Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

Hoàn thiện công tác phân cấp nguồn thu và thực hiện nhiệm vụ chi NSNN trên địa bàn thành phố huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.48 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

DƯƠNG THỊ TRÚC QUỲNH

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN CẤP NGUỒN
THU VÀ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

HUẾ, 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Dương Thị Trúc Quỳnh

2


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là tổng hợp của quá trình học tập, nghiên cứu kết hợp với kinh
nghiệm thực tiễn trong quá trình công tác và sự nỗ lực cố gắng của bản thân.


Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới quý thầy
(cô) giáo, và các cán bộ công chức Trường Đại học Kinh tế Huế đã nhiệt tình giúp
đỡ, hỗ trợ cho tôi. Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS
Nguyễn Tài Phúc là người trực tiếp hướng dẫn khoa học luận văn của tôi. Thầy đã
dày công quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn đến lãnh đạo UBND thành phố Huế, các đồng
nghiệp, các Sở - Ban - Nghành, UBND các phường trên địa bàn thành phố đã tạo
điều kiện giúp đỡ để tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tuy đã có sự nỗ lực, cố gắng nhưng luận văn không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy (cô) bạn bè
để luận văn này được hoàn thiện hơn!
Xin chân thành cảm ơn!
Dương Thị Trúc Quỳnh

3


TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
Họ và tên học viên : DƯƠNG THỊ TRÚC QUỲNH
Chuyên ngành

: Quản trị kinh doanh

Niên khóa: 2013 - 2015

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN TÀI PHÚC
Tên đề tài: HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN CẤP NGUỒN THU VÀ
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HUẾ.
1. Tính cấp thiết của đề tài


Thực tiễn cho thấy cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách của
thành phố Huế hiện nay vẫn bộc lộ những mặt hạn chế cần được khắc phục. Một số
khoản thu phần lớn điều tiết cho cấp phường hưởng nhưng cấp phường chưa phát
huy hết việc khai thác triệt để nguồn thu trên địa bàn, dẫn đến thất thu. Một số
nhiệm vụ chi chưa được phân cấp đồng bộ….Mặt khác do chế độ chính sách thu
ngân sách thay đổi, một số nguồn thu của cấp huyện, cấp xã giảm đã ảnh hưởng đến
cân đối các khoản chi của cấp huyện, cấp xã. Để góp phần giải quyết những hạn
chế, tồn tại nêu trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài "Hoàn thiện công tác phân cấp
nguồn thu và thực hiện nhiệm vụ chi NSNN trên địa bàn thành phố Huế" cho
Luận văn Thạc sỹ của mình
2. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu định lượng, phương pháp thu thập số liệu và thông tin,
phương pháp phân tích, xử lý số liệu
3. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp khoa học của luận văn

Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về phân cấp nguồn thu và thực hiện
nhiệm vụ chi NSNNtrên địa bàn thành phố Huế;
Phân tích đánh giá thực trạng phân cấp nguồn thu và thực hiện nhiệm vụ chi
NSNN trên địa bàn thành phố Huế;
Đề xuất phương hướng, giải pháp để hoàn thiện công tácphân cấp nguồn thu và
thực hiện nhiệm vụ chi NSNN trên địa bàn thành phố Huế đến năm 2020.

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Thứ tự

1
2
3
4

Viết tắt
CB
CNVC
DN
DNNN

5

GDP

6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19


GTGT
HĐND
KH-ĐT
KT - XH
NN
NS
NSĐP
NSNN
NSTW
TNDN
TTĐB
TW
UBND
XDCB

Diễn giải
Cán bộ
Công nhân viên chức
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước
Tổng sản phẩm quốc nội
Gross domestic product
Giá trị gia tăng
Hội đồng Nhân dân
Kế hoạch - Đầu tư
Kinh tế - Xã hội
Nhà nước
Ngân sách
Ngân sách địa phương
Ngân sách Nhà nước

Ngân sách trung ương
Thu nhập doanh nghiệp
Tiêu thụ đặc biệt
Trung ương
Uỷ ban nhân dân
Xây dựng cơ bản

5


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG

6


DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi là một nội dung quan trọng trong cơ chế
phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, nhằm quản lý thống nhất hệ thống NSNN
bằng việc phân công trách nhiệm gắn với quyền hạn, phân cấp quản lý giữa các
ngành, các cấp trong việc thực hiện thu, chi NSNN đảm bảo mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi là yêu cầu khách quan, bởi mỗi quốc gia

