Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Giảng dạy văn học dân gian theo tính truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.34 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
*********

TIỂU LUẬN
ĐẶC TRƯNG VĂN HỌC DÂN GIAN

GIẢNG DẠY VĂN HỌC DÂN GIAN
THEO TÍNH TRUYỀN THỐNG

GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
Sinh viên thực hiện: LÂM MINH TRÍ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2015


2

MỤC LỤC

Qui ước các từ viết tắc
VHDG: Văn học dân gian
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
GV: Giáo viên
HS: Học sinh


3


I. Khái quát VHDG và chương trình giảng dạy VHDG trong nhà
trường phổ thông
1. Khái quát VHDG
1.1. Khái niệm

VHDG là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân dân lao động, ra đời
từ thời công xã nguyên thủy, trãi qua các thời kì phát triển lâu dài trong các
chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại hiện nay (Theo Văn
học dân gian Việt Nam, Đinh Gia Khánh (Chủ biên), tr.7)
VHDG là một hình thái ý thức xã hội. Cũng như mọi hình thái ý thức xã
hội khác VHDG phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất, có ý thức của
tập thể những người sống thành xã hội. Điều kiện để ra đời VHDG một mặt là
lực lượng sản xuất đã đạt được những trình độ nhất định, mặt khác là sự nảy
sinh và phát triển của những cảm xúc thẩm mĩ của con người.
1.2. Những đặc trưng của VHDG
a. Tính nguyên hợp

Tính nguyên hợp của văn học dân gian biểu hiện ở sự hòa lẫn những
hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại của nó. Có thể nói
rằng, văn học dân gian là bộ bách khoa toàn thư của nhân dân. Tính nguyên
hợp về nôi dung của văn học dân gian phản ánh tình trạng nguyên hợp về ý
thức xã hôi thời nguyên thuỷ, khi mà các lãình vực sản xuất tinh thần chưa
được chuyên môn hoá. Trong các xã hội thời kỳ sau, mặc dù các lãnh vực sản
xuất tinh thần đã có sự chuyên môn hoá nhưng văn học dân gian vẫn
cònmang tính nguyên hợp về nội dung . Bởi vì đại bộ phận nhân dân , tác giả
văn học dân gian , không có điều kiện tham gia vào các lãnh vực sản xuất tinh
thần khác nên họ thể hiện những kinh nghiệm , tri thức ,tư tưởng tình cảm
của mình trong văn học dân gian , một loại nghệ thuật không chuyên .
Về loại hình nghệ thuật : Tính nguyên hợp của văn học dân gian biểu hiện
ở chỗ: Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự



4

kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau. Sự kết hợp này là tự
nhiên, vốn có ngay từ khi tác phẩm mới hình thành. Một baì dân ca trong đời
sống thực của nó , không chỉ có lời mà còn có nhạc, điệu bộ, lề lối hát…- Biểu
hiện cụ thể của tính nguyên hợp là tính biểu diễn. Văn học dân gian có ba
dạng tồn taị: tồn tại ẩn (tồn tại trong trí nhớ của tác giả dân gian) , tồn taị cố
định ( tồn taị bằng văn tự ), tồn taị hiện ( tồn taị thông qua diễn xướng). Tồn
taị bằng diễn xướng là dạng tồn taị đích thực của văn học dân gian . Tuy
nhiên ,không thể phủ nhận hai dạng tồn tại kia; bởi vì như vậy sẽ dẫn tới phủ
nhận khoa học về văn học dân gian và công việc giảng dạy văn học dân gian
trong nhà trường.

Trở lại vấn đề,chính trong biểu diễn ,các

phương tiện nghệ thuật của tác phẩm văn học dân gian mới có điều kiện kết
hợp với nhau tạo nên hiệu quả thẩm mỹ tổng hợp. Sự kết hợp nầy một mặt là
biểu hiện của tính nguyên hợp, một mặt là lẽ tồn tại của tính nguyên hợp.
b. Tính tập thể

Văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng không phải tất cả nhân
dân đều là tác giả của văn học dân gian. Cần chú ý vai trò của cá nhân và quan
hệ giữa cá nhân với tập thể trong quá trình sáng tác, biểu diễn, thưởng thức tác
phẩm văn học dân gian.Tính tập thể thể hiện chủ yếu trong quá trình sử dụng tác
phẩm. Vấn đề quan trọng ở chỗ nó được mọi người biểu diễn, thưởng thức hay
không, nó đã đạt mức thành tựu hay không. Trong quá trình đó, tập thể nhân
dân tham gia vào công việc đồng sáng tạo tác phẩm. Quan hệ giữa truyền thống
và ứng tác là hệ quả của mối quan hệ giữa các nhân và tập thể. Truyền thống

văn học dân gian một mặt là cái vốn giúp nghệ nhân dân gian ứng tác (sáng tác
một cách chớp nhoáng mà không có sự chuẩn bị trước) dễ dàng, một mặt qui
định khuôn khổ cho việc sáng tác. Ứng tác đến lượt nó sẽ cung cấp những đơn
vị làm giàu cho truyền thống.
c. Tính truyền miệng

VHDG được truyền miệng qua hàng ngàn năm, từ thời kì dân tộc chưa có
chữ viết. Sự truyền miệng các sáng tác nghệ thuật ngôn từ của nhân dân đã trở


5

thành tập quán sinh hoạt, là một nhu cầu văn hóa tự nhieenmaf văn học viết
không thể thay thế. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại song song với văn học viết ,
trong các di sản VHDG truyền miệng được ghi lại chắc chắn có không ít những
sáng tác VHDG của các nho sĩ yêu nước. Đó là kết quả của quá trình dân gian
hóa có tính qui luật. Đã có nhà nghiên cứu đưa ra ba dạng thức tồn tại của
VHDG. Đó là dạng ẩn trong đầu khôn người già, dạng hiện trong quá trình diễn
xướng, và dạng cố định sau khi được ghi chép lại bằng văn bản. VHDG trong
nhà trường là những tác phẩm đã được cố định trên văn bản, nhưng người phân
tích những tác phẩm đó cần phải hiểu rằng, trong đời sống truyền miệng, văn
bản này mới chỉ là một khuôn hình, một lát cắt đồng đại. Thế nên có thể nói
truyền miệng là phương thức tồn tại của VHDG.
d. Tính dị bản

