Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍNH MINH về kết hợp GIỮA sức MẠNH dân tộc với sức MẠNH THỜI đại NHỮNG vấn đề đặt RA TRONG GIAI đoạn CÁCH MẠNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.41 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung quan trọng trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là quy luật, bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy, nhờ khéo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam giành thắng lợi suốt mấy thập kỷ qua. Trước
những diễn biễn phức tạp của tình hình trong nước và thế giới hiện nay, việc nghiên cứu, tìm
hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn to lớn.
Việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc được thực hiện trong hoàn cảnh hiện nay của thế giới sau khi chủ nghĩa xã hội lâm
vào thoái trào; trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra như vũ bão xu thế
toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra sôi động; hoà bình hợp tác đang là xu thế chung của các quốc
gia dân tộc. Tuy nhiên các thế lực hiếu chiến và phản động quốc tế, đứng đầu là đế quốc Mỹ
đang tận dụng ưu thế về kinh tế, khoa học và công nghệ, quân sự, lợi dụng danh nghĩa “chống
khủng bố” để can thiệp sâu vào công việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc có chủ quyền, kể cả
việc tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.
Ba mươi năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, được bạn bè quốc tế thừa
nhận và khâm phục. Những thành tự đó thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Song bên cạnh đó, cũng còn nhiều khuyết điểm,
yếu kém, nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực. Tình hình đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước, nhân dân ta phải
có những chủ trương, quyết sách, biện pháp đúng đắn để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC
VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
1.1.Quan niệm về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
Quá trình bôn ba khắp năm châu bốn biển đi tìm đường cứu nước, Hồ
Chí Minh đã chứng kiến cuộc sống khổ cực của các tầng lớp nhân dân
1



lao động, đồng thời mục kích rõ phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động ở chính quốc và thuộc địa. Với nhãn
quan của nhà yêu nước vĩ đại, Người nhận thức sâu sắc sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước, của tinh thần dân tộc, từ đó phát hiện ra mối
tương đồng giữa các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa cũng như
ngay tại sào huyệt của chủ nghĩa tư bản. Sau khi được đọc bản Luận
cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa do V.I.Lênin soạn thảo, Hồ Chí
Minh đã tìm thấy ở đó một “cẩm nang thần kỳ” cho con đường cách
mạng Việt Nam. Chính nhờ có tư duy nhạy bén, sắc sảo trong nắm bắt
chính xác những đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại, Người đã
xác định đúng đắn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.
Đó là con đường cách mạng vô sản. Từ đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh
đã hình thành những nội dung cơ bản về sự kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế làm
cơ sở định hướng toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc là sức mạnh tổng hợp các cộng đồng quốc gia
dân tộc, gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, cả truyền

2


thống và hiện tại, cả kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh được xây dựng và tăng cường trong mỗi giai đoạn và cả quá trình
lịch sử dân tộc, quyết định sự trường tồn và phát triển của dân tộc.
Sức mạnh thời đại là sức mạnh của chân lý, lẽ phải, niềm tin, lương tri, trí
tuệ nhân loại, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và các nhân tố tiến bộ xã hội của
thời đại. Sức mạnh thời đại bao gồm: Lý luận tiền phong đó là chủ nghĩa
Mác - Lênin; Tính ưu việt hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội; Thành tựu to
lớn của khoa học công nghệ hiện đại; Lực lượng yêu chuộng hoà bình,

tiến bộ trên toàn thế giới; Tình đoàn kết quốc tế vô sản vô tư, trong
sáng; Các phong trào, các lực lượng cách mạng, dân chủ, tiến bộ xã hội
trên toàn thế giới; tinh hoa văn hoá và các giá trị chung của nhân loại.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại bao gồm cả sức mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại
giao… cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần; sức mạnh trong
nước và sức mạnh ngoài nước. Mỗi yếu tố đó có giá trị riêng nhưng đều
có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, yếu tố bao trùm nhất,
trở thành giá trị chung chính là sức mạnh làm chủ và khát vọng về

3


quyền tự do, độc lập, bình đẳng, hạnh phúc của các tầng lớp nhân dân
lao động.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước trong điều kiện thời đại có những biến đổi
to lớn, đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917.
Thời đại chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, gắn liền với hệ thống thuộc địa do
chủ nghĩa đế quốc tạo dựng nên. Nhắc nhở những người cộng sản cần bám sát yếu tố thời đại để
định ra đường lối cách mạng cho phù hợp, Lênin khẳng định: “chúng ta đang sống ở khoảng
giao thời giữa hai thời đại và chỉ có thể hiểu được những biến cố lịch sử có ý nghĩa lớn lao đang
diễn ra trước mắt chúng ta nếu trước hết chúng ta phân tích những điều kiện khách quan của
bước chuyển từ thời đại này sang thời đại kia”1 . Quán triệt tinh thần đó, Nguyễn Ái Quốc nhận
thấy: "Thời đại của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một nhóm nước lớn do bọn tư
bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc, bởi vậy công cuộc giải
phóng các nước và các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản" 2 . Từ
thực tiễn yếu tố thời đại đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc tin tưởng thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các

quốc gia dân tộc bị xoá bỏ, thay vào đó là sự mở rộng quan hệ giữa các nước, vận mệnh của mỗi
dân tộc gắn liền với vận mệnh chung của cả loài người. Do đó, sự nghiệp giải phóng dân tộc ở
Việt Nam là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
Trước khi Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước, ở Việt Nam đã có nhiều nhà yêu
nước nhiệt thành dám đứng lên tập hợp nhân dân phất cao ngọn cờ đấu tranh chống thực dân
Pháp xâm lược. Nhưng các phong trào đó đều mang nặng tính tự phát, cô lập, không gắn cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, không nắm bắt được xu thế chung của thời đại, kết cục
đều đi đến thất bại. Nguyễn Ái Quốc không đi theo, không lặp lại những thất bại của cha anh
mình mặc dù rất khâm phục tinh thần yêu nước của họ. Người ra đi tìm đường cứu nước, “xem
1 V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơ va.1980, tập 26, tr 174.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 8, tr 567.

