Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.1 KB, 13 trang )

Tài chính quốc tế 2016

MỤC LỤC
1. Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 ................................................................ 2
1.1.

Hoàn cảnh .............................................................................................................. 2

1.2.

Diễn biến sơ lược ................................................................................................... 2

1.2.1.

Thái Lan ............................................................................................................................... 2

1.2.2.

Indonesia.............................................................................................................................. 3

1.2.3.

Hàn Quốc ............................................................................................................................. 3

1.2.4.

Malaysia............................................................................................................................... 4

1.2.5.

Phillipines ............................................................................................................................ 4



1.2.6.

Singapore ............................................................................................................................. 5

1.2.7.

Việt Nam ............................................................................................................................. 5

1.3.

Nguyên nhân .......................................................................................................... 5

1.3.1.

Cơ cấu kinh tế thiếu tính hợp lý, chủ động; nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém ............ 5

1.3.2.
dài

Cán cân thanh toán quốc tế mất cân bằng: Thâm hụt cán cân vãng lai liên tục, kéo

1.3.3.

Tự do hóa tài khoản vốn, đầu tư tăng liên tục nhưng cơ cấu thiếu tính ổn định ........ 8

1.3.4.

Sự quản lý và điều hành yếu kém trong khu vực tài chính ngân hàng ........................ 9


1.3.5.

Sự tấn công đầu cơ và rút vốn của các tổ chức tài chính nước ngoài .......................... 9

............................................................................................................................................... 6

1.4.

Hậu quả ................................................................................................................ 10

1.5.

Ý nghĩa ................................................................................................................. 11

2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ......................................................................... 12
2.1.

Bài học 1 .............................................................................................................. 12

2.2.

Bài học 2 .............................................................................................................. 12

2.3.

Bài học 3 .............................................................................................................. 13

Trang 1



Tài chính quốc tế 2016
CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á NĂM 1997 BẮT NGUỒN
TỪ THÁI LAN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.
1. Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
1.1.

Hoàn cảnh

Khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng
7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền
tệ lớn và giá cả của những tài sản khác ở nhiều quốc gia được coi là "Những con Hổ
Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là “Khủng hoảng tiền tệ châu Á”.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc
khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt
giá bất thình lình. Còn Trung Quốc, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh
hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song vẫn phải trải
qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng
ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn
cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
1.2. Diễn biến sơ lược
Khủng hoảng bắt đầu bùng phát từ Thái Lan và đất nước này đã phải gánh chịu những
tổn thất nặng nề khi bong bóng đầu tư bị vỡ vụn. Khủng hoảng mang tính lây lan, hiệu
ứng domino sang các nước trong khu vực như Indonesia, Philippines, Malaysia, lan sang
Hàn Quốc, Hồng Kong, cả Nga & Brasil cũng chịu tác động, trong đó chịu thiệt hại nhiều
nhất là Thái Lan, Indonesia & Hàn Quốc.
1.2.1. Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm
là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền
kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu.

Cùng lúc đó, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa
thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 và 15 tháng 5 năm 1997, đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn.
Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá
Baht, song rốt cục lại thả nổi Baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần
50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 Baht mới đổi được 1 Dollar Mỹ.
Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn
Trang 2


Tài chính quốc tế 2016
372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống
còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày
11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ Dollar Mỹ cho Thái
Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ Dollar.
1.2.2. Indonesia
Trước khủng hoảng, Indonesia phát triền thần kỳ với thu nhập trên vốn đầu tư tăng gấp
đôi từ năm 1990 đến 1997, nhờ vào xuất khẩu dầu và ga; kinh tế phát triển thúc đẩy kinh
tế vĩ mô phát triển bền vững, ngân sách cân bằng, lạm phát ở mức thấp, tỷ giá cố định.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu lan sang Indonesia khi Thái Lan thực hiện thả nổi đồng Baht
vào ngày 2 tháng 7 năm 1997, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên
độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%.
Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái
thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất
giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ
Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar
Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều
giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là
làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó,

nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ
thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến
chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên.
Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500
người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng
hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000:1. Nhưng
trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000:1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia
đã giảm đi.
1.2.3. Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước
ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ
ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường Châu Á bị khủng
Trang 3


