.
LỜI MỞ ĐẦU
Công tác xã hội là một nghành, nghề mới ở Việt Nam. Do vậy, nhận thức
của mọi người về Công tác xã hội vẫn còn hạn chế. Thứ nhất, nhiều người nhầm
lẫn công tác xã hội với làm từ thiện,ban ơn, ban phát hoặc nhầm lẫn công tác xã
hội với các hoạt động xã hội của các tổ chức, đoàn thể... Thứ hai, vai trò và vị
thế cũng như tính chất chuyên nghiệp của công tác xã hội ở Việt Nam chưa
được khẳng định. Do vậy, để phát triển công tác xã hội ở Việt Nam cần có sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước có sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo và cơ sở
thực hành công tác xã hội chuyên nghiệp. Bởi vid, công tác xã hội là một hệ
thống liên kết các giá trị,lý thuyết và thực hành.công tác xã hội là trung tâm,
tổng hợp, kết nối và trực tiếp tham gia vào đảm bảo an sinh xã hội.
Giá trị của công tác xã hội dựa trên cở sở tôn trọng quyền lợi, bình đẳng,
giá trị của mỗi cá nhân,nhóm và cộng đồng. Giá trị được thể hiện trong các
nguyên tắc hoạt động cũng như trong các quy điều đạo đức trong công tác xã
hội.
Và thực hành công tác xã hội cá nhân là một vẫn đề quan trọng trong quá
trình đào tạo cũng như học công tác xã hội. Thông qua quá trình thực hành, sinh
viên được rèn luyện kĩ năng,vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn.
Ngoài ra, còn giúp sinh viên thấy được vị trí, vai trò và trách nhiệm của công
tác xã hội đối với cá nhân.
Trong quá trình thực tập môn học “Thực hành công tác xã hội cá nhân”,
bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, tôi nhận được sự giúp đỡ, động viên
của gia đình, bạn bè và thầy cô.
Để hoàn thành đợi thực tập này, trước hết tôi xin gởi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc đến các thầy cô giáo ở trường chuyên biệt Tương Lai, đặc biệt
là cô giáo Phạm Thị Hà – giáo viên chủ nhiệm lớp C2 đã hướng dẫn, giúp đỡ và
chỉ bảo trong suốt quá trình thực tập.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến cô Nguyễn Hằng Phương –
giảng viên môn “Thực hành công tác xã hội cá nhân” và thầy Bùi ĐìnhTuân –
giảng viên kiểm huấn tại cở đã ủng hộ, động viên, gỡ những thắc mắc, giúp đỡ
cũng như tạo điều kiện để tôi hoàn thành tốt đợt thực tập này.
.
Vì thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế nên trong quá trình thực tập
không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những được những ý
kiến đóng góp của thầy cô.
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Đặt vấn đề:
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Đó là khẩu hiệu mà các quốc gia và
các cộng đồng quốc tế hướng tới nhằm mục đích chăm sóc, bảo vệ và phát triển
trong tương lai của mỗi quốc gia và nhân loại. Thế nhưng,nhiều trẻ khi sinh ra
phải chịu những thiệt thòi khi mang trong mình những dị tật bẩm sinh vĩnh viễn,
không nghe được những âm thanh của cuộc sống, không được ríu rít trò chuyện
với những bạn cùng trang lứa hay không được nhìn thấy ánh sáng của cuộc đời
và cơ thể phát triển không giống các bạn,trí tuệ của các em không như người
ta...
Trong những năm gần đây, giáo dục trẻ em khuyết tật được xã hội quan
tâm.Luật người khuyết tật được ban hành là cơ sở pháp lý bảo quyền được cơ
hội phát triển. Chỉ đạo ngành giáo dục đã có những chuyển biến tích cực. Cụ
thể: Ban chỉ đạo giáo dục khuyết tật của bộ Giáo dục và Đào tạo được củng
cố,hoàn thiện theo từng giai đoạn, đảmbảo cho việc quản lý Nhà nước về việc
giáo dục khuyết tật ngày càng sâu sắc, chặt chẽ. Các địa phương thành lập Ban
chỉ đạo cấp thành phố,cấp tỉnh, cấp huyện có chuyên viên phụ trách, các cơ sở
giáo dục có giáo viên cốt cán về giáo dục khuyết tật.
Và trường chuyên biệt Tương Lai là một trong những ngôi trường để giáo
dục các trẻ khuyết tật. Nơi đây đã gieo mầm cho nhiều trẻ ở thành phố Đà Nẵng
nói riêng và khu vực miền Trung nói chung. Đợt thực tập này,chúng tôi đã được
làm việc trong ngôi trường này và đã chọn cho mình một thân chủ để làm việc.
Tôi tìm hiểu, đưa ra hướng can thiệp và các biện pháp giúp thân chủ vượt qua.
Thân chủ của tôi là một học sinh lớp C2, tên là Trần Anh Tài (2001) bị thiểu
năng trí tuệ, chậm phát triển còn tất cả đều phát triển bình thường.
2. Mục tiêu:
a. Cá nhân NVXH:
- Áp dụng được những kiến thức liên quan đến hành vi con người và môi
trường xã hội cũng như các phương pháp tiếp cận CTXH trong việc giúp
đỡ cá nhân.
.
- Thực hành các nguyên tắc,quy chuẩn đạo đức và các giá trị trong CTXH
khi làm việc với thân chủ.
- Thực hiện các kĩ năng chuyên môn: thiết lập mối quan hệ, thu thập dữ
liệu, lắng nghe,thấu cảm,vấn đàm, đánh giá điểm mạnh của thân chủ,
phân tích và nhận diện vấn đề...
- Tạo sự tự tin và khả năng làm việc với thân chủ.
- Nhận thức được mối quan hệ của NVXH với thân chủ.
- Tăng khả năng vấn đàm và tìm cách đối phó với thân chủ trong khi làm
việc.
- Làm quen và kết hợp lý thuyết vào thực hành.
- Rèn luyện thái độ tích cực và luôn có động lực hướng đến học tập.
- Tôn trọng các nguyên tắc, giá trị,văn hóa và quy chuẩn đạo đức trong
CTXH.
- Rút ra được bài học cho bản thân.
b. Đối với thân chủ:
- Giúp thân chủ nhìn nhận được vấn đề của mình.
- Tạo cảm giác thoải mái, vui vẻ khi làm việc với NVXH.
- Tạo động lực, niềm tin để thân chủ có niềm tin vào cuộc sống.
- Giúp thân chủ ổn định tâm lý.
- Giúp cho thân chủ có nhiều mối quan hệ tốt.
- Tháo gỡ rào cản mặc cảm của thân chủ với mọi người xung quanh.
3. Phương pháp và kĩ thuật thu nhập dữ liệu:
Trong thời gian kiến tập, để hoàn thành báo cáo, tôi đã thực hiện các phương
pháp sau:
4.
a.
