Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận cao học văn hóa hy lạp cổ đại 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.86 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
Người Hy Lạp ngày nay thường tự hào rằng đất nước của họ là cái nôi của
nền văn minh châu Âu. Niềm tự hào này thật chính đáng. Lịch sử đã từng biết đến
một thời kì “Hy Lạp hóa” (334 TCN – 30 TCN) – thời kì mà sự truyền bá của văn
hóa Hy Lạp không dừng lại ở châu Âu. Lịch sử cũng đã từng chứng kiến sự sửng
sốt, ngỡ ngàng của không ít người châu Âu trong thời kì văn hóa Phục hưng, trước
thành tựu văn hóa của những người đồng hương của mình trên bán đảo Bancăng
vào khoảng hai nghìn năm trước đó. Thưở ấy, “những người khổng lồ” của thời
đại Phục hưng đã tìm thấy ở nền văn minh Hy Lạp cổ đại không chỉ những công
trình kiến trúc, điêu khắc tuyệt mĩ, những tác phẩm văn học đồ sộ, mà còn thấy ở
đó chủ nghĩa duy vật cổ đại và những tư tưởng nhân văn làm cơ sở cho việc xây
dựng một nền văn hóa mới, trong thời đại mới – thời đại đấu tranh và chiến thắng
của chủ nghĩa tư bản đối với chế độ phong kiến ở châu Âu.
Văn minh Hy Lạp đã đánh dấu một thời kì vàng son trong tiến trình lịch sử
thế giới. Ngày nay, về nhiều mặt, văn hóa Hy Lạp cổ đại vẫn còn để lại cho chúng
ta những cảm hứng nóng hổi và những bài học bổ ích. Do vậy, tiếp tục đi sâu
nghiên cứu, khai thác, phát hiện những thành tựu của văn minh Hy Lạp cổ đại là
một việc làm thiết thực, làm phong phú thêm kho tàng văn minh nhân loại.

1


1. Cơ sở hình thành văn minh Hy Lạp cổ đại
1.1. Địa lý, dân cư
Ngày xưa, các bộ lạc Hy Lạp gọi bộ lạc của mình bằng những tên riêng. Đến
khoảng thế kỉ VIII –VII TCN, người Hy Lạp mới gọi mình là Hêlen và gọi đất
nước mình là Hêla tức Hy Lạp.
Lãnh thổ của Hy Lạp cổ đại rộng hơn nước Hy Lạp ngày nay rất nhiều: bao
gồm miền Nam bán đảo Bancăng, các đảo trên biển Ê giê và miền ven biển phía
Tây Tiểu Á, trong đó quan trọng nhất là miền Nam bán đảo Bancăng tức là vùng
lục địa Hy Lạp.


Nằm trên bán đảo Bancăng, Hy Lạp không có những vùng đồng bằng phì
nhiêu, rộng lớn như ở các quốc gia cổ đại phương Đông. Trái lại, đất đai ở đây ít,
không thuận lợi cho trồng cây lương thực, địa hình lại bị chia cắt thành những
vùng sinh thái nhỏ xen lẫn đồi núi, đồng bằng, ven biển, Bù lại, Hy Lạp có nhiều
nguồn nguyên liệu, nhiều hải cảng rất thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp và
thương nghiệp. Điều kiện địa lý ấy đã làm cho người Hy Lạp quan tâm đến việc
phát triển thủ công nghiệp và thương mại đường biển hơn là đi khai phá những
vùng đất hẹp và cằn cỗi của mình. Khuynh hướng phát triển kinh tế ấy lại được
nảy nở trong điều kiện lịch sử mới - thời đại đồ sắt, làm cho nền kinh tế thủ công
nghiệp và ngoại thương của Hy Lạp phát triển mạnh mẽ. Hy Lạp đã trở thành trung
tâm sản xuất thủ công nghiệp, trung tâm thương nghiệp lớn nhất châu Âu và có lẽ
là cả thế giới ở nửa sau thiên niên kỉ I TCN. Trong những thế kỉ này, ở Hy Lạp các
xưởng thủ công đã sử dụng hàng trăm nô lệ, hoạt động nhộn nhịp ngày đêm, các
thuyền buôn Hy Lạp chở đầy vũ khí, đồ trang sức, đồ gốm, đồ gỗ, đồ da, rượu nho,
dầu ô liu,...lênh đênh trên biển đi đến mọi miền xa xôi ven Địa Trung Hải. Sự hưng
khởi của nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ với những mối giao lưu rộng lớn ấy vừa là
tiền đề, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền văn hóa Hy Lạp
cổ đại.
Cư dân Hy Lạp cổ đại bao gồm nhiều tộc người: người Êôliêng, chủ yếu cư
trú ở bắc bán đảo Bancăng và một phần Trung Bộ; người Iôniêng ở đồng bằng
Áttích, vùng ven biển phía Tây Tiểu Á; người Akêăng ở vùng bắc bán đảo
2


Pêlôpônedơ và người Đôniêng ở Bắc bán đảo Pêlôpônedơ, đảo Cret và các đảo
khác ở phía Nam biển Êgiê.
1.2. Điều kiện lịch sử, xã hội
Lịch sử Hy Lạp cổ đại có thể chia làm các thời kì chính sau đây:
Thời kì văn hóa Cret – Myxen: Tại đảo Cret và Myxen, phía đông bán đảo
Ban căng, người ta đã tìm thấy dấu tích của một nền văn minh tồn tại từ khoảng

thế kỉ III TCN đến thế kỉ XII TCN. Chủ nhân của nền văn minh này là người
Akêang. Nền văn hóa Cret – Myxen còn để lại các dấu tích các thành cổ, cung điện
và một số đồ dùng bằng đồng thau. Cuối thế kỉ XII TCN, người Đôriêng với vũ khí
bằng sắt từ phương Bắc, tràn xuống tấn công, người Akêang chống đỡ không được
và các quốc gia của người Akêang đã bị tiêu diệt. Thời kì Cret – Myxen kết thúc.
Thời kì Home (thế kỉ XI – IX TCN): đời sau biết đến giai đoạn này chủ yếu
thông qua hai tác phẩm của Home nên người ta lấy tên ông để đặt cho thời kì này.
Qua hai tập thơ Iliat và Ôđixê, người ta nhận thấy xã hội Hy Lạp được mô tả trong
giai đoạn này là một xã hội nguyên thủy đang trên đường tan rã, xã hội có nhà
nước đang hình thành.
Thời kì thành bang (thế kỉ VIII – IV TCN): Đây là thời kì hình thành ở Hy
Lạp hàng trăm nhà nước nhỏ mà người ta gọi là các thành bang. Trong hàng trăm
thành bang thời đó, quan trọng nhất là thành bang Aten và Spac. Rất nhiều thành
bang hồi đó sống bằng nghề công thương nghiệp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến
sưh phát triển của văn minh Hy Lạp. Thế kỉ V TCN, các thành bang Hy Lạp đã
phải chống lại sự xâm lược của đế quốc Ba Tư và họ đã chiến thắng. Nhưng cuối
thế kỉ V TCN, thế giới Hy Lạp đã xảy ra cuộc nội chiến. Cuộc nội chiến này đã
làm cho tất cả các thành bang suy yếu. Nhân cơ hội đó, một thành bang ở phía Bắc
bán đảo Bancăng là Makêđônia đã bắt các thuộc thành bang khác phải thuần phục
mình và Makêđônia cầm đầu thế giới Hy Lạp để tấn công Ba Tư.
Thời kì Hy Lạp hóa (từ 337 – 30 TCN): Sau khi đánh bại đế quốc Ba Tư,
quân đội của Hy Lạp đã mang văn hóa của Hy Lạp truyền bá khắp vùng Tây Á và
Bắc Phi. Vì vậy, người ta gọi thời kì này là thời kì Hy Lạp hóa. Đến thế kỉ I TCN,