đều có những vùng lãnh thổ khác nhau, mỗi địa phương đều có từng vùng miền
khác khau. Việc phân chia dân cư theo đơn vị hành chính, lãnh thổ, vùng miền, hình
thành các cấp hành chính là đặc trưng của Nhà nước. Do đó, để góp phần thúc đẩy
kinh tế - xã hội địa phương phát triển, cần thiết phải phân cấp quản lý NSNN, phân
cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương, là giải pháp quan
trọng vừa động viên được các nguồn thu tiềm tàng, vừa tạo cơ chế để các nguồn tài
chính được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng nhiệm
vụ của Nhà nước, vừa tạo quyền tự chủ cho các cấp chính quyền địa phương.
Nguồn thu ngân sách là có hạn, trong khi nhu cầu chi tiêu thì lớn, do vậy phân cấp
quản lý ngân sách đòi hỏi phải thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật về
NSNN.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân
sách của thành phố Huế hiện nay vẫn bộc lộ những mặt hạn chế cần được khắc
phục. Một số khoản thu phần lớn điều tiết cho cấp phường hưởng nhưng cấp
phường chưa phát huy hết việc khai thác triệt để nguồn thu trên địa bàn, dẫn đến
thất thu. Một số nhiệm vụ chi chưa được phân cấp đồng bộ….Mặt khác do chế độ
chính sách thu ngân sách thay đổi, một số nguồn thu của cấp huyện, cấp xã giảm đã
ảnh hưởng đến cân đối các khoản chi của cấp huyện, cấp xã. Để góp phần giải
quyết những hạn chế, tồn tại nêu trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài "Hoàn thiện
công tác phân cấp nguồn thu và thực hiện nhiệm vụ chi NSNN trên địa bàn
thành phố Huế" cho Luận văn Thạc sỹ của mình, với mong muốn tìm những tồn

8


tại, bất cập và kết quả đạt được từ đó đề xuất những định mức phân bổ ngân sách
trong thời kỳ ổn định 2015 – 2020, đảm bảo sự phân cấp NS thời kỳ ổn định mới
phù hợp với thực tiễn Kinh tế - xã hội của thành phố Huế trong tương lai.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi NSNN trên địa bàn
Thành phố Huế ; từ đó rút ra những tồn tại, bất cập và kết quả đạt được; đề xuất
những định mức phân bổ ngân sách trong thời kỳ ổn định 2016 - 2020.
Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá vấn đề lý luận về NSNN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi NSNN
trên địa bàn Thành phố Huế
- Những tồn tại, bất cập và kết quả đạt được trong việc thực hiện phân cấp
ngân sách trong giai đoạn 2012 – 2014 (Thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2015).
- Đề xuất định mức phân bổ ngân sách trong thời kỳ ổn định 2016 – 2020.
Xử lý số liệu: Phần mềm SPSS và EXCEL.
3. Đốı tượng và phạm vı nghıên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác phân cấp nguồn thu và thực hiện
nhiệm vụ chi NSNN trên địa bàn thành phố Huế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá phân cấp nguồn thu và thực hiện nhiệm
vụ chi NSNN thông qua thực trạng thu các loại thuế phân chia theo tỷ lệ % và việc
áp dụng định mức NSNN trong thời kỳ 2012-2014.
Về không gian
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành điều tra nghiên cứu
nhiều vấn đề liên quan đến công tác phân cấp nguồn thu và thực hiện nhiệm vụ chi
NSNN trên địa bàn thành phố Huế.

9


Về thời gian

Số liệu thứ cấp: đề tài nghiên cứu các số liệu liên quan đến lĩnh vực phân cấp
nguồn thu và thực hiện nhiệm vụ chi NSNN trong giai đoạn 2012-2014.
Số liệu sơ cấp: điều tra các vấn đề liên quan đến công tác phân cấp nguồn thu
và thực hiện nhiệm vụ chi NSNN, trên cơ sở đó đề xuất các định mức, và tỷ lệ thu
thuế trên địa bàn thành phố Huế giai đoạn 2016 - 2020.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp luận
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng làm
phương pháp luận cho nghiên cứu.
3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu
Việc tiến hành khảo sát điều tra thu thập số liệu phục vụ cho thực hiện luận
văn được tiến hành đồng thời ở hai cấp độ, có tính chất hỗ trợ và bổ sung cho nhau
trong quá trình nghiên cứu.
Số liệu thứ cấp:
- Xem xét các văn bản, chính sách, các báo cáo tổng kết của các cấp, các
ngành và các nguồn số liệu thống kê.
- Tổng quan các tư liệu hiện có về lĩnh vực phân cấp NSNN đã được đăng tải
trên các sách báo, tạp chí, các báo cáo tổng kết hội thảo, kết quả của các đợt điều tra
của các tổ chức, các cuộc trả lời phỏng vấn của các nhà khoa học, nhà quản lý, các
nhà hoạch định chính sách, các tài liệu đăng tải trên các phương tiện thông tin đại
chúng...
Số liệu sơ cấp:
- Tiến hành thu thập số liệu sơ cấp trên cơ sở tiến hành khảo sát thực tế ở các
Phòng, Ban, UBND các phường trực tiếp quản lý và thực hiện phân cấp NS trên địa
bàn thành phố Huế thông qua phiếu điều tra (có phụ lục kèm theo).
- Thực hiện thu thập số liệu sơ cấp thông qua phỏng vấn trực tiếp theo bảng
câu hỏi đã chuẩn bị từ trước. Đối tượng khảo sát được xác định theo phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên, với số lượng là 150 mẫu.

