Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Thực trạng và giải pháp chống tham nhũng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.87 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu
I. THAM NHŨNG
1. Tổng quan về tham nhũng
1.1.Khái niệm
1.2. Nguyên nhân và nguồn hình thành tham nhũng
1.3. Phân loại và các hình thức biểu hiện của tham nhũng
1.4. Công cụ nhận dạng tham nhũng
2. Phân tích tác động của tham nhũng tới phát triển kinh tế - xã hội
2.1. Tác động của tham nhũng đến phân bổ nguồn lực
2.2. Tác động của tham nhũng đến chính sách kinh tế và cải cách thể chế
2.3. Ảnh hưởng đến phân phối thu nhập và công bằng xã hội.
2.4. Tham nhũng đối với nền kinh tế thị trường
2.5. Tham nhũng trong nền kinh tế mở
II. THAM NHŨNG TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng tham nhũng của Việt Nam
1.1. Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI)
1.2. Một số lĩnh vực có tham nhũng tiêu biểu
2. Phòng chống tham nhũng tại Việt Nam
2.1. Thể chế và khung pháp lý
2.2 Vai trò của công dân trong phòng chống tham nhũng
2.3. Phòng chống tham nhũng ở một số lĩnh vực
III.GIẢI PHÁP
1. Giải pháp phòng ngừa tham nhũng.
2. Các giải pháp phát hiện tham nhũng.
Kết luận

1


Mở đầu


Là một bước đang phát triển, Việt Nam gặp phải nhiều vấn đề thách thức trong
quá trình hội nhập nhất là về kinh tế, khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Bằng
việc phát huy cao độ nguồn nội lực trong nước và sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài, Việt Nam đang cố gắng tiến những bước lớn
trên con đường phát triển kinh tế. Nhưng có một thách thức lớn đang cản trở con
đường ấy, đó là các vấn đề tham nhũng cũng đang ngày càng gia tăng về mức độ
phổ biến, quy mô và thủ đoạn. Tham nhũng là hành vi gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước, đặc biệt là đối với các nước đang
phát triển như Việt Nam làm cho kinh tế chậm phát triển, thất thoát, lãng phí tài
sản của dân, thiệt hại ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế, gia tăng khoảng cách
giàu nghèo, tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng. Hơn nữa, nó làm xói
mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước, làm cho chế độ chính trị
dần suy yếu từ bên trong nếu không kịp thời chấn chỉnh. Điều này đã được
nhóm phân tích trong bài tập lớn “Hãy đánh giá về thực trạng tham nhũng ở Việt
Nam. Làm thể nào để để giảm thiểu tham nhũng ở Việt Nam.” Đồng thời, nhóm
còn đưa ra một số giải pháp phòng chống tham nhũng đối với thực trạng tham
nhũng hiện nay tại Việt Nam. Nhóm rất mong được sự góp ý từ thầy!

2


I. THAM NHŨNG
1. Tổng quan về tham nhũng
1.1.Khái niệm
Theo Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế(Transparency International - TI), tham
nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân. Tham
nhũng là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế - xã
hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện tượng
tham nhũng và các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền lực
chính trị được biến thành quyền lực kinh tế.

Tham nhũng làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội, làm giảm lòng tin của công
dân vào nhà nước, đến chừng mực nào đó nó gây mất ổn định chính trị, kinh tế xã hội.
Theo World Bank,tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực công vì mục đích tư lợi.
Khái niệm được pháp luật Việt Nam quy định (tại Luật phòng, chống tham
nhũng năm 2005), tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
1.2. Nguyên nhân và nguồn hình thành tham nhũng
Nạn tham nhũng và gian lận có ở cả những khu vực nhà nước cũng như khu vực
kinh tế tư nhân.Tình hình đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên
nhân chủ yếu sau:
- Mức lương của khu vực công thấp, chưa hợp lý, dẫn đến việc họ lạm dụng
chức quyền để “kiếm thêm thu nhập”.
- Chất lượng của bộ máy công quyền cùng cách thức quản lý, kiểm soát trong
khu vực công còn yếu kém, chưa hiệu quả.
- Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin - cho” trong hoạt
động công vụ vẫn còn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp
lý. Cơ chế “xin - cho” là một trong những nguy cơ của tệ tham nhũng, hối lộ mà
đến nay vẫn chưa có cách khắc phục.
3


- Chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước trong đấu tranh chống tham
nhũng chưa rõ ràng, thậm chí chồng chéo, thiếu một cơ chế phối hợp cụ thể, hữu
hiệu. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham
nhũng ở một số nơi chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; việc xử lý tham nhũng
chưa nghiêm.
1.3. Phân loại và các hình thức biểu hiện của tham nhũng
a, Phân loại
*Chia theo lĩnh vực thì tham nhũng gồm:
- Tham nhũng chính trị: là dạng tham nhũng được hình thành do sự cấu kết giữa

những người có ảnh hưởng trong hệ thống chính trị, chủ yếu là những quan chức
cấp cao trong bộ máy cầm quyền, nhằm tạo ra những quyết định, hay tìm cách
tác động thiên lệch vào những quyết sách của nhà nước có lợi cho một cá nhân,
doanh nghiệp hoặc những nhóm lợi ích nào đó.
- Tham nhũng hành chính: là dạng tham nhũng xảy ra phổ biến trong các hoạt
động quản lý hành chính của đội ngũ công chức hành chính. Tham nhũng hành
chính bao gồm các hành vi làm thay thế sự thực thi chính sách. Biểu hiện của
tham nhũng hành chính là: hạch sách, nhũng nhiễu trong việc thực hiện một thủ
tục, một quyết định cụ thể nào đó mà công dân, tổ chức có quyền được hưởng từ
cơ quan hành chính nhà nước, thiên vị trong thực hiện pháp luật…
- Tham nhũng kinh tế: là dạng tham nhũng xảy ra trong hoạt động quản lý kinh
tế như sản xuất kinh doanh, dịch vụ, mua sắm tài sản công, quản lý tài sản…
được thực hiện bởi những người có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về kinh
tế, những người có thẩm quyền trong doanh nghiệp nhà nước. Biểu hiện của
tham nhũng kinh tế là: chiếm đoạt trái phép các tài sản của nhà nước, công dân
nhằm trục lợi cá nhân; ra các quyết định kinh tế trái pháp luật hoặc thiên vị
nhằm trục lợi cá nhân; lợi dụng sơ hở của pháp luật hoặc vi phạm pháp luật để
tiến hành sản xuất, kinh doanh, trục lợi, gây thiệt hại cho xã hội…
*Chia theo mức độ, tham nhũng gồm:
- Tham nhũng lớn thường liên quan tới một khối lượng tiền lớn và dính líu tới
quan chức cao cấp, xảy ra chủ yếu liên quan đến dự án thu mua lớn và phổ biến
4


trong các dự án xây dựng công cộng và tư nhân, bệnh viện; trong các hợp đồng
vũ khí và quốc phòng, trong công nghệ vũ khí mới,….
- Tham nhũng vặt, bao gồm khối lượng tiền tương đối nhỏ và các quan chức tầm
chung, là loại tham nhũng diễn ra thường ngày, khi các nhân viên công chức tiếp
xúc với quần chúng. Những vụ tham nhũng vặt còn hay xảy ra khi người dân và
các công ty tìm cách né tránh nghĩa vụ và các khoản thuế và khi các viên chức