Tài chính quốc tế 2016
hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn.
Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn
Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp
phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng
11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ
IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000
KRW/USD.
1.2.4. Malaysia
Nếu so sánh với một số nước trong khu vực, có thể nói rằng về mặt kinh tế và tài chính
thì tình hình của Malaysia có tốt hơn Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia. Điều này thể

hiện rõ lực lượng lao động đều có việc làm, tỷ lệ lạm phát thấp, ngân sách chính phủ
thặng dư, nhưng quan trọng hơn cả là Malaysia không có mức nợ nước ngoài cao như
Hàn Quốc(154 tỷ USD), Thái Lan (92 tỷ USD), Inđonesia (138 tỷ USD), Malaysia chỉ nợ
44,1 tỷ USD. Phần lớn nợ nước ngoài của Malaysia là nợ trung hạn và nợ dài hạn, cho
nên Malaysia không phải trả nợ gấp như Thái Lan và Hàn Quốc. Trong khi đó, mức dự
trữ ngoại tệ của Malaysia lên tới 23 tỷ USD.
Chính phủ Malaysia đã rút kinh nghiệm từ Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia nên các
biện pháp ngăn chặn khủng hoảng của Malaysia được thực hiện đúng lúc và có hiệu quả
hơn. Đồng Ringgit của Malaysia bị phá giá 13%. Ringgit đã giảm từ mức 3,75
Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với
Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người
tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn
mua vào với dự tính về sự giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất
trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng
vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
1.2.5. Phillipines
Giống như Malaysia, Philipines chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ít hơn so
với Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia do hệ thống ngân hàng của Philipines lành mạnh
hơn. Các cơ sở kinh tế vĩ mô ổn định và cân đối, nền kinh tế Philipines phát triển với mức
độ vừa phải, không quá nóng như Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia và Malaysia. Tuy vậy,
chính phủ Philipines đã có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn tác động tiêu cực của
cuộc khủng hoảng. Đến cuối tháng 8-1997 đồng peso đã mất giá 28%.
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 Ngân hàng Trung ương
Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng Peso bằng cách
Trang 4


Tài chính quốc tế 2016
nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng Peso vẫn mất
giá nghiêm trọng, từ 26 Peso ăn 1 Dollar xuống còn 38 Peso vào năm 2000 và còn 40

Peso vào cuối khủng hoảng.
1.2.6. Singapore
Đồng đôla Singapore bị phá giá ở mức 6%, đây là một trong những quốc gia ít chịu tác
động của cuộc khủng hoảng. Do vậy, ngay từ cuối tháng 8 năm 1997, các nước lâm vào
khủng hoảng đã cố gắng bằng mọi giá cắt cơn sốc tiền tệ như tung USD ra mua đồng nội
tệ vào, đánh thuế cao vào các khoản lợi nhuận do kinh doanh đầu cơ tiền tệ đem lại, nâng
lãi suất tiền gửi đối với đông nội tệ, tiết kiệm chi tiêu ngân sách, kêu gọi sự giúp đỡ của
cộng đồng quốc tế…
1.2.7. Việt Nam
Kinh tế Việt Nam thời điểm đó thực sự chưa hội nhập sâu với quốc tế, nền sản xuất chủ
yếu xuất khẩu các mặt hàng nông sản sang các nước bạn, đầu tư nước ngoài không nhiều,
chưa phát triển thị trường chứng khoán, giới đầu cơ quốc tế không thể tấn công VND như
tấn công các đồng tiền khác trong khu vực như Baht Thái hay Rupiah Indonesia. Ảnh
hưởng của khủng hoảng đến Việt Nam là sự ảnh hưởng gián tiếp trong việc xuất nhập
hàng hóa từ các nước bị ảnh hưởng, dù tác động không nhiều nhưng nhờ đó mà Việt
Nam, cũng như những nước ít bị tác động khác trong khu vực như Lào, Brunei,… nhận
thấy được bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng để củng cố chính sách vĩ mô của mình.
1.3.