Nhiều nhà khoa học đã khẳng định cùng với tính truyền miệng và tính tập
thể là tính dị bản của VHDG. Dị bản là hệ quả của quá trình tập thể - truyền
miệng, nhưng việc nhận thức về nguyên nhân và biểu hiện của tính dị bản trước
nay giữa các nhà nghiên cứu vẫn còn nhiều khác biệt.
Từ góc nhìn của văn học viết trên các văn bản VHDG đã được giới thiệu,

có quan niệm cho đó chỉ là sự tam sao thất bản. Thật ra tính dị bản thường được
xem ở dangh văn bản cố định. Như chúng ta thấy VHDG vừa là văn học vừa là
văn hóa. Quy luật vận hành các tác phẩm VHDG nói riêng, của toàn bộ nền
VHDG nói chung nằm trong tiến trình văn hóa của dân tộc. Thế nên tính dị bản
của VHDG nói chung cũng như số phận một tác phẩm VHDG tong quá trình dị
bản này nảy sinh dị bản cũng là một sự vận động hợp quy luật. Đặc trưng dị bản
của VHDG biểu hiện ở nhiều cấp độ. Có thể đó chỉ là một sự khác biệt trong
cách gọi tên một truyện kể. Dị bản có thể chỉ là một từ, một mô thức câu mở
đầu một bài ca dao, nhưng dị bản còn nhiều khi nằm sâu trong các hình thức cấu
trúc tác phẩm giữa các văn bản như là sự thiếu khuyết hoặc khác biệt mtj số chi
tiết, tình tiết, motip, hình ảnh, biểu tượng,...Tất nhiên mọi sự biến đổi và thay
thế bao giờ cũng có giới hạn. Vượt quá giới hạn dị bản trở thành một tác phẩm


6

mới, thậm chí theo đó còn có cả sự chuyển hóa thể loại. Do đó, có thể nói tính
dị bản là một đặc trưng của VHDG.
2. Chương trình giảng dạy VHDG trong nhà trường phổ thông
2.1. Vị trí của VHDG trong chương trình văn học ở phổ thông

VHDG là một bộ phận quan trọng trong nền văn học Việt Nam, “là cội
nguồn là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng tân hồn dân tộc Việt Nam”. Từ thuở còn
nằm trong nôi, chúng ta đã được nghe những lời ru ngọt ngào, êm ái của bà,
của mẹ. Lớn lên những bài giao duyên đối đáp lại mạng ta đến với nghĩa tình
chồng vợ. Vì vậy VHDG chính là lời ăn tiếng nói của người lao động, là cái gần
gũi và thân thuộc nhất trong sâu thẳm tâm hồn mỗi con người chúng ta.
Việc giảng dạy VHDG trong nhà trường phổ thông là vô cùng cần thiết
và đáng được quan tâm chú trọng hàng đầu. Khi giảng dạy VHDG chúng ta
không chỉ giúp HS khám phá được cái hay, cái đẹp của sáng tác nghệ thuật

ngôn từ mà còn thu thập được vốn kiến thức hiểu biết về văn hóa xã hội,
phong tục tập quán, nếp sống sinh hoạt của dân gian của dân tộc. Ttats cả
những vốn liếng, kiến thức, kinh nghiệm sống được ông cha ta đúc kết lại
được HS hiểu và cảm nhận từ đó giúp HS hoàn thiện bản thân về cả mặt kiến
thức lẫn tinh thần. Mặc dù những sáng tác dân gian có khoảng cách khá xa
với thực tại, chứa đựng những tư duy, những quan điểm thẩm mỹ của người
xưa nhưng nếu HS tiếp nhận theo đúng hướng thì bản thân các em có thể
biến đồi vốn kiến thức ấy sao cho phù hợp với bản thân mình.
Không chỉ thế, VHDG còn là cuội nguồn cảm hứng thi ca ảnh hưởng đến
nền văn học trung đại. Chính VHDG là ngọn lửa khơi dậy nền văn học VIệt
Nam, giúp nền văn học VIệt Nam ngày càng khởi sắc. Từ những hình ảnh gần
gũi , thân thuộc nhưng cũng không kém phần đặc sắc, cho đến ngôn từ nghệ
thuật, VHDG đã trở thành thành phần không thể nào thiếu được trong nền
văn học nước nhà. Vì vậy việc đưa tác phẩm VHDG vào giảng dạy trong nhà
trường phổ thông là hết sức cần thiết.


7

VHDG là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các tầng lớp dân chúng,
phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, tồn tại và phát triển qua các thời kì
lịch sử cho tớingày nay. VHDG nằm trong tổng thể văn hóa dân gian, là một
bộ phận của sáng tác dân gian. Tồn tại dưới ngàn năm lịch sử, VHDG đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong nền văn học dân tộc. Đó là kết tinh
những tình cảm, thẩm mĩ, trí tuệ, ngôn ngữ, địa lí,... của ông cha ta. Chính
điều này đã giúp VHDG tạo nên một vị trí không nhỏ trong đời sống văn học
dân tộc và trong văn học dùng trong nhà trường. Việc đưa VHDG vào giảng
dạy trong nhà trường đã được thực hiện từ lâu và ở nhiều bậc học. Trong
chương trình từ cấp Tiểu học đến bậc THPT đều có một bộ phận của VHDG,
mỗi cấp tương ứng với một trình độ nhất định. Ở cấp Tiểu học, HS được biết