Tạo mối quan hệ với các thân chủ và các thầy cô trong cơ sở.
Chấp nhận thân chủ và giữ bí mật thông tin của thân chủ.
Không phán xét và tôn trọng thông tin của cá nhân thân chủ.
Thu nhập và tổng hợp thông tin tìm hiểu từ các thầy cô và gia đình thân
chủ.
Phân tích và đánh giá thông tin.
Áp dụng phương của CTXH cá nhân trong làm việc với thân chủ là trẻ bị
thiểu năng trí tuệ.
Lý thuyết áp dụng:
Lý thuyết hệ thống:
.
Thuyết hệ thống là một trong những lý thuyết quan trọng được vân dụng trong
công tác xã hội khi thực hiện một tiến trình giúp đỡ cá nhân không thể thiếu
được.
Khái niệm hệ thống : Hệ thống là một tập hợp nhiều yếu tố,đơn vị cùng loại
hoặc cùng chức năng, có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một
thể thống nhất.(Từ điển Tiếng Việt, 2004, NXB Đà Nẵng, trang 434)
Góc độ CTXH: “Hệ thống là một tập thể các thành tố được sắp xếp có trật tự và
liên hệ với nhau có hoạt động thống nhất. Con người phụ thuộc vào hệ thống
trong môi trường xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu trực tiếp của mình trong cuộc
sống”. Các quan điểm trong hệ thống công tác xã hội có nguồn gốc từ lý thuyết
hệ thống tổng quát của Bertalanffy. Đây là một lý thuyết sinh học cho rằng “
mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ các tiểu hệ thống và
ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn. Do đó con người là một bộ phận
của xã hội và được tạo nên từ các phân tử,mà được tạo dựng từ các nguyên tử
nhỏ hơn.
Sau này, lý thuyết hệ thống được các nhà khoa học khác nghiên cứu:
Hanson(1995), Mancoske(1981), Siporin(1980)...và phát triển.
Người có công đưa lý thuyết hệ thống áp dụng vào thực tiễn công tác xã hội
phải kể đến công lao của Pincus và Minahan cùng các đồng sự khác. Tiếp đến là
Germain và Giterman.
Hệ thống
Là tập hợp những thành tố được sắp xếp theo một trình tự và quy luật theo một
thể thống nhất.
Tiểu hệ thống
Là hệ thống thứ cấp hoặc hệ thống hỗ trợ. Các tiểu hệ thống tạo nên hệ thống
lớn hơn.
Có 3 loại hệ thống thỏa mãn cuộc sống của con người:
Hệ thống chính thức: tổ chức công đoàn, cộng đồng...
Hệ thống phi chính thức: bạn bè,gia đình...
Hệ thống xã hội: bệnh viện,nhà trường...
.
Lý thuyết hệ thống đã chỉ ra các mối liên kết tất yếu trong mạng xã hội giữa
cá nhân với cá nhân. Trong CTXH không thể không chú ý tới sự ảnh hưởng qua
lại đó. Tạo dựng và phát huy những tiềm năng sức mạnh của hệ thống sẽ tạo nên
những thế lợi trong thực hành CTXH.
Trong tiến trình can thiệp giải quyết vấn đề của thân chủ, NVXH sẽ phải vận
dụng lý thuyết hệ thống bao gồm:
Cá nhân
Nhân viên
CTXH
Gia đình
Xã hội
b. Thuyết trị liệu nhận thức:
Trị liệu nhận thức là phương pháp tác động vào thân chủ, làm thay đổi nhận
thức tiêu cực của họ. Phương pháp này sư dụng kĩ thuật “ chuyển cơ cấu tư
duy” trong hoạt động giúp đối tương. Bao gồm các yếu tố sau:
Giúp thân chủ nhận thức được các suy nghĩ sai lầm đã có ảnh hưởng đến
các hoạt động chức năng của thân chủ.
Xóa bỏ những suy nghĩ sai lầm và thay vào là nhữn tư duy xác thực và
hành động có tính chất tích cực để tăng cường hoạt động chức năng của
thân chủ.
.
Một số ứng dụng có ảnh hưởng về hình thức trị liệu nhận thức chính là
chương trình “lí luận và phục hồi” được sử dụng theo chương trình dịch
vụ về quán chế và những môi trường tư pháp khác..
Tái tạo nhận thức là hình thức nổi tiếng của trị liệu nhận thức.
Hình thức trị liệu nhận thức cấu trúc có liên quan đến 3 cấu trúc trong ý
thức của thân chủ.
Một số phương thức trị liệu nhận thức đã được kết hợp với phương thức
thay đổi hành vi để trị liệu các vấn đề liên quan đến tâm lý như lo lắng, sợ
hãi...
c. Thuyết nhu cầu của MASLOW:
Theo thuyết A. Maslow, nhu cầu tự nhiên của con người chia thành các
thang bậc khác nhau từ “đáy” lên “đỉnh”, phản ánh mức độ “cơ bản” của nó đối
với sự phát triển và tồn tại của con người vừa là một sinh vật tự nhiên vừa là
một thực thể xã hội.
Bậc thang nhu cầu của Maslow
- Nhu cầu tự khẳng định mình: nhu cầu hoàn thiện,phát
triển trí tuệ được thể hiện qua khả năng và tiềm lực của
mình.
- Nhu cầu được coi trọng: được chấp nhận có một vị trí
trong một nhóm người,.
- Nhu cầu xã hội: được hội nhập nhu cầu quan hệ như quan
hệ giữa người với người, quan hệ giữa con người với tổ
chức xã hội hay giữa con người với tự nhiên.
- Nhu cầu được an toàn xã hội: tình yêu thương, nhà ở,
trường học...
Mức thấp
Nhu cầu về vật chất: ăn, ở,mặc,học hành...
Lý thuyết nhu cầu là cơ sở để căn cứ xác định nhu cầu cần thiết của thân
chủ. Đó là nhu cầu được học tập, vui chơi, giải trí,nhu cầu về an toàn xã hội,
nhu cầu được coi trọng...từ đó đưa ra kế hoạch can thiệp.
Mức cao
.
PHẦN II: BÁO CÁO THỰC HÀNH
A. GIỚI THIỆU VỀ CƠ SỞ XÃ HỘI
Đà Nẵng là thành phố lớn của miền Trung và Tây nguyên . Nhiều trẻ em
được sinh ra ở tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng cũ nói chung và TP-Đà Nẵng nói
riêng đã chịu ảnh hưởng nặng nề của hậu quả chiến tranh để lại. Những di
chứng từ cuộc chiến sinh tồn, đã ảnh hưởng đến bao thế hệ, làm cho lãnh đạo
địa phương trăn trở, lo lắng cho tương lai của nhiều lớp trẻ bất hạnh và tật
nguyền. Đó là nguyên nhân, là nhu cầu bức thiết của QNĐN và tại thời điểm
ngày 01/12/1994, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng
ra quyết định số 25/TCCB về việc thành lập trường Dạy Trẻ Khuyết Tật Tương
Lai; tiền thân của Trường chuyên biệt Tương Lai ngày nay. Sứ mệnh của trường
là giúp trẻ khuyết tật được " Vui chơi - Học tậ p - Rèn luyện kỹ năng sống và
học nghề " để từng bước hòa nhập cộng đồng.