3


đế quốc La Mã đang phát triển hùng mạnh đã thôn tính các vùng đất quanh Địa
Trung Hải, Hy Lạp trở thành một phần của đế quốc La Mã.
Nếu như ở các quốc gia cổ đại phương Đông, sự thống trị của chế độ quân

chủ chuyên chế và đi liền với nó là thế giới quan tôn giáo thần bí đã kìm hãm đáng
kể khả năng sáng tạo của con người, thì trái lại ở Hy Lạp cổ đại, chế độ dân chủ đã
mở đường cho sự phát triển của các tài năng.
Những đặc điểm của điều kiện tự nhiên, lịch sử đã làm xuất hiện ở Hy Lạp
các quốc gia - thành thị và một chế độ chính trị tiên tiến - chế độ dân chủ cổ đại,
Mặc dù còn không ít hạn chế, chế độ dân chủ này là một bước tiến vượt bậc so với
chế độ quân chủ chuyên chế phương Đông. Nó là nhân tố quan trọng hàng đầu đối
với sự phát triển của văn hóa Hy Lạp. Trong các thành bang theo chế độ dân chủ ở
Hy Lạp, những người nghệ sĩ, n hững nhà khoa học là những công dân tự do, do
vậy năng lực sáng tạo của họ được phát triển, lao động của họ được trân trọng, tài
nawg và những tác phẩm của họ trở thành niềm tự hào của một dân tộc yêu khoa
học và nghệ thuật. Có thể nói, không có chế độ dân chủ thì không có sự phồn vinh
của văn hóa Hy Lạp cổ đại.
Mặt khác, những thành tựu của văn hóa lâu đời của các dân tộc phương
Đông mà người Hy Lạp tiếp thu được qua các mối giao lưu kinh tế, văn hóa cũng
là một trong những tiền đề thuận lợi cho sự phát triền của nền văn hóa Hy Lạp cổ
đại. Những tri thức thiên văn học, toán học của người Ai Cập, Lưỡng Hà, những
kiểu dáng đền tháp ở Ai CẬp, nghệ thuật tạc tượng, điêu khắc của người Atxiri, hệ
thống chữ cái của người Pheenixi....đã được người Hy Lạp tiếp thu, bổ sung, chỉnh
lí và nâng lên một trình độ mới hơn, cao hơn.
Sự hội tụ của những tiền đề và điều kiện đó đã tạo thành nền móng vững
chắc cho sự ra đời và phát triển rực rỡ của văn hóa Hy Lạp cổ đại, một nền văn hóa
đã để lại cho nhân loại những tác phẩm văn học tuyệt vời, những công trình kiến
trúc, điêu khắc bất hủ, những tri thức khoa học mang tính khái quát cao và những
tư tưởng triết học sâu sắc. Một nền văn hóa thấm đượm tính nhân văn trong nội
dung và hình thức thể hiện.

4



2. Những thành tựu chủ yếu của văn minh Hy Lạp cổ đại
2.1. Chữ viết và văn học
2.1.1. Chữ viết
Vào thế kỉ IX - VIII TCN, qua những mối quan hệ buôn bán với người
Phênixi, người Hy Lạp đã làm quen với hệ thống chữ cái của họ. Hệ thống chữ cái
của người Phênixi, xuất hiện vào khoảng thế kỉ XII - TCN, có 22 chữ và chỉ biểu
thị các phụ âm. Trên cơ sở hệ thống chữ cái Phênixi, người Hy Lạp đã cải biến và
bổ sung để tạo thành một hệ thống các chữ cái mới gồm 24 chữ (với 18 phụ âm và
6 nguyên âm). Năm 403 TCN, hệ thống chữ cái này đã được chấp nhận chính thức
ở Aten. So với hệ thống chữ tượng hình ở phương Đông có hàng trăm kí hiệu, hình
vẽ cực kì phức tạp, thì hệ thống chữ cái Hy Lạp đã đạt đến trình độ khái quát hóa
rất cao. Chỉ với hơn hai mươi chữ cái, với cách ghép linh hoạt, người ta có thể thể
hiện trên mặt giấy mọi kết quả của tư duy. Sáng tạo ra hệ thống chữ cái này là một
cống hiến vô cùng to lớn cho nền văn hóa nhân loại của người Hy Lạp . Hệ thống
chữ Slavơ và chữ Latinh bắt nguồn từ chữ Hy Lạp phần lớn các dân tộc trên thế
giới sử dụng.
2.1.2. Văn học
2.1.2.1. Thần thoại Hy Lạp
Thuật ngữ "thần thoại" Mitôlôgia xuất phát từ chữ Hy Lạp Mythologos
(mythos: truyền thuyết, huyền thoại; logos: lời nói, chuyện kể, học thuyết). THần
thoại Hy Lạp hình thành chủ yếu trong thời kì tan rã của xã hội thị tộc, bộ lạc (thế
kỉ XI TCN - IX TCN) và phát triển thành một hệ thống hoàn chỉnh vào thế kỉ VIII
TCN - VII TCN.
Thần thoại là một hình thái ý thức xã hội, được thể hiện dưới dạng truyền
thuyết, những câu chuyện hoang đường về thế giới, về xã hội và về con người
trong thời kì con người vẫn còn chưa thoát khỏi vòng chi phối của sức mạnh tự
nhiên. "Thần thoại nào cũng chinh phục, chi phối và nhào nặn những sức mạnh tự

5



nhiên trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng: vậy thần thoại sẽ không còn
nữa, khi người ta thấy thật sự thống trị được những sức mạnh ấy".1
Đặc điểm lớn nhất và cũng là giá trị của thần thoại Hy Lạp là ở chỗ nó phản
ánh một thời kì quan trọng trong lịch sử Hy Lạp - thời đại chuyển tiếp từ thời đại
nguyên thủy sang xã hội có giai cấp và nhà nước, Những quá trình lịch sử cơ bản
của thời đại này: sự xuất hiện của công cụ kim loại, cuộc đấu tranh quyết liệt để
giành giật ngôi thủ lĩnh liên minh bộ lạc và sự ra đời của gia đình phụ hệ đã được
phản ánh sinh động trong thần thoại Hy Lạp. Cũng theo thần thoại Hy Lạp, loài
người đã trải qua 5 thời đại nối tiếp nhau: Thời đại Vàng, Thời đại Bạc, Thời đại
Đồng, Thời đại các anh hùng - nửa thần và Thời đại Sắt. Ba thời đại sau gắn liền
với các cuộc chiến tranh cướp bóc, sự tan rã của tư tưởng cộng đồng, bình đẳng
với sự đề cai quyền thế,...thể hiện rõ nét quá trình tan rã của xã hội thị tộc.
Do phản ánh một thời đại lịch sử nên thần thoại và anh hừng ca đã gắn bó
mật thiết với nhau. Anh hùng là thủ lĩnh có đức, có tài, có công trạng, nhưng chưa
phải là vua, được huyền thoại hóa, do đó có thần linh xen lẫn anh hùng. Có thể coi
thời đại anh hùng và thời đại anh hùng ca vừa nối tiếp vừa đan xen với nhau, là
thời đại chuyển tiếp từ công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp ở Hy Lạp,
trong đó thần thoại là khúc dạo đầu.
Giới thần linh của Hy Lạp thật đông đảo. Mỗi vị thần đại diện cho một hoặc
nhiều hiện tượng tự nhiên, của xã hội hay của đời sống con người. Dưới đây là
những vị thần tiêu biểu trong hệ thống thần linh của người Hy Lạp cổ đại.
Theo quan niệm của người Hy Lạp cổ đại, vũ trụ lúc đầu là một khối hỗn
mang gọi là Kaôs. Từ Kaôs xuất hiện nữ thần đất Gaia. Gaia sinh ra thần bầu trời
Uranôs.
Uranôs lấy Gaia rồi sinh ra mười hai thần Khổng lồ, gồm sáu thần nam và
sáu thần nữ. Trong thần thoại Hy Lạp, thế hệ thần này được gọi là "các thần già".
Cuộc hôn nhân giữa các thần già nảy sinh ra một thế hệ các vị thần mới.

C.Mác: Lời mở đầu phê phán kinh tế chính trị. Trích trong cuốn Về văn học và

nghệ thuật của Mác và Ăngghen, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1958, tr.100.
1

6


Theo thần thoại Hy Lạp, các vị thần ở Ôlympiơ rất đông đúc, trong đó có 12
thần, tiêu biểu là thần Dớt và các anh chị em ruột cùng con cái của Dớt, một thần
cai quản một lĩnh vực.
Dưới sự khéo léo của Prô - mê - tê nặn ra người từ đất sét và lấy trộm lửa
của Hê - fai - xtốt đem đến cho loài người. Đó là một trong những duyên cớ khiến
Dớt, vua của các vị thần, thù ghét chàng, xiềng xích chàng trên núi Cô - ca và đầy
đọa chàng trong ngục Tác - ta. Dưới sự điều khiển của thần Dớt, các vị thần ở núi
Ô - lem - pơ quanh năm tuyết phủ đã hoạt động trong mọi lĩnh vực, can thiệp cả
vào cuộc sống của con người...Thần thánh không phải chỉ để thể hiện sức mạnh
của tự nhiên, mà còn thề hiện hình ảnh lao động sáng tạo của con người, như :
Thần trồng nho và chế rượu nho Đi - ô - ni - xốt, nữ thần nghề nông Đê - mê - tê,
thần thợ rèn Hê - fai - xtốt...A - pô - lông vị thần đẹp trai, hào hoa phong nhã, điều
khiển các buổi nhảy múa của các vị thần nghệ thuật. Đó là nữ thần anh hùng Ca - li
- ốp, nữ thần bi kịch Ơ - tec - pơ, nữ thần hài kịch TA - li,.....
Thần thoại Hy Lạp còn chứa chất lòng ước mơ, sức mạnh của con người
trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Những kì công của Hê - ra - clét, Tê - zê tưởng
như là việc làm dũng cảm, cần cù của tập thể người trong quá trình đấu tranh với
những trở ngại của thiên nhiên.
Thần thoại Hy Lạp xuất hiện ở giai đoạn đầu của thời đại văn minh. Ở những
thế hệ sau, thần thoại được tất cả các ngành nghệ thuật dùng làm chất liệu để xây
dựng nên những tác phẩm thể hiện tư tưởng của tác giả. Mác đã nêu lên mối quan
hệ giữa thần thoại và các ngành nghệ thuật Hy Lạp: "Người ta biết rằng thần thoại
Hy Lạp không những là cái lò phát sinh mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng nghệ thuật
Hy Lạp nữa...Vật liệu của nghệ thuật Hy Lạp là thần thoại Hy Lạp"1.