Nguyên nhân

1.3.1. Cơ cấu kinh tế thiếu tính hợp lý, chủ động; nền tảng kinh tế vĩ mô yếu
kém
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi
là “Bộ ba chính sách không thể đồng thời” - Chính phủ không thể đồng thời thực hiện
cùng một lúc ba mục tiêu chính sách vĩ mô gồm: ổn định tỷ giá, tự do hóa dòng vốn,
chính sách tiền tệ độc lập mà chỉ có thể thực hiện đồng thời hai trong ba chính sách này
mà thôi. Thuật ngữ này còn dùng để chỉ tình thế kinh tế dễ đổ vỡ (nguy cơ khủng hoảng)
khi mà một quốc gia cố tình thi hành ba chính sách trên cùng lúc trong một khoảng thời
gian dài. Nhưng ở đây họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho

phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng
nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để
bảo vệ tỷ giá cố định, các Ngân hàng Trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách
tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát.

Trang 5


Tài chính quốc tế 2016
Từ năm 1995 trở lại đây với tốc độ tăng trưởng các nước công nghiệp phát triển (cũng
đối tác chính và tăng trưởng các nước quốc gia Đông Nam Á ) suy giảm làm cho lượng
cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của các quốc gia Đông Nam Á giảm mạnh. Hơn thế
nữa, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là điện tử, dệt may lại đang đứng trước nguy cơ bão
hoà trên thị trường thế giới. Do đó, khi kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh làm cho thâm
hụt cán cân thương mại lớn. Thêm vào đó chính sách xuất khẩu cứng nhắc và chậm đổi
mới làm cho tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam Á đối với các đối tác Mỹ và Tây Âu
giảm sút trước những khu vực thị trường năng động như Trung Quốc, Đông Âu và Mỹ
Latinh.
Kinh tế tăng trưởng nhanh đã kéo theo sự đầu tư một cách bột phát trong một số ngành
kinh tế ở các nước Đông Nam Á như kinh doanh địa ốc và ngành sản xuất hàng xuất
khẩu. Tình hình đó đã dẫn đến tình trạng vay vốn đầu tư quá mức, đặc biệt ở khu vực tư
nhân và khi rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái các nhà đầu tư đã không kịp thời điều
chỉnh tạo ra sự dư thừa công suất trong các ngành. ở Thái Lan và Indonesia vào những
năm 90 nhà nước đã tập trung vốn lớn vào xây dựng khách sạn và nhà ở đắt tiền bằng vốn
ngắn hạn làm cho đất nước chìm ngập trong nợ nần. Cung vượt cầu đã gây khủng hoảng
lớn trong ngành kinh doanh bất động sản, dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn và hàng loạt các
hiệu ứng dây chuyền đối với thị trường chứng khoán, tiền tệ làm tăng nguy cơ bất ổn và
mất cân đối vốn có của nền kinh tế khu vực. Các ngân hàng và các công ty tài chính bị
ảnh hưởng nặng nề khi thị trường bất động sản chao đảo và thua lỗ.


1.3.2. Cán cân thanh toán quốc tế mất cân bằng: Thâm hụt cán cân vãng lai liên
tục, kéo dài
Theo Keynes, công thức xác định trạng thái cán cân thương mại được xác định theo
phương trình sau:
(X-M) = (T-G) + (S-I)
Trong đó:
-

X: Giá trị xuất khẩu
M: Giá trị nhập khẩu
T: Thuế
G: Chi tiêu của chính phủ
S: Tiết kiệm
I: Khoản đầu tư của tư nhân
Trang 6