1. Lịch sử hình thành:
Giai đoạn 1994-2000:
- Được thành lập vào 01/12/1994, trường tọa lạc tạo ngôi nhà cũ (cấp 4)
của chùa Từ tôn tại 27 Huỳnh Thúc Kháng, phường Nam Dương, quận
Hải Châu.
- Năm 1993, cơ sở này được cải tạo xây dựng thành ngôi trường khang
trang (2 tầng) từ ngân sách Nhà nước.
Diện tích đất 497m2, diện tích xây dựng 350m2
Tổng số phòng: 10 phòng, trong đó 8 phòng học.
- Đến 09/09/2008, cơ sở này được bàn giao cho thành phố để thực hiện dự
án đường Nguyễn Văn Linh nối dài.
Giai đoạn 2000-2011:
- Năm 1997, sau khi tách QN-ĐN, trường xây dựng thêm cơ sở mới ở 22
Trần Bình Trọng, phường Hải Châu 1, quận Hải Châu.
- Năm 2000, được sự tài trợ của Đông Tây Hội Ngộ cơ sở được cải tạo xậy
dựng mới(3 tầng)
Diện tích đất 507m2, diện tích xây dựng 1193m2
Có 17 phòng, trong đó 11 phòng học, 1 phòng đo thính lực và 5 phòng khác.
Từ tháng 9/2011 đến nay:
.
Năm học 2011-2012, trường có thêm cơ sở 2
- Cơ sở 1: 22 Trần Bình Trọng, có 9 lớp, dạy học sinh chậm phát triển. Đặc
biệt, tại cơ sở này có phòng đo thính lực với trang thiết bị hiện đại và kĩ
thuật viên do ủy ban Hà Lan II tài trợ. Bên cạnh đó còn có phòng “điều
hòa các giác quan” dành cho trẻ tự kỉ với đội ngũ tư vấn viên nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực trẻ tự kỉ.
- Cơ sở 2: xây mới tại 102 Huy Cận. Cở sở này dạy học sinh khiếm thính,
thành lập 28/01/2011(ngân sách thành phố)
Diện tích đất 1834m2, diện tích đất xây dựng 578m2
Có 13 phòng, trong đó có 9 phòng học, 1 phòng âm nhạc, 1 phòng bộ môn và 2
phòng khác. Có sân chơi và vườn hoa. Giai đoạn 2 sẽ xây dựng khu dạy nghề và
các phòng chức năng cho trẻ khuyết tật.
Và hiện nay, ở cơ sở 1 thì dành cho bậc Mầm non và khối văn phòng. Cở sở 2
dành cho học sinh tiểu học và THCS.
2.
3.
Chức năng – nhiệm vụ:
Dạy văn hóa.
Phục hồi chức năng – giáo dục kĩ năng sống.
Dạy nghề, hướng nghiệp cho học sinh khuyết tật.
Cơ cấu tổ chức:
Sơ đồ tổ chức nhà trường:
Chi bộ Đảng
Công đoàn
Cơ sở vật chất
Tổ văn phòng
Ban giám hiệu
Đoàn thanh niên
Chuyên môn
Hoạt động ngoài giờ
Tổ gd mầm non
Tổ gd khiếm thính
Tổ gd trí tuệ
.
Chức năng của tổ chuyên môn:
-
-
-
o Tổ văn phòng: bao gồm văn thư, giáo vụ, kế toán, thủ quỹ, bảo vệ, y
tế, cấp dưỡng; tất cả có 14 người, mỗi người một hoạt động, một chức
vụ, không liên quan đến nhau.
Phục vụ cho công việc dạy và học của thầy cô và học sinh ở trường.
o Tổ giáo dục mầm non:
Dạy trẻ khuyết tật trí tuệ
Dạy trẻ khuyết tật thính giác ở tuổi mầm non
o Tổ giáo dục khuyết tật trí tuệ:
Giáo dục bậc tiểu học cho học sinh khuyết tật trí tuệ
o Tổ giáo dục khuyết tật thính giác:
Giáo dục học sinh tiểu học và THCS bị khuyết tật thính giác.
Ba tổ giáo dục mầm non, khuyết tật trí tuệ, khuyết tật thính giác được
điều hành dưới sự chỉ đạo của tổ trưởng trên kế hoạch của nhà trường.
Ban giám hiệu giám sát hiểu quả và quản lý tất cả công việc của
trường.
Như được biết, nguồn hỗ trợ của trường chủ yếu là trường tự đi xin và
vận động.
Mỗi tháng UBND cho 300000 đồng vào tiền lương của mỗi cán bộ trong
trường.
Được tổ chức FiDa tài trợ cho một số thiết bị hoạt động, giúp cho giáo
viên đi học bồi dưỡng thêm chuyên môn.
Sắp đến, dự án FAO đào tạo dạy nghề , tài trợ 34 triệu mua đồ dùng dạy
nghề và chỗ ở bán trú cho các em.
Khó khăn của trường:
Đối với học sinh: phụ huynh yêu cầu vào nhiều nhưng cơ sở vật chất
không đảm bảo, thiếu giáo viên. Mỗi giáo viên dạy 21 tiết/tuần.
Không có phòng học chức năng, điều hòa giác quan, thủy trị liệu, âm
nhạc trị liệu, phòng luyện nghe, phòng dạy cá nhân...
Sự phối hợp giữa giáo viên và học sinh còn hờ hợt.
Ý thức của xã hội.
Có 2 cơ sở nên có khó khăn trong việc quản lý và đi lại.
Thuận lợi:
Có 28 giáo viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng. Có 15 giáo viên học giáo
dục đặc biệt -> giáo viên tự tin làm việc, có tâm với nghề ->hiệu quả tốt
cho học sinh.
.
- Được lãnh đạo thành phố quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện về mặt kinh phí
và cơ sở.
- Nhờ các tổ chức phi chính phủ đã hỗ trợ cơ sở vật chất cũng như giáo
viên.
- Nhiều phụ huynh tin tưởng gửi con.
B. TIẾN TRÌNH THỰC HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
1. Bối cảnh chọn thân chủ:
Để hoàn thành tốt môn “Thực hành công tác xã hội cá nhân” thì giảng
viên của môn và các thầy cô trong khoa đã cố gắng tìm các cơ sở cho chúng tôi
làm việc. Lớp tôi, 56 sinh viên được chia thành 3 nhóm với 3 cơ sở khác nhau.