C.Mác: Lời mở đầu phê phán kinh tế chính trị. Trích trong cuốn Về văn học và
nghệ thuật của Mác và Ăngghen, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1958, tr.109.
1

7


2.1.2.2. Thơ ca
Thơ ca là thể loại văn học xuất hiện sớm và được người Hy Lạp yêu thích.
Hai tập anh hùng ca Iliat và Ôđixê, ra đời vào khoảng thế kỉ IX - VIII TCN, là hai
tập thơ xuất hiện sớm nhất và cũng là những tác phẩm lớn nhất của thơ ca Hy Lạp .
Tương truyền Hôme là tác giả của hai tập thơ nổi tiếng này.

(Nhà thơ mù Hô-me-rơ)
Iliat gồm 15.693 câu thơ, chia làm 24 ca khúc. Iliat kể về một giai đoạn ngắn
49 ngày trong năm thứ mười - năm cuối cùng của cuộc chiến tranh giữa người Hy
Lạp với người ở thành Iliông (một tên gọi khác của thành Tơroa), một thành bang
nằm bên bờ Tiểu Á. Chủ đề của Iliat là mối bất hòa giữa Asin, một vị tướng xuất
sắc của quân Hy Lạp với chủ tướng Agamenmông - là người đã cậy quyền thế để
cướp đoạt người nữ tì xinh đẹp Bridêis của Asin. Mối bất hòa đã khiến các thần
Ôlympơ phải can dự và làm cho cục diện cuộc chiến diễn biến phức tạp. Cuối
cùng, người Hy Lạp đã hạ được thành Tơroa. Kết thúc tập thơ là lễ hỏa táng Hécto,
chủ tướng của quân Tơroa.
Ôđixê gồm 12 tập và cũng được chia làm 24 khúc ca. Ôđixê kể về cuộc
hành trình của Uylit (tức Ôđixê) trên đường trở về quê hương sau khi quân Hy
8


Lạp đã hạ được thành Tơroa. Sau mười năm phiêu bạt gian nan, Ôđixê - người

anh hùng của quân Hy Lạp, mới về tới quê hương bên người vợ thủy chung
của mình là Pêlênôp.
Iliat và Ôđixê là những tác phẩm xuất sắc của văn học Hy Lạp cổ đại. Hai
tập anh hùng ca này tập trung ca ngợi những con người dũng cảm, thông minh,
những người anh hùng như Asi, Uylit, Hecto, đề cao sự thủy chung của người phụ
nữ là Pêlênôp là đại diện. Iliat và Ôđixê cũng phê phán những thói hư tật xấu trái
với truyền thống của thị tộc như Agamemnông cậy quyền thế làm càn, còn Asin vì
tư thù mà quên nghĩa lớn....Tất cả những điều đó làm cho Iliat và Ôđixê trở thành
những tác phẩm văn học mang tính nhân văn sâu sắc. Sau đó, truyền thống thơ ca
càng được phát huy trong các thể loại thơ tự sự, thơ trữ tình và bi kịch.
Vào cuối thế kỉ VIII đầu thế kỉ VII TCN, nhà thơ Hê - zi - ốt, với loại thơ trữ
tình của mình, là một tài năng lỗi lạc nhất của lục địa Hy Lạp. Hê - zô - ốt nổi tiếng
với hai tập thơ lớn: Gia hệ về thần, trình bày các thế hệ thần thánh và truyền thuyết
về các anh hùng Hy Lạp, và Công việc tháng ngày nói về sự phá sản, nghèo khổ
của nông dân dưới ách thống trị của quý tộc. Là nhà thơ gắn liền với cuộc sống lao
động nông nghiệp, tác giả ca ngợi sức lao động "không có thứ lao động nào là nhục
nhã, chỉ có ăn không ngồi rồi mới xấu xa".Tác giả đúc kết lại nhiều kinh nghiệm
sản xuất nông nghiệp trong tác phẩm của mình. Ngay trong Gia hệ về thần, Hê - zi
- ôt cũng đã mượn thế giới thần thánh để vẽ nên sự bất công của thế giới trần gian.
Vào thế kỉ VII, VI TCN, trong lĩnh vực văn học, thơ trữ tình nảy sinh và
phát triển rực rỡ. Nó vốn bắt nguồn từ dân ca. Thơ trữ tình đi sâu khai thác những
khí cạnh của tình cảm cá nhân, thể hiện sâu sắc cuộc sống tư tưởng con người. Sự
xuất hiện của thơ ca trữ tình gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu tài sản, với
cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì hình thành Nhà nước. Trong số những nhà thơ
trữ tình, nổi bật tên tuổi của Ác - ki - lốc, Xô - lông, Tê - ô - nhít, Tiếc - tê, Xáp fô, Panh - đa, A - na - crê - ông. Trong những bài thơ trữ tình, nỗi khổ cực về vật
chất, sự dằn vặt về tâm hồn đều toát ra rất rõ nét. Đặc biệt những nhà thơ trữ tình
đã giành nhiều tác phẩm ca ngợi tình yêu và những khoái lạc cá nhân. Phong cách

9



sáng tác và hình thức thơ trữ tình của Hy Lạp đã gây được ảnh hưởng quan trọng
trong thơ ca thế giới.
Vào thế kỉ thứ VI TCN, đã xuất hiện các loại văn xuôi. Đó là những chuyện
kể về lịch sử, địa lý, hoặc đúng sự thật, hoặc pha màu sắc hoang đường. Văn xuôi
còn được dùng để kể chuyện ngụ ngôn. Nhà văn ngụ ngôn đầu tiên của Hy Lạp là
Ê - zốp. Tác phẩm của ông khá nhiều và có ảnh hưởng đối với văn học thế giới.
2.1.2.3. Kịch
Sự phát triển của thơ ca trước thế kỉ V TCN được coi là cơ sở thúc đẩy sự ra
đời và phát triển của kịch. Ở những thế kỉ V, IV TCN, về văn học, kịch chiếm địa
vị cao nhất có tác dụng quan trọng nhất trong xã hội Hy Lạp. Kịch Hy Lạp, đặc
biệt là bi kịch, đã đặt nền móng cho ngành kịch thế giới. Cho đến nay, bi kịch Hy
Lạp vẫn là một trong những bộ môn nghệ thuật sân khấu có giá trị nhất thế giới.
Bi kịch hay hài kịch đều ra đời trong quá trình chuyển biến lớn lao của xã
hội - Nhà nước xuất hiện - và trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị gay
gắt. Chính nghệ thuật kịch cũng phản ánh cuộc sống xã hội và chính trị ấy.
Nghệ thuật kịch trực tiếp ra đời từ những khúc ca và cách nhảy múa trong
đám rước thần rượu nho Đi - ô - nô - xốt. Nhưng bên trong những nghi thức tôn
giáo ấy chất chứa những hạt nhân của cuộc sống lao động sản xuất hiện thực, gửi
gắm niềm vui, nguồn hi vọng của những người lao động. Tính chất hiện thực muôn
màu, muôn vẻ, trình độ nghệ thuật điêu luyện của kịch đã thu hút được một số
lượng công chúng đông đảo. Người ta phải xây dựng những nhà hát ngoài trời rất
lớn. nhà hát ở A - ten có thể chứa tới 17.000 người xem, nhà hát ở Mê - ga - lô - pô
- lít có thể chứa tới 44.000 người xem. Ban đầu nhà hát được xây dựng bằng gỗ, về
sau được xây dựng bằng đá theo hình nửa mặt trăng có bậc cao thấp. Nghệ thuật
diễn xuất càng trở nên sinh động vì có sự phối hợp của hội họa. Chính quyền đứng
ra tổ chức những cuộc thi diễn kịch, ban cấp cho công dân nghèo mua vé xem một
buổi (ở thế kỉ V TCN) cấp cho đủ tiền mua vé xem cả ba buổi. Tất nhiên những
chính sách văn hóa ấy không thể tách rời đường lối chính trị của Nhà nước nô lệ là
xoa dịu mâu thuẫn giữa kẻ giàu, người nghèo.