10



- Phương pháp tiến hành điều tra là tiếp cận trực tiếp các thành phần nêu
trên, sau khi mẫu điều tra đã được xác định với các đơn vị đã lựa chọn, tiến hành
nhập số liệu, tổng hợp, kiểm định, đưa ra kết quả nhận xét các thông tin theo phiếu
điều tra đã xây dựng (phần mềm SPSS).
3.3.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
+ Phân tích thống kê mô tả: được sử dụng nhằm làm sạch số liệu, phân tích
cơ cấu mẫu nghiên cứu, thống kê các chỉ tiêu cơ bản, so sánh, nghiên cứu đánh giá
tình hình thu chi NSNN trong giai đoạn 2012 – 2014.
+ Kiểm định độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach’s alpha:
Hệ số Cronbach’s Alpha là một phép kiểm định thống kê về mức độ chặt chẽ mà các
mục hỏi trong thang đo tương quan với nhau. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khi hệ
số này từ 0,8 trở lên gần đến 1 thì thang đo lường là tốt, từ 0,7 đến gần 0,8 là sử
dụng được. Cũng có nhiều nhà nghiên cứu đề nghị rằng hệ số Cronbach’s alpha từ
0,6 trở lên là có thể sự dụng được trong trường hợp khái niệm đang đo lường là mới
hoặc mới đối với người trả lời trong bối cảnh nghiên cứu. Trong nghiên cứu này
những biến quan sát có hệ số Cronbach’s alpha lớn hơn 0,6 thì được xem là đáng tin
cậy và có thể sử dụng được. Đồng thời, các biến có hệ số tương quan biến tổng
(item-total correclation) phải lớn hơn 0,3 những biến có hệ số này nhỏ hơn 0,3 được
coi là biến rác và bị loại.
+ Phân tích nhân tố khám phá (EFA):Phân tích nhân tố nhằm rút gọn một
tập hợp gồm nhiều biến quan sát phụ thuộc lẫn nhau thành một tập biến (còn gọi là
các nhân tố - Factor) ít hơn để chúng có ý nghĩa hơn nhưng vẫn chứa đựng hầu hết
nội dung thông tin của tập biến ban đầu (Hair & ctg, 1988). Dữ liệu sẽ được sử
dụng để phân tích nhân tố khám phá nếu thỏa mãn các điều kiện:
Thứ nhất, hệ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) lớn hơn hoặc bằng 0,5 và mức ý
nghĩa của kiểm định Bartllet nhỏ hơn mức ý nghĩa được chọn trong nghiên cứu.
Bên cạnh đó, trong phân tích nhân tố sử dụng đại lượng Bartlett (Bartlett’s
test of sphericity) để kiểm định giả thuyết Ho là các biến không có tương quan với

nhau trong tổng thể. Đại lượng này có giá trị càng lớn thì ta càng có nhiều khả năng

11


bác bỏ giả thuyết Ho này, thông thường mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett phải
nhỏ hơn hoặc bằng 0.05 thì phân tích nhân tố có khả năng thích hợp.
Thứ hai, hệ số tải nhân tố (Factor loading) lớn hơn 0,45. Nếu biến quan sát
nào có hệ số tải nhân tố nhỏ hơn 0,45 sẽ bị loại (Tabachnick & Fidell, 1989).
Thứ ba, thang đo được chấp nhận khi tổng phương sai trích lớn hơn 50% và
giá trị Eigenvalue lớn hơn 1(Gerbing & Anderson, 1988).
Thứ tư, khác biệt hệ số tải nhân tố của một biến quan sát giữa các nhân tố lớn
hơn 0,3 để đảm bảo giá trị phân biệt giữa các nhân tố.
Trong nghiên cứu này phương pháp trích Principal component với phép xoay
Varimax được sử dụng.
+ Hồi quy đa biến: Hồi quy đa biến được xây dựng để xác định mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố đến định mức phân bổ ngân sách. Mô hình hồi quy tổng quát
được viết như sau.
Yi =β0 + β1.F1i + β2.F2i + β3.F3i + ui
Trong đó Y là biến phụ thuộc
Trong đó :
- i là thứ tự mẫu điều tra ( i=1→n)
- ui là các sai số ngẫu nhiên có kỳ vọng bằng 0 phương sai hữu hạn
- β0… βn: là các hệ số hồi quy tương ứng
- F1i … Fni Công tác phổ biến về phân cấp ngân sách.
- Fi : Là các biến phụ thuộc
+ Kiểm định One-Samples T Test
Cách kiểm định : Đưa ra cặp giả thiết :
Ho : Giá trị trung bình bằng giá trị kiểm định
H1 : Giá trị trung bình khác giá trị kiểm định