Tôi được phân vào cơ sở trường Chuyên biệt Tương Lai và giảng viên kiểm
huấn là thầy Bùi Đình Tuân. Được sự hướng dẫn của thầy và chúng tôi gặp
được thầy hiệu trưởng, phó hiệu trưởng của cơ sở vào ngày đầu tiên xuống cơ
sở. Hai thầy giới thiệu tổng quát về cơ sở và dắt đi tham quan trường.
Rồi tôi được phân vào thực hành lớp C2 cùng với hai bạn khác. Dưới sự
giúp đỡ của cô giáo chủ nhiệm lớp Phạm Thị Hà, tôi và hai bạn đã làm quen
được với từng thành viên trong lớp. Mấy buổi đầu xuống cơ sở tôi quan sát các
hoạt động cũng như quá trình học tập của từng bạn nhỏ. Nhìn các em vui chơi,
nói chuyện, cách các bạn giao tiếp với bạn bè, cách tiếp xúc với thầy cô, quan
sát các em học... Sau đó tìm hiểu theemthoong tin ở cô giáo chủ nhiệm về từng
em. Về sau, tôi ấn tượng với bạn trai có vẻ đàn anh của lớp,với ánh mắt lạ lẫm,
xa xăm,nụ cười rất duyên. Thoạt đầu, tôi bắt chuyện với em, hỏi em vài câu đơn
giản. Sau lần trò chuyện đó, tôi chú ý về em nhiều hơn và quyết định chọn em
làm thân chủ cho bài báo cáo. Cái ấn tượng tiếp theo ở em trai này là giọng nói
to,rõ ràng, dứt khoác lắm.
2. Hồ sơ xã hội của thân chủ:
Thông tin cá nhân thân chủ.
Họ và tên : Trần Anh Tài
Phái tính : Nam
Ngày sinh : 21/03/2001
Nơi sinh : bệnh viện Đa Khoa Đà Nẵng
.
Hiện cư trú tại : 105/2 Thanh Long – Hải Châu – Đà Nẵng
Từ khi sinh ra cho đến giờ, Tài sống với bố mẹ trong một căn nhà nhỏ
nhưng chất chứa nhiều niềm vui, đầy đủ sự yêu thương. Tuy là một cuộc sống
có phần khó khăn nhưng mỗi thành viên trong ngôi nhà nhỏ ấy vẫn đùm bọc,
giúp đỡ nhau, động viên nhau mà sống. Mới sinh ra, Tài vẫn là một đứa trẻ bình
thường, vẫn vui chơi, vẫn bò, vẫn đòi mẹ bế, vẫn bi bô tập nói...như bao đứa trẻ
khác. Khi vào mẫu giáo, Tài có dấu hiệu về trí tuệ, không phát triển như các
bạn. Ở độ tuổi mẫu giáo, hầu hết các trẻ đều nhanh nhẹn,tiếp thu mọi thứ rất
nhanh. Là lúc trí tuệ các em phát triển một cách linh hoạt nhưng Tài thì không.
Tài cũng được dạy bảo như các bạn nhưng tất cả dường như rất khó đối với em,
em không hề nhớ những gì cô dạy ngày hôm trước thậm chí cách vài giờ đồng
hồ. Em tiếp thu bài khá lâu, mặc dầu nghe tốt nhưng Tài không hiểu. Về sau, gia
đình có đưa em đi chữa ở một số nơi nhưng kết quả không mấy khả quan. Bác sĩ
bảo rằng Tài mắc chứng thiểu năng trí tuệ bẩm sinh. Nguyên nhân là do khi
mang thai Tài thì mẹ bị ốm và uống một lượng thuốc khá lớn. Và một phần là
khi mới sinh ra Tài hay mắc bệnh như ho, sốt xuất huyết phải thường xuyên vào
bệnh viện nên mới dẫn ra tình trạng như thế. Trong thời kì, Tài từ 1- 2 tuổi, bố
mẹ thường xuyên đi làm, ít quan tâm, chăm sóc đến em nên có lẽ đó cũng là
một nguyên nhân không nhỏ. Trong thời gian đó, Tài thiếu đi sự chiều chuông
của bố mẹ, cả ngày chỉ gặp bố mẹ được vài giờ, em được gửi cho bà ngoại, có
khi chơi với những bạn gần nhà.
Tài – một học sinh được gọi là nổi trội của lớp. Em ít phát biểu xây dựng
bài nhưng trong lớp lại phát ngôn lung tung. Nhìn bề ngoài có vẻ ít nói, khó gần
nhưng em là trẻ khuyết tật mà, đôi khi lại mặc cảm. Những ai đã thân quen với
em rồi, em không ngại khi bắt chuyện, em biết quan tâm đến cảm xúc và thái độ
của người khác. Tài mang một vẻ bề ngoài cao to, mang dáng dấp của người
quản lý, người có uy quyền. Nhìn Tài nghiêm nghị lắm. Bởi vậy, Tài là anh cả
của lớp, là lớp trưởng của lớp. Tình hình học tập của em ổn hơn các bạn trong
lớp. Tài học toán tốt hơn Tiếng Việt, có lẽ vì thế mà em thích học Toán. Tài tính
toán được, nhanh nhưng đôi khi lại bất cẩn. Còn tiếng Việt, Tài chưa nhận diện
được hết các âm trong bảng chữ cái. Em chỉ mới nhận diện được một số âm cơ
bản, chưa đánh vần được. Viết chữ thì Tài viết được nhưng có khi không thẳng
hàng, có chữ to chữ nhỏ, đôi khi lại thừa nét thiếu nét. Phần lớn là do Tài không
tập trung chú ý nghe cô giáo giảng bài. Âm nhạc: dường như em không thích
hát, không có hứng thú khi tập hát. Em chỉ ngồi vỗ tay khi thầy giáo bắt hát.
Hầu như em không nhớ tên các bài cũng như lời bài hát đã được học. Thậm chí
.
bài hát thầy mới dạy cho em, em vẫn quên. Em chỉ thuộc mỗi bài “Mẹ đi vắng”,
bài hát đi theo năm tháng của Tài. Cứ mỗi lần sinh hoạt hay thầy giáo gọi lên
hát thì Tài cũng chỉ hát bài đó. Dường như bài hát có chút gì ảnh hưởng đến em,
có chút gì đó gọi là thói quen Tài đã trải qua nên Tài nhớ rất rõ lời bài hát đó.