đến VHDG thông qua phân môn kể chuyện và tập đọc. Đến cấp THCS thì VHDG
được HS tiếp nhận ở phân môn giảng văn và hướng dẫn đọc thêm. Thế
nhưng, việc tiếp thu của HS còn thấp nên VHDG chỉ được biết đến thông qua
một số thể loại ngắn gọn, dễ hiểu như ca dao, tục ngữ, câu đố,... Bước sang
bậc THPT thì VHDG được xếp thành một chương, được bắt đầu bằng một bài
khái quát, tiếp theo đó là các thể loại của VHDG được HS tiếp nhận thông qua
các bài đọc văn chọn lọc từ kho VHDG. Có thể nói rằng, VHDG trong nhà
trường THPT đã đảm bảo đầy đủ các thể loại của VHDG. Trong các phân môn
của SGK Ngữ Văn THPT thì giảng văn chiếm một vị trí quan trọng với hơn
50% là các bài giảng về các thể loại văn học ở nhiều giai đoạn. Bởi thế, VHDG
cũng chiếm một số lượng đáng kể trong nhà trường THPT.
2.2. Chương trình giảng dạy

VHDG được giảng dạy ở cả 3 cấp học, từ tiểu học, THCS, THPT. Nhưng
trong phạp vi tiểu luận này chỉ đề cập đến việc vận dụng giảng dạy VHDG
theo tính truyền thống vào các tác phẩm dân gian ở cấp THCS và cấp THPT.
Lớp 6

Lớp 7

Lớp 10 (cơ bản và nâng
cao)


8

Con rồng cháu tiên

Những câu hát về tình
cảm gia đình

Bánh chưng bánh giầy Những câu hát về tình
(Đọc thêm)
yêu quê hương, đất
nước, con người
Thánh Gióng
Những câu hát than
thân
Sơn Tinh, Thủy Tinh
Những câu hát châm
biếm
Sự tích hồ Gươm
Sọ Dừa
Thạch Sanh
Em bé thông minh
Cây bút thần
Ông lão đánh cá và con
cá vàng
Ếch ngồi đáy giếng
Thầy bói xem voi
Chân, Tay, Tai, Mắt,
Miệng
Treo biển

Chiến thắng Mtao Mxây
Truyện
An
Dương
Vương và Mị Châu,
Trọng Thủy
Uy-lít-xơ trở về

Rama buộc tội
Tấm cám
Tam đại con gà
Nhưng nó phải bằng hai
mầy
Ca dao than thân, yêu
thương, tình nghĩa
Ca dao hài hước
Lời tiễn dặn người yêu
(đọc thêm)
Đẻ đất đẻ nước (đọc
thêm)
Tháng giêng, tháng hai,
tháng ba, tháng bốn...
(đọc thêm)
Mười tay (đọc thêm)
Tục ngữ về đạo đức, lối
sống

Lợn cưới áo mới
2.3. Mục đích, yêu cầu của việc giảng dạy tác phẩm VHDG

Chương trình VHDG được giảng dạy xuyên suốt ở các cấp học. Mỗi cấp
học đều có sự kế thừa, nâng cao. Các thể loại trong chương trình khá phong
phú. Các tác phẩm. Trích đoạn đặc sắc, tiêu biểu cho đặc trưng từng thể loại.
Chương trình đã giúp HS có cái nhìn gần về một bộ phận văn học của người
lao động. Vì vậy trong quá trình giảng dạy cần truyền đạt những kiến thức
trọng tâm đến HS và có cái truyền thụ và tiếp nhận phù hợp.
Mục đích của việc giảng dạy VHDG trong nhà trường phổ thông là giúp
HS hiểu được giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm dân gian. Thấy



9

được sự gắn bó mật thiết giữa tác phẩm với đời sống nhân dân qua quá trình
diễn xướng dân gian, biến đổi, phục vụ những sinh hoạt , hoạt động thiết thực
trong đời sống hằng ngày. Ngoài ra còn giúp HS nắm được giá trị của một tác
phẩm, một đoạn trính vad hiểu rõ đăc trưng của từng thể laoij VHDG qua một
hoặc một vài tác phẩm. Có kĩ năng cảm thụ và phân tích tác phẩm VHDG theo
đặc trưng chung và đặc trưng từng thể loại. Quan trọng hơn cả là bồi dưỡng
tình yêu đối với quê hương , đất nước, với con người và với nền VHDG. Giúp
HS phan biệt rõ văn học viết và VHDG, từ đó nhận thấy được sự tương đồng
vad khác biệt của hai dòng văn học này.
2.4. Thực tế về việc giảng dạy VHDG hiện nay

Văn học dân gian được coi là cội nguồn của văn hóa, văn học dân tộc.
Nhưng thời lượng dành cho bộ phận văn học này cũng không nhiều ( khoảng
trên dưới 15 tiết). Mặt khác, nhiều giáo viên cũng ít chú trọng đến bộ phận
văn học này. Vì thế, đa phần là giảng dạy có tính chất qua loa đại khái, không
bám sát đặc trưng của văn học dân gian, chưa truyền lửa đến cho học sinh
yêu thích những tác phẩm này.
Nói đến thực trạng của việc giảng dạy là nói đến những khuynh hướng và
cách dạy văn học dân gian phổ biến hiện nay. Có những khuynh hướng sau
đây:


Một là: Đồng nhất giữa văn học dân gian và văn học viết , dạy văn học dân
gian như dạy văn học viết, nên đã hiện đại hóa tác phẩm văn học dân gian,
tước bỏ đi những sắc thái vẻ đẹp độc đáo, ý vị vốn có của nó. Biểu hiện như
sau:

+ Tiếp cận cận văn học dân gian bằng thi pháp của văn học viết, phân
tích các yếu tố nghệ thuật của văn học dân gian như phân tích các yếu tố đó
của văn học viết: Ví dụ: tiếp cận tác phẩm An Dương Vương- Mị Châu và
Trọng Thủy nhiều người đi phân tích diễn biến tâm lý nhân vật Mị Châu rồi
chỉ ra là cô khờ dại


10

+ Chỉ phân tích một cách cô lập trên văn bản ngôn từ mà không đặt tác
phẩm văn học dân gian vào trong môi trường dân gian, thời điểm phát sinh
và sự lưu truyền trong đời sống nhân gian để khai thác tức là chỉ chú ý đến
yếu tố văn chương mà chưa quan tâm đến những yếu tố phi văn chương của
nó. Đây là cách dạy văn học dân gian khá phổ biến ở trong nhà trường THPT.
Phân tích ca dao giáo viên mới chú ý ở phần lời chứ chưa chú ý ở phần nhạc,
phần điệu lý. Phân tích sử thi mới chỉ bám vào phần văn bản chứ chưa đặt tác
phẩm trong môi trường diễn xướng của nó.