lạm dụng quy định theo ý của họ bằng cách cố gắng bòn rút tiền từ các công dân
và các công ty.
b, Các hình thức biểu hiện của tham nhũng
- Hối lộ: Hối lộ là cho ai đó một lợi ích nào đó để gây ảnh hưởng lên một quyết
định hoặc hành động.
- Gian lận và Dối trá: Gian lận và dối trá liên quan đến giấy tờ giả mạo, lừa lọc
và bóp méo sự thật về những mục đích cá nhân của họ..
- Chiếm đoạt: Khi một cá nhân dính vào vụ việc chuyển tiền hoặc hàng hóa phi
pháp từ nơi này sang nơi khác thì người đó được coi là thực hiện hành vi chiếm
đoạt.
- Tham nhũng có hệ thống: Khi tham nhũng không những suy giảm đi mà còn
được thừa nhận như “điều tất yếu” và là một phần của thủ tục trong các công
việc chung và riêng của một tổ chức và một xã hội thì ta gọi đó là tham nhũng
hệ thống.
- Tham nhũng có móc ngoặc: Tham nhũng có móc ngoặc xuất hiện trong các
mối quan hệ có từ hai cá nhân trở lên. Nó có thể xảy ra khi bản chất của việc
giao dịch là phi pháp hoặc khi một trong các bên muốn dành được phần lợi
nhiểu nhất so với các bên khác.
- Tống tiền: Sử dụng vũ lực, hăm dọa, đe dọa đến một cá nhân hoặc một tổ chức
để có được sự bảo hộ, thiên vị hoặc lợi ích từ đối thủ của mình.
- Lạm dụng quyền hạn: Một vài cá nhân có thể lạm dụng quyền hạn được giao
để phục vụ cho mục đích cá nhân. Tham nhũng dạng này còn bao gồm dung
túng và thiên vị.
5


1.4. Công cụ nhận dạng tham nhũng
Để nhận diện một hành vi có được gọi là tham nhũng hay không hoặc muốn
đánh giá mức độ tham nhũng của hành vi tới đâu ta sử dụng 4 tiêu chí sau:
- Tính trách nhiệm, giải trình: người thực hiện hành vi hay đưa ra chính sách

phải trực tiếp chịu trách nhiệm về hành vi chính sách đó, đồng thời có nghĩa vụ
giải trình về hành vi chính sách của mình.
- Tính minh bạch: được thể hiện trước tiên ở sự công khai, sau đó là mức độ
truyền thông của hành vi tới những người cần được biết.
- Tính tham gia, sự thay đổi: hành vi được tham gia, góp ý, trao đổi bàn luận từ
nhiều phía hay không.
- Tính phổ quát: hành vi ảnh hưởng tiêu cực tới lĩnh vực ở mức độ như nào nếu
mọi người đều làm.
Nếu không đảm bảo đầy đủ 4 yêu cầu tiêu chí trên, thì trên lí thuyết hành vi đó
được gọi là tham nhũng.
Trên thực tế, một hành vi, nếu được gọi là tham nhũng, thì tùy vào mức độ thực
hiện 4 tiêu chí trên để đánh giá mức độ tham nhũng của hành vi.
2. Phân tích tác động của tham nhũng tới phát triển kinh tế - xã hội
2.1. Tác động của tham nhũng đến phân bổ nguồn lực
- Ảnh hưởng đến phân bổ vốn. Một nền kinh tế muốn hoạt động tối ưu thì nguồn
lực quốc gia (nhất là vốn)phải được phân bổ cho đúng giữa đầu tư và chi tiêu,
hơn nữa vốn đầu tư phải được phân bổ cho phù hợp giữa những dự án.
Tham nhũng làm cho sự phân bổ nguồn lực chệch khỏi cấu trúc tối ưu cho tăng
trưởng và phát triển. Bốn xu hướng có thể làm cho vốn đầu tư đi sai mục tiêu và
ngược yêu cầu phát triển, đó là: (1) nếu vốn có thể di chuyển khá dễ dàng từ nơi
này đến nơi khác, người có vốn sẽ đầu tư và quốc gia có ít tham nhũng; (2) trong
một quốc gia, vốn sẽ chảy vào các khu vực ít tham nhũng; (3) nguồn lực nói
chung sẽ được tiêu xài cho hiện tại hơn là đầu tư cho tương lai; (4) những dự án
được đầu tư thường là những dự án quá quy mô và phức tạp, bởi lẽ công trình
càng quy mô, phức tạp thì cơ hội tham nhũng càng nhiều và càng dễ che đậy.
6


- Tham nhũng ảnh hưởng dến phân phối tài năng con người, đưa đẩy con người
vào những hoạt động không có lợi cho xã hội. Thứ nhất, một số cán bộ, người

có chức tách, quyền lực sẽ bị thu hút, dính líu đến tham nhũng vì “thu nhập” ở
lĩnh vực này cao hơn so với các lĩnh vực khác. Thứ hai, nhiều người dân, nhiều
nhà đầu tư phải tốn công sức, chi phí khắc phục các rào cản, thủ tục hành chính
do giới chức trách tham nhũng dàn dựng, lãng phí các nguồn lực mà đáng ra
được đưa vào hoạt động sản xuất.
Mặt khác, nhiều chức vụ trọng yếu sẽ vào tay những người thiếu năng lực do
hiện tượng biếu xén, “đi cửa sau” gây ra nhiều hậu quả khôn lường như: đưa ra
những quyết định sai lầm, gây ra những tổn thất lớn cho đơn vị, hoặc thậm chí là
tổn thất cho cả đất nước. Đồng thời, những con người tài năng sẽ nản lòng để
phục vụ vì những thành phần “con sâu làm rầu nồi canh” kia. Một hậu quả nữa,
đó là thế hệ trẻ sẽ có những nhận thức sai lầm rằng chỉ cần có tiền để chạy chọt,
cùng những mối quan hệ móc nối là có thể tiến thân trong xã hội, dẫn đến tư
tưởng trì trệ, coi nhẹ giáo dục, làm suy giảm tiềm năng tăng trưởng dựa vào
nguồn nhân lực
- Tham nhũng sẽ làm méo mó nguyên tắc cạnh tranh của kinh tế thị trường, cạnh
tranh không còn phản ánh chính xác hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp. Vì
những doanh nghiệp đút lót, sẽ được ưu ái hơn so với các doanh nghiệp khác.
Các chủ doanh nghiệp đút lót cho các thanh tra, để những việc như: điều kiện
thiếu an toàn lao động, thiếu vệ sinh, hay gây ô nhiễm môi trường… được “bưng
bít”, nếu có bị xử phạt cũng chỉ là phạt hành chính nhẹ nhàng.
Đặc biệt, tham nhũng trong đấu thầu, xây dựng cơ bản làm đội chi phí lên cao,
chất lượng công trình thấp, không an toàn, dễ hư hỏng.
2.2. Tác động của tham nhũng đến chính sách kinh tế và cải cách thể chế
- Tham nhũng cũng ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước. Ngân sách bị hụt thu
do có bộ phận doanh nghiệp trốn thuế hoặc được giảm thuế do đã đút lót cho các
quan chức, viên chức và cơ quan có chức năng. Mặt khác, tham nhũng cũng gây
ra tình trạng lạm chi ngân sách cho đầu tư và một số chính sách xã hội do bị lạm
dụng. Vì vậy, hệ quả là ngân sách luôn bị bội chi và bội chi ngày càng tăng do
7