Thể dục: môn học gọi là lợi thế của Tài với thân hình to khỏe, cao ráo. Nhưng
tính Tài chậm chạp nên có vẻ em phản ứng hơi chậm. Khả năng phối hợp giữa
tay và chân của em còn kém. Em cũng rất tích cực trong giờ học, cố gắng vận
động và ghi nhớ những động tác mà thầy đã dạy. Kĩ năng tự phục vụ: Tài không
nhớ các bài giảng của cô nhưng khi cô nhắc các bước thực hiện được. Các bài
giảng của cô dường như là những việc hằng ngày mà Tài vẫn thường hay làm đã
được bố mẹ hướng dẫn nên rất dễ dàng đối với em. Em tiếp thu bài giảng của cô
rất nhanh lại hay quên. Vẽ - mĩ thuật: Tài biết cách chọn màu, phân biệt được
màu sắc. Em vẽ được những họa tiết đơn giản như bông hoa, ngôi nhà, ông mặt
trời...Trong giờ học, em chăm chú nghe cô giáo giảng bài. Em quan sát tỉ mỉ
từng nét vẽ của cô giáo rồi cẩn thận trong từng nét vẽ. Tin: Tài nhận biết được
các hình ảnh trong máy tính. Biết cách điều khiển con trỏ theo ý muốn của
mình, làm được thao tát mở và tắt các thanh cửa sổ. Hiểu và làm được các yêu
cầu của thầy giáo nhưng hơi chậm. Trí nhớ của Tài kém nên các bài học ở lớp
hầu như Tài rất hay nhanh quên. Bài nào có ấn tượng nhiều với em thì em còn
nhớ được lâu. Nhưng Tài lại nhớ rất rõ những ai đã từng tiếp xúc hay trò chuyện
với em. Tài rất thụ động trong việc phát biểu ý kiến.
Tình trạng thể chất của thân chủ:
- Cân nặng: 64 kg
- Chiều cao: 1m58
- Tình trạng sức khỏe của thân chủ dường như bình thường, không có
khuyết tật gì ở bên ngoài. Khi phát hiện em mắc chứng kém phát triển trí
tuệ thì ba mẹ cũng đưa em đến bệnh viện và đi nhiều nơi để chữa trị
nhưng cũng không khả quan. Hầu như cơ thể em phát triển bình thường
như các bạn cùng trang lứa. Móng tay và móng chân của em “cùn”,
không có; tóc thì bạc vì mang nhóm máu xấu. Khi chuyển trời, thì em lại
ho vì có bệnh viêm phổi kèm theo khi phát hiện bệnh.
Tài không thích một cái gì cụ thể. Em thích được đi học, thích ngắm cô
giáo, thích giúp đỡ cô giáo cũng như mọi người xung quanh. Em cũng ham
học hỏi, em thích những thứ lạ mắt, thích ngắm những cái đẹp. Thích được
ai đó khen, thích được tuyên dương. Tài thích học Tin trên máy tính, thích
được thầy giáo cho chơi game trên máy tính. Thích được ba mẹ dẫn đi chơi,ở
.
nhà em thích phụ mẹ nấu ăn.Và đặc biệt là rất thích nghe ai đó hát. Em còn
thích ăn chay. Thói quen của em là ngồi học hay rung đùi, hay phát ngôn bừa
bãi trong giờ học. Thường xuyên không tập trung trong giờ học, hay nhìn
đâu đó, không hề chú ý đến lời cô giáo giảng. Tài hay nhìn lén ai đó, nếu bị
phát hiện thì em chỉ cười và có một ánh mắt khác thường. Em có vẻ ngại khi
ai đó xem em làm bài, em thường che bài lại không cho ai nhìn. Em còn có
thói qen hay giả dọng của người khác.
Thân chủ ý thức được mình là ai, mình mặc chứng bệnh gì. Em có đôi lúc
tự ti, mặc cảm trước đám đông khi nhắc đên bệnh của mình. Nhưng đôi khi
lại tự tin trước đám đông, phát ngôn những câu nói khiến người khác cười
nhưng cũng có lúc gây khó chịu cho người nghe.
Bây giờ thì Tài vẫn chưa theo một tôn giáo nào nhưng lại có ước nguyện
là khi rời trường Tương Lai thì lại thích vào chùa ở.
Thông tin môi trường thân chủ
Họ và tên cha: Trần Ngọc Thắng
Nghề nghiệp: thợ nề
Họ và tên mẹ: Hồ Thị Tuyết Sâm
Nghề nghiệp: nội trợ và lao công ở bệnh viện
Anh (chị) em ruột: Trần Anh Hiếu
9 tuổi
Học sinh trường: tiểu học Lý Tự Trọng
Các thành viên trong gia đình Tài rất yêu thương em, quan tâm đến tình
trạng sức khỏe cũng như học tập của em. Vốn dĩ là Tài mắc chứng chậm phát
triển nhưng trong gia đình Tài vẫn được xem như một đứa trẻ bình thường cũng
hoạt bát, lanh lợi. Tài vẫn giữ được chức vụ làm đứa con trai đầu của ba mẹ và
vẫn làm anh hai của em. Em vẫn được tôn trọng về mọi mặt. Cuộc sống gia đình
có khó khăn nhưng các thành viên hết mực yêu thương nhau, đùm bọc lấy nhau
để mà vươn lên. Cũng nhờ đó mà Tài có đủ động lực, đủ niềm tin để vươn lên
trong cuộc sống. Giúp Tài không có mặc cảm với mọi người. Gia đình đã tạo
cho Tài một chút gì đó gọi là “cơ hội” để tiếp đi tiếp con đường con lại của
mình. Gia đình đã cố gắng bù đắp những gì có thể cho em, không bỏ rơi em,
ủng hộ em để đứng vững, đối mặt với cuộc sống đầy trắc trở này. Có thể nói gia
đình là tia nắng ấm áp nhất đối với cuộc đời Tài. Vì khi phát hiện bệnh của Tài
.
thì ba mẹ cũng phần nào biết được nguyên nhân từ đâu nên từ khi đó ba mẹ em
để ý đến em và coi trọng việc chăm sóc con cái hơn. Một phần nguyên nhân dẫn
đến bệnh của Tài là do ba mẹ thường không thường xuyên ở bên Tài để chăm
sóc, Tài thiếu thốn tình thương, thiếu sự ôm ấp, chìu chuộng của bố mẹ và
không được tiếp xúc hay chơi với các bạn cũng trang lứa. Từ đó ba mẹ đã đặc
biệt chú ý đến sức khỏe của em nhiều hơn và có cơ hội được chăm sóc cho Tài.
Tài vẫn giữ được chức là anh cả trong nhà. Vẫn được em trai gọi là anh, Hiếu
cũng rất yêu thương Tài. Hiếu không giờ làm Tài bị tổn thương khi biết anh
mình bị như vậy. Tài cũng tỏ ra nghiêm khắc, có quyền lực đối với em trai
mình. Tài rất hay đánh Hiếu khi Hiếu không vâng lời ba mẹ hay là nghịch phá
gì trong nhà. Tài vẫn được coi trọng, vẫn giữ được vai trò của mình trong gia
đình. Trong gia đình, Tài cái gì cũng được ưu ái và được phần nhiều nhưng Tài
lại nhường cho em trai. Tài thương em trai nhiều lắm, biết che chở cho em, biết
giúp đỡ Hiếu khi Hiếu khó khăn.