Hai là: Ngược lại với khuynh hướng trên là khuynh hướng xóa

nhòa ranh giới giữa khoa nghiên cứu văn học dân gian với các khoa học liên
quan như dân tộc học, lịch sử, xã hội học, văn hóa học, phong tục học… làm
cho bài dạy mất đi những thông tin thẩm mĩ mà chỉ còn lại bức tranh xã hội
khô cứng. Biểu hiện như sau:
+ Coi tác phẩm văn học dân gian chỉ là điểm xuất phát, cái cớ để giải
thích các vấn đề xã hội, lịch sử, dân tộc, tục lệ…phân tích Đăm Săn lại nghiêng
về tục nối dây, phân tích An Dương Vương- Mị Châu và Trọng Thủy để giải
thích lễ hội Cổ Loa
+ Từ tác phẩm văn học dân gian liên tưởng mở rộng, dẫn dắt học sinh

đến những vấn đề khác ngoài tác phẩm. Ví dụ: Phân tích chiến thắng Mơ Tao
Mơ Xay giáo viên lại dẵn dắt đi từ tục cướp vợ đến những lễ hội cồng chiêng,
con số ba trong quan niệm của người Tây Nguyên...
+ Lấy cái bên ngoài để lôi cuốn, hấp dẫn học sinh chứ không phải bản
thân tác phẩm văn học dân gian. nhiều người khi giảng dạy Tấm Cám thì lại
dẫn dắt học sinh đến thuyết luân hồi trong đạo Phật, thuyết vạn vật hữu linh
để lôi cuốn học sinh.
 Ba

là: Nhưng phổ biến nhất là các dậy học đơn giản hóa tác phẩm văn học

dân gian mà biểu hiện thường thấy là diễn xuôi một các khô khan, nhạt
nhẽo bài ca dao; hoặc chia các nhân vật cổ tích thành hai tuyến chính nghĩa


11

và gian tà rồi phân tích một các sơ lược theo lối kể tóm lại sự việc. Tôi lấy ví
dụ như khi phân tích câu ca dao " Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa
chợ biết vào tay ai" Giáo viên giảng: Thân em được so sánh như tấm lụa
đào, lụa đào đẹp nhưng lại được đem ra trao đổi mua bán ở chợ. từ đó đi
đến khẳng định thân phận phụ thuộc của người con gái trong xã hội cũ.
 Bốn là: Một cực khác đó là dạy theo lối tầm chương trích cú, nhấm nháp hình
ảnh ngôn ngữ, làm cho học sinh “thấy cây mà không thấy rừng”; hoặc viện
dẫn quá xa, lam man ra ngoài tác phẩm .
Thực trạng trên đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo tâm huyết
chỉ ra nhưng đến nay sau nhiều năm đổi mới phương pháp giảng dạy văn
học nói chung và văn học dân gian nói riêng nhưng tình hình vẫn không
thay đổi . Xét về mặt bản chất thì tất cả những phương pháp giảng dạy văn
học dân gian trên đây mỗi phương pháp đều có những hạn chế của nó. Hoặc

là chưa đúng bàn chất của tác phẩm văn học dân gian, hoặc là quá sa đà với
những yếu tố phi văn chương.
Tuy nhiên cũng có nhiều thầy cô tâm huyết, họ đã dạy văn học dân
gian như nó vốn có trong đời sống thực của dân gian, tức là tiếp cận văn học
dân theo tinh thần Folklore học.Nhưng thời lượng tiết dạy quá ít nên không
chuyển tải hết được vẻ đẹp về nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm.
Một thực trạng hiện nay là học sinh ngày càng xa rời với môn văn, đặc
biệt là với văn học dân gian và văn học trung đại . Phải chăng do hai bộ phận
này không nằm trong chương trình thi đại học hay do xu hướng công nghiệp
hóa và hiện đại hóa trên toàn cầu đã và đang in rất đậm dấu ấn của nó trong
tâm lý và tính cách của học sinh. Tầm vóc văn hóa cũng như năng lực tư duy
của học sinh càng ngày càng hiện đại, và chịu ảnh hưởng rất lớn của nền
công nghiệp. Lối tư duy cũ của nền văn minh cây lúa nước, lũy tre làng phải
nhường bước cho lối tư duy điện tử, điện toán … . Đó là thực trạng đau lòng.
Thế hệ học sinh có khoảng cách khá xa về nhiều mặt với cái thế giới của
văn học dân gian. Các em chưa hiểu được đặc trưng, vai trò của văn học dân


12

gian vì thế các em học văn học dân gian với tâm thế của việc học văn học viết.
Dẫn đến việc các em có nhiều suy diễn không hợp lý về tác phẩm văn học dân
gian. Nhiều em có thái độ xem nhẹ bộ phận văn học dân gian, học theo kiểu
cưỡi ngựa xem hoa.
Mặt khác do chưa có nhận thức đúng đắn về vị trí và vai trò của văn học
dân gian ở cả hai phía người dạy và người học, nhiều giáo viên chưa chú ý
đến phương pháp giảng dạy đặc thù của văn học dân gian dẫn đến việc học
tập văn học dân gian chưa được như mong muốn.