Tài chính quốc tế 2016
Theo phương trình trên, có 3 nguyên nhân gây thâm hụt cán cân vãng lai. Một là ngân
sách thâm hụt (T-G) và đầu tư I lớn hơn tiết kiệm S; hai là ngân sách thặng dư nhưng đầu
tư quá lớn so với tiết kiệm; ba là tiết kiệm nhiều hơn đầu tư nhưng ngân sách quốc gia bị
thâm hụt lớn.
Làm thế nào để một quốc gia có thể duy trì thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản
vãng lai? Tương tự như ở một hộ gia đình, để có thể tiêu dùng nhiều hơn thu nhập, một
gia đình sẽ có hai cách để có tiền trang trải cho tiêu dùng cao hơn thu nhập của mình. Đó
là: (i) đi vay; và (ii) bán tài sản. Ở cấp quốc gia, khi có thâm hụt thương mại và thâm hụt
tài khoản vãng lai, thì để có tiền (ngoại tệ) trả cho các khoản nhập khẩu và thâm hụt này,
cần có dòng vốn chảy vào (FDI, đầu tư gián tiếp, vay ngắn hạn, dài hạn, kiều hối, ODA).
Nên thông thường, thâm hụt thương mại (và tài khoản vãng lai) thường đi cùng với thặng
dư trên tài khoản vốn. Nếu không có thặng dư trên tài khoản vốn (tương tự như cấp ở hộ

gia đình là không vay đủ tiền), thì nước nhập siêu buộc phải sử dụng đến dự trữ ngoại hối
để đáp ứng cho các nhu cầu nhập khẩu của mình (bán tài sản). Nếu dự trữ ngoại hối
không đủ đáp ứng, thì chắc chắn sẽ dẫn tới việc đồng tiền buộc phải mất giá.
Trong suốt các năm 1991-1996 , cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm hụt, tổng
cộng là 35,26 tỉ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới 14,7 tỉ USD.
Một lí do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được khuyến khích
do tỉ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định (25baht/USD), lạm phát trong nước cao
hơn so với ở Mỹ ( 5% so với 3%), đồng baht bị định giá cao hơn so với đồng USD. Cũng
như nhiều nền kinh tế mới công nghiệp hoá Đông Nam Á khác, nền kinh tế Thái Lan tăng
trưởng chủ yếu dựa vào mức tăng trưởng của xuất khẩu, trong đó đặc biệt lệ thuộc vào
mức tăng trưởng của xuất khẩu điện tử. Thế nhưng, sau năm 1996 sức tăng trưởng xuất
khẩu của Thái Lan bị suy yếu nhanh chóng. Năm 1996, xuất khẩu của Thái Lan tăng
chưa đầy 4%, so với mức tăng bình quân hơn 25% của giai đoạn 1985 - 1995. Nguyên
nhân của tình hình này là sự sụt giảm nhu cầu trên thị trường hàng điện tử của thế giới,
đồng thời thị trường tiêu thụ hàng dệt, sợi của Thái Lan cũng bị giảm sút mạnh do sự nổi
lên của Trung Quốc với tư cách là đối thủ cạnh tranh hùng mạnh nhất trong lĩnh vực này
(Do giá nhân công ở Thái Lan làm mất lợi thế cạnh tranh của mình so với Trung Quốc)
Ngoài ra do sự đánh giá quá cao giá trị đồng Baht trong một thời gian dài đã làm suy yếu
sức cạnh tranh xuất khẩu và giảm tính hấp dẫn của ngành du lịch. Đồng thời cũng giống
như các nước Đông Nam Á khác để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Thái Lan đã
liên tục nhập khẩu nhiều tư bản để tài trợ các cơ hội đầu tư. Do đó, có thể thấy Thái Lan
trở thành quốc gia có mức gia tăng thâm hụt tài khoản vãng lai lớn nhất trên thế giới.
Năm 1996, mức thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan, Malaysia ngang với mức thâm
Trang 7