Môi trường sống xung quanh thân chủ khá tốt, em rất dễ gần, rất hòa
đồng với mọi người xung quanh. Hàng xóm cũng rất mến em vì em tính em rất
hiền, ngoan ngoãn, biết vâng lời người lớn. Các thầy cô giáo trong trường cũng
thương yêu em, xem em như một đứa con của mình. Vì em biết giúp đỡ thầy cô
giáo, biết nhận lỗi và sửa lỗi. Em còn là một học sinh ngoan của trường, biết
phấn đấu trong học tập. Thầy cô quan tâm đến em nhiều hơn các bạn khác. Em
chủ động trong việc giao tiếp với bạn bè. Em luôn giúp đỡ bạn bè trong lớp
cũng như ngoài lớp. Bạn bè cũng rất quí em. Môi trường gia đình là chỗ dựa
vững chắc, đó là nơi là đặt niềm tin nhiều nhất. Tài cho biết mọi người xung
quanh em đều thương yêu em, quan tâm, giúp đỡ em. Các dịch vụ y tế, bảo
hiểm xã hội cũng trợ cấp miễn phí cho em mỗi khi ốm đau. Em được chính
quyền địa phương cấp bảo hiểm miễn phí hằng năm và mỗi tháng được trợ cấp
200000 nghìn đồng mỗi tháng.
.
Sơ đồ phả hệ của thân chủ:
Ông nội
Bà
nội
Ông
ngoại
Bác Hai
Ba
Mẹ
Thân chủ
Ghi chú:
: con trai
: con gái
: quan hệ thân thiết
:quan hệ bình thương, tốt
: kết hôn
Em trai
Bà
ngoại
Cậu Ba
.
Giải thích:
Qua sơ đồ phả hệ của thân chủ cho chúng ta thấy thân chủ có ít mối quan
hệ. Giữa thân chủ và mẹ có mối quan hệ mật thiết, có sự tác động hai chiều gần
gũi. Mẹ là người yêu thương và hiểu em nhất, mẹ luôn động viên em vượt qua
mọi hoàn cảnh cố gắng học tập tốt. Mẹ là luôn chỉ bảo cho em học hành và
chăm sóc cho em nhiều nhất, mẹ luôn khuyên răn nhẹ nhàng và động viên an ủi
em – điều này chứng tỏ giữa mẹ và thân chủ có mối quan hệ tốt đẹp. Ba cũng
vậy, cũng luôn đứng phía sau để cỗ vũ động viên Tài. Ba thì ít nói nhưng vẫn
dõi theo từng bước chân của em, cũng thường tâm sự với em, quan tâm và yêu
thương em. Ba và Tài cũng có quan hệ mật thiết với nhau. Những người có ảnh
hưởng và có mối quan hệ tốt đẹp nữa là em trai, gia đình nội, ngoại, chú và cậu
của em. Những người này cũng rất quan tâm đến em, chăm sóc và yêu thương
em. Tuy ông bà nội và ông bà ngoại ở xa nhưng lâu lâu ba mẹ vẫn đưa em về
thăm ông bà cũng như bác và cậu.
.
Sơ đồ sinh thái:
Chính sách xã hội
Chính quyền địa phương
Họ nội
Mẹ
Họ ngoại
Trường học
Tài
Ba
(14 tuổi, chứng
baba
chậm phát triển
trí tuệ)
Y tế
Hàng xóm
Bạn bè
Em trai(9 tuổi)
Vui chơi, giải trí
(
Bảo hiểm xã hội
Ghi chú:
: tác động với nhau, mối quan hệ bình thường
: tác động với nhau, mối quan hệ thân thiết
.
: tác động một chiều, mối quan hệ không thường xuyên
Giải thích:
Mối quan hệ giữa thân chủ với ba mẹ và emtrai, gia đình nội, ngoại và bà
con hàng xóm là mối quan hệ có tác động hai chiều. Thân chủ là người rất dễ
gần nên mối quan hệ giữa em với cô giáo viên chủ nhiệm rất thân thiết, gần gũi.
Giáo viên chủ nhiệm rất hiểu hoàn cảnh của em, cô luôn động viên, khuyến
khích em trong học tập. Em là lớp trưởng nên được các bạn tôn trọng, em rất
nhiệt tình trong các mối quan hệ với bạn bè. Tài không chơi thân với ai, ai Tài
cũng có thể nói chuyện và vui đùa. Bạn bè gần nhà thì cũng hay sang chơi, hầu
như các bạn đều hiểu được hoàn cảnh của em cũng hay chia sẻ, thông cảm và
giúp đỡ em. Mối quan hệ của thân chủ với dịch vụ vui chơi giải trí là không
thường xuyên, chăm sóc sức khỏe (y tế) là mối quan hệ thường xuyên.
3. Vấn đề của thân chủ:
Sau một thường gian tìm hiểu thông tin, tôi thấy được Tài sinh ra trong
một gia đình khó khăn. Ba mẹ phải mưu sinh,tìm kiếm việc làm ở nhiều chỗ.
Điều đó cũng một phần nào đó làm em tổn thương, gia đình mình không có điều
kiện như các bạn, đôi mắt em lắm lúc buồn. Khi còn nhỏ, Tài thiếu đi tình yêu
thương của bố mẹ, thiếu sự chăm sóc của bàn tay mẹ nên em có cảm giác như bị
bỏ rơi. Và đến bây giờ, thì em đã phần nào cảm nhận được tình yêu thương của
ba mẹ vì ba mẹ đã quan tâm em nhiều hơn. Trong sinh hoạt, em thành thạo với
những việc làm mà ba mẹ đã dạy cho, Tài tự phục vụ bản thân mình rất tốt,biết
cách giữ gìn vệ sinh. Trong học tập, Tài cũng rất nỗ lực. Tính toán Tài làm rất
tốt, nhanh nhưng tiếng việt thì lại chưa sâu. Em chưa đánh vần được các vần,
chưa nhận diện được các âm trong bảng chữ cái, em chỉ mới nhận diện được các
âm cơ bản. Và đó là vấn đề trọng tâm của thân chủ.
4. Tiến trình làm việc với thân chủ:
Giai đoạn 1: Tiếp cận thân chủ và nhận diện vấn đề của thân chủ
Được thầy giáo hướng dẫn dẫn đến trường chuyên biệt Tương Lai, nơi
thân chủ đang học. Thoạt đầu là gặp thầy hiệu trưởng và phó hiểu trưởng của
trường. Rồi sau đó nhận lớp, được sự hướng dẫn của cô giáo chủ nhiệm của lớp
mà thân chủ đang học thì tôi cùng hai bạn khác biết được tên từng học sinh.