Kết luận : - Nếu giá trị Sig(2-tailed) < α = 0,01 thì bác bỏ Ho có nghĩa giá trị
trung bình khác giá trị kiểm định với độ tin cậy 99%.
- Nếu giá trị 0,01 < Sig(2-tailed) < α = 0,05 thì bác bỏ Ho có nghĩa
giá trị trung bình khác giá trị kiểm định với độ tin cậy 95%.

12


- Nếu giá trị 0,05 < Sig(2-tailed) < α = 0,1 thì bác bỏ Ho có nghĩa
giá trị trung bình khác giá trị kiểm định với độ tin cậy 90%.
- Nếu giá trị Sig(2-tailed) > α = 0,1 chưa có cơ sở bác bỏ Ho hay
giá trị trung bình bằng giá trị kiểm định.
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận văn được
trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về ngân sách nhà nước và phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước.
Chương 2: Thực trạng phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN trên địabàn
thành phố Huế giai đoạn 2012 – 2014.
Chương 3: Giải pháp cơ bản hoàn thiện cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ
chi NSNN trên địa bàn thành phố Huế.

13


Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1.1.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một phạm trù kinh tế và là
phạm trù lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài chính.Thuật ngữ "Ngân sách
nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia.
Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra
nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực
nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các
khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Luật Ngân
sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
16/12/2002 định nghĩa: “Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của
Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và
được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của nhà nước”.
Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện
và phát triển của kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong các phương thức sản xuất của cộng
đồng và nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của nhà nước, sự
tồn tại của kinh tế hàng hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và
phát triển của ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm
ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân
dân.

14


Bên ngoài hoạt động của NSNN biểu hiện đa dạng dưới hình thức các khoản
thu và các khoản chi tài chính của Nhà nước ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã
hội. Các khoản thu, chi này được tổng hợp trong một bảng dự toán thu chi tài chính

được thể hiện trong 1 khoảng thời gian nhất định. Các khoản thu mang tính chất bắt
buộc của NSNN là một bộ phận các nguồn tài chính chủ yếu được tạo ra thông qua
việc phân phối thu nhập quốc dân được sáng tạo ra trong khu vực sản xuất kinh
doanh và các khoản chi chủ yếu của Ngân sách mang tính chất cấp phát phục vụ
cho đầu tư phát triển và tiêu dùng của xã hội. Như vậy, về hình thức có thể hiểu:
NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự toán, đã được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (Quốc hội) và được thực hiện trong một năm để
đảm bảo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Về nội dung, đằng sau hình thức biểu hiện ra bên ngoài của NSNN là một
quỹ tiền tệ với các khoản thu và các khoản chi của nó, NSNN là hệ thống các quan
hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo
lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng nhiệm
vụ của Nhà nước.
Vậy, về bản chất có thể xác định: NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát
sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của
Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm
thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
1.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Thứ nhất
Tạo lập và sử dụng NSNN gắn liền quyền lực với việc thực hiện các chức
năng của NN, đây cũng chính là điểm khác biệt giữa NSNN với các khoản tài chính
khác. Các khoản thu NSNN đều mang tính chất pháp lý, còn chi NSNN mang tính
cấp phát “không hoàn trả trực tiếp’’. Do nhu cầu chi tiêu của mình để thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội NN đã sử dụng để quy định hệ thống pháp luật tài chính,
buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho NN với
tư cách là một chủ thể.