Tài chính quốc tế 2016
hụt của Mehico năm 1994 (khoảng 8,2% GDP). Theo tính toán của IMF nếu mức thâm
hụt của tài khoản vãng lai của một nước ở mức 5% của GDP thì nước đó được coi là
đang đứng trước nguy cơ của cuộc khủng hoảng. Để bù đắp thâm hụt thương mại và để

có vốn đầu tư bình quân 40%GDP mỗi năm, con đường không tránh khỏi là vay tiền
nước ngoài (từ các ngân hàng, các doanh nghiệp, nhà đầu tư tài chính, chính phủ các
nước). Vì vậy nợ nước ngoài của Thái Lan không ngừng tăng, từ 35,99 tỉ USD năm 1991
lên 89 tỉ USD năm 1996, gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm, và bằng 54% GDP. Nợ ngắn
hạn chiếm: 67% tổng nợ nước ngoài (1995), 51% tổng nợ nước ngoài (1996). Nợ ngắn
hạn năm 1995 và 1996 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Tức là Thái Lan
thực tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. Đến tháng 6.1997 nợ
nước ngoài của Thái Lan đã bằng 1,5 lần dự trữ ngoại tệ của Thái Lan. Kết quả là dự trữ
ngoại tệ cạn kiệt, tỉ giá hối đoái sẽ tăng, nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia sẽ
ngày càng cao.
Đông Nam Á rơi vào tình trạng các nhà đầu tư không còn tin rằng dự trữ ngoại tệ đủ để
trả nợ ngắn hạn. Cả các nhà đầu tư nước ngoài lẫn trong nước đều muốn chuyển vốn ra.
Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từ chối đảo nợ và ngưng cho vay mới; còn các nhà đầu tư
chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và chuyển ra ngoài. Riêng trong năm
1997, hơn 20 tỷ USD ròng được đưa ra khỏi 5 nước Đông Á chịu khủng hoảng, trong khi
trong năm 1996 vẫn còn nhận được gần 66 tỷ USD.
1.3.3. Tự do hóa tài khoản vốn, đầu tư tăng liên tục nhưng cơ cấu thiếu tính ổn
định
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối
thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu
tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của
mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực
hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn theo hướng khuyến khích dòng vốn nước ngoài
ngắn hạn. Tỷ giá hối đoái cố định mà nhiều chính phủ Đông Á duy trì cũng là yếu tố
khuyến khích dòng vốn nước ngoài do rủi ro tỷ giá được loại bỏ. Lãi suất nước ngoài
thấp hơn lãi suất nội địa trong khi tỷ giá được cố định rõ ràng là một khuyến khích cho
các tổ chức kinh doanh và tài chính nội địa đi vay vốn nước ngoài.
Từ năm 1990 đến 1997, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển tăng 5 lần
từ 42 tỷ USD lên 256 tỷ USD. Đông Á là nơi thu hút một lượng lớn dòng vốn này, chiếm
tới 60% trong nửa đầu thập niên 90 (theo NHTG 1998).

Luồng vốn nóng làm nền kinh tế các nước Đông Nam Á lệ thuộc tương đối vào nước
ngoài. Vốn ngắn hạn nước ngoài gây ra sức ép đồng nội tệ tăng giá và khi luồng vốn bị
Trang 8


Tài chính quốc tế 2016
rút ra ồ ạt sẽ gây ảnh hưởng, làm rối loạn hệ thống tài chính, đồng nội tệ giảm giá và giá
cổ phiếu giảm mạnh. Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay nước ngoài
ngắn hạn được đầu tư dài hạn. Một tỷ trọng lớn vốn cho vay của ngân hàng và các tổ
chức tài chính phi ngân hàng được tập trung vào khu vực bất động sản.
1.3.4. Sự quản lý và điều hành yếu kém trong khu vực tài chính ngân hàng
Có thể thấy rằng, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động chưa có hiệu quả, quá phụ
thuộc vào sự giúp đỡ của chính phủ. Không những thế, lại mạo hiểm nhận vốn nước
ngoài, trong đó một khối lượng lớn là các khoản vay nóng đưa vào đầu tư dài hạn, thêm
nữa, sai lầm trong chính sách vĩ mô về duy trì tỷ giá cứng, buộc chặt đồng đôla Mỹ và lãi
suất trần, sàn không bắt kịp tiến trình toàn cầu hoá…
Trong điều kiện thâm hụt cán cân vãng lai để duy trì tốc độ tăng trưởng nóng và tỷ giá
hối đoái cố định, ngân hàng các quốc gia Đông Nam Á lại phải tiếp tục vay nóng từ các
ngân hàng nước ngoài, đã đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ nợ vượt quá dự trữ ngoại tệ
trong nước.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho
các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm để đi
vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần
lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ khó đòi trong hệ thống ngân hàng tăng lên, một phần là do các
khoản cho vay không sinh lợi cấp cho các doanh nghiệp nội địa, một phần là do các
khoản cho vay các cá nhân đầu tư chứng khoán, giờ đây không thể hoàn trả so giá chứng
khoán giảm sút.
1.3.5. Sự tấn công đầu cơ và rút vốn của các tổ chức tài chính nước ngoài
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn

công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Các nhà tài chính mất niềm
tin vào việc chính phủ Thái Lan có thể duy trì chính sách lãi suất cao liên tục trong thời
gian dài, cùng với sự giảm sút xuất khẩu, họ đã bắt đầu rút vốn ra khỏi Đông Nam Á. Các
nhà đầu tư lớn rút vốn có thể gây tác động lớn đến nền kinh tế mà họ đã đầu tư.
Tương tự như vậy, họ cũng có thể đầu cơ và đánh cược vào tình hình tài chính của một
nền kinh tế. Khi một số nhà đầu tư nước ngoài tiên đoán chính phủ nước sở tại sắp hết dự
trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì họ sẽ bán tài sản họ đã đầu tư, đổi lấy
ngoại tệ mang ra nước ngoài. Lúc đầu, chính phủ các nước thường bán dự trữ ngoại tệ để
duy trì tỷ giá cũ, song đến một lúc nào đó, không còn khả năng bán nữa thì sẽ thả nổi tỷ
giá hối đoái. Lúc này các nhà đầu tư nước ngoài chưa bán tài sản (sổ phiếu, trái phiếu, tín
Trang 9


Tài chính quốc tế 2016
phiếu) thì sẽ tìm cách bán thật nhanh và đổi sang ngoại tệ để tối thiểu hóa thiệt hại cho
mình. Áp lực này càng làm cho tỷ giá hối đoái tăng vọt. Hơn nữa khi các nhà đầu cơ dự
đoán thấy đồng Baht được định giá quá cao họ sẽ đua nhau đi vay đồng Baht ở ngân
hàng, rồi đem số tiền đó để đi mua USD và chờ đợi khi đồng Baht bị phá giá thì họ sẽ thu
lợi lớn. Quá trình này đã thúc đẩy cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan chóng xảy ra.
Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người
ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát
hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể
chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng
loạt rút vốn ra.
1.4.

Hậu quả

Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ,
sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh

nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các
năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái
Lan.
Đối với các nước trong khu vực, trung tâm của “vòng xoáy” khủng hoảng: Có thể nói sự
mất giá nhanh với quy mô chưa từng có của đồng tiền 5 quốc gia (Thái Lan, Philipines,
Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc ) là tác động bên ngoài dễ thấy nhất của sự bùng nổ
khủng hoảng kinh tế tài chính ở các nước này.
Tác động bên ngoài thứ hai của tình trạng khủng hoảng kinh tế tài chính là sự thua lỗ và
phá sản với tốc độ và quy mô bất thường của hệ thống ngân hàng tài chính quốc gia.
Tác động thứ ba của sự khủng hoảng là sự thua lỗ, phá sản với quy mô và tốc độ bất
thường của các doanh nghiệp.
Sự phát triển của hàng loạt các ngân hàng, doanh nghiệp dẫn đến hai hậu quả trực tiếp là
số người thất nghiệp tăng mạnh, và tăng trưởng quốc gia giảm sút
Không những thế, khủng hoảng tài chính còn ảnh hưởng đến cả tỷ lệ lạm phát, giảm dòng
vốn đầu tư, tăng các món nợ nước ngoài, ảnh hưởng đên lãi suất cho vay ở các nước này.
Thế giới phải chứng kiến cuộc khủng hoảng lớn trên thị trường vốn của các nước mới
nổi. Nguồn vốn đầu tư tư nhân vào nền kinh tế trong tháng 12 tại Thái Lan giảm 23% so
với cùng kỳ năm trước. Các khoản cho vay từ ngân hàng cũng giảm mạnh ở Hồng Kông,
Singapores, Thái Lan và Malaysia