tham nhũng. Để giảm bội chi thì nhà nước hoặc phải cắt giảm các chương trình
phúc lợi xã hội, hoặc là tăng thuế . Khi cắt giảm các chương trình phúc lợi xã
hội sẽ gây thiệt thòi cho những đối tượng xứng đáng được thụ hưởng các
chương trình ấy. Còn nếu tăng thuế thì sẽ làm tăng gánh nặng cho doanh nghiệp,
làm tăng chi phí kinh doanh, làm giảm năng lực cạnh tranh và làm trì trệ các
hoạt động kinh tế, thiệt hại cho các doanh nhân lương thiện.
- Tham nhũng ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ qua ba kênh.
(1) Người đi vay phải chi tiền "lót tay" để được tiếp cận tín dụng với lãi suất
thấp hơn, chất lượng dự án được vay không được coi trọng. Lượng tín dụng
được cấp tăng lên quá mức, dẫn đến lạm phát.
Ví dụ điển hình là kho cà phê của Công ty Trường Ngân. Chủ tịch hội đồng
quản trị đã chỉ đạo Giám đốc công ty TNHH Trường Ngân (trụ sở tại Quận 4,
Thành phố Hồ Chí Minh) gian dối khi kí hợp đồng thế chấp khoản 24.000 tấn cà
phê hạt, nhưng thực chất chỉ có hơn 8.000 tấn thế chấp, khoảng 16.000 tấn bị
công ty thế chấp khống để vay vốn của 7 ngân hàng: ViettinBank, Maritime
bank, VIB, MB, Agribank, Techcombank, với số tiền hơn 600 tỷ đồng. Khi mở
kho cà phê thì phát hiện chỉ có những bao cà phê bên ngoài là thật, còn lại là cỏ
khô, lá khô và rác.
(2) Nếu doanh nghiệp nhà nước được ưu đãi tiếp cận tín dụng, được cấp tín dụng
với lãi suất ưu đãi theo quyết định hành chính thì cơ hội tham nhũng lại đặc biệt
lớn.
Ví dụ của Vinashin, các cán bộ cấp cao của Vinashin đã cố ý làm trái các quy
định của nhà nước về quản lý kinh tế trong lĩnh vực đầu tư, quản lý và sử dụng
vốn, tài sản của nhà nước ở các năm dự án với tổng thiệt hại trên 910 tỷ đồng.
Bao gồm: dự án mưa tàu Hoa Sen gây thiệt hại cho nhà nước số tiền 469,5 tỷ
đồng, trong đó tiền lãi vay và chi phí vay vốn lên tới hơn 464 tỷ; dự án đầu tư
xây dựng nhà máy điện song Hồng (tính Nam Định) là hơn 316,5 tỷ đồng; dự án
đầu tư xây dựng nhà máy nhiệt điện Diezel Cái Lân gây thiệt hại hơn 66,5 tỷ
đồng; dự án đầu tư tàu Bình Định Star gây thiệt hại hơn 30,4 tỷ đồng, việc bán

vỏ tàu Bạch Đằng Giang thiệt hại hơn 27,3 tỷ đồng.
8


(3) Tham nhũng dẫn đến những kẻ làm giàu bất chính thường lén lút chuồn tiền
ra nước ngoài, dẫn đến nhu cầu ngoại tệ tăng cao, suy yếu nội tệ gây sức ép lên
cán cân thanh toán quốc gia.
- Tham nhũng làm chậm và hạn chế quá trình cải cách thể chế, hạn chế công
khai minh bạch vì lợi ích nhóm. Các chính sách về đất đai, chính sách phân cấp
đã dẫn đến những cơ hội màu mỡ cho tham nhũng về đất đai, thông qua chênh
lệch giá đất, khai thác tài nguyên rừng, khoáng sản v.v.
- Tham nhũng làm sai lệch những quy định của pháp luật, gây tác hại khôn
lường từ ô nhiễm nguồn nước, không khí, khói bụi đến vệ sinh an toàn thực
phẩm, an toàn lao động, tai nạn giao thông ... vì cán bộ tham nhũng có thể "phạt
cho tồn tại" cho doanh nghiệp có thể tiếp tục gây ô nhiễm, thực phẩm, thuốc
không an toàn có thể được lưu hành.
Bất cứ lúc nào thì sự cải cách định chế quản lí nhà nước cũng gặp nhiều khó
khăn, một phần do những trở ngại khách quan, một phần do con người. Những
khó khăn đó càng được nhân lên khi quá trình cải cách bị các phần tử tham
nhũng cố tình kìm hãm hoặc làm lệch hướng bằng những định chế mới với
nhiều tham nhũng hơn.Điều đáng lo ngại là rất khó phát hiện ảnh hưởng của
tham nhũng vào quá trình biến đổi thể chế, nhất là khi nó được che đậy dưới
những chỉ tiêu nghe rất hợp lý.
2.3. Ảnh hưởng đến phân phối thu nhập và công bằng xã hội.
Tham nhũng sẽ làm trầm trọng hơn mức độ chênh lệch thu nhập trong xã hội.
Các viên chức nhận hối lộ, cũng như những người đút lót để có đặc quyền kinh
doanh, chiềm hữu ruộng đất sẽ nhanh chóng làm giàu, trong lúc đại đa số dân số
phải tiếp tục sống trong cảnh nghèo nàn, thậm chí còn bần cùng hơn.
Phải nhìn nhận rằng, thu nhập phân phối không đồng đều là một hậu quả khó
tránh của kinh tế thị trường, thậm chí có thể là cần thiết cho sự vận hành của cơ

chế đó nếu nó phản ảnh trung thực trình độ và mức độ lao động. Nhưng chênh
lệch thu nhập do tham nhũng sẽ ảnh hưởng lớn và tiêu cực đến nhiều nhân tố
cần thiết cho tăng trưởng kinh tế. Một là sự phân hóa này sẽ làm yếu đi động lực
hy sinh vì lợi ích chung. Hai là nó làm xói mòn lòng tin đối với nhà nước và
9