15



Các hoạt động thu chi NSNN đều tiến hành theo cơ sở nhất định đó là các
luật thuế, chế độ thu chi…do NN ban hành, đồng thời các hoạt động luôn chịu sự
kiểm tra của các cơ quan NN.
Thực vậy khi NN ban hành một loại thuế mới hay sửa đổi phải được Quốc
hội thông qua ‘Ví dụ: luật thuế thu nhập DN đi vào thực hiện ngày 1/1/2004’. Theo
luật thuế mới này các DN chịu thuế suất 32% giảm 28% riêng DNNN trước đây
chịu 25% thì nay tăng 28% để chính sách thuế có hiệu lực, trước đó Quốc hội đã
họp thông qua ngày 17/6/2003 ‘Khóa XI’
Thứ hai
NSNN luôn gắn chặt với NN chứa đựng lợi ích chung và công, hoạt động thu
chi NSNN là thể hiện các mặt KT-XH của NN, dù dưới hình thức nào thực chất
cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa NN và xã hội thể hiện qua các
khoản cấp phát từ NSNN cho các mục đích tiêu dùng và đầu tư. Quan hệ kinh tế
giữa NN và xã hội dó đó thể hiện ở phạm vi rộng lớn.
Thứ ba
Cũng như các quỹ tiền tệ khác NSNN cũng có đặc điểm riêng của một quỹ
tiền tệ, nó là nguồn tài chính nên NSNN là giá trị thặng dư của xã hội do đó nó
mang đặc điểm khác biệt.
Thứ tư
Hoạt động thu của NSNN được thể hiện theo nguyên tắc không hoàn lại trực
tiếp đối với người có thu nhập cao nhằm mục đích rút ngắn khoảng cách giữa người
giàu và nghèo để thực hiện công bằng xã hội, ‘’Ví dụ: Xây dựng đường xá, an ninh
quốc phòng…, người nộp thuế được hưởng lợi gián tiếp thông qua hàng hóa tiêu
dùng hàng ngày, NN còn trợ cấp cho gia đình chính sách, thương binh…’’từ nguồn
thu được.
1.1.3. Chức năng của ngân sách nhà nước
Trong sự vận động và phát triển của đời sống kinh tế – xã hội, với những
diễn biến kinh tế, vai trò của nhà nước được thay đổi, thì chức năng của ngân sách
nhà nước cũng cần được nhìn nhận lại cho phù hợp với tình hình mới.


16


Một là, cùng với các công cụ khác của Nhà nước, ngân sách nhà nước là một
công cụ ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chống lạm phát và
giảm thất nghiệp.
Hai là, chức năng phân bổ nguồn lực trong xã hội: Để tạo lập và sử dụng
các nguồn lực có hiệu quả, thông qua các biện pháp thu, chi và quản lý ngân sách
nhà nước, nhà nước thực hiện phân bổ nguồn lực vào những lĩnh vực địa bàn then
chốt, có nhiều rủi ro, cần khuyến khích hoặc hạn chế phát triển; đồng thời có thể
thu hút, lôi kéo sự tham gia phân bổ nguồn lực của các thành phần kinh tế và khu
vực tư nhân.
Ba là, chức năng phân phối lại thu nhập trong xã hội: Nhà nước thực hiện
quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập dýới hình thức tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp nhằm hạn chế bớt sự phân hoá xã hội, sự bất bình đẳng về thu nhập đảm
bảo sự công bằng hợp lý, làm cho nguồn thu nhập của xã hội được sử dụng một
cách kịp thời hiệu quả. Thông qua công cụ thuế và công cụ chi tiêu. Nhà nước sẽ
thực hiện được các mục tiêu trên.
Bốn là, chức năng điều chỉnh kinh tế: Chính sách ngân sách nhà nước là một
bộ phận không thể tách rời của chính sách kinh tế – xã hội. Khi nền kinh tế suy
thoái người ta thường khuyến cáo dùng chính sách tài khoá kích cầu bằng cách
giảm thuế hoặc tăng chi tiêu công, từ đó làm tăng khối lượng sản xuất xã hội. Khi
nền kinh tế phát triển bình thường, trong điều kiện mở cửa thì chính sách tài khoá
kích thích sẽ tạo nên phản ứng dây chuyền: chính sách tài khoá kích thích nới lỏng
với mục đích tăng tổng cầu, mức lãi suất trong nước tăng, giá đồng nội tệ tăng,
thuần xuất khẩu giảm, tổng cầu giảm. Như vậy, trước mắt chính sách tài khoá có thể
kích thích tổng cầu có tác động đến tăng trưởng kinh tế, nhưng về lâu dài lại kìm
hãm chính quá trình tăng trưởng. Đòi hỏi các nhà hoạch địch chính sách tài chính
nói chung và chính sách tài khoá nói riêng phải tính đến việc sử dụng công cụ ngân
sách nhà nước một cách thích hợp trong quá trình điều chỉnh nền kinh tế.

