dịch vụ có thể trong phạm vi hoặc vượt quá phạm vi của sản
phẩm vật chất” [3].
1.1.2. Đặc điểm dịch vụ
Các đặc trưng của dịch vụ thường được miêu tả với bốn đặc tính:
- Vô hình (intangibility),
- Không thể tách rời (inseparability),
- Không đồng nhất (heterogeneity),

14


- Dễ hỏng (perishability);
Chính những điều này tạo nên sự khác biệt của dịch vụ so với các sản
phẩm hữu hình và khó đánh giá được (Parasuraman, 1985). Các đặc trưng này có
thể được giải thích như sau:
Vô hình (intangibility). Khác với sản phẩm chế tạo là hữu hình, dịch vụ là
vô hình. Sản phẩm dịch vụ thuần túy là sự thực hiện. Khách hàng không thể
nhìn thấy, nếm, ngửi, nghe, cảm nhận hoặc tiếp xúc trước khi mua nó. Nó được
xem là sự thể hiện chứ không phải là một sự vật (Hoffman và Bateson, 2002).
Điều này có nghĩa dịch vụ là một tiến trình chứ không phải là một vật thể, là sự
thể hiện chứ không phải sự vật cụ thể, và được cảm nhận chứ không phải là

được tiêu dùng (Wallström, 2002).
Không thể tách rời (inseparability). Trong ngành dịch vụ, cung ứng
thường được thực hiện cùng lúc với tiêu thụ, ngược lại với các sự vật cụ thể là
được sản xuất trước tiên, và sau đó mới được cung cấp cho người tiêu dùng. Do
đó, nhà cung cấp khó che dấu lỗi hay những khiếm khuyết của dịch vụ vì không
có khoảng cách thời gian từ sản xuất tới tiêu thụ như sản phẩm hữu hình.
Không đồng nhất (Heterogeneity). Dịch vụ rất khó thực hiện một cách đồng
nhất và chính xác theo thời gian mà thường hay thay đổi tùy theo nhà cung cấp, khách
hàng, hay thời điểm, địa điểm thực hiện… Đặc tính này của dịch vụ làm cho khó tiêu
chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giống như là đối với sản phẩm chế tạo.
Dễ hỏng (Perishability). Dịch vụ không thể được cất giữ và tiêu thụ sau. Có thể
hiểu một cách khác là dịch vụ sẽ không tồn tại nếu không được “tiêu thụ” vào một thời
điểm xác định nào đó. Điều này chứng tỏ nhà cung cấp dịch vụ có khả năng kiểm soát
được sự bất thường của cung và cầu (Hoffman và Bateson, 2002).
1.1.3. Dịch vụ bảo hiểm
1.1.3.1. Khái niệm về bảo hiểm
Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của
các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm
là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội, bảo hiểm

15


không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số
lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là
công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất [5].
Thuật ngữ “Bảo hiểm xã hội” lần đầu tiên chính thức được sử dụng làm tiêu
đề cho một văn bản pháp luật 1935 ( luật bảo hiểm xã hội 1935 của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ), và thuật ngữ này xuất hiện trở lại trong một đạo luật được thông qua tại
New Zealand năm 1938, đến năm 1941, trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ

hai, thuật ngữ này được dùng trong hiến chương đại Tây Dương. Tổ chức Lao động
quốc tế nhanh chóng tiếp nhận thuật ngữ “ Bảo hiểm xã hội”. Đây là mốc quan trọng
giá trị của thuật ngữ này, một thuật ngữ diễn đạt đơn giản nhưng phản ánh được
nguyện vọng sâu sắc của nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Thuật ngữ “Bảo hiểm xã hội” được hiểu không giống nhau giữa các nước về
mức độ và phạm vi rộng hẹp của nó: Theo D.Pieters bảo hiểm xã hội được hiểu với tư
cách là một tổ chức được hình thành với mục đích tương trợ giữa người với người để
đối phó sự thiếu hụt thu nhập hoặc những tổn thất cụ thể khác. Theo Sinfield thì nghị
BHXH nên được định nghĩa là một cơ chế đảm bảo an toàn toàn diện cho con người
chống lại sự mất mát về vật chất. Theo Giancalo Pereno BHXH là một hệ thống bao
gồm các lợi ích dịch vụ đảm bảo cho công dân khi cần thiết.
- Từ giác độ pháp luật, BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động,
sử dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được sự tài trợ,
bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình họ
trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao
động theo quy định của pháp luật (hưu) hoặc chết.
- Theo quy định tại khoản 1 điều 3 của Luật BHXH số 58/2014/QH13, ngày
20 tháng 11 năm 2014, Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở
đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
- Từ giác độ tài chính: BHXH là cách thức chia sẻ rủi ro về tài chính giữa