II. Giảng dạy VHDG theo tính truyền thống

1. Những cách thức giảng dạy VHDG chưa phù hợp
Hiện nay đa số GV giảng dạy VHDG một cách qua loa, không đi sâu
phân tích và ít chú trọng đến đặc trưng chung và đặc trưng từng thể laoij của
VHDG. Giảng dạy tác phẩm VHDG như tác phẩm văn học viết. Từ đó dẫn đến
cách giảng dạy bị sai lệch, nội dung không được truyền tải hết đến HS, làm
cho HS lẫn lộn giũa VHDG và văn học viết. Khi giảng dạy GV chỉ chú ý dựa
trên ngôn từ trên văn bản sách giáo khoa mà chưa quan tâm đến các yếu tố
bên ngoài văn bản. chỉ làm việc trên một văn bản duy nhất chưa quan tâm
nhiều đến dị bản. Đơn giản hóa tác phẩm, chủ yếu là diễn xuôi lan man. Chưa
vận dụng được các đặc trưng của VHDG vào quá trình giảng dạy như chưa
đặt tác phẩm vào trong môi trường diễn xướng, chưa phân biệt được sân
khấu hóa và diễn xướng. Chưa chú trọng nhiều đến giá trị nghệ thuật của tác
phẩm chỉ quan tâm đến giá trị đạo đức, giá trị phản ánh hiện thực , kinh
nghiệm đời sống và lao động sản xuất. Chỉ chú ý đến chi tiết bỏ quên chủ thể
hệ thống. Vì vậy cần phải khắc phục các cách thức giảng dạy chưa phù hợp
trên và có một phương hướng, phương pháp giảng dạy tác phẩm VHDG một
cách hợp lý và tiến bộ hơn.


13

2. Phương pháp giảng dạy VHDG theo tính truyền thống
2.1. Tính truyền thống trong VHDG

Tính truyền thống trong VHDG biểu hiện ở các phương diện như thể
loại (thể thơ lục bát truyền thống), kiểu truyện ( người mồ côi, người em út,
người xấu xí,...), ngôn từ hình ảnh (sự lặp lại của các hình ảnh trong ca dao
như trầu cau, bến nước, trúc mai,...), đề tài ( như các mẫu đề quen thuộc của
ca dao: mười thương, chiều chiều, thân em như,...). Ngoài ra tính truyền
thống còn thể hiện ở nội dung nghệ thuật, trong sáng tác và diễn xướng. Nó

phản ánh quy luật sáng tạo và dặc trưng của VHDG. Mỗi tác phẩm dân gian
đều xây dựng trên một loạt các yếu tố truyền thống nên khi tìm hiểu phân
tích, ta phải dựa vào hệ thống và khai thác các yếu tố trong các hệ thống này.
Đồng thời công thức truyền thống cũng có mối liên hệ chặt chẽ với vấn đề
hiện thực được phản ánh trong Folklore. Đây là một hiện thực đã được
truyền thống chọn lọc, khái quát. Chẳng hạn để nói về một vùng quê giàu đẹp,
con người thanh lịch, giỏi giang, ca dao dân ca đã có sẵn một hiện thực trong
truyền thống thể hiện qua các công thức địa danh , phong cảnh như “ đường
vô quanh quanh”, “ phong cảnh hữu tình”, “như tranh họa đồ”, về con người
như “gái đảm trai tài”, “trai hiền gái lịch”. Công thức truyền thống có nền tảng
văn hóa, dân tộc sâu sắc. Công thức trầu – cau gắn bó mật thiết với tục ăn
trầu, mời trầu của nhân dân. Từ đó hình thành một loạt các hình ảnh trầu
cau như trầu gặp gỡ làm quen, trầu thề nguyền chung thủy, trầu gả bán
thách cưới,...Hay công thức “cây đa” có nguồn gốc từ tục thờ Thành hoàng
lâu đời ở các làng xã. Công thức “bến nước – con đò” xuất hiện và bắt rễ từ
văn hóa sông nước của Việt Nam. Từ tầng nền văn hóa, dân tộc đến ý nghĩa
của công thức truyền thống là quá trình biến đổi tái tạo sinh động. Việc tìm ra
cái cốt, cái lõi văn hóa khi phân tích là cần thiết bởi đó lad cuộc sống bền lâu
của các công thức thể hiện qua từng tác phẩm.
Nghiên cứu về các mẫu đề truyền thống ta thấy mỗi mẫu đề là một
chỉnh thể thống nhất . nó là văn cảnh cụ thể trực tiếp của một tác phẩm dân


14

gian. Cấu trúc của mỗi tác phẩm là sự vận động từ công thức truyền thống
này đến công thức truyền thống khác trên cơ sở qui định chặt chẽ của mẫu
đề. Đặc điểm này là một trong những nguyên nhân khiến các thể loại trong
VHDG giữ được tính truyền thống, mặc khác vẫn sáng tạo không ngừng.
VHDG được ưa thích vì đã gia nhập được vào tính truyền thống tập thể, vào

sự vận động chung của tác phẩm dân gian đó là cơ sở để làm nảy nở tác
phẩm mới theo quỹ đạo của nó.
2.2. Giảng dạy theo tính truyền thống