4


họ làm thế nào”, đi tìm sự mách bảo của thời đại để cứu nước cứu dân. Nguyễn Ái Quốc đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin tìm thấy con đường cứu nước đúng cho cách mạng Việt Nam. Từ đây
khẳng định, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải hoà nhập chung vào phong trào cách
mạng vô sản thế giới, là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.
Nguyễn Ái quốc luôn tìm cách gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới làm
cho các dân tộc thuộc địa hiểu nhau hơn và đoàn kết lại, làm cho giai cấp công nhân phương tây
có hiểu biết đầy đủ và chính xác vấn đề thuộc địa. Người nhận thức được rằng, cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc đại có một khả năng to lớn và có vai trò chiến lược đối với thắng lợi của
cách mạng vô sản, nếu không có sự tham gia của các dân tộc thì không thể có cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Người kiến nghị với quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Pháp thành lập mặt trậ dân
tộc thống nhất và nhân dân thuộc địa….
Trên mặt trận lý luận tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc kiên quyết chống lại chủ nghĩa cơ hội,
bảo vệ phát triển quan điểm về mối quan hệ khăng khít cách mạng thuộc địa với cách mạng vô
sản thế giới của Lênin. Người nói: Cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ
chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị

nô dịch”. Vai trò của cách mạng thuộc địa rất to lớn, không có họ thì cách mạng vô sản không
thể giành thắng lợi. “Lênin là người đầu tiên" 3 đã nhận thức đúng vấn đề đó. Theo Nguyễn Ái
Quốc, thuộc địa là nơi mà "tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc
địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ
hàng, mộ công nhân rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính
người bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó" 4 . Người khái quát: Lịch sử tất cả cuộc
xâm chiếm thuộc địa nào thì từ đầu đến cuối đều được viết bằng máu của người bản xứ. Sự bóc
lột tàn bạo của chủ nghĩa tư bản nói trên, đã đẩy các nước thuộc địa đến bước đường cùng phải
đoàn kết chống lại chủ nghĩa tư bản, lựa chọn đi theo con đường cách mạng vô sản.
Sự phân tích trên của Nguyễn Ái Quốc là một thực tế về vai trò của cách mạng thuộc
địa đối với cách mạng vô sản thế giới và sự cần thiết phải gắn bó chặt chẽ cách mạng dân tộc với
cách mạng vô sản thế giới. Quan điểm này còn góp phần đập tan huyền thoại của chủ nghĩa cơ
hội cho rằng: chủ nghĩa đế quốc đi xâm lược các nước thuộc địa, đóng vai là nhà “khai hoá,
truyền bá văn minh” đối với các dân tộc còn lạc hậu, trình độ phát triển thấp. Các dân tộc thuộc
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 2, tr 219.
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 1, tr 243.

5


địa chưa có đủ khả năng để giải phóng mình, vì họ còn thấp kém về mọi mặt. Mặt khác, giai cấp
vô sản thế giới chưa thể giúp giai cấp vô sản thuộc địa giải phóng được, để làm được điều đó cần
phải có thời gian tích luỹ lực lượng.
Hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc tìm mọi
cách gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người khẳng định: “Cách mệnh An Nam
cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới" 5 . Cách mạng ở phương Đông chậm phát triển và
suy yếu vì có một nguyên nhân là “sự biệt lập”. Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra
ở các nước láng riềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành
động và sự cổ vũ lẫn nhau. Biết được nguyên nhân suy yếu của cách mạng thì phải tìm cách
khắc phục, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy phải tuyên truyền giáo dục để: làm cho các dân tộc thuộc

địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu nhau hơn và đoàn kết lại để cùng nhau chống kẻ
thù chung. Người đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất của chủ nghĩa tư bản và sự cần thiết
phải hợp lực các dân tộc bị áp bức chống lại kẻ thù của mình. "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa
có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô
sản ở các nước thuộc địa... Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai
vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu giai cấp vô sản; con
vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra" 6 . Như vậy, chủ nghĩa thực dân không
chỉ là kẻ thù của các dân tộc bị áp bức, mà còn là kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động ở chính quốc. Do đó, cách mạng Việt Nam phải liên hệ với cách mạng thế giới, ai làm cách
mạng trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam để cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là
chủ nghĩa đế quốc. Khi gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh
vấn nhấn mạnh mỗi dân tộc có đặc điểm riêng về lịch sử, xã hội, chính trị, kinh tế, những đặc
điểm riêng của phương Đông và phương Tây, để trên cơ sở đó vạch ra chiến lược cho thích hợp
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới,
quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã chỉ rõ chiều hướng đi lên tất yếu của dân tộc Việt Nam, chủ
động đưa nước ta hoà nhập xu thế chung của thời đại để đạt đến mục đích. Đây là công lao đầu
tiên của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc bị áp bức khác. Tư tưởng
đó làm cơ sở cho Đảng ta xác định đường lối lãnh đạo gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng
thế giới để phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
5 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 2, tr 301
6 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 2, tr 120

6


Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong
sáng.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước chân chính... là một bộ phận của tinh
thần quốc tế”7 . Do đó sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chỉ được phát huy khi kết hợp
chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Là nhà yêu

nước chân chính, Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc; đồng thời là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh
không mệt mỏi để củng cố tăng cường tình đoàn kết và hữu nghị giữa Việt Nam và các dân tộc
khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.

Người nhấn mạnh: Đảng ta lấy toàn bộ hoạt động thực tiễn của mình để chứng

minh chủ nghĩa yêu nước chân chính không thể nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trước việc kẻ thù tuyên truyền chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, thói
kỳ thị màu da, tiếng nói, phong tục, tập quán... để chia rẽ giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ ra
cách mạng vô sản phải thực hiện triệt để tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Từ đó, muốn giải phóng mình thì nhân dân “bị bóc lột
thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức” 8 . Người không giấu nổi niềm phấn
khởi khi thấy trường đại học phương Đông đã thể hiện rõ tư tưởng của Lênin về kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng qua việc đoàn kết các dân
tộc thuộc địa: “Làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết
nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh
này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” 9 . Rằng đây bốn biển một nhà, vàng
đen trắng đỏ đều là anh em.
Để phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực hiện giành độc lập
cho dân tộc, trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí
Minh luôn đòi hỏi mọi người phân biệt rõ sự khác nhau giữa nhân dân lao động yêu chuộng hoà
bình, tự do với bọn thực dân đế quốc; nhân dân lao động pháp với bọn thực dân xâm lược Pháp.
Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược gây bao tội ác đối với nhân dân Việt Nam, nhưng Hồ