Tuần đầu tiên,tôi quan sát bao quát cả lớp, quan sát các em học tập, giao tiếp
xung quanh, vui chơi của từng em và tiếp xúc với từng em. Rồi tìm hiểu thông
.
tin từng em từ cô giáo chủ nhiệm. Qua quan sát sơ bộ và tôi có ấn tượng với anh
chàng lớp trưởng – Tài và quyết định chọn làm thân chủ cho bài báo cáo.
Bản thân đã được học môn học tâm lý phát triển (tâm lý học lứa tuổi) nên tôi
nắm được tâm lý của trẻ trong độ tuổi này.
Thân chủ là người khá hòa đồng, dễ gần, không nhút nhát khi tôi gặp để
trao đổi công việc và nói chuyện với em.
Được học xong lý thuyết môn học Công tác xã hội với cá nhân đã giúp cho
bản thân tôi có thêm nhiều hiểu biết hơn, áp dụng các kiến thức lý thuyết vào
thực tế để đi đúng hướng và thiết lập được mối quan hệ giữa tôi với thân chủ.
Khó khăn:
- Thân chủ là người khuyết tật, có những thông tin thân chủ đưa ra không
đúng với thực tế, có khi cùng một câu hỏi nhưng em lại có câu trả lời
khác nhau.
- Lịch học của tôi và của thân chủ trùng nhau, không đủ thời gian để tôi và
em làm việc với em, ít gặp gỡ và trò chuyện. Thoạt đầu, thân chủ chưa
hiểu được mục đích của việc làm của tôi nên chưa bộc lộ tâm sự của
mình.
Nhận diện vấn đề:
Từ những khó khăn của mình khi gặp thân chủ, dần dần tôi đã thiết lập mối
quan hệ giữa tôi và thân chủ khá tốt. Mỗi lần trò chuyện thì tôi nói to hơn, bản
thân sắp xếp thời gian gặp gỡ giữa tôi và thân chủ nhiều hơn và đặc biệt trong
những lần nói chuyện thì tôi tâm sự về bản thân mình nhiều hơn, kể cho em
nghe những câu chuyện vui…Em đã tin tưởng và chia sẻ với tôi những khó
khăn hiện em đang gặp phải. Tôi đưa ra 3 mảng vấn đề để em lựa chọn xem là
mình khó khăn về vấn đề gì nhất: Hành vi cư xử, học tập hoặc truyền thông giao
tiếp.
Em suy nghĩ một lúc rồi nói “em thấy mình chưa có khả năng đánh vần nên
em muốn chị hỗ trợ, giúp đỡ em về học tập”.
.
Nghe những tâm sự của thân chủ mà tôi thấy tội nghiệp cho em, tuy vậy
nhưng tôi phải kiềm chế không để bộc lộ cảm xúc của bản thân ngay trước mặt
thân chủ.
Lúc đầu đang trong giai đoạn nhận diện vấn đề thì tôi nhận thấy em có 2
vấn đề lớn cần sự can thiệp, hỗ trợ đó là vấn đề về học tập và hành vi cư xử. Tôi
có ý định chọn vấn đề về hành vi cư xử nhưng được sự hướng dẫn của mẹ thân
chủ thì tôi nhận ra rằng thân chủ có những hành vi cư xử như vậy là do em bị
khuyết tật trí tuệ. Một người bị khuyết tật bao giờ họ cũng tự tạo ra cho mình
một cái “vỏ bọc” để họ không tủi thân…chính vì thế nếu can thiệp vào lĩnh vực
này mà không khéo léo, tế nhị sẽ làm cho thân chủ mất thăng bằng gây sụp đổ
niềm tin nơi thân chủ. Hơn nữa hành vi cư xử là vấn đề rất khó khăn đòi hỏi
phải có sự nỗ lực can thiệp trong thời gian dài. Do vậy tôi nhận thấy là mình chỉ
nên khuyên nhủ, giảng giải và giải thích cho thân chủ hiểu nên cư xử như thế
nào cho đúng mực để được gia đình, thầy cô và bạn bè yêu mến còn lĩnh vực mà
thân chủ mong muốn tôi hỗ trợ, giúp đỡ và tôi sẽ hướng đến can thiệp cho thân
chủ là lĩnh vực học tập.
Mô tả vấn đề:
- Tên vấn đề: thân chủ chưa đánh vần được các từ, các vần và chưa nhận
dạng được hết các âm trong bảng chữ cái.
Về việc chưa có khả năng đánh vần thì thân chủ cũng đã cố gắng để phấn
đấu, rèn luyện nhiều nhưng thân chủ vẫn chưa làm được. Khi cô giáo gọi lên
bảng làm bài hay đọc bài thì Tài không đọc được thì em có vẻ tức vì bản
thân mình không cô vui, ánh mắt thoáng buồn. Em đã cố gắng nhưng vẫn
không được. Tuy cô giáo chủ nhiệm và bạn bè có hướng dẫn chi tiết nhưng
em vẫn không làm được, một phần là do em nhanh quên, không nhắc lại bài
được.
- Nguyên nhân:
.
+ Khả năng tiếp thu chậm, nhanh quên
+ Không tập trung nghe cô giáo giảng bài
+ Chưa thực sự nỗ lực, chưa chăm học
+ Lười đọc bài, không đọc theo khi cô giáo cho cả lớp đánh vần đồng thanh
+ Mất gốc ngay từ nhỏ, thầy cô giáo ít để ít đến em
- Hậu quả:
+ Không theo kịp bạn bè
+ Bị hỏng kiến thức
+ Không đọc được chữ, không biết chữ
+ Mặc cảm khi tiếp xúc với bạn bè.
Giai đoạn 2: Đánh giá và lập kế hoạch giúp đỡ
Đánh giá vấn đề:
Học là một vấn đề cơ bản của học sinh nói chung và của thân chủ nói
riêng. Và đọc được chữ, đánh vần được các vần là một việc không thiếu trong
học tập cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Tài đánh vần rất chậm, mất căn
bản ngay từ đầu, ba mẹ bận công việc đi làm suốt cả ngày nên ít có thời gian
quan tâm đến việc học của em, do không ai quản lý thường xuyên nên em
không chăm học, bản thân em không ý thức được tầm quan trọng của việc đọc
chữ.
Qua những tâm sự, chuyên trò cùng thân chủ đã bộc lộ, thể hiện khao
khát ước muốn sẽ học tiến bộ hơn, sẽ đánh vần, đọc được các từ một cách lưu
loáng để thầy cô vui lòng, tin tưởng hơn. Bố mẹ thương yêu và tin tưởng nhiều
hơn.
.
Chính vì vậy mà sau khi nhận diện vấn đề tôi nghĩ là mình nên hỗ trợ, can
thiệp, giúp đỡ để thân chủ đánh vần và phân biệt được các âm trong bảng chữ
cái.