Trang 10


Tài chính quốc tế 2016
Cuộc khủng hoảng đã đẩy 40% nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế
lớn như Nhật Bản, Nga, Brazil…đã bị cuốn vào vòng xoáy của nó. IMF gần như mất khả
năng đóng vai trò “người chữa cháy” của nền kinh tế toàn cầu. Sau khi bùng nổ cuộc
khủng hoảng đồng Bạt ở Thái Lan tháng 7/1997. Các công ty Nhật Bản đã vội vã rút vốn
khỏi châu Á do sợ suy thoái kinh tế Nhật Bản kéo dài. Những thay đổi trong chính sách
tỷ giá hối đoái và buôn bán của Mỹ đối với Châu Á đã tác động tiêu cực đến các nền kinh

tế khu vực này. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu Á trước hết do cơ cấu yếu kém của
nền kinh tế trong nước nhưng bị trầm trọng thêm do những biến động bên ngoài liên quan
đến môi trường tài chính quốc tế và trật tự buôn bán quốc tế.
Thị trường tiền tệ thế giới đang bị tác động mạnh của sự lưu chuyển vốn ồ ạt và ngắn
hạn. Vì vậy, những biến động ngắn hạn về tỷ giá hối đoái trở nên nhạy cảm và được quy
định bởi sự thay đổi không thể dự báo trước của quan hệ cung cầu tiền tệ.
Nguồn vốn thế giới chảy vào các nền kinh tế mới nổi ở khu vực này giảm mạnh từ mức
196 tỷ USD năm 1996 xuống còn 39 tỷ USD năm 1998. Đến tháng 12/1998 các đồng tiền
Châu á vẫn mất giá từ 13% - 16% so với trước khủng hoảng.
Bên cạnh những tác hại của khủng hoảng kinh tế gây ra nó cũng có nhiều mặt tích cực,
mở đầu giai đoạn mới đầy triển vọng. Việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ
giúp chính phủ giảm thiểu lượng ngoại tệ can thiệp, giữ giá bản tệ như thời gian trước đó,
giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu dài, khuyến khích, tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu,
từ đỏ cải thiện những cân đối tài chính của đất nước. Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc,
Philippin sẽ nhận được lượng tín dụng quốc tế chính thức với khối lượng lớn phục vụ các
mục tiêu cải cách và phát triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng giúp định hướng lại và cải
thiện cơ cấu đầu tư, thúc đẩy sản xuất sản phẩm mới có suất cạnh tranh xuất khẩu cao
hơn. Các khoản chi phí kém hiệu quả sẽ bị cắt giảm, các dự án cá nhân được khuyến
khích.
1.5.

Ý nghĩa

Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có một hệ
thống tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc
tế và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín
dụng nói chung.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi với nền
kinh tế của họ. Do đó, nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết các

dòng vốn này.
Trang 11


Tài chính quốc tế 2016
Bên cạnh đó, những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng ngừa
khủng hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như Sáng kiến Chiang Mai,Tiến
trình Đánh giá và Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái phiếu châu
Á,...
Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của các mô hình lý
luận về khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích nguồn gốc và sự lây lan của
khủng hoảng tài chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một mô hình mới về
khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn như mô hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản,
lý thuyết bong bóng, lý thuyết về nguồn gốc khủng hoảng từ chính sách tài chính và chính
sách tiền tệ.
2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.1.

Bài học 1

Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế của các quốc gia là cơ sở quan
trọng nhất đảm bải cho việc phát triển bền vững và trở thành mục tiêu và chỉ tiêu quản lý
đất nước, quản lý ngành và mỗi doanh nghiệp.
Để khắc phục sự thiếu chú ý đúng mức đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và phát triển,
cần đưa vào hệ thống chỉ tiêu kinh tế báo cáo hằng năm của mỗi địa phương, mỗi ngành
và cả nước các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận và tỉ suất giá trị gia tăng trên số vốn riêng của
doanh nghiệp theo các ngành, theo các thành phần kinh tế và theo các địa phương trong
cả nước.
2.2.