16


những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
- Từ giác độ quản lý vĩ mô: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo
đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã
hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Để đối phó với các rủi ro, con người

đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như hậu quả của rủi ro gây
ra. Hiện nay, theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro có hai nhóm biện pháp đối
phó với rủi ro và hậu quả do rủi ro gây ra – đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi
ro và nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro.
+ Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi
ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng
để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
+ Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc
sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện
pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức là loại trừ cơ hội dẫn đến
tổn thất. Chẳng hạn. để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế đi lại,...
để tránh tai nạn lao động người ta chọn những nghề không nguy hiểm... Tránh
né rủi ro chỉ với nhũng rủi ro có thể tránh né được. Nhưng cuộc sống có rất
nhiều rủi ro bất ngờ không thể tránh né được.
+ Ngăn ngừa tổn thất - các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành
động nhằm làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ, để
giảm thiểu các tai nạn lao động người ta tổ chức các khóa học nâng cao chất lượng
các hoạt động đảm bảo an toàn lao động; đề phòng chống hỏa hoạn, người ta thực
hiện tốt phòng cháy chữa cháy...
+ Giảm thiểu tổn thất - người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các biện
pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, như khi có hỏa hoạn, để
giảm thiểu tổn thất người ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng được hay trong một
tai nạn giao thông, để làm giảm thiểu các thiệt hại về người và của người ta đưa
ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu và điều trị...
Mặc dù biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn hoặc

17


giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường hết được hiệu quả.

- Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro: bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro
và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục
đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro- đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất tự chấp nhận
khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự bảo hiểm. Có
rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro, tuy nhiên có thể phân
chia làm hai nhóm: Chấp nhận rủi ro thụ động và chấp nhận rủi ro chủ động. Trong
chấp nhận rủi ro thụ động, người ta gặp tổn thất không có sự chuẩn bị trước và có thể
phải vay mượn để khắc phục hậu quả tổn thất. Đối với chấp nhận rủi ro chủ động, người
ta lập ra quỹ dự trữ, dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro
gây ra. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu
hoặc nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất...
- Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức
mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia.
- Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ
chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với
thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để
người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.
- Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối
tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật này.
- Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người
lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm
việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
1.1.3.2. Đặc điểm của dịch vụ bảo hiểm
Dịch vụ bảo hiểm là loại hình dịch vụ công do cơ quan hành chính nhà nước
cung cấp phục vụ yêu cầu cụ thể của công dân và tổ chức dựa trên qui định của
pháp luật. Các công việc do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện nằm trong
phạm trù dịch vụ công, thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, trong mối


18


quan hệ này công dân thực hiện dịch vụ này không có quyền lựa chọn mà phải
nhận những dịch vụ bắt buộc do nhà nước quy định. Sản phẩm của dịch vụ
dưới dạng phổ biến là các loại văn bản mà tổ chức, cá nhân có nhu cầu được đáp
ứng. (Lê Chi Mai, 2006: trang 31)
Dịch vụ bảo hiểm do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện thông qua
2 chức năng cơ bản: Chức năng quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội và chức năng cung ứng dịch vụ công cho tổ chức và công dân.
Nói cách khác, “Dịch vụ bảo hiểm là những hoạt động phục vụ các quyền và
nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, do các cơ quan hành chính nhà
nước thực hiện dựa vào thẩm quyền hành chính pháp lý nhà nước” (Lê Chi Mai,
2006: trang 452). M ột số nước không dùng khái niệm dịch vụ bảo hiểm mà chỉ
sử dụng khái niệm “dịch vụ công” cho tất cả các loại dịch vụ, tuy nhiên các
nước này mặc nhiên thừa nhận các dịch vụ công do cơ quan hành chính nhà
nước cung ứng cho công dân và tổ chức.
Dịch vụ bảo hiểm có đặc trưng riêng, phân định nó với loại dịch vụ công
cộng khác:
Thứ nhất: Việc cung ứng dịch vụ bảo hiểm luôn gắn với thẩm quyền và
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước – mang tính quyền lực pháp lý –
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ có tính pháp lý của các tổ chức và công
dân như cấp các loại thẻ bảo hiểm y tế, sổ bảo hiểm xã hội, thu BHXH,
BHYT,BHTN, chi trả chế độ BHXH, BHYT, BHTN, giải quyết chính sách BHXH,
BHYT, giấy chứng nhận, xác nhận… Thẩm quyền hành chính pháp lý thể hiện
dưới hình thức các dịch vụ bảo hiểm nhằm giải quyết các quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, là hoạt động phục vụ công dân từ phía các cơ quan hành
chính nhà nước. Các hoạt động này không thể ủy quyền cho bất kỳ tổ chức nào
ngòai cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện và chỉ có hiệu lực khi được cơ
quan hành chính Nhà nước thực hiện mà thôi. Vì vậy, nhu cầu được cung ứng các