pháp luật, do đó vô hiệu hóa các biện pháp điều tiết nền kinh tế. Ba là, khi ngân
sách bị thâm hụt do tham nhũng, nhà nước sẽ phải cắt giảm các hoạt động công
ích và phúc lợi xã hội, là các hoạt động mà đại bộ phận đối tượng là dân cư thu
nhập thấp. Như vậy, tham nhũng làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, khắc sâu
những bất công, kích động sự phẫn nộ với chế độ.
2.4. Tham nhũng đối với nền kinh tế thị trường
Có một nhược điểm của cơ chế thị trường là nó chỉ khuyến khích những hoạt
động có lợi ích cho bản thân cá nhân, và không khuyến khích những hoạt động
chỉ có lợi ích cho cộng đồng. Do đó, trong công tác chống tham nhũng, hiệu lực
của những biện pháp mà mục đích là nhằm giảm đi động lực tham nhũng sẽ
càng thấp khi mức độ thị trường hóa của nền kinh tế càng cao. Nói cách khác,
nhiều biện pháp chống tham nhũng có hiệu quả ở một giai đoạn của quá trình thị
trường hóa có thể sẽ không còn hiêu quả ở một giai đoạn khác của quá trình đó.
Trong một nền kinh tế lạc hậu, pháp luật còn sơ khai, nhiều sơ hở và cơ chế tư
pháp còn thiếu cán bộ đủ trình độ, thì sự can thiệp của nhà nước vào thị trường
sẽ là môi sinh của tham nhũng. Nói khác đi, sự can thiệp đó sẽ là hữu hiệu hơn
khi dân trí đã cao, định chế pháp luật đã đầy đủ, rõ ràng, hoặc là động lực tham
nhũng là yếu.
2.5. Tham nhũng trong nền kinh tế mở
Trong một nền kinh tế mở cửa, ảnh hưởng qua lại giữa tham nhũng và đầu tư
nước ngoài gây thêm nhiều khía cạnh đáng quan tâm.
Đối với những viên chức tham ô thì nền kinh tế mở có những hấp dẫn đặc biệt.
Một là, các công ty ngoại quốc có sức đưa nộp những món tiền hối lộ kếch xù,

có thấp gấp hàng trăm lần số tiền những công ty trong nước có khả năng đút lót.
Hai là phần lớn tiền tham nhũng nhận được từ nước ngoài sẽ ở lại những ngân
hàng ngoài nước, ngoài vòng kiểm tra của nhà nước, và chính nó sẽ làm cơ hội
tham nhũng giữa những người trong nước tăng lên. Ba là về tâm lý, nhận tiền
hối lộ của người nước ngoài sẽ cảm thấy ít tội lỗi hơn là nhận tiền từ người trong
nước.
10


Chính sự có mặt của các công ty nước ngoài cũng làm tham nhũng gia tăng. Các
công ty ngoại quốc đã hoạt động trong nước thường đút lót để đối thủ không
được phép xâm nhập. Những công ty đã hối lộ để thâm nhập vào thị trường nào
đó sẽ có động lực hối lộ thêm để giữ các viên chức tham nhũng, ngăn ngừa cạnh
tranh của các công ty khác. Nhiều quốc gia không quan tâm đến luật pháp các
quốc gia khác, ngầm khuyến khích các công ty của họ đút lót quan chức bản xứ,
miễn là được mối hàng thì thôi.
Những công ty nước ngoài có xu hướng làm ăn bằng cách đút lót thường là
những công ty không nhiều hiệu quả kinh tế hơn những công ty muốn làm ăn
chân chính. Đầu tư nước ngoài sẽ chảy vào các xí nghiệp, dự án có nhiều móc
nối, tham nhũng hơn là phân bố theo lợi nhuận kinh tế.
Trong xu hướng toàn cầu hóa, các công ty nước ngoài rất dễ chuyển dự án đầu
tư của họ từ một nước nhiều tham nhũng sang nước có môi trường đầu tư lành
mạnh hơn. Tham nhũng sẽ làm méo mó các chính sách ngoại thương và làm
chệch đi phân phối lợi ích của thương mại.
II. THAM NHŨNG TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng tham nhũng của Việt Nam
1.1. Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI)
CPI là chỉ số về tham nhũng được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Được
công bố hàng năm bởi Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI), chỉ số CPI xếp hạng các
quốc gia và vùng lãnh thổ trên cơ sở cảm nhận về tham nhũng trong khu vực

công tại các quốc gia và vùng lãnh thổ đó.
Đây là một chỉ số tổng hợp – kết hợp kết quả của các cuộc thăm dò ý kiến và
đánh giá tham nhũng do các tổ chức có uy tín thu thập.
Tham nhũng nói chung bao gồm các hoạt động bất hợp pháp, được cố tình che
giấu và chỉ được đưa ra ánh sáng khi có các vụ bê bối, hay qua công tác thanh
tra, điều tra và truy tố, xét xử. Vì vậy, rất khó có thể đánh giá mức độ tuyệt đối
11


của tham nhũng tại các quốc gia hay vùng lãnh thổ trên cơ sở các dữ liệu “cứng”
mang tính thực chứng.
Những nỗ lực nhằm đánh giá tham nhũng như: so sánh các vụ hối lộ được báo
cáo, số lượng các vụ truy tố hay nghiên cứu các vụ xét xử ở tòa án liên quan trực
tiếp đến tham nhũng đều không thể coi là những chỉ số chính xác thể hiện mức
độ tham nhũng. Những số liệu này, đúng hơn, chỉ thể hiện hiệu quả hoạt động
của các công tố viên, của toà án hay giới truyền thông trong việc điều tra và phát
hiện tham nhũng.
Vì vậy, xem xét cảm nhận về tham nhũng của những người ở vị trí có thể đưa ra
đánh giá về tham nhũng trong khu vực công là phương pháp đáng tin cậy nhất
để so sánh mức độ tham nhũng một cách tương đối giữa các quốc gia.
Bảng 1: Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam giai đoạn 2005-2015

Năm

Chỉ số

Xếp hạng

2005


26/100

107/158

2006

26/100

111/163

2007

26/100

123/179

2008

27/100

121/180

2009

27/100

121/180

2010


27/100

116/180

2011

29/100

112/180

2012

31/100

123/176

2013

31/100

116/177

2014

31/100

119/175

2015


31/100

112/168
Nguồn: Tổ chức minh bạch quốc tế
12


0

: mức độ tham nhũng cao

100 : mức độ rất trong sạch
Theo số liệu của bảng chỉ số CPI trên, ta có thể thấy
- Năm 2005 là năm đầu tiên thực hiện Luật phòng chống tham nhũng và cũng là
năm Việt Nam có thứ hạng cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây (hạng 107).
- Giai đoạn 2005 – 2009, Việt Nam liên tục bị tụt hạng (do chỉ số cảm nhận
tham nhũng chỉ tăng 1 đơn vị trong 5 năm).
- Trong 2 năm 2010 – 2011, thứ hạng có sự cải thiện, nhưng từ năm 2012 trở lại
đây, thứ hạng tham nhũng thay đổi không nhiều do chỉ số cảm nhận tham nhũng
không có sự cải thiện).
Nhìn chung, mức độ tham nhũng ở Việt Nam vẫn rất cao, trong 10 năm chỉ số
cảm nhận tham nhũng chỉ tăng 5 đơn vị, hầu như không có sự tiến triển nào
trong việc giảm tham nhũng.
Tóm lại, tình hình tham nhũng ở Việt Nam là nghiêm trọng, với những biểu hiện
vừa tinh vi, phức tạp, vừa trắng trợn, lộ liễu, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều
cấp, nhiều ngành, có những điểm giống và khác nhau so với tình hình tham
nhũng ở các nước khác, nhưng đặc điểm nổi bật là tính phổ biến. Trước đây,
tham nhũng chủ yếu xảy ra trong các lĩnh vực kinh tế, nhưng ngày nay đã lan
sang các lĩnh vực vốn được coi trọng về đạo lý như giáo dục, y tế, thực hiện
chính sách xã hội, nhân đạo, từ thiện, phòng chống dịch bệnh… Tham nhũng