Trong thực tế tác phẩm VHDG được GV truyền thụ một cách một chiều
đến với HS, có nhiều phương pháp giảng dạy chưa hợp lý và bỏ quên đi tính
chất đặc trưng của VHDG. Cũng như đã nêu bên trên, những cách dạy VHDG
chưa hợp lý này một phần làm mất đi bản chất thật sự của VHDG, một phần
làm cho HS hiểu lan man, sai lệch về bộ phận văn học truyền thống của dân
tộc này. Đã có nhiều GV đưa ra những cách dạy học mới mẽ để áp dụng vào
việc giảng dạy VHDG trong nhà trường phổ thông như dạy VHDG theo tổ
chức dạy học hợp tác, dạy học kiểu tích hợp, dạy học ứng dụng công nghệ
thông tin và nhiều cách dạy khác. Nhưng đa phần GV chưa chú trọng đến việc
giảng dạy VHDG theo đặc trưng chung của VHDG và đặc trưng riêng từng thể
loại. VHDG nhiều đặc trưng mà khác hẳn với các dòng văn học khác vì vậy
việc giảng dạy theo đặc trưng chung của VHDG sẽ giúp học sinh phân biệt
được các dòng văn học hiện hành mà không bị nhầm lẫn. Có thể dạy theo tính
nguyên hợp, tính dị bản, tính truyền miệng, tính tập thể hoặc dạy theo
phương pháp diễn xướng tác phẩm,...Ngoài ra trong VHDG có nhiều thể loại,
mỗi thể loại đề có đặc trưng riêng. Nên việc dạy các tác phẩm theo từng thể
loại và theo đặc trưng thể loại đó giúp học sinh tiếp thu nhanh và nhớ kiến
thức lâu hơn. Ở đây tôi xin giới thiệu về phương pháp giảng dạy tác phẩm
VHDG theo tính truyền thống. Các tác phẩm dân gian hầu hết mang tính
truyền thống. Tính truyền thống thể hiện ở nhiều phương diện như thể thơ,


15

cốt truyện, các motip, các công thức dân gian,...vì vậy khi giảng dạy tác phẩm
theo tính truyền thống HS sẽ dễ hiểu và hình dung rõ hơn về nền văn học lâu

đời của dân tộc
2.2.1. Mục tiêu cần đạt

Việc vận dụng tính truyền thống vào việc giảng dạy một tác phẩm
VHDG thực sự không đơn giản. Nhưng việc vận dụng thành công phương
pháp này sẽ giúp bài giảng đến với HS một cách dễ dàng và giúp tiết dạy có
thêm phần sinh động. Như đã biết, tính truyền thống xuất hiện hầu hết ở các
tác phẩm dân gian. Từ cốt truyện, kiểu truyện như người mồ côi, người em
út, người xấu xí,...đến các công thức quen thuộc như công thức thơ lục bát
trong ca dao, công thức mở đầu bằng các cụm từ như “ thân em như”, “chiều
chiều”,...Chính tính truyền thống đã tạo ra một khuôn mẫu có sẵn cho VHDG,
mà từ đó các tác giả dân gian có thể sáng tác các tác phẩm mới dựa trên các
công thức này. Mặc khác, đa phần các sáng tác dân gian là của người dân lao
động, họ sáng tác ngay trên đồng ruộng, ngay cả lúc cấy lúa giăng câu, lúc
dốt đồng cày xới, hay cả lúc tâm tình của những đôi trai gái, vì vậy cần có một
khuôn mẫu sẵn để tác phẩm mới hình thành một cách nhanh gọn, nên mới có
tính truyền thống này.
Trong nhà trường, các tác phẩm dân gian đa phầm khá quen thuộc với
HS. Nên việc tiếp cận và tìm hiểu phân tích cũn khá dễ dàng. Nhưng nếu chỉ
chú trong phân tích mà không hiểu được bản chất của tác phẩm thì cũng chỉ
là con số không. Để vận dụng đưa tính truyền thống vào việc giảng dạy tác
phẩm dân gian, GV cần có những chuẩn bị, sáng kiến hay, độc đáo, để làm thế
nào HS vừa học đúng theo thời lượng chương trình mà còn biết thêm nhiều
đặc điểm, nhiều đặc sắc của VHDG. GV cần bám sát vào tính truyền thống
trong các tác phẩm để tổ chức mở rộng cho HS hiểu rõ hơn.
Ví dụ để giảng dạy các tác phẩm truyện cổ tích, GV cho học sinh tìm
hiểu về các kiểu truyện tương tự như kiểu truyện về người con gái bất hạnh


16


trong Tấm Cám thì sẽ có các truyện tương tự như Cô bé lọ lem, Cô bé bán
diêm, ...ở nước ngoài, từ đó cho thấy tính truyền thống cũng mang theo cả
tính quốc tế, vì tuwg một cốt truyện, kiểu truyện thì mỗi quốc gia có một cách
kể và diễn đạt khác nhau. GV có thể tổ chức một trò chơi nhỏ trong quá trình
giảng dạy, một phần để thay đổi không khí lớp học, phần khác giúp HS chủ
động hơn trong quá trình tự tìm hiểu về tính truyền thống trong tác phẩm
dân gian. Ngoài biểu hiện ở cá cốt truyện, kiểu truyện tính truyền thống còn
biểu hiện trong các ngôn từ hình anh, cấu trức mở đầu mà tiêu biểu rõ nhất
trong ca dao dân ca. Nhưng hình ảnh biểu tương xưa nay vốn quen thuộc với
mọi người như “mận – đào”, “thuyền – bến”, “trầu- cau”, “cây đa-bến nước”.
Những hình ảnh quen thuộc này giúp HS dễ hiểu hơn về đời sống tình cảm
tinh thần của người dân xưa được thể hiện qua ca dao dân ca. Các công thức
mở đầu quen thuộc:
Thân em như củ ấu gai
Ở trong thì trắng ở ngoài thì đen
***
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
***
Thân em như ớt chín cây
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng
Hay:
Chiều chiều ra đứng ngỏ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
***
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò
***