10


Bi kịch phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt của xã hội Hy Lạp trong quá trình
hình thành Nhà nước. Bằng những hình tượng nghệ thuật, bi kịch đã dựng lên
khung cảnh đấu tranh quyết liệt giữa thế lực lạc hậu và tiến bộ, cuối cùng phần
thắng thuộc về thế lực tiến bộ. Nghệ thuật kịch đã đạt đến trình độ sâu sắc về cách
thể hiện tâm lý nhân vật, các sự kiện riêng lẻ được nâng lên mức khái quát. Đặc
biệt sự gọt rũa của ngôn ngữ phối hợp với hình thức thể hiện điêu luyện càng làm
cho bi kịch có một sức sống mãnh liệt.
Những tài năng của bi kịch Hy Lạp nở rộ ở thế kỉ V TCN, trong đó ngời
sáng tên tuổi của Ét - sin, Xô - fô - clơ và Ơ - ri - pi - đơ.
Ét - sin (525 - 456 TCN) là con một gia đình quý tộc, ông đã từng tham gia
cuộc chiến tranh vĩ đại của người Hy Lạp chống quân xâm lược Ba Tư, và chứng
kiến sự chiến thắng của phe dân chủ. Đó là vốn sống quý báu có tác dụng rất lớn
trong sự nghiệp sáng tác của Ét - sin. Quan điểm chính trị của Ét - sin là bảo thủ.
Ông đã sáng tác 90 vở kịch, nhưng chi còn 7 vở truyền đến ngày nay. Mặc dù hầu
hết các đề tài của Ét - sin là thần thoại, nhưng trong đó chứa đựng vấn đề nóng hổi
của thời đại. Bộ ba kịch Ô - re - xti đã nêu lên sự thắng lợi của phụ quyền đối với
mẫu quyền. Ô - re - xtơ đã giết chết mẹ và tình nhân của mẹ vì hai người đã giết
cha y. Ô - re - xtơ đã bị các thần hình rắn đuổi bắt nhưng y được các thần A - pô lông, A - tê - na cứu giúp và tuyên bố Ô - re - xtơ không có tội gì. Vở Prô - mê - tê
bị xiềng đã dựng lên hình ảnh đấu tranh kiên cường của các vị anh hùng chống
thần linh, mang lại hạnh phúc cho loài người. Ngoài những đề tài thần thoại, Ét sin còn lấy đề tài lịch sử để dụng lên vở Quân Ba Tư mô tả thắng lợi của người A ten và sự thất bại nặng nề của đế quốc Ba Tư. Giá trị tư tưởng, nghệ thuật thơ ca và
phong cách diễn xuất cảu các tác phẩm đã nâng Ét - sin lên bậc thầy của bi kịch.
Sau Ét - sin là nhà bi kịch nổi tiếng Xô - fô - clơ (497-406 TCN), sinh ra
trong một gia đình công thương nghiệp giàu có, sống ở thời kì Pê - ri - clét cầm
quyền. Ông vừa là nhà bi kịch, vừa là nhà hoạt động xã hội. Xô - fô - clơ sáng tác
rất nhiều có tới 123 vở bi kịch, nhưng số tác phẩm mà ta biết rõ là 7 bi kịch, 1 kịch
trào phúng, trong đó nổi tiếng nhất là những vở Ơ - đíp làm vua, Ăng - ti - gôn.


11


Trong những tác phẩm của Xô - fô - clơ, cuộc đấu tranh giữa số mệnh với
đạo đức, nghị lực của con người diễn ra gay gắt. Điều đó thể hiện rất rõ trong vở
kịch Ơ - đíp làm vua. Nội dung tóm tắt của vở Ơ - đíp làm vua như sau: Thần Đenfơ báo cho Lai - út, vua thành Te - bơ, biết rằng sau này con trai của y sẽ giết cha
để lấy mẹ. Tin lời tiên đoán của thần, nên khi Ơ - đíp mới ra đời, Lai - út liền sai
người vứt đứa con trai ấy của mình đi. Ơ - đíp được một người mang về nuôi, và
sau này do sự tình cờ, éo le, Ơ - đíp đã giết cha đẻ của mình và lấy mẹ làm vợ. 15
năm sau, khi Ơ - đíp đã có 4 con, chàng mới biết rõ sự thật đau lòng ấy của đời
mình. Lúc đó, mẹ Ơ - đíp tự sát. Khi mẹ hấp hối, chàng đã gục lên vai mẹ , lấy kim
tự đâm mù mắt:
Số phận đã vang lên từ sương mù như thế đó
Hai người đã chết, chỉ chết khác nhau thôi.
Số mệnh là cơ sở cho đề tài bi kịch này. Song Xô - fô - clơ, cũng như các
nhà bi kịch Hy Lạp khác, đều không dùng ở số mệnh, mà họ đã nói lên được tinh
thần đấu tranh kiên cường của con người muốn vươn lên khỏi sự ràng buộc của số
mệnh. "Tôi miêu tả những con người cần phải được như thế và Ơ - ri - pi - đơ miêu
tả con người vốn là như vậy". Câu nói ấy của Xô - fô - clơ đã thể hiện tư tưởng
sáng tác của ông. Con người trong những tác phẩm của Xô - fô - clơ là "con người
thông minh, đã làm được cái lưới kì diệu vây bủa vạn vật" (Xô - fô - clơ). Tại sao
con người làm được điều ấy? Vì "trong tự nhiên có nhiều sức mạnh, nhưng không
có một sức mạnh nào bằng sức mạnh của con người" (Xô - fô - clơ).
Trong số ba thiên tài lỗi lạc nhất của bi kịch Hy Lạp, Ơ - ri - pi - đơ (484406 TCN) là ngôi sao sáng cuối cùng. Ông là một người có trình độ học vấn sâu
rộng, ủng hộ phái dân chủ. Ông đã viết tới 92 vở kịch, nhưng chỉ còn lại 18n bi
kịch và 1 vở kịch trào phúng. Trong những tác phẩm của mình, Ơ - ri - pi - đơ đã
đề cập tới rất nhiều vấn đề, như mối quan hệ giữa thần và người, vấn đề quyền lợi
của phụ nữ và nô lệ, vấn đề gia đình...mặc dù đề tài bi kịch đều lấy trong kho tàng
thần thoại Hy Lạp, Ơ - ri - pi - đơ đã có nhiều quan niệm mới về thần linh. Trong

vở kịch Ê - lếch - tơ - rơ, ông đã tỏ ra nghi ngờ việc thần Dớt làm thay đổi đường
đi của mặt trời, tinh tú. Dưới con mắt của nhà bi kịch, các vị thần không có gì là
12


linh thiêng, cao quý khác người cả, trái lại, là những kẻ tham lam. tàn ác, dâm
đãng. Mượn lời của một nhân vật trong vở bi kịch Ben - lơ - rô - fông, Ơ - ri - pi đơ đã cho rằng:
Mọi người đều nói trên trời có thần,
Không! Không! Tuyệt đối không có chúng!
Chỉ cần có một chút thông minh,
Anh sẽ không thể nào tin được
Truyền thuyết cũ rích ấy.
Nhà thơ đã đề cập tới cuộc sống khổ cực và vai trò của nô lệ trong xã hội
"Người nô lệ suốt đời khốn khổ làm sao! Họ chịu đựng những điều nhục nhã và bị
cưỡng bức bằng sức mạnh" và "chúng ta những người tự do, chúng ta sống được
do những người nô lệ"...Ơ - ri - pi - đơ đã nói lên được cuộc sống đấu tranh đòi
quyền tự do của phụ nữ trong gia đình cũng như xã hội, tuy ông chưa đề ra được
cách giải quyết đúng đắn vấn đề ấy. Qua những tác phẩm của mình, Ơ - ri - pi - đơ
tỏ ra là một người yêu nước nhiệt thành vá cực lực chống phái Spác bảo thủ, phản
động.
Trên kia, chúng ta đã nói đến ba nhà bi kịch lớn của Hy Lạp. Nghệ thuật
kịch của Hy Lạp không phải chỉ có bi kịch phát triển mà hài kịch cũng đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Đề tài của bi kịch là thần thoại, còn để tài của hài kịch
hoàn toàn do tác giả sáng tạo. Mọi tình tiết, sự phát triển và cách giải quyết mâu
thuẫn đều thuộc về nghệ sĩ. Hài kịch mang nội dung chính trị, đề ra và giải quyết
những vấn để nóng hổi của thời đại, của cuộc sống. Người đại biểu xuất sắc nhất
của hài kịch là A - ri - xtô - fan (446 - 385 TCN). Ông đã để lại cho gia tài hài kịch
44 vở, hiện nay chỉ còn giữ được 11 vở. Nội dung hài kịch của A - ri - xtô - fan
mang tính chiến đấu sắc mạnh. Ông ủng hộ nhiệt liệt nguyện vọng hòa bình của
nông dân vùng đồng bằng Át - tích vì chiến tranh mà trở nên khổ cực, đồng thời