xảy ra ngay trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, là những cơ quan cầm cân, nảy
mực, đại diện cho công lý và công bằng xã hội, như: Công an, Viện kiểm sát,
Tòa án... Những trường hợp thanh tra viên, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm
phán tòa án nhận hối lộ đã xuất hiện ở nhiều nơi. Không ít cán bộ, công chức và
người dân coi việc hối lộ cho công chức và việc công chức nhận hối lộ khi giải
13


quyết công việc là chuyện bình thường. Tình trạng tham nhũng “vặt” và tham
nhũng “nhỏ, lẻ”, mà nhiều người gọi là “nhũng nhiễu” hay “chi phí không chính
thức”, tuy thiệt hại không lớn, có khi chỉ vài chục nghìn đồng mỗi vụ, nhưng
diễn ra một cách tràn lan ở nhiều nơi, khiến người dân vô cùng bức xúc. Số đối
tượng tham nhũng là cán bộ, công chức, viên chức có chức vụ thấp hoặc không
có chức vụ lãnh đạo, quản lý, như: nhân viên cảnh sát, thuế vụ, bác sỹ, y tá v.v...
chiếm tỷ lệ khá cao; trong khi ở nhiều nước khác, đối tượng tham nhũng chủ yếu
là các chính khách, các quan chức và doanh nhân. Mấy năm gần đây đã xuất
hiện một số vụ tham nhũng liên quan đến yếu tố nước ngoài.

1.2. Một số lĩnh vực có tham nhũng tiêu biểu
1.2.1. Tham những trong quản lý và sử dụng đất đai
Ví dụ như: Vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại
dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long - Vân Trì, Hà Nội, thiệt
hại ước tính khoảng 14 tỷ đồng; vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ xảy ra tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, gây thiệt hại gần 11 tỷ
đồng; vụ tham nhũng về đất đai tại Đồ Sơn và tại Quán Nam, thành phố Hải
Phòng... Dư luận cho rằng việc cấp đất cho các dự án đều có hiện tượng bôi trơn
cho những người có thẩm quyền (vụ Công ty Phát triển nhà tỉnh Bạc Liêu; vụ
Nguyễn Văn Khỏe, Chủ tịch UBND huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh
nhận hối lộ để cấp đất sai quy định).
Những năm gần đây, tham nhũng trong quản lý đất đai ở Việt Nam luôn được

đánh giá ở mức độ cao nhất trong tất cả các lĩnh vực quản lý, mặc dù các cấp có
thẩm quyền đã có nhiều nỗ lực nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý.
Qua công tác thanh tra, kiểm tra và dựa theo kết quả của công tác điều tra xã hội
học do một số tổ chức quốc tế đã tiến hành, có thể thấy, trước đây các hành vi
14


tham nhũng trong quản lý đất đai thường được thể hiện dưới các dạng chủ yếu
như:
- Tham nhũng do cơ chế chính sách không đồng bộ, quản lý chồng chéo
Mặc dù hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đất đai được ban hành khá
nhiều nhưng còn bất cập, thiếu đồng bộ, chưa rõ ràng và minh bạch nên đã tạo ra
những kẽ hở để tham nhũng như cho các nhà đầu tư nợ, chậm nộp tiền sử dụng
đất; để đất bỏ không lãng phí không sử dụng trong khi người dân không có đất
để xản xuất. Trong một thời gian dài trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường giải
phóng mặt bằng chưa được ban hành kịp thời và không rõ ràng. Việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn thực hiện của các
tỉnh, thành phố còn chậm, chưa kịp thời, nhất là các văn bản liên quan đến người
sử dụng đất dẫn đến việc nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và các tổ
chức khi thực hiện các thủ tục hành chính.
Bên cạnh đó còn do sự phối hợp giữa các bộ ngành ở Trung ương và các địa
phương trong việc thực hiện phòng và chống tham nhũng về đất đai chưa cao,
chưa tạo lập được quy chế phối hợp, trao đổi thông tin nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác phòng chống tham nhũng. Viêc phân công quản lý nhà nước về đất
đai cũng có sự chồng chéo tạo ra những mâu thuẫn không cần thiết giữa các cơ
quan, tạo kẽ hở để tham nhũng.
Ví dụ: ngành Tài nguyên- Môi trường được giao quản lý đất đai nhưng việc xác
định thuế đất, giá đất, bồi thường giải phóng mặt bằng lại do ngành Tài chính
chủ trì xác định.
- Tham nhũng trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn gọi là cấp

“sổ đỏ”
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì cho đến nay, cả nước đã cấp
13.836.600 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, với diện tích
7.524.600 ha (đạt 82,4% diện tích); cấp 10.467.614 giấy chứng nhận quyền sử
15


dụng đất ở nông thôn, với diện tích 413.889 ha (đạt 81,1% diện tích); cấp
3.434.500 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở đô thị, với diện tích 76.296 ha
(đạt 68,1% diện tích). Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của nhiều tổ chức quốc
tế đã cho thấy tham nhũng trong việc cấp “sổ đỏ” cho các hộ gia đình và doanh
nghiệp chiếm khoảng 35%. Hành vi tham nhũng ở lĩnh vực này tuy ở mức độ
không lớn nhưng lại diễn ra một cách phổ biến và thường xuyên. Cách thức thể
hiện như sau: Người dân thường gặp khó khăn trong việc kê khai các giấy tờ cần
thiết, không biết cách điền hồ sơ xin cấp sổ đỏ. Do vậy, có nguy cơ là cán bộ địa
chính đặt ra những yêu cầu trái pháp luật mà người dân không hề biết, hoặc
người nộp thấy “mệt mỏi” với các thủ tục khó hiểu, dẫn tới phải đưa tiền cho
cán bộ để được họ giúp đỡ; có địa phương cán bộ địa chính xã yêu cầu thêm một
số giấy tờ mà pháp luật không quy định, như chứng nhận đăng ký kết hôn hoặc
trích lục bản đồ địa chính; kéo dài thời gian đánh giá, phê duyệt và chậm thực
hiện các thủ tục với nhiều lý do khác nhau, nhưng khi có sự quen biết, có sự bồi
dưỡng thêm, hoặc sử dụng cái gọi là “cò giấy tờ” thì thời gian sẽ được rút ngắn.
Đây cũng là một trong số những biểu hiện của tham nhũng trong lĩnh vực này.
- Tham nhũng trong việc quy hoạch sử dụng đất, thu hồi đất, giao đất, cho thuê
đất và tính toán bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Các nhà đầu tư cấu kết với cán bộ quản lý đất để mua đất nông nghiệp, sau đó
họ hợp tác với cấp có thẩm quyền để quy hoạch diện tích đất đó thành đất phi
nông nghiệp có sự chênh lệch về giá trị vô cùng lớn. Mặc dù Luật phòng chống
tham nhũng,và một số văn bản pháp luật của nhà nước ta quy định phải lấy ý
kiến công khai của người dân trước khi phê duyệt quy hoạch. Tuy nhiên,lại

không có một quy định nào của pháp luật bắt buộc phải công khai, dân chủ lấy ý
kiến của nhân dân trong việc điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất và đồ án quy
hoạch.
Nội dung quy hoạch sử dụng đất không rõ ràng, thảo luận địa điểm để nhà đầu
tư đầu tư cần phải gặp gỡ cả 3 cấp xã huyện tỉnh với nhiều đầu mối công việc
khác nhau, chi phí giao dịch cho các khâu này rất tốn kém do đó nảy sinh tham
nhũng là điều dễ hiểu.
16