Bài học 2

Nhà nước phải có những biện pháp quyết sách điều hành nền kinh tế vĩ mô và đặc biệt
phải lành mạnh hóa khu vực tài chính ngân hàng. Nhà nước phải tập trung chỉ đạo đánh
hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ các doanh nghiệp, các ngành và các khu
vực. Cần hoàn thiện luật pháp và xử lý kiên quyết hơn tình trạng nợ khó đòi. Triệt để tiết
kiệm, chống lãng phí, đề cao kỷ luật tài chính, thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán thống
kê, kiểm toán công khai hóa trong nền kinh tế.
Cụ thể hơn, Chính phủ phải có những công cụ điều tiết vốn. Hướng tới mục tiêu tăng
trưởng kinh tế cao, các nứơc phát triển ở Đông Nam Á cũng như Việt Nam nỗ lực thu hút
ngày càng lớn vốn đầu tư từ các nước đã phát triển. Trong các hình thức đầu tư nước
ngoài, đầu tư tài chính (đầu tư vào các sản phẩm tài chính thuần túy) đang chiếm tỷ lệ
ngày càng lớn, do sự phát tiển nhanh của thị trường chứng khoán trong những năm gần
đây. Lợi ích cụ thể của đầu tư tài chính được lý giải thông qua tác động “đòn bẩy” hay
“cấp số nhân”, nhằm bù vào thâm hụt trong dự trữ và thương mại của các nền kinh tế
Trang 12


Tài chính quốc tế 2016
đang phát triển. Tuy nhiên việc sử dụng những tác động này nếu thất bại sẽ dẫn đến tăng
trưởng bong bóng của nền kinh tế và hậu quả là dẫn đến khủng hoảng ( như đã được ghi
nhạn ở các nền kinh tế mới nổi trong khủng hoảng tài chính ở châu Á). Khi xảy ra khủng
hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh như khi xuất hiện, vì không hề
có các công cụ điều tiết. Vì vậy, Việt Nam hiện nay cần tiến tới xây dựng một hạ tầng tài
chính đủ vững vàng để ổn định trước những thay đổi trong nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoài và biến động trên thị trường tài chính thế giới.
Bên cạnh đó, các nhà quản lý cần có những quy định phù hợp để những nhà đầu tư nước
ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn tham gia giải quyết hậu quả (trong trường hợp xảy ra
khủng hoảng). Vì, thực tế từ cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á (cũng như khủng
hoảng tài chính trước đó) cho thấy các nhà đầu tư này thường tìm cách chạy với rất ít

trách nhiệm đối với nước nhận vốn đầu tư, mặc dù chính sự rút vốn bất ngờ và ồ ạt của
họ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng ở các nước này.
Tiếp theo, chính phủ cần xây dựng một hành lang pháp lý phù hợp. Hệ thống ngân hàng
với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm 1997 đã dẫn đến sự phát triển
quá mức của thị trường tín dũng của nhiều nước châu Á, không chỉ ở Thái Lan, như
Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc kéo theo việc đầu tư dư thừa vào một số
ngành kinh tế. Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng
với tỷ lệ vốn lưu động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của các nước, tỷ lệ này đều
cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế.
2.3.

Bài học 3

Công tác – tư vấn phục vụ cho hoạt động kinh doanh lẫn các hoạt động quản lý nhà nước
cần được đề cao và cải thiện hơn. Hơn thế nữa, thiết nghĩ cần có một tổ chức chuyên
trách của chính phủ theo dõi sự biến động của lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng
trong nước và quốc tế, cán cân tài khoản vãng lai, nợ quốc gia và hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp để đề xuất các chính sách và điều tiết cân thiết, đảm bảo phát triển
quốc gia bền vững với tăng trưởng cao.

Trang 13



×