Thân chủ là người dễ gần và khá hòa đồng với mọi người xung quanh, đây là
thế mạnh của thân chủ, do đó tôi sẽ cùng thân chủ thảo luận lập kế hoạch hỗ trợ,
giúp đỡ nhằm khắc phục tình trạng khó khăn của thân chủ dựa trên tiềm năng
của thân chủ và gia đình, giáo viên chủ nhiệm, những người thân của thân chủ.
Đây là các kênh hỗ trợ mà tôi cho là sẽ mang lại hiệu quả cao nhất, giúp thân
chủ cảm thấy tự tin hơn trong khi quá trình học cũng như trong cuộc sống.
Qua quá trình thực hành 5 tuần ở trường mà đặc biệt là qua quá trình tiếp
xúc với thân chủ thì tôi đã nêu được cây vấn đề như sau:
Hậu
quả
Không
theo
kịp bạn
bè
Vấn đề chính
Nguyên
nhân
Bị
hỏng
kiến
thức
Không
đọc
được
chữ
Mặc
cảm
với
bạn bè
Chưa đánh vần được,
chưa nhận diện được các
âm trong bảng chữ cái
Tiếp
thu
chậm,
nhanh
quên
Không
tập
trung
nghe
cô giáo
giảng
bài
Không
chăm
học
(lười
đọc)
Mất
gốc
.
Qua tìm hiểu thì tôi nhận thấy Tài có vấn đề lớn là chưa đánh vần được,
chưa nhận diện được các âm trong các âm trong bảng chữ cái, thái độ học tập
chưa nghiêm túc, trí nhớ kém, hay nói leo,...nhưng vấn đề được tôi và thân chủ
cùng thảo luận đưa ra đó là vấn đề học tiếng việt của thân chủ, được sự hướng
dẫn của cô giáo chủ nhiệm và sự đồng ý, ủng hộ của ba mẹ thân chủ thì tôi đã
quyết định chọn vấn đề đó để cùng thân chủ lên kế hoạch can thiệp, giúp
đỡ.Nhìn vào cây vấn đề trên, ta có thể thấy đượccác nguyên nhân đẫn đềnthân
chủ học yếu đó là: kĩ năng tiếp thu chậm, nhanh quên, trí nhớ kém điều này liên
quan đến năng lực tư duy của em, em tiếp thu bài rất chậm, các thầy cô giáo
hoặc bạn bè giảng bài thật chi tiết cho em thì em hiểu nhưng em nhanh quên.
Nguyên nhân thứ hai là do trong giờ học, em không tập trung chú ý nghe lời
giảng của cô giáo, em hay nhìn quanh quẩn đâu đó. Và nguyên nhân nữa là do
em không chăm học , em rất lười đọc bài, thụ động trong việc đánh vần, không
đọc theo cô. Nguyên nhân chính là đã mất kiến thức khi học lớp một, tuy thầy
cô đã tận tình bày em nhưng em vẫn tiếp thu được, kiến thức nền tảng em không
có nên dẫn đến em không thể đánh vần được.
Vấn đề chưa đánh vần được, chưa nhận biết được các âm trong bảng chữ
cái để lại những hậu quả là: em sẽ không theo kịp bạn bè cùng trang lứa, có mặc
cảm với các bạn bè, không tự tin giao tiếp với các bạn. Hậu quả nặng nhất là
hỏng kiến thức, không đọc được chữ. Khi lớn lên, ễm không tự tin khi ra ngoài.
Dần dần, em có khoảng cách, rào cản vào thế giới xung quanh. Nếu như không
sớm khắc phục tình trạng này thì thân chủ sẽ có nguy cơ là sẽ không đọc chữ...
Chính vì thế, tôi muốn làm việc với thân chủ để tham vấn cho em và đồng thời
tác động tới thầy cô, bạn bè và đặc biệt là gia đình em để ba mẹ thân chủ hiểu
hơn tầm quan trọng của việc đọc chữ, biết chữ và từ đó tác động hỗ trợ giúp
thân chủ thực hiện.
.
Mục tiêu và lập kế hoạch:
Điểm mạnh của thân chủ:
- Ngoan ngoãn, biết vâng lời thầy cô giáo và các anh chị sinh viên.
- Yêu gia đình và cô Hà.
- Tự ăn uống, tự phục vụ bản thân tốt.
- Biết tính toán.
- Biết cách cư xử với bạn bè.
- Thích vẽ tranh.
- Ngồi đúng vị trí của mình.
- Thích được chơi trò chơi.
- Biết giúp đỡ thầy cô, bạn bè.
Điểm yếu của thân chủ:
- Tiếp thu chậm, mau quên.
- Chậm chạp, hay đánh bạn.
- Chưa đánh vần được, chưa nhận diện được hết các âm trong bảng chữ cái.
- Không tập trung trong giờ học.
Bảng kế hoạch giúp đỡ:
Mục tiêu
Cải thiện trí nhớ
Hành động
- Nâng cao
khả năng học tập.
- Cho em
chơi 1 số trò chơi
tăng trí nhớ.
- Ôn tập bài
nhiều hơn, bài cho
Thời gian dự kiến
hoàn thành
Tuần 2: từ 22 –
25/4/2015
Người tổ chức
chịu trách nhiệm
- Giáo viên
hướng dẫ
tại trường
của thân
chủ.
- Phó giám
đốc trường.
.
em cách đánh vần.
- Phối hợp
Tuần 2 – 3
vừa học vừa chơi.
- Có quà nếu
học tốt hơn.
Giúp em đánh vần
- Cho em đọc Tuần 3 – 4
chuẩn hơn
bài nhiều
hơn.
- Hướng dẫn
cách phát
âm, nhận
biết các âm
trong bảng
chữ cái.
Thay đổi hành vi
- Không cho Tuần 4
của thân chủ
em đánh
hay chọc
phá bạn.
- Tập trung
chú ý trong
giờ học.
- Không phát
ngôn bừa
bãi trong
lớp.
Giúp em có hứng
thú trong học tập
- Phụ huynh
và bản thân
thân chủ.
- Bản thân
thân chủ.
- Bản thân
sinh viên.
- Bản thân
thân chủ.
- Bản thân
sinh viên.
- Bản thân
thân chủ.
- Bản thân
sinh viên.
Giai đoạn 3: Thực hiện kế hoạch giúp đỡ (quá trình can thiệp)
Đối với cá nhân thân chủ:
Phát huy tiềm năng của thân chủ cùng thân chủ giải quyết vấn đề (thân
chủ rất hòa đồng với mọi người).
Thuyết phục thân chủ phải tập trung nghe cô giáo giảng bài, không làm
việc riêng, không chọc phá bạn bè, phải nghiêm túc trong giờ học.