7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 6, tr 172
8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 1, tr 452
9 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 2, tr 124


7


Chí Minh vẫn luôn đề cao văn hoá Pháp, ca ngợi truyền thống đấu tranh cho độc lập tự do của
nhân dân Mỹ. Hàng loạt những biểu hiện nêu trên đã làm cho thế giới càng hiểu rõ hơn về cuộc
đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam; làn sóng phản đối chiến tranh ở Việt Nam không
ngừng được mở rộng cả ở trong nước và thế giới. Khắp các châu lục đòi đế quốc thực dân phải
chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam; tinh thần yêu nước chân chính với tinh thần
quốc tế vô sản được phát huy cao độ, tạo ra sức mạnh tổng hợp để chống quân xâm lược.
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước chân chính muốn kết hợp được với chủ nghĩa quốc tế vô
sản, những người cộng sản phải dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin về tinh thần quốc tế vô
sản mà vận dụng vào điều kiện thực tiễn cách mạng nước mình cho phù hợp, kiên quyết đấu
tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa sô vanh,
bảo vệ lợi ích của dân tộc mình và lợi ích chung của các dân tộc khác vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài, không quên nghĩa vụ
quốc tế vô sản
Vận dụng sáng tạo quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa các yếu tố bên trong và bên
ngoài, khách quan và chủ quan vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định:
Trong quá trình tiến hành cách mạng phải tranh thủ sự giúp đỡ về mọi mặt từ bên ngoài, nhưng
luôn đề cao ý thức tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính.
Theo Hồ Chí Minh "sức mình" ở đây chính là sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân, là nguồn nội lực, là cái gốc, điểm mấu chốt để đảm bảo nhận sự giúp đỡ
từ bên ngoài đạt kết quả. Sức mạnh của dân tộc là một động lực lớn đã kiểm nghiệm qua thực
tiễn được Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước" 1 0 . Trong tư
duy Hồ Chí Minh để tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài, trước hết phải chủ động tạo ra sức mạnh
của chính mình. Bởi lẽ “Muốn người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã” 1 1 .
Người thường nói: Có độc lập mới có tự lập, có tự cường mới có tự do: “Cố nhiên sự giúp đỡ
của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người
khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng


10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 1, tr 466
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 2, tr 293

8


đáng được độc lập”1 2 . Sức mạnh đó không phải ở đâu xa lạ, mà nằm ngay trong sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của cộng đồng người Việt Nam yêu nước được hun đúc
qua hàng ngàn năm lịch sử.
Trong mối quan hệ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, Hồ Chí Minh coi
sức mạnh của thời đại là nhân tố quan trọng, sức mạnh của dân tộc là nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một ví dụ
điển hình cho sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Những điều kiện khách quan
vô cùng thuận lợi cho cách mạng đã tới, nhưng Hồ Chí Minh vẫn coi yếu tố bên trong là quyết
định. Người kêu gọi: Hỡi toàn quốc đồng bào, hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta.
Dựa vào sức mình là chính nhưng phải tranh thủ sự giúp đỡ bên ngoài có hiệu quả, Người nói:
“Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực
lượng của ta, phát triển khả năng của ta”1 3 .
Để tranh thủ sức mạnh từ bên ngoài, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên,
nhân dân ta làm sao tuyên truyền cho sâu, cho rộng cuộc chiến tranh chính nghĩa của Việt Nam
trước nhân dân tiến bộ yêu chuộng hoà bình, tự do công lý trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp
và nhân dân Mỹ, thực hiện tư tưởng ngoại giao nhân dân. Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược
của nhân dân ta diễn ra trong hoàn cảnh hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa có sự bất đồng, nhất
là giữa Liên xô và Trung Quốc. Đảng ta định ra đường lối độc lập, tự chủ, kết hợp cuộc đấu
tranh chung của nhân loại vì những mục tiêu của thời đại là hoà bình, độc lập, dân chủ với cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Đường lối đó chẳng những đã góp phần
tăng cường sự đoàn kết giữa các đảng, mà còn huy động được sức mạnh bên ngoài, tranh thủ
được phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới, ủng hộ Việt Nam giành độc lập, tạo ra được
một mặt trận rộng lớn, mạnh mẽ chưa từng có đoàn kết với Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Tranh

thủ sự giúp đỡ của quốc tế với Việt Nam, Hồ Chí Minh đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của
Việt Nam với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Khi có sự mất đoàn kết giữa các dân
tộc phải cùng nhau khôi phục, củng cố, phát triển tình đoàn kết có lý, có tình trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin về tinh thần quốc tế vô sản. Nhân dân Việt Nam không chỉ chiến đấu vì độc
lập tự do cho dân tộc mình mà còn vì độc lập tự do của các nước khác.

12 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 6, tr 522
13 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 8, tr 30

9


Thực tiễn cách mạng nước ta hơn 80 năm qua, đã khẳng định: chính sự nỗ lực, cố gắng
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã tạo nên nguồn sức mạnh nội lực to lớn, nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng nói: Chúng ta có quyền tự hào
rằng nước ta là một dân tộc nhỏ nhưng đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Đó là thắng
lợi của sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thắng lợi của tư tưởng dựa vào sức
mình là chính nhưng phải ra sức tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài. Thắng lợi đó còn góp phần
vào bảo vệ củng cố tình đoàn kết phong trào vô sản thế giới, thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả
của mình theo đúng nghĩa “Giúp bạn là tự giúp mình”.
Xây dựng tình hữu nghị hợp tác, đoàn kết giữa các quốc gia dân tộc và các lực lượng
cách mạng, hoà bình, dân chủ trên thế giới
Xây dựng tình hữu nghị hợp tác, đoàn kết giữa các quốc gia dân tộc và các lực lượng
cách mạng, hoà bình, dân chủ trên thế giới, là điều kiện quan trọng để tranh thủ, khai thác sức
mạnh từ bên ngoài vào củng cố giữ vững nền độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước vững
mạnh. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề đó, sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công, Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới việc mở rộng xây dựng tình hữu nghị, quan hệ
hợp tác với các lực lượng cách mạng, hoà bình, dân chủ trên thế giới. Tư tưởng này được thể
hiện rõ trong chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước ta: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà là Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền

lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính
phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước
Việt Nam để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới” 1 4 . Chính sách ngoại giao
của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để
giữ gìn hoà bình. Nước Việt Nam độc lập có quyền bình đẳng với mọi quốc gia, dân tộc khác
trên thế giới. Các nước khác trên thế giới cũng phải tôn trọng quyền độc lập của Việt Nam, xây
dựng tình hữu nghị đoàn kết với Việt Nam.
“1. Đối với nước Lào và Miên, Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng
mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền.
2. Đối với các nước dân chủ, Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong
mọi lĩnh vực.
a. Nước Việt Nam giành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật
nước ngoài, trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
14 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 7, 8.