17

Chiều chiều chim rét kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau
***
Chiều chiều ai đứng hàng ba
Quần đen áo trắng nết na diệu dàng
Bằng những cách mở đầu mang tính công thức như vậy, GV có thể cho
HS thi tìm các câu ca dao có cùng công thức mở đầu. Như vậy có thể giúp các
em tư duy cao trong quá trình tìm hiểu và biết được nhiều câu ca dao dân ca.
Ngoài ra còn có thể vậ dụng các công thức có sẵn cho các em tham gia
sáng tác trực tiếp các câu ca dao bằng việc thay thế một số từ ngữ trong một
câu ca dao có sẵn. Các em sẽ cảm thấy hăng say trong quá trình học tập.
Không những HS tìm hiểu được tính truyền thống trong VHDG mà còn tìm
hiểu được nhiều đặc trưng khác của VHDG như tính dị bản – từ việc tham gia
sáng tác theo mẫu có sẵn. Hiểu được đặc trưng từng thể loại dân gian thông
qua tính truyền thống (thể thơ lục bát trong ca dao, yếu tố thần kì trong
truyện cổ tích,...)
Như vậy việc áp dụng tính truyền thống vào giảng dạy VHDG trong nhà
trường phổ thông là hết sức hiệu quả và rất cần thiết trong thời buổi đổi mới
giáo dục phổ thông.
2.2.2. Thuận lợi

Việc vận dụng các phương pháp mới vào giảng dạy trong nhà trường
đang được rất nhiều người quan tâm. Cần thay đổi cách dạy học truyền thống
để HS dễ dàng tiếp thu trong quá trình học tập, mà không bị gò bó quá lớn.
Phương pháp ứng dụng tính truyền thống trong VHDG vào giảng dạy tác
phẩm dân gian đã đáp ứng được những nhu cầu trên. Với hình thức vừa học
vừa chơi như vậy giúp HS thoải mái nên dễ dàng tiếp thu bài học. Giảng dạy

bám sát đặc trưng mà cụ thể là tính truyền thống như vậy mang đến nhiều
hiệu quả cao trong quá trinh giảng dạy cũng như tiếp thu của GV và HS.


18

2.2.3. Khó khăn

Tuy nhiên phương pháp giảng dạy VHDG theo tính truyền thống không
phải là một phương pháp triệt để. Phương pháp này còn vướn phải nhiều khó
khăn cần khắc phục. Để thực hiện phương pháp này, GV cần chuẩn bị một
cách chu đóa về bài giảng và học sinh cũng cần có kiến thức cơ bản vững chắc
về VHDG nói chung và các thể loại dân gian nói riêng. Về phần thời gian,
VHDG được phân phối với một thời lượng khá ít nên việc để thực hiện hết các
hoạt động trong phương pháp dạy học trên là rất khó khăn.
Vì vậy cần đề ra nhiều phương hướng và cách khắc phục. Để dần hoàn
thiệ và đưa vào ứng dụng trong nhà trường phổ thông. Mang đến cho HS một
phương pháp học tập mới, để các em dễ dàng tiếp thu trong quá trình học tập

III. Khảo sát thực nghiệm việc ứng dụng giảng dạy VHDG theo
tính truyền thống trong trường THPT Nguyễn Trãi (Tây Ninh)
1. Lập kế hoạch thực nghiệm
1.1. Trao đổi với GV dạy thực nghiệm và chọn lớp thực nghiệm

Gặp gỡ và trao đổi với GV để thống nhất mục đích, nội dung, phương
pháp và kiểm tra đánh giá HS khi tiến hành thực nghiệm. Lựa chọn lớp thực
nghiệm và đối chứng, thời gian tiến hành thực nghiệm để ghi nhận kết quả.
Qui trình dạy thực nghiệm tiến hành theo các bước sau:
+ Bước 1: GV dạy lớp đối chứng bài học theo phương pháp hiện hành, không
sử dụng dạy theo tính truyền thống

+ Bước 2: GV dạy lớp đối chứng sẽ dạy lớp thực nghiệm bằng bài học thiết kế
theo phương pháp giảng dạy theo tính truyền thống.
+ Bước 3: Phát phiếu kiểm tra đánh giá năng lực HS sau tiết dạy.
Đối tượng thực nghiệm bao gồm : lớp thực nghiệm, và lớp đối chứng, có chất
lượng tương đối đồng đều về mặt kiến thức, đồng thời số lượng HS, giới tính
và điều kiện cơ sở vật chất phải tương đương nha.
Trường THPT Nguyễn Trãi có các lớp thực nghiệm và đối chứng như sau:
10A1 và 10A2


19

1.2. Chọn và thiết kế bài lên lớp thực nghiệm

Chọn bài trong chương trình VHDG lớp 10 ban cơ bản (tập 1) bao gồm:
“ Ca dao than thân yêu thương và tình nghĩa.”
Bài giảng cùng thực hiện theo hai mô hình khác nhau: cùng một GV
dạy lớp thực nghiệm , lớp đối chứng và dạy cả hai giáo án. Đề kiểm tra các
lớp thực nghiệm và lớp đối chứng chung một đề. Sau khi thực nghiệm sẽ phát
phiếu kiểm tra kiến thức tiếp thu , sau đó xử lý số liệu phần trăm (phần giáo
án bài giảng và nội dung kiểm tra kiến thức trong phần phụ lục).
2. Đánh giá và so sánh kết quả thực nghiệm
Sau quá trình thực nghiệm sư phạm ở 2 lớp 10A1(lớp thực nghiệm) và
10A2 (lớp đối chứng) ở trường THPT Nguyễn Trãi (Tây Ninh), thu được kết
quả sau:
Lớp

Sỉ số

10A1


40

Số bài Số bài Điểm số
KT
KT
0 %
phát
thu
3
40
40
0 0%

10A2

40

40

40

1

2,5
%

4
6
8


%

20
%
26 65
%

7
8
2
5
1
1

%
62,5
%
27.5
%

9 %
10
5 12.5
%
2 5%

Như vậy ta được đồ thị :
Ta thấy qua quá trình thực nghiệm ứng dụng tính truyền thống vào
việc giảng dạy các tác phẩm dân gian trong nhà trường phổ thông, đa số HS

lớp thực nghiệm khá lý thú với trò chơi trong quá trình dạy, quá trình tiếp
thu cũng nhanh hơn và không khí lớp học rộn rã, làm tan đi bầu không khí
học tập truyền thống ngột ngạt. Lớp đối chứng tuy không được áp dụng
phương pháp mới nhưng cũng thu được kết quả học tập tương đối, nhưng
còn một số bộ phận HS chưa hiểu rõ về VHDG nói chung cũng như bài dạy về
ca dao nói riêng. kết quả học tập thu được khá khách quan cho lớp thực
nghiệm 10A1, tỉ lệ HS đạt điểm từ 0 đến 3 không có HS nào (chiếm 0%) chứng