ông cũng công kích những thói hư, tật xấu của xã hội và chính quyền A - ten.
Những hài kịch nổi tiếng của A - ri - xtô - fan là Kỵ sĩ, Hòa bình, Chim, Li-zi-xtơra-ta, Ếch. A - ri - xtô - fan là một nhà hài kịch có cái nhìn hiện thực sâu sắc. Ông
đã kế thừa những di sản quý báu của các loại thơ cổ Hy Lạp, học tập cách sử dụng
13


ngôn ngữ của các nhà bi kịch, kết hợp với ngôn ngữ bình dân của nhân dân. Chính
vì vậy, nên thiên tài của A - ri - xtô - fan vẫn mãi mãi ngời sáng trên văn đàn thế
giới.
2.2. Sử học
Hêrôđốt, Tuyxiđit và Xênôphôn là những người đặt nền móng cho sử học
Hy Lạp, các tác phẩm của họ là những bộ sử thành văn đầu tiên ở châu Âu.
Hêrôđốt (khoảng 484 - 425 TCN) - người khai sinh nền sử học Hy Lạp, sinh
ở Halicacnat, một thành phố bên bờ tây - nam Tiểu Á. Sau đó, vì tham gia cuộc
đấu tranh chống lại giới cầm quyền ở đáy, ông buộc phải rời đến đảo Xamôt.
Trong vòng mười năm, từ 455 - 445 TCN, Hêrôđốt đi du lịch nhiều nơi. Ngoài khu
vực Tiểu Á, Hy Lạp, ông còn đến Ai Cập, Lưỡng Hà, Ba Tư,
Makêđônia....Hêrôđốt đã sống thời gian dài ở A - ten, ông là bạn của những người
hoạt động chính trị và văn hóa nổi tiếng như Pêricơlet, Xôphôclơ, Xôcrat...

(Tượng cẩm thạch Herodotos tại Bảo tàng Athene)
Hêrôđốt đê lại tập Tóm tắt các sự kiện viết bằng thổ ngữ vùng Iôniôs (một
khu vực ở phía tây Tiểu Á), mà sau này thường được gọi là bộ Lịch sử. Bộ Lịch sử
gồm hai phần. Phàn thứ nhất kể về lịch sử của người Liđi, người Ba Tư, người
Babilon, người Ai Cập và người Hy Lạp. Phần thứ hai nói về cuộc khởi nghĩa ở
Iôniôs, về cuộc hành quân của Đaria và cuộc tấn công của Xecxet vào Hy Lạp. Bộ
"Lịch sử" được kết thúc với đoạn mô tả việc người Hy Lạp chiếm lĩnh thành phố
Xect (năm 478 TCN) - một thành phố cảng đối diện với thành phố Abiđôs. Vào thế
kỉ II TCN, các nhà bác học ở Alêchxanđri chia công trình của ông thành 9 tập, mỗi
14



tập mang tên một vị thần bảo trợ nghệ thuật và khoa học. Bộ "Lịch sử" được viết
trên cơ sở những nguồn tài liệu phong phú: các biên niên lịch sử, các truyền thuyết,
các truyện truyền miệng và những điều tai nghe, mắt thấy qua những chuyến du
lịch dài ngày của tác giả. Nguyên tắc sáng tác của ông là truyền lại tất cả những
điều người ta nói, song không tin tất cả. Ông bài bác những chuyện hoang đường
nhưng ông cũng chưa hoàn toàn tránh được những lời tiên tri , bói toán, Hêrôđốt
còn cho rằng, thần thánh ghen tị với người trần, số phận bức hại những người có
quá nhiều hạnh phúc.
Bộ "Lịch sử" của Hêrôđốt là một nguồn tài liệu quý giá để nghiên cứu lịh sử
Hy Lạp, lịch sử các dân tộc phương Đông và cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư.
Hêrôđốt chẳng những là nhà sử học mà còn là nhà dân tộc học, nhà tư tưởng. Ông
cho rằng nhà sử học không chỉ là người kể chuyện mà còn phải là một nhà triết
học, phải đưa ra được câu trả lời cho những vấn đề chính của cuộc sống: cuộc sống
của con người phụ thuộc vào cái gì? Nguyên nhân của các cuộc chiến tranh, của sự
chiến thắng và thất bại bắt nguồn từ đâu?... Theo Hêrôđốt, người Hy Lạp "đã chiến
thắng người Ba Tư bởi vì họ là người dũng cảm. Họ dũng cảm bởi vì họ tự do và
chỉ phục tùng pháp luật".
Ở thời cổ đại, công trình của Hêrôđốt được đánh giá rất cao. Xixêrông (nhà
hùng biện, nhà văn, nhà hoạt động chính trị nổi tiếng của Rôma) gọi Hêrôđốt là
"người cha của sử học". Năm 1502, lần đầu tiên bộ "Lịch sử" được in ở Italia.
Sau Hêrôđốt là nhà sử học nổi tiếng Tuyxiđit (460-396 TCN). Tuyxiđit sinh
ra trong một gia đình quý tộc giàu có, được hưởng nền giáo dục tiến bộ trong "thế
kỉ vàng" của nền dân chủ Aten. Tuy nhiên về quan điểm chính trị, Tuyxiđit đại
diện cho tầng lớp quý tộc bảo thủ, đối lập với lãnh tụ của nền dân chủ cấp tiến
Pêricơlet.
Tuyxiđit là người chứng kiến mâu thuẫn chính trị ngày càng căng thẳng
giữa Aten và Spac. Ông cũng là người đã tham gia tích cực vào cuộc chiến tranh
Pêlôpône. Năm 424 TCN, Tuyxiđit được bầu vào hội đồng 10 viên tư lệnh và được

giao nhiệm vụ chỉ huy hạm đội Aten bảo vệ thành phố Amphipôlit. Trong các cuộc

15


giao tranh với quân Spac, hạm đội Aten thất bại. Tuyxiđit bị trục xuất khỏi Aten và
bị đày sang xứ Tơraxia 20 năm.
Trong thời gian sống ở Tơraxia, Tuyxiđit chăm chú theo dõi các sự kiện ở
Hy Lạp và viết cuốn "Lịch sử các cuộc chiến tranh Pêlôpône" - từ khi chiến tranh
bùng nổ (431 TCN) cho tới năm 411 TCN. Trên cơ sở những tài liệu phong phú,
xác thực và với tinh thần làm việc nghiêm túc, Tuyxiđit đã vẽ lên được một bức
tranh chân thực về cuộc chiến tranh, về những nỗi đau khổ của nhân dân. Ông cũng
đã chỉ ra những sai lầm về chiến lược của các nhà hoạt động chính trị mà những
sai lầm này đã dẫn đến cái chết vô nghĩa của thanh niên Aten. Tuyxiđit không chỉ
mô tả các sự kiện của chiến tranh mà còn phân tích, đánh giá các sự kiện đó. Ông
cũng là người đầu tiên trong giới sử học Hy Lạp đã xem xét, phân tích các sự kiện
lịch sử trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Phương pháp sáng tác của ông rất thận
trọng "Tôi không đồng ý với nhiệm vụ của mình là ghi chép lại cái mà tôi biết khi
bắt gặp lần đầu hay là cái mà tôi có thể giả thuyết được, mà chỉ ghi chép những
sự kiện mà chính tôi được mục kích hay là cái mà tôi nghe ở người khác sau khi đã
nghiên cứu chính xác đến một chừng mực nào đó từng sự việc riêng biệt". Tuyxiđit
nghiên cứu cả những điều kiện tự nhiên và cả những điều kiện vật chất và chế độ
xã hội, coi đó là những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lịch sử. Ông không
tin vào những lời tiên tri, sấm truyền. Nhưng ông cũng không vượt khỏi khuôn khổ
của quan niệm sống ràng buộc con người.
Mặc dù nội dung còn dang dở (Tuyxiđit không kịp viết về những năm tháng
cuối của cuộc chiến tranh, từ 410 - 404 TCN), nhưng công trình của Tuyxiđit vẫn
được đánh giá rất cao ở thời cổ đại và là một tác phẩm xuất sắc của nền sử học
châu Âu.
Xênôphôn (khoảng 430 - sau 355 TCN), nhà sử học, nhà văn của Hy Lạp cổ