10


b. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn
bán và quá cảnh quốc tế.
c. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên
hợp quốc.
d. Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ của
Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng
một vài căn cứ hải quân và không quân”1 5 .
Những tuyên bố trên đây của Chính phủ Việt Nam một mặt khẳng định nước ta là một
nước độc lập, có chủ quyền, yêu cầu mọi quốc gia trên thế giới phải tôn trọng sự thật này, mặt
khác còn tỏ rõ tư tưởng nhất quán Việt Nam muốn xây dựng tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác
giữa các quốc gia dân tộc, các lực lượng cách mạng, hoà bình, dân chủ trên thế giới.
Việt Nam xây dựng tình hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới đó là quan điểm

chung, nhưng với từng nước, nhóm nước có chính sách cụ thể. “Thái độ nước Việt Nam đối với
những nước Á châu là thái độ anh em, đối với ngũ cường là thái độ bạn bè” 1 6 . Hồ Chí Minh chỉ
rõ xây dựng tình hữu nghị láng giềng gần gũi với Lào và Cămpuchia, hình thành mặt trận chiến
đấu chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dưong. Với Trung Quốc, nước có quan hệ lịch sử
văn hoá lâu đời, củng cố xây đắp tình hoà hiếu vốn có giữa hai dân tộc ngày càng phát triển, xây
dựng tình hữu nghị “vừa là đồng chí vừa là anh em”. Mặc dù các nước trong khu vực có phong
tục, tập quán, chế độ chính trị xã hội khác nhau nhưng Việt Nam luôn luôn thiết lập mối quan hệ
hữu nghị láng giềng tốt, tôn trọng chủ quyền của mỗi quốc gia dân tộc.
Đối với các tư bản, nếu muốn thật thà đến kinh doanh ở Việt Nam cốt làm lợi cho cả hai
bên, thì Việt Nam sẽ hoan nghênh. Ngay cả thực dân Pháp: “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân
thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu
họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh
em bầu bạn”1 7 . Còn nếu tư bản đến Việt Nam để ràng buộc, chế áp, cao hơn nữa là thôn tính,
xâm lược thì nhân dân Việt Nam sẽ cương quyết cự tuyệt chống lại.

15 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 470
16 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 136
17 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 587

11


Để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước trên thế giới,
Hồ Chí Minh đã có nhiều cuộc đi thăm hữu nghị chính thức một số nước ở châu Á như Ấn Độ,
Miến Điện, Inđônêxia... hình thành trục hữu nghị Hà Nội - Niuđêli - Giacácta và đón tiếp nhiều
đoàn đại biểu cấp cao từ các nước Á, Phi; nhiều tổ chức quốc tế sang thăm Việt Nam. Từ năm
1963 Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước ta đã chủ trương vận động nhân dân thế giới, các tổ
chức của nhân dân Á, Phi, Mỹ la tinh có hành động phối hợp mạnh mẽ hơn đòi đế quốc Mỹ
chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Kết quả là ở nhiều nước đã thành lập Uỷ ban đoàn kết với Việt
Nam và Hồ Chí Minh cũng không quên gửi điện cảm ơn kịp thời tới vị đứng đầu các tổ chức đó.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh Việt Nam muốn kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại thì phải mở rộng mối quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, các lực lượng hoà
bình, dân chủ, tiến bộ trên thế giới. Mặt khác chúng ta chủ trương xây dựng tình hữu nghị đoàn
kết hợp tác lẫn nhau nhưng phải trên cơ sở hợp lý và hợp tình. Về lý, phải tuân thủ nguyên tắc
tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi. Về tình, mở rộng quan hệ
với các nước nhưng luôn chú ý tới đặc điểm riêng của mỗi dân tộc, coi trọng đặc điểm của dân
tộc mình nhưng không làm hại đến lợi ích của dân tộc khác. Quan điểm đó là phương hướng
hành động cho Đảng ta xác định đường lối, chủ trương, chính sách ngoại giao trong lịch sử và
đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Vượt lên tư duy của các nhà yêu nước đương thời, với một tư chất thông minh, nhãn
quan chính trị sắc sảo, với một tấm lòng yêu nước thương dân vô hạn, Hồ Chí Minh đã sớm
nhận thấy sức mạnh của dân tộc. Trải qua hoạt động thực tiễn trong nước và thế giới, đến với lý
luận Mác - Lênin, Người càng nhận rõ sức mạnh của thời đại. Nắm bắt được xu thế phát triển
của thời đại, Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng Việt Nam theo hướng chung của cách mạng thế
giới. Từ đây sức mạnh dân tộc được nhân lên, phát huy kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo ra sức
mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam từng bước giành thắng lợi như ngày nay và góp phần
tích cực vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ
xã hội.
2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI
SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY
2.1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại
Giữ vững dịnh hướng xã hội chủ nghĩa trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại là yêu cầu có tính nguyên tắc chỉ đạo mọi hoạt động thực tiễn. Ngày nay sức mạnh dân
tộc là sức mạnh của độc lập, tự do, sức mạnh của “lòng dân” kết tinh những phẩm chất cao quý