Cơ chế kiểm đếm tài sản có trên đất, định giá tài sản trên đất, định giá đất để
tính giá trị để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thường do Ban bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư cấp ở cấp huyện thực hiện với một cơ chế hành chính tuyệt đối,
thiếu sự tham gia giám sát khách quan của những người bị thu hồi đất, của cộng
đồng dân cư nơi có đất bị thu hồi, của các tổ chức xã hội cũng là nguyên nhân
tạo nên sự tham nhũng.
Một số chủ đầu tư xin điều chỉnh dự án bằng cách thu hẹp phần quỹ đất để xây
dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ công cộng để tăng phần quỹ đất xây
nhà ở, nhằm mục đích kiếm lời cho cá nhân.
1.2.2 Tham nhũng trong giáo dục
Theo nhận thức của công chúng, tham nhũng trong giáo dục ở Việt Nam xảy ra
dưới các hình thức chính như sau:
o

Tham nhũng trong việc xây dựng trường lớp, cung cấp trang thiết bị giảng
dạy và in ấn sách giáo khoa

o

Hối lộ của các trường và giáo viên để nhận được các hình thức khen

thưởng và danh hiệu “ảo”

o

Hiệu trưởng nhận phụ cấp mà không hề lên lớp

o

Giáo viên hối lộ ban quản lý nhà trường để được phân dạy các lớp mà họ
muốn

o

Phụ huynh và học sinh hối lộ để nhận được điểm tốt và được tuyển sinh
vào các trường, lớp theo nguyện vọng

o

Ép buộc học sinh phải đi học thêm bằng cách “trù dập” những học sinh
không đi học

o

Chiếm đoạt tiền đầu tư cho sinh viên

o

Thu những khoản lệ phí không chính thức

Nguyên nhân tham nhũng trong giáo dục

o

Trách nhiệm giải trình kém gắn với văn hóa “xin – cho” cũng như tình
trạng quản lý yếu kém của các cơ quan quản lý
17


o

Hệ thống pháp luật không đầy đủ, tồn tại nhiều lỗ hổng và mâu thuẫn

o

Thiếu văn hóa tố cáo tham nhũng trong giáo dục

o

Mức lương giáo viên thấp

o

Sự tham gia hạn chế của người dân vào công tác giám sát và quản lý
trường học

o

Thiếu minh bạch trong phân bổ và sử dụng nguồn lựcHậu quả của tham
nhũng trong giáo dục

o


Làm tăng chi phí và bất bình đẳng: Tham nhũng trong giáo dục đe dọa
tăng chi phí giáo dục cho các hộ gia đình, vì vậy làm tăng nguy cơ bỏ học của
con em các gia đình không có đủ điều kiện chi trả các khoản ngoài quy định.
Từ đó, tham nhũng trực tiếp làm tăng bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ
xã hội.

o

Giảm chất lượng: Tham nhũng không chỉ đe dọa tạo ra bất công trong
giáo dục mà còn tác động tới cam kết của giáo viên và sự trung thực của học
sinh. Kếtquả là, tham nhũng tạo ra môi trường học tập và làm việc không tốt,
làm suy giảm nhiệt huyết của các nhân tố trong hệ thống và làm giảm uy tín
của cả bộ máy giáo dục.

o

Xói mòn chuẩn mực đạo đức: Tham nhũng góp phần làm xuống cấp giá
trị đạo đức của giáo viên và học sinh vì gây thiệt thòi cho những người sống
chính trực.

1.2.3. Lĩnh vực tài chính ngân hàng
Nhắc đến những vụ án tham nhũng nổi tiếng của lĩnh vực tài chính không thể
không nhắc đến vụ án của Nguyễn Đức Kiên và các lãnh đạo Ngân hàng
ACB.Kết quả điều tra cho thấy từ năm 2005 - 2011, Ngân hàng ACB huy động
được từ dân lượng tiền nhiều với lãi suất cao, nhưng việc cho vay lại gặp nhiều
khó khăn. Việc gửi liên ngân hàng cũng không thực hiện được, bởi nhiều ngân
hàng cũng lâm vào tình trạng tương tự.Để giải quyết vấn đề này, Lý Xuân Hải tổng giám đốc - đã đề xuất ủy thác cho nhân viên lấy tiền huy động được của
dân đem gửi vào các tổ chức tín dụng khác để hưởng chênh lệch lãi suất.Đề xuất
này đã được Nguyễn Đức Kiên chấp thuận và chỉ đạo thường trực HĐQT Ngân

18


hàng ACB thực hiện. Việc này được cụ thể hóa bằng nghị quyết HĐQT Ngân
hàng ACB do ông Trần Xuân Giá làm chủ tịch, Lê Vũ Kỳ- phó chủ tịch, Lý
Xuân Hải- TGĐ, Phạm Trung Cang và Trịnh Kim Quang là các thành viên cùng
ký.Ngay sau khi có nghị quyết này từ 2005-2011, Ngân hàng ACB đã ủy thác
cho nhân viên ngân hàng và 4 công ty gửi tổng số tiền 130.785 tỉ đồng với lãi
suất từ 8,5%-27%/năm và 81.258.329USD với lãi suất 3%-6%/năm vào 29 ngân
hàng và đã thu được số tiền lãi là 6.279 tỉ đồng và 1.882.405USD, lãi chênh lệch
vượt trần thu được là 258 tỉ đồng.Chính vì là cổ đông lớn nên những tuyên bố
của Nguyễn Đức Kiên đã tạo ra áp lực và quyền lực thao túng toàn bộ hoạt động
của Ngân hàng ACB và làm mọi người ngầm hiểu là không thực hiện ý kiến của
ông Kiên là không được. Vì vậy, mọi ý kiến của Nguyễn Đức Kiên sau đó đểu
phải trở thành nghị quyết của HĐQT.
Cơ quan điều tra cũng kết luận, việc dùng tiền huy động, ủy thác cho các nhân
viên gửi vào các tổ chức tín dụng là sai đối với Điều 106 Luật các Tổ chức tín
dụng và làm sai lệch hệ thống thông tin liên quan đến báo cáo huy động từ dân
cư của toàn hệ thống ngân hàng, làm rối loạn thị trường tiền tệ, gây hậu quả phi
vật chất đặc biệt lớn trong việc ra chủ trương điều hành thị trường tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước và điều hành việc thực hiện chính sách tiền tệ của Chính
phủ. Cơ quan điều tra khẳng định, trách nhiệm chính của việc này là Nguyễn
Đức Kiên. Ngoài ra, cơ quan điều tra còn khẳng định Nguyễn Đức Kiên trốn
thuế cả trăm tỉ đồng. Đây là một trong những vụ án lớn nhất của lĩnh vực ngân
hàng – tài chính.
Đây là một lĩnh vực “nóng” đã và đang xảy ra khá nhiều vụ việc vi phạm, tội
phạm, được dư luận đặc biệt quan tâm. Một số vụ án mà cơ quan chức năng phát
hiện và xử lý cho thấy một số thủ đoạn phạm tội như sau:
- Thỏa thuận trái pháp luật, ép buộc khách hàng phải cắt lại phần trăm hoặc chi
“hoa hồng” từ 3% - 10% số tiền cho vay (thực chất là hành vi lợi dụng chức vụ,

quyền hạn trong khi thi hành công vụ)