đại. Sinh ra và lớn lên trong giới quý tộc nên về quan điểm chính trị Xênôphôn
cũng đối lập với nền dân chủ Aten và ông có quan hệ gần gũi với giới quý tộc
Spac. Xênôphôn là tác giả của tập Abanaxit và Lịch sử Hy Lạp.
Abanaxit miêu tả về cuộc hành quân của 10.000 lính đánh thuê Hy Lạp, từ
bờ biển vào sâu trong đất Ba Tư và con đường trở về của họ ven theo đường bờ
16


biển Đen (năm 400 - 399 TCN). Trong tác phẩm này, Xênôphôn đã ghi lại nhiều tư
liệu quý giá về dân tộc học và địa lý vùng Tiểu Á và Capcadơ.
Cuốn "Lịch sử Hy Lạp" viết về lịch sử Hy Lạp từ năm 411 - 362 TCN, là sự
tiếp tục công trình của Tuyxiđit. Trong tác phẩm này với ý thức đề cao vai trò
chính trị của Spac, Xênôphôn đã miêu tả tỉ mỉ nhiều chi tiết không quan trọng
trong lịch sử Spac, đồng thời lại không đề cập đến những sự kiện quan trọng trong
đời sống chính trị Aten. Trong những tác phẩm của mình, Xênôphôn tỏ ra là người
tin vào mộng triệu, lời tiên đoán và coi lịch sử là những sự tích tụ của cá nhân.
Những tác phẩm của Xênôphôn đã ghi lại nhiều tư liệu quý giá.
2.3.Triết học
Thuật ngữ "Triết học" (philôsôphia) xuất phát từ chữ Hy Lạp philos: yêu,
sôphia: sự thông thái, tri thức. Hêracơlit và Hêrôđôt có lẽ là những người đầu tiên
đưa ra thuật ngữ này với nghĩa rộng nhất của nó - triết học bao gồm tất cả các tri
thức của nhân loại. Với Platôn và Arixtôt, triết học đã có nội dung gần hơn với
cách hiểu ngày nay, còn Epiquya và những người theo phái Stôisit (phái khắc kỉ)
thì xem triết học không chỉ là bức tranh lí luận về thế giới mà còn là những quy tắc
chung của hoạt động thực tiễn của con người.
Triết học Hy Lạp cổ đại có cội nguồn của triết học châu Âu. Lịch sử triết học
Hy Lạp chủ yếu là lịch sử hình thành, phát triển và đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa duy vật ở những cấp độ khác nhau.
Triết học Hy Lạp nảy sinh trên những thành phố I - ô - ni của Tiểu Á, nhất là
ở hai trung tâm Mi - lê và E - fe - zơ. Những nhà triết học nổi tiếng đầu tiên của Hy

Lạp là Ta - lét, A - na - xi - măng - đrơ và A - na - xi - men. Ta - lét sinh sống ở Milê, là nhà triết học tự phát đầu tiên của Hy Lạp, vừa là nhà toán học vừa là nhà
thiên văn học. Ông cho rằng mọi vật đều phát sinh từ nước và đều trở thành nước.
Ông đã phân biệt linh hồn và thân thể, song cũng coi linh hồn là vật chất. Ăng ghen gọi học thuyết của Ta - lét là "chủ nghĩa duy vật nguyên thủy tự phát". Người
học trò xuất sắc của Ta - lét là A - na - xi - măng - đrơ (khoảng 610 - 546 TCN) đã
phát triển thuyết duy vật lên một bước cao hơn. Ông cho rằng cơ sở của mọi vật là
A - pây - rôn (vật chất vô định và vô tận), chính từ đó phát sinh ra các mặt đối lập,
17


như nóng lạnh, khô ướt rồi hình thành ra mọi vật. Phép biện chứng bắt đầu nảy
sinh từ đó. Đến A - na - xi - men (khoảng 585 - 525 TCN) thì mọi vật kể cả thần
thánh, đều được giải thích bằng sự co giãn của không khí.
Triết học I - ô - ni đến Hê - ra - clít (530 - 470 TCN) đã phát triển tới trình
độ sâu sắc. Hê - ra - clít là một nhà duy vật và biện chứng rất nổi tiếng. Ông cho
rằng vật chất đầu tiên là lửa và vận động không ngừng: "người ta không thể tắm
hai lần trên cùng một dòng sông". Sự tồn tại và mất đi của mọi vật là do cuộc đấu
tranh thường xuyên giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn.
Để cho những quan điểm của mình thắng thế, các nhà triết học I - ô - ni phải
đấu tranh gay gắt với phái duy tâm mà đại biểu là Pi - ta - go (khoảng 580 - 500
TCN). Học phái Pi - ta - go cho rằng cơ sở của mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội
là con số, con số thiết lập nên "trật tự" xã hội và vũ trụ. Tuy vậy, về mặt khoa học,
phái này có một số cống hiến. Nguồn gốc duy tâm của họ là đem tách rời con số
với sự vật, tuyệt đối hóa và thần thành hóa chúng. Vào nửa sau thế kỉ VI TCN, học
thuyết duy vật còn phải đấu tranh quyết liệt với học thuyết duy tâm của trường
phái Ê - lê (Nam Ý) do Xê - nô - phôn, Pác - tê - nít và Zê - nông đại biểu.
Triết học càng phát triển, cuộc phát triển giữa các nhà duy vật và duy tâm
càng trở nên gay gắt, quyết liệt, thể hiện rất rõ trong lịch sử triết học Hy Lạp thế kỉ
V - IV TCN. Trên cơ sở phát triển của khoa học tự nhiên, triết học duy vật ở thế kỉ
V TCN đã đi sâu vào phân tích cơ sở tồn tại của thế giới vật chất. Am - pe - đôclơ, A - na - xa - go, Đê - mô - crít, Ê - pi - quya đều là những nhà duy vật xuất
sắc. Am - pe - đô - clơ (khoảng 495 - 435 TCN) cho rằng lửa, nước, đất, không khí

là bốn yếu tố hợp thành mọi vật. A - na - xa - go (khoảng 500 - 428 TCN)giải thích
cơ sở tồn tại của thế giới là những phần nhỏ vật chất đồng loại kết hợp với nhau.
Am - pe - đô - clơ giải thích sự tồn tại của vật chất là do sự tác động vật chất của
hai lực đối lập, "hữu nghị" và "thù địch", từ đó các nguyên tố được kết hợp hoặc
phân ly. Còn A - na - xa - go thì giải thích sự chuyển động của phần tử đồng chất
bằng "nút - xơ", tức là trí tuệ thế giới, ông cho rằng đó là vật chất mỏng manh và
nhẹ nhàng.

18


Chiếm vị trí quan trọng nhất trong trường phái duy vật ở thế kỉ V TCN là những
nhà nguyên tử luận, mà Lơ - xíp (khoảng 500 - 440 TCN) và Đê - mô - crít (khoảng 460 370 TCN) là hai đại biểu xuất sắc nhất và vững chắc nhất của vật chất. Sau đó, Đê - mô crít là người phát triển học thuyết ấy lên một bước cao hơn. Ông đã tới nhiều nước
phương Đông. Là người học rộng, biết nhiều, hầu như ông hiểu biết rất sâu sắc về các
khoa học lúc bấy giờ như toán học, triết học, lô - gich học, vũ trụ học, vật lý học, sinh vật
học, tâm lý học, đạo đức học, giáo dục học, kĩ thuật, nghệ thuật,...Chính vì vậy, Mác và
Ăng - ghen ông là "nhà khoa học tự nhiên có tính chất kinh nghiệm và là bộ óc bách
khoa đầu tiên trong số những người Hy Lạp"1. Cũng như Lơ – xip, Đê – mô – crít cũng
cho rằng nguyên tử là thành phần vật chất nhỏ bé nhất không thể phân chia được, nó là cơ
sở cấu thành mọi vật. Tất cả nguyên tử đều giống nhau về chất, chỉ khác nhau về kích
thước, hình dạng và những khoảng không mà trong đó nguyên tử chuyển động. Mọi vật
trong vũ trụ luôn luôn biến đổi, đó là do kết quả của sự chuyển động tất nhiên của nguyên
tử mà thôi. Đê - mô – crít đã có những đóng góp rất lớn về nhận thức luận duy vật, về
tính nhân quả và tính quy luật của hiện tượng tự nhiên, đồng thời lần đầu tiên, ông đưa ra
vấn đề không gian và thời gian. Ông là người vô thần. Về mặt chính trị, ông ra sức bảo vệ
nền dân chủ chủ nô: “nghèo khổ trong chế độ dân chủ cũng thích đáng hơn cái gọi là
hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ, y như tự do tốt hơn làm nô lệ”. Quan điểm
duy vật của Đê – mô – crít làm cho phái duy tâm, cả bọn học giả duy tâm hiện đại phải
hoảng sợ, vì vậy chúng ra sức chống lại học thuyết của Đê – mô – crít.
Những cuộc tranh luận dữ dội giữa các phái duy tâm và duy vật đã làm nảy sinh