12


con người Việt Nam (như đoàn kết, cần cù, thông minh, sáng tạo…). Đó là sức mạnh của văn

hóa giữ nước Việt Nam; sức mạnh của những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực mà nhân dân ta
đã đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước những năm vừa qua.
Trước những biến động phức tạp của tình hình chính trị thế giới, sức mạnh của thời đại
là sức mạnh của quy luật phát triển xã hội loài người quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới nhưng có những nội dung và hình thức mới. Đó là sức mạnh của
chủ nghĩa xã hội đang hồi sinh và đổi mới; sức mạnh đoàn kết của giai cấp công nhân, của các
lực lượng tiến bộ và nhân dân lao động các nước đấu tranh chống sự áp đặt cường quyền của các
nước đế quốc, chống mặt trái của toàn cầu hóa, phấn đấu vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội; là sức mạnh của đường lối và chính sách ngoại giao đúng đắn và sáng
tạo của Đảng và nhà nước ta: Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển ; là sức mạnh của khoa học
công nghệ đã và đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, cùng với nguồn lực trí tuệ của cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài đang hướng về Tổ quốc. Để phát huy được sức mạnh tổng hợp đó
phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi, bảo đảm cho sự
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giữ vững định hướng xã hội trong công cuộc đổi mới là một nội dung quan trọng.
Trước những biến đổi sâu sắc của tình hình quốc tế hiện nay việc giữ vững định hướng phát triển
của đất nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội là một vấn đề có ý nghĩa quyết định, đó là phương
hướng chính trị và quan điểm chỉ đạo cơ bản, được Đảng ta quán triệt sâu sắc và nhất quán trong
mọi hoạt động thực tiễn. Ngay từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội tại Đại hội VII, Đảng ta đã nhận định “lịch sử đang trải qua những bước quanh co,
song loài người cuối cùng nhất định sẽ tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch
sử”1 8 . Đồng thời Đại hội cũng đi đến chủ trương: “phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh
hoạt trong trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất
yếu ở nước ta…Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa
và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội”1 9
1,2


18

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb CTQG, HN 1991, tr. 8; 52
19

13


Tiếp đó, Đại hội VIII lại khẳng định sau những biến cố chính trị ở Liên Xô và Đông
Âu, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất
của thời đại loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội;
Đại hội đã rút ra bài học kinh nghiệm chủ yếu cho cách mạng Việt Nam trong công cuộc đổi mới
đó là: “giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới” và xác
định: “Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ tời cơ, vượt qua thử thách,
đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa…”2 0
Kiên định thế giới quan Mác xít; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là phương
hướng quan trong trong tình hình hiện nay có ý nghĩa quyết định đến thành bại của công cuộc
đổi mới mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã bền bỉ tiến hành. Giải pháp này là cơ sở là
điều kiện đảm bảo cho con thuyền cách mạng không bị chòng trành, vượt qua những bão giông
thác ghềnh của thời cuộc, vững bước đi lên. Có thể nói kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin giữ
vững định hướng XHCN là nguyên tắc hàng đầu trong công cuộc đổi mới, thực chất là kiên trì
sự lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa gắn liền với độc lập dân tộc của cách mạng
nước ta. Đây là tư tưởng nổi bật nhất quán triệt để của chủ tịch Hồ chí Minh, Đảng ta và nhân
dân từ năm 1930 đến nay. Sức mạnh trong nước của chúng ta ngày nay là sức mạnh của dân tộc
độc lập tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc khơi dậy các tiềm năng, huy động tối đa các nguồn lực
phải tập trung cho hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Cùng với chủ trương giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị tư

tưởng Đảng ta cũng rất quan tâm đến việc giữ vững định hướng trên lĩnh vực kinh tế. Bởi vì,có
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được hay không; diều đó trước hết phụ thuộc vào công cuộc xây
dựng nền kinh tế có giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa hay không. Định hướng đó phải
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa bao gồm cả quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối và vấn đề quản lý nền kinh
tế. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó sẽ bảo đảm cho nền kinh tế không bị tụt hậu trong thời
đại văn minh tin học, tạo ra được tiền đề kinh tế, kỹ thuật cho sự quá độ, đồng thời không đi
chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

20

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, HN 1996, tr. 82

14


Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế;
có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo…”2 1 . Kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử
với những đặc điểm riêng. Trước hết, đó là tính mục đích của kinh tế thị trường ở nước ta khác
với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng một quan hệ sản xuất mớiphù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân
phối”. Đó là một nền kinh tế thị trường có nhiều cơ cấu, nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân;
một nền kinh tế kết hợp hài hòa sự phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội, công bằng xã hội, phát

triển văn hóa, phát triển con người, an ninh xã hội gắn liền với an ninh môi sinh, bảo đảm phát
triển bền vững; mở cửa hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ kinh tế…cuối cùng
đó là một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước
XHCN, kết hợp thị trường và kế hoạch hóa trong phát triển.
Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường, nhưng đó là nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng xã hội phải dân chủ, công bằng và văn minh, phát
triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ xã hội, đi đôi với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo đảm
nền quốc phòng an ninh vững mạnh. Không thể chấp nhận quan điểm “làm giàu bằng mọi giá”
không thể để tình trạng phân hóa giàu nghèo tăng nhanh và dẫn đến phân hóa giai cấp.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kém phát triển như nước ta là một việc làm mới
mẻ hết sức khó khăn. Điều đó đòi hỏi mọi tiềm lực lực trí tuệ, sự thông minh, tài tình sáng tạo
của Đảng phải được tập trung vào việc nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn về chủ nghĩa xã hội mà
chúng ta đang xây dựng đề ra được những mục tiêu cho từng chặng đường phát triển, tìm ra con
đường, biện pháp phù hợp với đặc thù của nước ta, biết phát huy mọi tiềm năng của đất nước,

21

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, HN 2016, tr. 102

15


biết tận dụng thời cơ mà thời đại đã mở ra để giành thắng lợi từng bước, cho từng chặng đường
của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tiến lên giành thắng lợi.
2.2. Giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Đây là một một quan điểm, phương châm chiến lược đúng đắn sáng tạo của Đảng ta
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và trở thành một vấn đề mang tính quy luật của cách
mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ

ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Trong kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc. Chỉ có
bằng sức mạnh của nội lực thì chúng ta mới có nền tảng vững chắc để bồi bổ lực lượng vượt qua
mọi hy sinh, gian khổ mọi tình huống phức tạp, đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi.
Hiện nay, xuất phát từ bối cảnh quốc tế và cục diện cách mạng trong nước kế thừa và
phát triển những bài học kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều
kiện mới. Đảng ta tiếp tục khẳng định phải khơi dậy “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh
thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả
và bền vững”2 2 và xác định rõ “nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau
thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”2 3 .
Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng trong quá trình kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, trước hết phải nêu cao ý chí tự lực tự cường, phát huy cao nhất các yếu tố nội lực
dựa vào nguồn lực trong nước là chính, bao gồm nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên, trí
tuệ, truyền thống (lịch sử, văn hóa của dân tộc). Kinh nghiệm cho thấy, nếu không nêu cao tinh
thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, không phát huy đầy đủ nội lực thì không thể đứng vững, đi
lên một cấch lâu bền và cũng không thể hội nhập quốc tế một cách bình đẳng. Ngược lại để hội
nhập một cách chủ động, tránh “đánh mất” mình hay “hòa tan” mình vào cuộc hội nhập đầy
phức tạp và tiềm tàng những bất trắc thì không thể không xây dựng và phát triển một nội lực
mạnh mẽ đủ khả năng giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả
ngoại lực để xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn cách mạng nước ta, nhất là sau 30 năm đổi mới đã chứng minh rằng tư tưởng
“độc lập, tự chủ, tự lực tự cường” là hoàn toàn đúng đắn. Chỉ có trên cơ sở độc lập tự chủ chúng
ta mới có sự sáng tạo trong đường lối cách mạng, luôn luôn chủ động và năng động trong thực

22

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, HN 2001, tr. 86
23

16



tiễn. Có nêu cao tinh thần tự lực tự cường thì trong khi cách mạng gặp khó khăn, hoàn cảnh quốc
tế bất lợi, chúng ta mới có thể đứng vững và xử lý các tình huống một cách tự tin, và do đó mới
vượt qua được thử thách đưa cách mạng tiến lên. Có biết phát huy cao độ các tiềm năng nội sinh,
khơi dậy một cách sáng tạo và năng động của các nguồn lực cả về vật chất và tinh thần, mới có
điều kiện và khả năng tiếp nhận, sử dụng sứcmạnh thời đại có hiệu quả. Độc lập tự chủ tự lực tự
cường không chỉ là phát huy các tiềm năng vốn có của đất nước, mà còn tích cực chuẩn bị, bổ
sung không ngừng các điều kiện, khả năng để tiếp nhận và sử dụn có hiệu quả cao nhất sức
mạnh của thời đại.
Tuy nhiên độc lập tự chủ, tự lực tự cường để tạo nên sức mạnh của dân tộc - nguồn lực
bên trong, là nền tảng và tiền đề giữ vai trò quyết định, nhưng không phải là duy nhất. Sức mạnh
đó không được kết hợp với sức mạnh của thời đại thì không những không tạo được sức mạnh
tổng hợp, mà chính bản thân sức mạnh tổng hợp, mà chính bản thân sức mạnh của dân tộc cũng
không thể phát huy được hiệu quả tối đa của mình. Tuyệt đối hóa sức mạnh của dân tộc là tự
“giam hãm” và tự “cô lập” mình. Ngược lại, sức mạnh của thời đại là các nguồn lực bên ngoài
chỉ có thể phát huy được tác dụng là sức mạnh thực sự khi được kết hợp với sức mạnh trong
nước, thông qua khả năng tiếp nhận và sử dụng của chúng ta. Nhận tức sâu sắc về mối quan hệ
giữa sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, Đại hội lần thứ XII, tổng kết 30 năm đổi
mới, Đảng ta đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm “ Phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở
kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, vận dụng kinh nghiệp quốc tế phù hợp Việt Nam”2 4
Trong khi kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chúng ta luôn quán triệt
quan điểm dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, không thể
là sự “hợp tác bằng mọi giá”. Ngày nay, chúng ta còn mở rộng hợp tác với các nước tư bản,
nhưng đó là sự hợp tác có đấu tranh. Không thể không đồng ý với quan điểm cho rằng “hợp tác
toàn diện” với các nước tư bản là liều thuốc cải tư hoàn sinh”, là “tư duy chính trị mới”, là “sự
thông minh, tỉnh táo và thức thời nhất”…Hợp tác với các nước tư bản là nhằm tranh thủ vốn, kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý …nhằm khai thác những tiềm năng có thể để xây

dựng nước ta thành nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chế độ
xã hội chủ nghĩa, chứ nhất quyết không phải để “hòa nhập với thế giới tự do” tư bản chủ nghĩa.

24

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, HN 2016, tr. 69

17


Trong hợp tác phải đấu tranh chống những thủ đoạn lợi dụng hợp tác để chống phá ta, nhưng đấu
tranh là để hợp tác tốt hơn tận dụng nguồn lực bên ngoài tốt hơn.
Vì vậy đi đôi với giữ vững tự chủ tự lực, tự cường chúng ta cũng cần phải chủ động hội
nhập quốc tế, tranh thủ sự hợp tác, liên kết với các nước để khai thác nguồn vốn đầu tư, khoa
học, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, điều hành đất nước cả tầm vĩ mô và vi mô. Đó
chính là là phương hướng xây dựng, sử dụng sức mạnh tổng hợp làm cho các yếu tố thời đại,
quốc tế chuyển hóa và kết hợp với nội lực giúp chúng ta vượt qua những khó khăn thử thách để
đứng vững đổi mới và phát triển.
2.3. Xây dựng một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ theo phương hướng phát huy cao độ
nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài chủ động hội nhập quốc tế
Đó là nền kinh tế độc lập tự chủ đáp ứng nhu cầu xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, có khả
năng cạnh tranh trên trường quốc tế, đồng thời đáp ứng nhu cầu xây dựng nền quốc phòng đủ
mạnh để răn đe kẻ thù và đánh thắng chúng khi chúng liều lĩnh xâm lược. Để xây dựng một nền
kinh tế như vậy, trước hết chúng ta phải phát huy nội lực của chính mình trên tinh thần “đem sức
ta để giải phóng cho ta”. Chúng ta phải bắt đầu từ xây dựng nền kinh tế, vì đó là đầu mối của
mọi vấn đề, xây dựng nền quốc phòng cũng phải như vậy.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời phải xây dựng được tiềm lực kinh tế, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, có năng lực nội sinh về khoa học công nghệ…đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển trên chính khả năng của mình và phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, an toàn về