19


VD:Vụ án Đoàn Tiến Dũng, nguyên Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam, nhận của khách hàng 5 tỷ đồng là khoản trích từ 3% - 10%
trong số tiền mà khách hàng được vay của Ngân hàng này.
- Nhận hối lộ của khách hàng để hợp thức hóa hồ sơ xin vay không đúng quy
định như không có tài sản thế chấp, tài sản không đủ đảm bảo.
VD: Vụ án Vũ Việt Hùng, nguyên Giám đốc Ngân hàng Phát triển chi nhánh
Đắk Lắk - Đắk Nông, nhận 92 tỷ đồng, 100 ngàn USD, một ô tô BMW, một
nhẫn kim cương của Cao Bạch Mai và Trần Thị Xuân để cho vay không đúng
quy định.
- Thông đồng với đối tượng bên ngoài ngân hàng lập hợp đồng khống, nâng giá
tài sản thuê mua để rút tiền của ngân hàng chuyển đến các Công ty sân sau hoặc
sử dụng vào mục đích cá nhân .
VD: vụ Vũ Quốc Hảo, nguyên Giám đốc Công ty cho thuê tài chính thuộc Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn gây thiệt hại gần 5.000 tỷ đồng; vụ
một số cán bộ ngân hàng câu kết với một nhóm đối tượng ngoài ngành ngân
hàng lừa đảo chiếm đoạt 215 tỷ đồng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam, Chi nhánh Thái Bình và Chi nhánh Đông Đô, Hà Nội.
- Lợi dụng chức vụ, nghề nghiệp, kỹ thuật và nghiệp vụ ngân hàng để chiếm
đoạt tiền của ngân hàng và khách hàng .
VD: vụ Huỳnh Thị Huyền Như, Ngân hàng Công thương, Chi nhánh Nhà Bè,
TP Hồ Chí Minh, chiếm đoạt trên 4.000 tỷ đồng bằng việc làm “giả con dấu, tài
liệu của cơ quan chức năng, tổ chức”.
1.2.4. Lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, đầu tư tìm cách móc nối, câu kết với
một số cán bộ Nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực cấp phép đầu tư dự án;

dùng nhà, đất, tiền, tài sản để “bôi trơn” nhằm xin được cấp phép, cấp đất dự án.
20


Loại hành vi này (thực chất là đưa, nhận hối lộ, nhưng là “luật bất thành văn”)
xảy ra khá phổ biến trong nhiều dự án có tính chất “xin - cho” ở nước ta hiện
nay, đã tạo thành tâm lý phải có tiền thì mới giải quyết được việc.
Ngoài ra, một số cán bộ Nhà nước có thẩm quyền đã lợi dụng chức vụ, quyền
hạn được giao, có hành vi trái phép, làm trái nguyên tắc trong việc cấp, sử dụng,
thu hồi đất làm thiệt hại tài sản của Nhà nước và nhân dân. Thực tế cho thấy,
nhiều dự án được duyệt, nhưng không thực hiện theo mục đích ban đầu, mà chỉ
để mua đi, bán lại để kiếm lời.
Phần lớn các công trình xây dựng đều xảy ra thất thoát tài sản, chủ yếu do tham
ô và cố ý làm trái. Sai phạm xảy ra ở hầu hết các khâu, từ việc lập dự án, thiết
kế, dự toán, phê duyệt kế hoạch cấp vốn đến đấu thầu, tư vấn, giám sát, thi công,
nghiệm thu, quyết toán công trình. Thủ đoạn chủ yếu là không chấp hành đúng
trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản; gian lận, thiếu minh bạch trong đấu
thầu; khai khống khối lượng và giá trị vật tư, thiết bị; đưa vật liệu kém chất
lượng, sai quy cách vào sử dụng; thi công sai quy trình để giảm chi phí...
VD: Vụ án xin cấp đất Dự áncủa Công ty Phát triển nhà tỉnh Bạc Liêu;vụ Phan
Văn Khỏe, nguyên Chủ tịch UBND huyện Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh nhận hối
lộ;vụ sai phạm tại xã Hải Bối, huyện Đông Anh, Hà Nội; vụ Đồng Nò, TP Đà
Nẵng; vụ Tổng Công ty Mía đường II;vụ Đất Đồ Sơn, vụ Đất Quán Nam, TP
Hải Phòng...
Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, cũng có nhiều loại hành vi tham nhũng
của cán bộ cơ quan Nhà nước như nhận hối lộ, tham ô. Một số vụ án điển hình
như vụHuỳnh Ngọc Sĩ, nhận hối lộ trong Dự án xây dựng hành lang Đông -Tây
tại TP Hồ Chí Minh; các vụ tham ôtại PMU18, tại Dự án cầu Bãi Cháy, tỉnh
Quảng Ninh; tại Cảng Thị Vải, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu...
Điển hình như: vụ tham ô, cố ý làm trái và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong

khi thi hành công vụ xảy ra tại Ban quản lý dự án di tích lịch sử chiến thắng
21


Điện Biên Phủ; vụ Huỳnh Ngọc Sĩ, Giám đốc Ban quản lý dự án đại lộ Đông Tây, TP.Hồ Chí Minh nhận hối lộ 260 nghìn USD để xét thầu, nghiệm thu có lợi
cho người đưa hối lộ; vụ tham ô xảy ra tại dự án xây dựng cầu Bãi Cháy, tỉnh
Quảng Ninh...
1.2.5. Việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp
Thủ đoạn tham nhũng chủ yếu là giấu bớt và định giá trị tài sản, đất đai thấp hơn
giá trị thực khi cổ phần hóa hoặc bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp; lập các
hợp đồng mua bán, vận chuyển hoặc hóa đơn khống để chiếm đoạt; nâng khống
giá hoặc gửi giá khi mua bán tài sản công để trục lợi.
Ví dụ: Nguyễn Bi, Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc và Nguyễn
Thanh Huyền, Phó Tổng giám đốc, kế toán trưởng của Công ty Vifon - TP.Hồ
Chí Minh, đã lập chứng từ khống chiếm đoạt hơn 20 tỷ đồng và không thu về
cho Công ty 59,9 tỷ đồng nhằm chiếm đoạt khi cổ phần hóa Công ty này; vụ
Trần Văn Khánh, Tổng Công ty Vật tư nông nghiệp tham ô, cố ý làm trái, gây
thiệt hại nhiều tỷ đồng; vụ Công ty xăng dầu Hàng không khai khống tỷ lệ dầu
hao hụt nhằm chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng; vụ Công ty cho thuê tài chính II
thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn nâng khống giá thiết bị
lặn từ 100 triệu lên 130 tỷ đồng. Ngoài ra, một số đối tượng còn sử dụng tài sản
công vào mục đích cá nhân hoặc biến tài sản nhà nước thành tài sản riêng, như
vụ Bùi Tiến Dũng ở Ban quản lý dự án quốc lộ 18 (PMU18) cho mượn hàng
chục ô tô đắt tiền.
1.2.6. Lĩnh vực tư pháp
Cán bộ cơ quan tư pháp lợi dụng chức vụ, quyền hạn đòi hối lộ trong quá trình
thực thi công vụ nhằm bỏ lọt hoặc giảm nhẹ tội phạm trong hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án. Loại hành vi này không những ảnh hưởng đến tính
đúng đắn trong hoạt động công vụ, làm sai lệch bản chất vụ án, vụ việc, mà còn
gây mất uy tín của cơ quan tư pháp, giảm sút niềm tin của nhân dân, điển hình