nhiều nhà nguỵ biện. Nhà nguỵ biện đương thời lớn nhất là Prô – ta – gô – rát (481 – 411
TCN). Ông là nhà tư tưởng duy vật và là một chính khách. Ông thừa nhận thế giới vật
chất và nó tồn tại độc lập với con người. Prô – ta – gô – rát coi cảm giác là nguồn gốc của
nhận thức. Song ông cũng mắc phải sai lầm có tính chất tương đối chủ nghĩa và duy ngã
chủ nghĩa vì cho rằng “người là mực thước của tất cả mọi vật”.
Chế độ dân chủ chủ nô của A – ten đã lâm vào khủng hoảng từ trong và sau chiến
tranh Pê – lô – pô – ne – zơ. Đó là những cơ hội để những tư tưởng chống đối của bọn
chủ nô phản động trỗi dậy. những học thuyết duy tâm của Xô – crát và Pla – tôn xuất
1

C.Mác, Ph. Ăng ghen: Toàn tập, t.3, 1955, Tiếng Nga, Tr.126.
19


hiện trong những điều kiện ấy. Xô – crát (469 – 399 TCN) là một nhà nguỵ biện theo học
thuyết duy tâm chủ quan, lấy cái Tôi làm đối tượng của triết học, thừa nhận thần là đáng
tối cao tạo ra thế giới theo một mục đích nhất định. Xô – crát cho rằng “anh hãy tự biết
lấy mình” đó là nguồn gốc của sự hiểu biết đúng sự thực. đứng trên quan điểm suy tâm,
ông phủ nhận khoa học tự nhiên, không cần thiết phải nghiên cứu khoa học tự nhiên, nhất
là nhà triết học. Phương pháp tranh luận của Xô – crát là đặt câu hỏi để đưa đối phương
tới chỗ bí. Là người thù địch chế độ dân chủ, Xô – crát bị kết án tử hình và đã tự tử bằng
thuốc độc.
Người học trò, người kế tục Xô – crát là Pla – tôn (427 – 347 TCN), nhà duy tâm
lớn nhất thời cổ đại. Ông ủng hộ quyền thống trị của bọn quý tộc địa chủ, chống chế độ
dân chủ chủ nô. Ông sáng lập ra phái duy tâm khách quan, cho rằng thế giới bắt nguồn từ
một thực thể tinh thần bất biến. Pla – tôn kịch liệt chống khoa học tự nhiên, đặc biệt là
thuyết nguyên tử. Về chính trị, ông đề ra “Nhà nước lý tưởng”, là nhà nước của chủ nô
thượng lưu. Trong nhà nước lý tưởng ấy, có 3 đẳng cấp: nhà triết học hay nhà cầm
quyền, quân đội, nông dân và thợ thủ công.
Trong giai đoạn khủng hoảng của thành bang và thời kì A – lếch – xăng – đrơ đánh

chiếm các nước phương Đông, nổi bật là nhà triết học A – ri – xtốt, “nhà tư tưởng vĩ đại
nhất mọi thời đại” (Mác). Hầu như ông đều giỏi tất cả các bộ môn khoa học thời cổ đại.
A – ri – xtốt chống lại học thuyết duy tâm của Pla – tôn. Ông cho rằng ý niệm của Pla –
tôn không thể nào giải thích được sự vật. Trong khi chống lại các học thuyết duy tâm,
ông đã tiến gần tới chủ nghĩa duy vật. Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới
vật chất luôn luôn vận động và biến đổi. Song vì do dự giữa hướng duy vật Đê – mô –
crít và khuyng hướng duy tâm Pla – tôn, nên cuối cùng A – ri – xtốt đi vào con đường
duy tâm. Triết học của A – ri – xtốt không giải thích được một cách biện chứng quan hệ
trực giác đối với tư duy, ông cho rằng linh hồn lý tính thoát ly khỏi than thể và độc lập.
Về khoa học, A – ri – xtốt và những học trò của ông có nhiều đóng góp quý báu.
Thời Hy Lạp hoá có Ê – pi – quya (341 – 270 TCN) là nhà triết học duy vật nổi
tiếng. ông ra sức bảo vệ học thuyết Đê – mô – crít, chống Pla – tôn và phê phán chủ
nghĩa duy tâm A – ri – xtốt. Đặc biệt, Ê – pi – quay đã phát triển học thuyết nguyên tử
của Đê – mô – crít bằng giả thuyết thiên tài về sụ chệch hướng của các nguyên tử trong
20


quá trình chuyển động. Chính sự lệch hướng này đã dẫn đến sự va chạm không ngừng
giữa các nguyên tử, từ đó sinh ra những sự kết hợp mới với những chất mới. Ê – pi –
quay cho rằng toàn bộ thế giới đã được hình thành trong quá trình chuyển động, va chạm
và kết hợp của các nguyên tử. Ê – pi – quay cũng thừa nhận có linh hồn, nhưng linh hồn
do các nguyên tử tạo thành.
Trong phái triết học Stôisit ( khắc kỉ), do Dênôn ( khoảng 335 – 264 TCN), người
tỉnh Kition trên đảo Síp sáng lập vào khoảng năm 330 TCN ở A – ten. Học phái khắc kỉ
buổi đầu có xu hướng duy vật, song về sau họ chuyển hẳn sang lập trường duy tâm. Học
phái này đề cao đức hạnh và cho rằng với đức hạnh con người có thể sống hạnh phúc chứ
không cần đến của cải vật chất, con người phải “thản nhiên” đối với tất cả những thích
thú, ham muốn. Chính vì thế, về sau này Đạo Thiên chúa đã dùng học thuyết ấy đã
tuyên truyền cho tôn giáo của mình.
Chủ nghĩa hoài nghi cũng đóng một vai trò quan trọng trong những trường phái

duy tâm của triết học Hy Lạp. Những nhà triết học của hoài nghi cho rằng con người
không thể nhận thức được thế giới, vì vậy phải xa rời đời sống thực tiễn.
2.4. Kiến trúc Hy Lạp cổ đại và điêu khắc
Kiến trúc Hy Lạp cổ đại và điêu khắc của nền văn minh Hy Lạp phát triển
rực rỡ và để lại dấu ấn sâu sắc hơn cả.
Nghệ thuật Hy Lạp phát triển từ những thế kỉ VIII - VII TCN. Những tác
phẩm điêu khắc đầu tiên còn mang nặng tính cứng nhắc, thô sơ, chịu ảnh hưởng
sâu sắc và rõ rệt nghệ thuật phương Đông. Nhưng dần dần, do những điều kiện
kinh tế và xã hội của nó, nghệ thuật Hy Lạp đã khắc phục được tính đặc trưng và
chủ nghĩa công thức, vươn tới chủ nghĩa hiện thực. Ở những thế kỉ V - VI TCN,
nghệ thuật tạo hình Hy Lạp đạt tới trình độ phát triển nhất. Bằng các đường nét
nghệ thuật tinh xảo, các nghệ sĩ đã biểu diễn được những hình ảnh sinh động, diễn
tả được những tư tưởng tiến bộ. Những công trình sáng tạo tuyệt vời ấy gắn liền
với tên tuổi của những bậc nghệ sĩ thiên tài., như Pô - li - nhốt, Mi - rông, Fi - đi át, Pô - li - clét, ...Những vị thầy của nghệ thuật ấy đã gạt bỏ nguyên tắc xây dựng
nhân vật tĩnh, công thức, và làm toát lên được sức mạnh tư tưởng của tác phẩm.