tài chính, an ninh lương thực, năng lượng…đủ sức ứng phó với các tình huống xấu xảy ra.
Phát huy sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế là một chủ trương lớn, một bài
học xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Việc phát huy nội lực gắn với nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế càng trở nên quan trọng và bức thiết trong công cuộc đổi mới đặc biệt là trên lĩnh vực
kinh tế. Xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ mới Đảng ta luôn xác định phải tiếp tục thực hiện
đường lối kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tức là giải quyết đúng đắn mối quan
hệ nội lực và ngoại lực trong xây dựng nền kinh tế ở nước ta. Nội lực là quyết định, ngoại lực là
quan trọng, hai nguồn lực đó gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
Phát huy nội lực gắn chặt với nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trở thành nhu cầu tất yếu có tính
quy luật. Chỉ có phát huy nội lực, phát huy sức mạnh tiềm năng của đất nước mới nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế. Ngược lại nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế ngày càng cao, mới khai thác
phát huy nội lực ngày càng lớn. Sự kết hợp đó không đơn thuần chỉ là sự cộng lại mà đó chính là

18


sự thẩm thấu, hòa quyện chặt chẽ không tách rời tạo nên tổng lực sức mạnh, trong đó phát huy
nội lực có ý nghĩa quyết định.
Theo tinh thần đó phải gắn chặt xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế có hiệu quả và
ngược lại hội nhập kinh tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ. Mở cửa hội nhập kinh tế với mặt trái của nó, không ít “rác rưởi” cuốn theo như văn hóa
xấu độc, bệnh hoạn xã hội và có cả gián điệp, tình báo, sự phá hoại của các thế lực thù địch.
Nhưng trong hoàn cảnh nhiều nước đầu tư vào nước ta và ta có quan hệ với nhiều nước, việc
cài thế đan xen quyền lợi giữa các nước, ta có thể thực hiện được. Trong trường hợp đó một
quốc gia, một thế lực nào đó có mưu đồ gây chiến xâm lược, phá hoại cuộc sống bình yên của
Tổ quốc ta chắc chắn sẽ bị nhiều nước phản đối, trước hết là vì quyền lợi kinh tế của họ gắn
với hòa bình, ổn định và cũng vì lương tri của nhân loại. Với tầm quan trọng đó, Đảng ta xác
định: “ nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế”.
Hiện nay trên thế giới và khu vực đang diễn ra quá trình giao lưu, hội nhập rộng rãi. Để

tận dụng và phát huy tối đa mọi nguồn lực từ bên ngoài đòi hỏi chúng ta cũng phải tham gia vào
quá trình đó. Tuy nhiên việc hội nhập ở đây không phải là sự hòa nhập bị động với trào lưu phát
triển mới của thời đại, càng không phải là sự tham gia hội nhập bằng mọi giá để tự đánh mất
mình, mà phải là sự tham gia có lựa chọn, tính toán chặt chẽ đến lợi ích quốc gia vầ chủ quyền
dân tộc. Đảng ta đã khẳng định: “chủ động hội nhập quốc tế và khu vực”. Điều đó đã nói nên
rằng chỉ có chủ động tham gia vào quá trình hội nhập chúng ta mới có thể tận dụng và phát huy
tối đa các nguồn lực từ bên trong như: vốn, khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý…kết
hợp với các nguồn lực bên trong để xây dựng và phát triển đất nước. Chỉ có trên cơ sở của sự hội
nhập chúng ta mới có thể tạo được sự đan cài về lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội giữa nước ta với
các nước, với cấc tổ chức quốc tế và khu vực. Để khi có những tình huống phức tạp xảy ra thì
một mặt chúng ta sẽ hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ xảy ra chiến tranh và mặt khác nếu
chiến tranh có xẩy ra thì chắc chắn chúng ta sẽ nhận được sự ủng hộ to lớn cả về vật chất và tinh
thần từ các nước. Như vậy, việc chủ động tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ có ý
nghĩa đơn thuần về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa rất quan trọng về mặt quốc phòng an ninh,
phục vụ tốt cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Đất nước ta đang thực hiện một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chúng ta không phủ nhận những thành quả mà nền kinh tế thị trường đem lại. Nhưng,
chúng ta cũng cảm thấy rất lo ngại về những tác động tiêu cực của nó trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị - xã hội, nhất là đối với lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Do đó, để tận dụng và

19


phát huy tối đa các yếu tố tạo thành sức mạnh nội lực trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Đảng ta đã có những cơ chế, chính sách phù hợp khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi giai
cấp tầng lớp trong xã hội vừa tích cực, chủ động trong phát triển kinh tế vừa tham gia vào xây
dựng, củng cố quốc phòng. Đảng chủ trương giải quyết hài hòa các lợi ích kinh tế, chính trị - xã
hội của tất cả các giai cấp tầng lớp, các thành phần kinh tế để tìm ra những điểm tương đồng, đó
là lợi ích quốc gia, chủ quyền dân tộc, sự mất còn của Tổ quốc. Nhằm mục đích, trong mỗi bước
phát triển kinh tế chúng ta tạo ra các điều kiện tốt để củng cố quốc phòng, bảo vệ chủ quyền và