Bốn chức năng nói trên có mối quan hệ rất gắn bó, phản ảnh được bản chất
hoạt động của ngân sách nhà nước trong quá trình tạo lập, khai thác động viên, phân

17


bổ, tổ chức huy động các nguồn vốn cũng như tham gia kiểm soát, điều chỉnh kinh
tế vĩ mô
1.1.4. Những nguyên tắc cơ bản trong quản lý ngân sách nhà nước
Để phát huy vai trò, chức năng của ngân sách nhà nước trong đời sống kinh
tế – xã hội, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và các kinh nghiệm sử dụng công cụ ngân
sách nhà nước ở nước ta, khái quát hoá kết quả nghiên cứu, khảo sát và đánh giá
thực tiễn đã đưa ra một số nguyên tắc như sau:
Một là, Nguyên tắc thống nhất, tập trung dân chủ: Điều 6 Hiến pháp nước
cộng hoà XHCN Việt nam năm 1992 quy định: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ”.
Hai là, Nguyên tắc công khai minh bạch: Công khai là để mọi người đều
được biết, Minh bạch là làm cho mọi việc trở nên rõ ràng, dễ hiểu. Quản lý ngân
sách phải công khai minh bạch xuất phát từ đòi hỏi chính đáng của người dân với tư
cách là người nộp thuế cho nhà nước. Quy tắc chung về tính minh bạch gồm các nội
dung chủ yếu là:
– Ngân sách phải đảm bảo tính toàn diện. Điều này có nghĩa là các hoạt động
trong và ngoài ngân sách đều được phản ánh vào tài liệu trình cấp có thẩm quyền
xem xét quyết ðịnh.
– Đảm bảo tính khách quan độc lập. Các cấp, các đơn vị dự toán, các tổ chức
cá nhân được NSNN hỗ trợ phải công khai dự toán và quyết toán ngân sách, Nội
dung công khai theo các biểu mẫu quy định, thời gian công khai được quy định rõ
đối với từng cấp ngân sách.
Ba là, Nguyên tắc đảm bảo trách nhiệm: Nhà nước phải đảm bảo trách nhiệm

trước nhân dân về toàn bộ quá trình quản lý ngân sách. Chịu trách nhiệm hữu hiệu
bao gồm khả năng điều trần và gánh chịu hậu quả.
Bốn là, Nguyên tắc đảm bảo cân đối NSNN: Cân đối NSNN ngoài sự cân
bằng về thu, chi còn là sự hài hoà hợp lý trong cơ cấu thu, chi giữa các khoản thu,
chi; các lĩnh vực, các ngành; các cấp chính quyền thậm chí ngay cả giữa các thế hệ

18


(ví dụ: vay nợ). Đảm bảo cân đối ngân sách là một đòi hỏi khách quan xuất phát từ
vai trò nhà nước trong can thiệp vào nền kinh tế thị trường với mục tiêu ổn định,
hiệu quả và công bằng. Vì vậy tính toán nhu cầu chi sát với khả năng thu trong khi
lập ngân sách là rất quan trọng. Các khoản chi chỉ được phép thực hiện khi đã có đủ
các nguồn bù đắp.
1.1.5. Vai trò của ngân sách nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của Ngân sách nhà nước được thay đổi
và trở nên hết sức quan trọng .Trong quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc gia Ngân sách
nhà nước có các vai trò như sau:
Vai trò huy động các nguồn Tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước. Vai trò này xuất phát từ bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước, để đảm bảo
cho hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội đòi hỏi phải
có những nguồn tài chính nhất định. Những nguồn tài chính này được hình thành từ
các khoản thu thuế và các khoản thu ngoài thuế . Đây là vai trò lịch sử của Ngân
sách nhà nước mà trong bất kỳ chế độ xã hội nào, cơ chế kinh tế nào ngân sách nhà
nước đều phải thực hiện.
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định
hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống
xã hội. Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới,
kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.Trước hết, Chính phủ
sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ

đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế
phát triển ổn định và bền vững.Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ
cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp
thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho
sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy
rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh
doanh của các Doanh nghiệp). Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn
tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng

19


đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh. Ngoài ra ngân sách nhà nước
còn tác động lên các lĩnh vực của xã hội:
+ Về mặt kinh tế
Kích thích sự tăng trưởng kinh tế theo sự định hướng phát triển kinh tế xã
hội thông qua các công cụ thuế và thuế suất của nhà nước góp phần kích thích sản
xuất phát triển thu hút sự đầu tư,tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và môi trường thuận
lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
+ Về mặt xã hội
Vai trò điều tiết thu nhập giữa các tần lớp dân cư trong xã hội.Trợ giúp trực
tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ
cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các
khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ….
+ Về mặt thị trường
Nhà nước sẽ sử dụng ngân sách nhà nước như một công cụ để góp phần bình
ổn giá cả và kiềm chế lạm phát. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế
suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia…
Ngân sách Nhà nước là công cụ định huớng phát triển sản xuất. Để định
hướng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhà nước sử dụng công cụ thuế và chi ngân

sách. Bằng công cụ thuế một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách, mặt khác nhà nước sử
dụng thuế với các loại thuế, các mức thuế suất khác nhau sẽ góp phần kích thích sản
xuất phát triển và hướng dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào những vùng những
lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng đã định. Đồng thời, với
các khoản chi phát triển kinh tế, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vào các ngành kinh tế mũi
nhọn… nhà nước có thể tạo điều kiện và hướng dẫn các nguồn vốn đầu tư của xã hội
vào những vùng, lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
1.1.6. Hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống ngân sách Nhà nước được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách Nhà
nước có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi
của mỗi cấp ngân sách.