dịch vụ bảo hiểm của người dân (khách hàng) không phải là nhu cầu tự thân của
họ mà xuất phát từ các quy định có tính chất bắt buộc cùa Nhà nước. Nhà nước

19


bắt buộc và khuyến khích mọi người thực hiện các quy định này nhằm đảm bảo
trật tự và an toàn xã hội, thực hiện chức năng quản lý mọi mặt đời sống xã hội.
Thứ hai: Dịch vụ bảo hiểm nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước.
Dịch vụ bảo hiểm bản thân chúng không thuộc về chức năng quản lý nhà nước,
nhưng lại là hoạt động nhằm phục vụ cho chức năng quản lý nhà nước. Vì vậy,
hiện nay trong nghiên cứu khoa học pháp lý đã đặt ra vấn đề xung quanh việc tách
bạch chức năng hành chính và chức năng quản lý trong hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước.
Thứ ba: Dịch vụ bảo hiểm là những hoạt động không vụ lợi, chỉ thu phí và
lệ phí nộp ngân sách nhà nước (theo quy định chặt chẽ của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền). Nơi làm dịch vụ không trực tiếp hưởng lợi từ nguồn thu này.
Thứ tư: Mọi công dân và tổ chức đều có quyền bình đẳng trong việc tiếp
nhận và sử dụng các dịch vụ bảo hiểm với tư cách là đối tượng phục vụ của
chính quyền. Nhà nước có trách nhiệm và nghĩa vụ phục vụ công dân trên
nguyên tắc công bằng, bảo đảm sự ổn định, bình đẳng và hiệu quả của hoạt
động quản lý xã hội. Từ những đặc trưng cơ bản nêu trên, chúng ta dễ dàng nhận
diện các loại hình cơ bản của dịch vụ bảo hiểm như sau:
- Hoạt động cấp các loại sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế…
- Hoạt động cấp các loại giấy xác nhận, chứng thực quá trình tham gia BHXH,
BHYT, BHTN.
- Hoạt động thu BHXH, BHYT, BHTN.
- Hoạt động chi các chế độ BHXH, BHYT, BHTN.
- Hoạt động giải quyết các chế độ BHXH, BHYT, BHTN.
- Hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân và xử lý các vi phạm

hành chính.
Sản phẩm của các loại hình dịch vụ bảo hiểm nêu trên phát sinh nhiều loại
chứng từ giấy tờ hành chính. Chính chúng phản ánh kết quả cụ thể của các dịch
vụ bảo hiểm. để dể dàng quản lý và giải quyết thủ tục hành chính liên quan, các
dịch vụ bảo hiểm được phân loại như trên.

20


Trên cơ sở phân tích, so sánh dịch vụ bảo hiểm với hoạt động quản lý nhà
nước và với các loại dịch vụ công trong các lĩnh vực phục vụ lợi ích công cộng,
có thể thấy dịch vụ bảo hiểm là những hoạt động giải quyết những công việc cụ thể
liên quan đến các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân được
thực hiện dựa vào thẩm quyền hành chính – pháp lý của nhà nước.
1.1.3.3. Đối tượng tham gia bảo hiểm
 Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã
hội bắt buộc, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một
công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng
lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật
của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến
dưới 03 tháng;
c) Cán bộ, công chức, viên chức;
d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác
trong tổ chức cơ yếu;
đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm

công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
e) Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân
dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được
hưởng sinh hoạt phí;
g) Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
h) Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có

21


hưởng tiền lương;
i) Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
k) Người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy
phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy
định của Chính phủ.
l) Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác,
tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.
 Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện

Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15
tuổi trở lên, không thuộc diện áp dụng của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
 Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế

Nhóm do người lao động và người sử dụng lao động đóng, bao gồm:

a) Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn,
hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên; người lao động là người quản
lý doanh nghiệp hưởng tiền lương; cán bộ, công chức, viên chức (sau đây gọi chung
là người lao động);
b) Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy định
của pháp luật.
* Nhóm do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng, bao gồm:
a) Người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;
b) Người đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng do bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp hoặc mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày;
người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng;
c) Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã

22


hội hằng tháng;
d) Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp.
* Nhóm do ngân sách nhà nước đóng, bao gồm:
a) Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội đang tại
ngũ; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ và sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn, kỹ thuật
đang công tác trong lực lượng công an nhân dân, học viên công an nhân dân, hạ sỹ
quan, chiến sỹ phục vụ có thời hạn trong công an nhân dân; người làm công tác cơ
yếu hưởng lương như đối với quân nhân; học viên cơ yếu được hưởng chế độ, chính
sách theo chế độ, chính sách đối với học viên ở các trường quân đội, công an;
b) Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp hằng tháng từ
ngân sách nhà nước;
c) Người đã thôi hưởng trợ cấp mất sức lao động đang hưởng trợ cấp hằng
tháng từ ngân sách nhà nước;
d) Người có công với cách mạng, cựu chiến binh;

đ) Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đương nhiệm;
e) Trẻ em dưới 6 tuổi;
g) Người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng;
h) Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo;
i) Thân nhân của người có công với cách mạng là cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc
chồng, con của liệt sỹ; người có công nuôi dưỡng liệt sỹ;
k) Thân nhân của người có công với cách mạng, trừ các đối tượng quy định
tại điểm i khoản này;
l) Thân nhân của các đối tượng quy định tại điểm a khoản 3 Điều này;
m) Người đã hiến bộ phận cơ thể người theo quy định của pháp luật;
n) Người nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được cấp học bổng từ ngân
sách của Nhà nước Việt Nam.
Nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng, bao gồm:

23


a) Người thuộc hộ gia đình cận nghèo;
b) Học sinh, sinh viên.
Nhóm tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình gồm những người thuộc hộ gia
đình.
 Đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp

* Người lao động phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi làm việc theo hợp
đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc như sau:
- Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn;
- Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn;
- Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời

hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.
Trong trường hợp người lao động giao kết và đang thực hiện nhiều hợp đồng
lao động quy định tại khoản này thì người lao động và người sử dụng lao động của
hợp đồng lao động giao kết đầu tiên có trách nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
* Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ
hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng
làm việc hoặc hợp đồng lao động.
1.1.3.4. Nguyên tắc của bảo hiểm
 Nguyên tắc của bảo hiểm xã hội

Việc giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội dựa trên mức đóng, thời gian đóng
bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội. Mức
đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của người lao
động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập
tháng do người lao động lựa chọn. Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm
xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế
độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian

24


đóng bảo hiểm xã hội đã được tính hưởng bảo hiểm xã hội một lần thì không tính
vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội
được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch; được sử dụng đúng mục
đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần, các nhóm đối tượng thực hiện
chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và chế độ tiền lương do người sử dụng lao

động quyết định. Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện,
bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.
 Nguyên tắc bảo hiểm y tế

Bảo hiểm y tế hoạt động mang tính chia sẻ cao giữa những người tham gia
bảo hiểm y tế, lấy lúc khỏe bù cho lúc yếu, ốm đau, lấy người khỏe bù cho người
bệnh. Mức đóng bảo hiểm y tế được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương,
tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành
chính. Mức hưởng bảo hiểm y tế theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm
vi quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế. Chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế do quỹ bảo hiểm y tế và người tham gia bảo hiểm y tế cùng chi trả. Quỹ
bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm
cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ.
 Nguyên tắc bảo hiểm thất nghiệp

Giống như BHXH, BHYT thì bảo hiểm thất nghiệp cũng ảo đảm chia sẻ rủi ro
giữa những người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Mức đóng bảo hiểm thất nghiệp
được tính trên cơ sở tiền lương của người lao động. Mức hưởng bảo hiểm thất nghiệp
được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp. Việc thực hiện
bảo hiểm thất nghiệp phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ
quyền lợi của người tham gia. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp được quản lý tập trung, thống
nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm an toàn và được Nhà nước bảo hộ.
1.1.3.5. Các chế độ của bảo hiểm
 Chế độ đối với loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc
- Chế độ ốm đau: Người lao động bị ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc thì được
BHXH chi trả tiền trợ cấp ốm đau trong thời gian nghỉ ốm kể cả nghỉ việc để chăm
sóc con dưới 7 tuổi ốm, mức hưởng đối với chế độ ốm đau bằng 75% mức tiền

25



×