22


như vụ Vũ Văn Lương, nguyên Thẩm phán Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội nhận hối lộ 70 triệu đồngtrong vụ tranh chấp 2,7 m2 công trình phụ; vụ
Vũ Đức Hùng, nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân huyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh Bình nhận hối lộ 70 triệu đồng; vụ Hà Công Tuấn, nguyên Thẩm phán Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ninh nhận hối lộ 200 triệu đồngnhằm xử nhẹ tội cho bị
cáo; vụ Trần Văn Chính, nguyên Chi cục trưởng Thi hành án dân sự huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang nhận hối lộ 20 triệu đồng; vụ 07 cán bộ Công an quận Hai
Bà Trưng, Hà Nội (trong đó có hai phó trưởng phường thuộc hai phường Thanh
Nhàn và Quỳnh Lôi) đã làm ngơ, tiếp tay cho tội phạm; nhận tiền hối lộ để bảo
kê cho đối tượng buôn bán ma túy...
Ngoài những lĩnh vực trên, tình trạng nhũng nhiễu còn khá phổ biến trong
quan hệ giữa cơ quan nhà nước và công chức nhà nước với người dân và doanh
nghiệp, giữa nhân viên các cơ sở dịch vụ công với khách hàng, như: cảnh sát
giao thông, cán bộ thuế, các cơ quan cấp phép, cơ sở khám, chữa bệnh, các
trường học… gây bức xúc trong dư luận xã hội.
2. Phòng chống tham nhũng tại Việt Nam
2.1. Thể chế và khung pháp lý
Trong những năm gần đây, Nhà nước Việt Nam vẫn tiếp tục thể hiện ý chí chính
trị và quyết tâm cao trong việc phòng chống tham nhũng (PCTN). Điều này thể
hiện qua việc Nhà nước ban hành và triển khai thực hiện nhiều đề án, chính sách
như: Đơn giản hóa thủ tục hành chính(Đề án 30), Minh bạch tài sản và thu nhập
(Nghị định số 37/2007/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
68/2001/NĐ-CP,…)
Pháp lệnh chống tham nhũng được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm
1998 và được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2000 là cơ sở pháp lý quan
trọng cho công tác đấu tranh chống tham nhũng. Nội dung của Pháp lệnh tập
trung chủ yếu vào việc “chống” tham nhũng trên cơ sở các quy định về trừng trị,

23


xử lý tội phạm và tài sản tham nhũng. Với sự ra đời của Pháp lệnh chống tham
nhũng năm 1998 và các văn bản pháp luật khác, như: Bộ luật hình sự; Pháp lệnh
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Pháp lệnh cán bộ, công chức…,cuộc đấu
tranh PCTN ở nước ta bước đầu đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên,
việc thực hiện các quy định của Pháp lệnh chống tham nhũng trong giai đoạn
này đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập, chưa đáp ứng được các yêu cầu của
quá trình hội nhập và phát triển.
Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, Luật
PCTN được Quốc hội khoá XI tại Kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29-11-2005 và
có hiệu lực thi hành từ ngày 01-6-2006 được coi là một liệu pháp mới cho cuộc
đấu tranh PCTN. Với 48 điều trên tổng số 92 điều là các quy định về “phòng
ngừa tham nhũng”, có thể nói tư tưởng phòng ngừa được thể hiện rất rõ nét
trong Luật PCTN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012).
Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định,
quyết định, chỉ thị để cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), Luật
PCTN, Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 và Kế hoạch thực thi Công
ước của Liên Hợp quốc về Chống tham nhũng… trong đó có các quy định về
minh bạch tài sản, thu nhập; chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công
chức, viên chức; tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công như: trụ sở, trang
thiết bị và phương tiện làm việc; tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng; xử lý
trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng;
vai trò, trách nhiệm của xã hội trong PCTN; trả lương qua tài khoản đối với các
đối tượng hưởng lương từ ngân sách; đưa nội dung PCTN vào chương trình giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng v.v…
Về bộ máy cơ quan phòng, chống tham nhũng quan trọng nhất là Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng chống tham nhũng.
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng là cơ quan phòng chống

tham nhũng tối cao của nước Việt Nam.

24


Ngày 01-02-2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 162-QĐ/TW thành
lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng làm trưởng ban chỉ đạo.
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng chịu trách nhiệm
trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc
công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước.
Ngoài ra, các bộ, ngành, địa phương đã ban hành 23.380 văn bản mới; sửa đổi,
bổ sung 24.024 văn bản để thực hiện Luật PCTN và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Các cơ quan chức năng ban hành nhiều quy định về cơ chế phối hợp trong
PCTN như: Quy chế phối hợp công tác giữa Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN
và Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Quy chế phối hợp giữa Thanh tra Chính phủ,
Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, Kiểm toán Nhà nước trong việc trao đổi, cung cấp thông tin về PCTN;
Quy chế phối hợp giữa Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Bộ Công
an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xử lý các
vụ án tham nhũng… Sau 8 năm thực hiện Luật PCTN và 7 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 3 (khóa X) với quyết tâm, nỗ lực của các tổ chức Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và cả hệ thống chính trị, công tác PCTN, lãng phí đã có
những chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động và đạt được những kết
quả bước đầu, nhất là trong phòng ngừa, công khai, minh bạch hóa, cải cách thủ
tục hành chính, quản lý tài sản công.
Tuy nhiên, Luật Phòng chống tham nhũng của Việt Nam mới chỉ chú trọng đến
các vấn đề mang tính hành chính và các biện pháp phòng ngừa. Luật tự hạn chế
trong phạm vi và mục đích nên chưa bao quát các nội dung cơ bản để giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực thi và xử phạt tham nhũng. Phần quy

phạm xử lý tham nhũng trong Luật còn chưa đầy đủ.
Định nghĩa tham nhũng trong luật PCTN và quy định về tội phạm này của Bộ
luật hình sự làm cho phạm vi khái niệm tham nhũng bị giới hạn trong khu vực
công. Hơn nữa, khái niệm tham nhũng chỉ dừng ở hành vi của người có chức vụ,
25


×