an ninh quốc gia, chuẩn bị tốt cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc khi có kẻ thù xâm lược.
2.4. Kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại, trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta hiện nay, cần
vận dụng sáng tạo quan điểm phát huy sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại nhằm tạo ra sức mạnh lớn nhất cho nhiệm vụ hàng đầu là phát triển
kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời cho cả nhiệm vụ xây dựng
tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ XHCN. Nghị quyết Trung
ương Tám khóa XI của Đảng đã xác định: Phương châm giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở
rộng hợp tác quốc tế, dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn
lực bên ngoài, với động lực là khoa học công nghệ. Phải đi tắt đón đầu để đi nhanh vào hiện đại
ở những khâu quyết định, trong đó có công nghiệp quốc phòng. Phải phát huy trí tuệ và sức
mạnh tinh thần của con người Việt Nam, phát triển công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin,
đưa trình độ tin học của nước ta lên ngang tầm nhiệm vụ phát triển sản xuất, quản lý xã hội,
trong bối cảnh quốc tế khi kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển
lực lượng sản xuất. Đồng thời cũng phát triển khoa học công nghệ quân sự lên tầm cao mới, tạo
cơ sở cho nâng cao chất lượng nghệ thuật quân sự Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiẹp bảo
vệ Tổ quốc khi nhân dân ta phải đối phó với chiến tranh công nghệ cao.
Quốc phòng và an ninh vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị là yếu tố cơ bản quyết
định việc tiếp thu có hiệu quả nguồn ngoại lực và sức mạnh quốc tế. Trong những năm chiến
tranh, chúng ta đã thu được nhiều kinh nghiệm quý về tận dụng những thành quả hợp tác trong
lĩnh vực quân sự, quốc phòng để tăng cường sức mạnh chiến tranh, xây dựng quân đội, đào tạo
cán bộ, tiếp thu những thành tựu tiên tiến của khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học kỹ thuật
quân sự…những kinh nghiệm đó cần được vận dụng phát triển trong điều kiện mới.
Ngày nay hoạt động hợp tác quân sự, quốc phòng đã có những bước phát triển khác
trước rất nhiều, từ đối tác, nội dung đến phương pháp, hình thức; nhiều vấn đề mới, phức tạp nẩy

20



sinh phải được xử lý linh hoạt, khéo léo đúng nguyên tắc. Bởi vậy cần có nhận thức đúng về hợp
tác quân sự, quốc phòng có đặc thù và nhiệm vụ riêng. Hoạt động hợp tác quân sự, quốc phòng
muốn đạt hiệu quả cao phải phối hợp chặt chẽ với các lĩnh vực hợp tác và đấu tranh khác, nhất là
về kinh tế, chính trị, khoa học, công nghệ, văn hóa, nhằm đạt được yêu cầu mọi kết quả hợp tác
trên các lĩnh vực đều tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quân sự, quốc phòng góp phần đẩy
mạnh các mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trên các lĩnh vực khác nhằm đạt mục tiêu chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó cần nhận thức đứng vai trò, vị trí của hợp tác quân sự, quốc
phòng trong tình hình mới. Tránh nhận thức đơn giản, một chiều, coi quân sự, quốc phòng chỉ là
đối đầu. Cố nhiên, quốc phòng chỉ là chuẩn bị để chống giặc ngoài, thù trong, bảo vệ Tổ quốc và
chế độ, nhưng còn một chức năng nữa cũng rất quan trọng là xây dựng tiềm lực kinh tế quốc
phòng, an ninh, góp phần phát huy cao nhất ngoại lực - sức mạnh thời đại.
Trong mối quan hệ sử dụng sức mạnh nội lực và tranh thủ tối đa ngoại lực để củng cố
quốc phòng, phải nắm vững tư tưởng chỉ đạo tận lực khai thác mọi tiềm năng của đất nước, kinh
nghiệm và truyền thống của dân tộc ta, đề cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, vận
dụng linh hoạt sáng tạo phương châm, phương pháp nâng cao hiệu quả hợp tác, đấu tranh, khôn
khéo giữ thế có lợi cho ta, tránh bị chèn ép, lệ thuộc, giữ gìn bí mật quân sự, bí mật quốc gia an
ninh chính trị. Trên cơ sở đó và với tư cách là thành viên của cộng đồng quốc tế, chủ động hội
nhập mở rộng hợp tác, đấu tranh quân sự quốc phòng trên nhiều lĩnh vực theo hướng mở rộng,
đa phương hóa đa dạng hóa các quan hệ với quân đội và nhân dân các nước, trước hết là các
nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước trong khu vực và bạn bè truyền thống; từng bước
mở rộng quan hệ có chọn lọc với các nước khác, tham gia các hoạt động hợp tác quân sự trong
khu vực và trên thế giới, gópphần tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế, nâng cao vị thế quốc
tế của Đảng, nhà nước và quân đội ta, củng cố tình đoàn kết của nhân dân ta với nhân dân các
nước, tranh thủ sự đồng cảm ủng hộ của bạn bè quốc tế, tạo môi trường hòa bình ổn định về điều
kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời góp phần củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng sức mạnh chiến đấu của
quân đội trên cơ sở hợp tác với quân đội các nước trong đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chỉ
huy, nhân viên kỹ thuật, tiếp thu có chọn lọc các thành tựu tiên tiến về khoa học nghệ thuật quân
sự, công nghiệp quốc phòng, kinh nghiệm tổ chức chỉ huy giáo dục, huấn luyện quân đội và lực
lượng vũ trang …Qua đó làm cho quân đội và nhân dân các nước hiểu rõ, hiểu đúng hơn về đất
nước, con người Việt Nam, đường lối chính sách quốc phòng của Đảng và nhà nước ta. Chúng ta

tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và hợp tác ngày càng rộng rãi của khu vực và thế giới đối
với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa.

21


KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những tư tưởng của Người vẫn luôn là kim chỉ
nam cho ý chí và hành động của dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay,
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nhận rõ vai trò, tầm quan trọng của việc kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng.
Thực tiễn quá trình vận động và biến đổi của cách mạng nước ta cho thấy: ở giai đoạn
cách mạng nào, thời kỳ nào tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Hồ
Chí Minh được quán triệt và vận dụng đúng thì cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được
thắng lợi, ngược lại thời kỳ, giai đoạn cách mạng nào, xa rời tư tưởng đó, thì cách mạng bị trở
ngại và tổn thất. Vì vậy, việc nhận thức, quán triệt đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tình hình hiện nay có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt
trong bối cảnh diễn biến phức tạp của thế giới đương đại và đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế của nước ta hiện nay.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb
Chính trị quốc gia, H. 2010
2. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011
3. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2016
4. V.I.Lênin: Toà n tậ p , Nxb. Tiế n bộ , Má t-cơ-va, 1981, tập 26
5. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, 2, 6, 8, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002

6. HVCT, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học tập 1, 2, Nxb QĐND, H.2008
7. HVCT, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh tập 1, 2, Nxb QĐND, H.2014
8. Vũ Đình Hòe (chủ biên), Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, H.2010.

23



×