21


Mi - rông không những đã thể hiện được tư thế khỏe khắn biểu hiện ở từng
đường gân, thớ thịt của nhân vật, như trong bức tượng lục sĩ ném đĩa, mà còn đi
sâu diễn tả những suy nghĩ sâu sắc, tinh tế của nhân vật, tượng A - tê - na và Mác xi - át là thí dụ của nghệ thuật nội tâm ấy. Những kiệt tác của nghệ thuật kiến trúc
và điêu khắc của Hy Lạp đã thể hiện tập trung trong công trình kiến trúc tổng hợp
A - crôn - pôn.
Đặc biệt dưới thời Pê - ri - clét, những kiến trúc thiên tài nhất của A - ten đã
xây dựng đền Pác - tê - nông, một công trình nghệ thuật xuất sắc nhất, trong đó
kiểu Đô - riêng khỏe khoắn đã được phối hợp nhịp nhàng với kiểu I - ô - niêng nhẹ
nhàng. Dưới sự đứng đầu của nghệ sĩ thiên tài Fi - đi - át, một tập thể nghệ sĩ Hy
Lạp đã khắc chạm những bức chạm nổi theo đề tài thần thoại Hy Lạp trên đường
dài 276m của điện Pác - tê - nông. Bên trong đền là bức tượng A - tê - na, tác phẩm

của Fi - đi - át.

(Đền Parthenon ở Athena)

Cho đến thế kỉ IV TCN, nghệ thuật Hy Lạp vẫn phát triển theo xu hướng đi
sâu những biểu hiện tư tưởng, tình cảm của con người bằng những nét rất sống.
Những nghệ sĩ xuất sắc của khuynh hướng ấy là Pra - xi - ten, Xcô - pát, Li - xip.

22


Những thành tựu nghệ thuật của thế kỉ V, IV TCN đã trở thành cổ điển, các nghệ sĩ
sau đó chỉ mô phỏng theo khuôn mẫu của các bậc tiền bối mà thôi.
Kiến trúc và điêu khắc Hy Lạp cổ thường đi song hành bên nhau. Những giá
trị lớn tập trung tại các công trình kiến trúc lớn, những bức tranh tường, những bức
tượng lớn trong một đại sảnh là hình ảnh thường gặp ở Athena.
Nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc của Hy Lạp cổ đại đã có tác dụng kinh
điển và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nền nghệ thuật của nhiều quốc gia từ cổ đại
cho đến ngày nay.

Krater (bát lớn), thế kỷ 12 TCN)
Đồ gốm của Hy Lạp cổ đại có thể xem như những tác phẩm tuyệt đẹp và
sức lan tỏa, thắm đượm tinh chất huyền thoại và thơ ca Hy Lạp cổ. Đồ gốm được
sản xuất cho các công việc và sử dụng chúng hàng ngày mà không phải để trưng
bày. Rất nhiều đồ gốm Hy Lạp cổ đại vẫn còn cho đến ngày nay, như các loại bình
đựng rượu, bình đựng nước, các bình tế lễ, các loại bình có tay cầm, các loại chén
bát.
Phong cách làm gốm của Hy Lạp cũng thay đổi theo các thời kỳ khác nhau,
mỗi thời kỳ lại có những đặc sắc riêng, càng về sau càng tinh xảo và thẩm mỹ hơn.


Các bức tượng cổ Hy Lạp là cả một nền nghệ thuật mẫu mực, ảnh hưởng đến
trường phái nhiều quốc gia châu Âu sau này, đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến
phong cách Roma cho đến thời kỳ Phục Hưng.

23


Kiến trúc Hy Lạp cổ là những công trình đồ sộ và nghệ thuật cho cả châu Âu
sau này.
Tất cả những công trình nghệ thuật của Hy Lạp cổ đại là biểu hiện sáng tạo
của bàn tay, khối óc của con người. Tất nhiên nghệ thuật ấy phục vụ giai cấp chủ
nô,, song nó bắt nguồn từ trong nhân dân. Tính hiện thực đạt tới trình độ cao, khiến
cho những công trình nghệ thuật ấy vẫn sống mãi và "...trên một phương diện nào
đó được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt chước được"1. Bởi vì
nền nghệ thuật ấy chỉ có thể xuất hiện trên cơ sở của chế độ chiếm hữu nô lệ của
Hy Lạp, "sức hấp dẫn của nghệ thuật Hy Lạp đối với chúng ta không mâu thuẫn
với sự phát triển yếu ớt của xã hội trong đó nghệ thuật Hy Lạp đã trưởng thành"2.
2.5. Khoa học tự nhiên
Người Hy Lạp cổ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về khoa học tự nhiên.
Trong nhiều lĩnh vực, tư duy khoa học của họ đã vươn tới trình độ khái quát hóa
cao, hình thành những định lý, tiền đề, nguyên lý có giá trị. Những tri thức khoa
học mà người Hy Lạp cổ đại tích lũy được đã đặt nền móng cho các ngành khoa
học tự nhiên ở châu Âu sau này.
Thứ nhất, những thành tựu về toán học địa lý và thiên văn học.
Người Hy Lạp đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về toán học, thiên
văn học, triết học là Ta - lét (thế kỉ VI TCN). Ông đã tiếp thu được nhiều thành
tựu quý báu của Babilon, Ai Cập. Ông đã căn cứ vào bóng tháp ở Ai Cập để đo
chiều cao của nó. Do nắm được những hiểu biết sâu sắc về thiên văn học, cho nên
Ta - lét đã dự tính đúng nhật thực vào ngày 28 tháng 5 năm 585 TCN. Nhà toán
học Pi - ta - go (580 - 500 TCN) đã phát minh ra định lý về tam giác vuông: bình

phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông. Ở thế kỉ V TCN,
Mêtôn đã tính được một năm có 365 ngày.
1
2

C.Mác: Lời mở đầu phê phán kinh tế chính trị, Sđd, tr.102.
C.Mác: Lời mở đầu phê phán kinh tế chính trị, Sđd, tr.103.
24


Ở thế kỉ III TCN, thành phố Alếchxăngđri là trung tâm văn hóa của thế giới
Hy Lạp. Về toán học, Ơclít (thế kỉ III TCN) là người đứng đầu phái Alếchxăngđri ,
ông đã tổng kết những hiểu biết của toán học lúc bấy giờ. Về lý luận, Ơclít đề ra
"thuyết vô hạn". Cũng ở Alếchxăngđri, nhà bác học Êratôxten hoạt động rất sâu
sắc trong nhiều lĩnh vực khoa học như toán học, vật lý học, địa lý học, thiên văn
học, sử học, ngôn ngữ học. Ông phụ trách thư viện Alếchxăngđri. Ông tính được
độ dài của chu vi quả đất khoảng 39.7000km.
Những phát minh lớn của nhà bác học Asimet( khoảng 287 - 212 TCN) đã
có giá trị rất quan trọng đối với kho tàng của tri thức loài người. Ông là người đặt
cơ sở lý luận cho môn lực học và thủy lực học. Asimet đã đưa ra những nguyên lý
cơ bản về đòn bẩy, sức đẩy của nước, đã chế ra máy bơm nước và những vũ khí để
bảo vệ thành Xiraquy khi bị quân La Mã tấn công. Ông đã tính được tương đối
chính xác số л.
Thứ hai, những thành tựu về y học.
Từ thế kỉ V TCN, ở Hy Lạp đã xuất hiện những thầy thuốc giỏi và nhiều tài
liệu y học có giá trị. Hippôcơrat (khoảng 460 - 370 TCN) là một trong những thầy
thuốc nổi tiếng nhất của Hy Lạp, ông được coi là người sáng lập ra nền y học cổ
đại. Ngày nay người ta còn giữ lại được Tuyển tập Hippôcơrat gồm 58 tác phẩm
(tuy nhiên tuyển tập này bao gồm nhiều học thuyết của các trường phái y học khác
nhau, khó có thể chỉ ra tác phẩm nào của Hippôcơrat). Tất cả các tác phẩm này

được viết trong khoảng thời gian từ thế kỉ V đến thế kỉ I TCN, nhưng phần lớn
được viết trong thời Hippôcơrat.
Hippôcơrat cho rằng bệnh tật không phải do thần thánh gây nên mà do
những nguyên nhân hoàn toàn có thể giải thích được, chẳng hạn do ảnh hưởng của
môi trường xung quanh ( Bàn về không khí, nước, địa thế). Theo thuyết của
Hippôcơrat, sức khỏe của con người phụ thuộc vào sự phối hợp của 4 chất dịch
trong cơ thể: máu, đờm, mật vàng và mật đen (Bàn về bản chất con người). Khi sự
kết hợp này bị phá vỡ, con người sẽ bị bệnh tật sau đó nhờ các quá trình diễn ra
25


×