20


Ở nước ta, hệ thống ngân sách Nhà nước gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ
máy Nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Hệ thống ngân sách Nhà nước gồm: ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương.
Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách đơn vị hành chính các cấp có Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Phù hợp với tổ chức chính quyền Nhà nước ta
hiện nay. Ngân sách địa phương bao gồm:
- Ngân sách thành phố, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân
sách thành phố)
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc thành phố (gọi chung là
ngân sách cấp huyện).
- Ngân sách cấp xã, phường (gọi là ngân sách cấp xã)
1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.2.1. Khái niệm về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Hệ thống chính quyền nhà nước được tổ chức thành nhiều cấp và mỗi cấp

đều được phân giao những nhiệm vụ nhất định. Để thực hiện những nhiệm vụ đó,
mỗi cấp lại được phân giao những quyền hạn cụ thể về nhân sự, kinh tế, hành chính
và ngân sách. Việc hình thành hệ thống ngân sách nhà nước gồm nhiều cấp thì việc
phân cấp ngân sách nhà nước là một tất yếu khách quan. Bởi vì mỗi cấp ngân sách
nhà nước đều có nhiệm vụ thu, chi mang tính độc lập. Trong việc tổ chức quản lý tài
chính nhà nước nếu cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước được thiết lập phù
hợp thì tình hình quản lý tài chính và ngân sách nhà nước sẽ được cải thiện góp
phần thúc đẩy sự phát triển ổn định của nền kinh tế – xã hội.
Sự phân giao về ngân sách cho các cấp chính quyền làm nảy sinh khái niệm
về phân cấp quản lý ngân sách. Có thể hiểu về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
như sau:
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc phân định phạm vi trách nhiệm,
quyền hạn của các cấp chính quyền nhà nước từ trung ương tới địa phương trong

21


quá trình tổ chức tạo lập và sử dụng ngân sách nhà nước phục vụ cho việc thực thi
chức năng nhiệm vụ của nhà nước.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước chỉ xảy ra khi ở đó có nhiều cấp ngân
sách, phân cấp ngân sách thể hiện mối quan hệ giữa các cấp chính quyền địa phương
1.2.2. Sự cần thiết của phân cấp quản lý ngân sách
Ngân sách nhà nước được phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính
quyền địa phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước
gồm nhiều cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế
phân cấp quản lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm
bảo bằng những nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề xuất và
bố chí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt khác, xét về yếu tố
lịch sử và thực tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nước ta đang chống tư tưởng địa
phương, cục bộ … vẫn cần có chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích chính

quyền địa phương phát huy tính độc lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa
phương mình trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số
khoản thu như: tiền cho thuê mặt đất, mặt nước đối với doanh nghiệp, tiền cho thuê
và tiền bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn bài,…giao cho
địa phương quản lý sẽ hiệu quả hơn.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là cách tốt nhất để gắn các hoạt động
của ngân sách nhà nước với cac hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực
sự nhằm tập trung đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính
quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả
cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Phân
cấp quản lý ngân sách nhà nước đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo phương tiện
tài chính cho việc duy trì và phát triển hoạt động của các cấp chính quyền ngân sách
từ trung ương đến địa phương mà còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều
mặt của từng vùng, từng địa phương trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế
hoạch hoá ngân sách nhà nước được tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp
chính quyền cũng như quan hệ giữa các cấp ngân sách được tốt hơn để phát huy vai

22


trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của ngân sách nhà nước. Đồng thời, phân cấp quản
lý ngân sách nhà nước còn có tác động thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế, xã hội
ngày càng hoàn thiện hơn.
1.2.4. Nguyên tắc cơ bản trong phân cấp quản lý NSNN
Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho NS các địa phương quy định
trong Luật ngân sách nhà nước hiện hành dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản
trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước được quy định tại khoản 2 điều 4 và
điều 34 Luật ngân sách nhà nước 2002 và cụ thể hoá trong điều 6, điều 23, điều 25
Nghị định 60/2003/ NĐ-CP.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc:

- Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của
Nhà nước và năng lực quản lý của mỗi cấp trên địa bàn;
- Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương được phân định nguồn thu,
nhiệm vụ chi cụ thể:
Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ
chiến lược, quan trọng của quốc gia như: các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội có tác động đến cả nước hoặc nhiều địa phương, các chương trình, dự
án quốc gia, các chính sách xã hội quan trọng, điều phối hoạt động kinh tế vĩ mô của
đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hỗ trợ những địa phương chưa
cân đối được thu, chi ngân sách;
Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện
những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã
hội trong phạm vi quản lý;
- Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính
quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, thời gian thực hiện
phân cấp này phải phù hợp với thời kỳ ổn định ngân sách ở địa phương; cấp xã
được tăng cường nguồn thu, phương tiện và cán bộ quản lý tài chính - ngân sách để
quản lý tốt, có hiệu quả các nguồn lực tài chính trên địa bàn được phân cấp;

23


- Kết thúc mỗi kỳ ổn định ngân sách, căn cứ vào khả năng nguồn thu và
nhiệm vụ chi của từng cấp, theo thẩm quyền quy định tại các Điều 15, 16 và 25 của
Luật Ngân sách nhà nước, Quốc hội, Hội đồng nhân dân điều chỉnh mức bổ sung
cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định việc điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%) phân
chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
cho ngân sách các cấp chính quyền địa phương theo các nguyên tắc trên, đồng thời

phải bảo đảm các yêu cầu sau:
1. Gắn với nhiệm vụ và khả năng quản lý của từng cấp, hạn chế việc bổ sung
từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới; khuyến khích các cấp tăng cường quản
lý thu, chống thất thu; hạn chế phân chia các nguồn thu có quy mô nhỏ cho nhiều cấp.
2. Ngân sách xã, thị trấn được hưởng tối thiểu 70% đối với các khoản thu sau:
a) Thuế chuyển quyền sử dụng đất;
b) Thuế nhà, đất;
c) Thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh;
d) Thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình;
đ) Lệ phí trước bạ nhà, đất.
3. Ngân sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh được hưởng tối thiểu 50% khoản
thu lệ phí trước bạ, không kể lệ phí trước bạ nhà, đất.
Phân cấp nhiệm vụ chi cho ngân sách các cấp chính quyền địa phương phải
bảo đảm các yêu cầu sau:
1. Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh đối với
từng lĩnh vực và đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư từng vùng và trình độ, năng lực
của đội ngũ cán bộ, bảo đảm hiệu quả;
2. Phải phân cấp nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông quốc
lập các cấp, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, giao thông đô thị, vệ sinh đô thị và các
công tŕnh phúc lợi công cộng khác cho thị xă, thành phố thuộc tỉnh;

24


1.2.5. Nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc xử lý các mối quan hệ giữa các
cấp chính quyền nhà nước từ trung ương đến địa phương trong hoạt động của ngân
sách nhà nước, từ đó cho phép hình thành một cơ chế phân chia ranh giới quyền lực
về quản lý ngân sách nhà nước giữa các cấp chính quyền. Vì vậy nội dung phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước về cơ bản bao gồm 2 nội dung chủ yếu sau:

Một là, Về quyền lực: Phân cấp ban hành chế độ, chính sách, tiêu chuẩn,
định mức.
Trong quản lý ngân sách nhà nước, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức
có vai trò và vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là một trong những căn cứ quan
trọng để xây dựng dự toán, phân bổ ngân sách và kiểm soát chi tiêu, mà còn là một
trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng quản lý và điều hành ngân sách của các
cấp chính quyền.
Thông qua việc phân cấp nhằm làm rõ vấn đề cơ quan nhà nước nào có thẩm
quyền ban hành ra các chế độ, chính sách, định mức, tiêu chuẩn, phạm vi, mức độ
của mỗi cấp chính quyền. Cơ sở pháp lý này được xây dựng dựa trên hiến pháp
hoặc các đạo luật tổ chức hành chính, từ đó định ra hành lang pháp lý cho việc
chuyển giao các thẩm quyền gắn với các trách nhiệm tương ứng với quyền lực đã
được phân cấp, đảm bảo tính ổn định, tính pháp lý, không gây sự rối loạn trong
quản lý ngân sách nhà nước.
Hội đồng nhân dân cấp thành phố quyết định một số chế độ thu phí gắn với
quản lý đất đai, tài nguyên thiên nhiên, gắn với chức năng quản lý hành chính nhà nước
của chính quyền địa phương và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của
pháp luật; việc huy động vốn để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân
sách cấp thành phố. Được quyết định chế độ chi ngân sách phù hợp với đặc điểm
thực tế ở địa phương. Riêng chế độ chi có tính chất tiền lương, tiền công, phụ cấp,
trước khi quyết định phải có ý kiến của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực.
Hai là, Phân cấp về mặt vật chất, tức là phân cấp về nguồn thu và nhiệm vụ chi.

25


×