20

tỏ hầu hết các em điều hiểu vấn đề câu hỏi cũng cố và cac kiến thức trong bài
giảng. Mắc khác lớp đối chứng 10A2 lại có 2 HS đạt điểm từ 0 đến 3 (chiếm
2%) từ đó cho thấy các em vẫn chưa tiếp thu kịp kiến thức trong một tiết
giảng dạy quá ngắn. Tỉ lệ HS đạt điểm ở mức trung bình của lớp 10A2 (65%)
cũng khá cao sao với lớp 10A1 (21%), đa phần các em chỉ hiểu lan man và sơ
sài nội dung bài học, chưa tiếp thu kĩ và chưa xác định được vấn đề câu hỏi. Tỉ
lệ HS đạt điểm khá giỏi cũng khá thấp so với lớp thực nghiệm. Vì được giảng
dạy kết hợp tính truyền thống trong tác phẩm dân gian nên lớp thực nghiệm
hầu như hiểu rất kĩ kiến thức bài giảng, qua phần trò chơi phần nào các em
cung biết thêm nhiều câu ca dao có cùng công thức mở đầu nên bài kiểm tra
kiến thức các em làm khá tốt. Từ đó có thể kết luận, quá trình vận dụng kết
hợp tính truyền thống vào quá trình dạy các tác phẩm dân gian đã đạt những
hiệu quả và thành công đáng kể trong việc giảng dạy và truyền đạt kiến thức
đến với học sinh. Thông quá quá trình thực nghiệm sư phạm, ta thấy việc áp
dụng các phương pháp mới đặc biệt là phương pháp giảng dạy tác phẩm
VHDG theo tính truyền thống là hết sức phù hợp trong quá trình đổi mới giáo
dục hiện nay.



21

KẾT LUẬN
Trong thời kì đổi mới giáo dục toàn diện, việc tìm ra các phương pháp
dạy học mới đang hết sức cần thiết. VHDG là nền văn học nguồn cội của dân
tộc vì vậy cần được truyền thụ đến với bộ phận HS trong nhà trường phổ
thông một cách toàn diện. để các em có thể hiểu sâu và học hỏi được những
giá trịnh đạo đức, lối sống, tinh thần của ông cha ta qua các tác phẩm dân
gian. Nhưng việc truyền thụ một cách một chiều đến HS gây ra nhiều trở ngại
giáo dục. Việc vận dụng tính truyền thống vào giảng dạy VHDG trong nhà
trường phổ thông như cơn mưa đang tắm mắt và gội rửa để những mầm
xanh vươn lên trong tương lai. Đó là một phương pháp học tích cực về nhiều
mặt, vừa giúp HS năng động, chủ đông trong quá trình học tập, vừa giúp các
em lĩnh hội kiến thức một cách nhanh chống. Vậy nên việc vận dụng các
phương pháp mới đã và dang được ủng hộ rất nhiều. Chúng ta cần vận dụng
một cách sáng tạo chúng vào quá trình đổi mới giáo dục theo những nhu cầu
của cuộc cải cách giáo dục. Vận dụng phương pháp dạy học tác phẩm dân
gian theo tính truyền thống tuy còn nhiều thiết sót trong quá trình thực hành
sư phạm. Nhưng qua đó tôi hy vọng sẽ khẳng định được phần nào ưu thế của
phương pháp này. Với hi vọng phương pháp này sẽ được áp dụng rộng rãi
trong các giờ dạy VHDG trong nhà trường phổ thông, để VHDG ngày càng trở
nên gần gũi với HS góp phần nảy nỡ những tâm hồn của các em đưa các em
đến với những cái hay cái đẹp trong VHDG.


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Văn học dân gian Việt Nam,

NXB Giáo dục Việt Nam, 2009.
2. Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình Văn học dân gian Việt
Nam, NXB Khoa học xã hội, 1976.
3. Hoàng Tiến Tựu, Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo
dục, 1999.
4. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Ngữ văn 6 (tập 1), NXB Giáo
dục Việt Nam, 2010.
5. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên), Ngữ văn 10 (tập 1),
NXB Giáo Dục Việt Nam, 2010.
6. Phan Trọng Luận (chủ biên), Thiết kế bài học Ngữ văn 10,
NXB Giáo dục, 2007
7. Vũ Anh Tuấn (chủ biên), Giáo trình Văn học dân gian, NXB
Giáo dục Việt Nam.


23

PHỤ LỤC
Giáo án 1:
Lớp dạy: 10A1 (Lớp thực nghiệm)
CA DAO THAN THÂN, YÊU THƯƠNG, TÌNH NGHĨA
I. Mục tiêu bài dạy
1. Kiến thức:
Qua bài học giúp học sinh: Cảm nhận được tiếng hát than thân và tiếng hát
yêu thương tình nghĩa của người bình dân trong xã hội phong kiến xưa qua
nghệ thuật riêng đậm sắc màu dân gian của ca dao
2. Kĩ năng:
Giúp học sinh: Biết cách tiếp cận và phân tích ca dao qua đặc trưng thể loại
3. Thái độ:
Giáo dục cho học sinh ý thức trân trọng và đồng cảm với tâm hồn người lao

động và những suy nghĩ của họ
II. Tiến trình bài dạy
1. Kiểm tra bài cũ: Không kiểm tra
2. Bài mới
* Lời vào bài (1’): Ra đời trong xã hội cũ, ca dao trữ tình là những tiếng
hát than thân, những lời ca yêu thương tình nghĩa cất lên từ cuộc đời còn
nhiều cơ cực, đắng cay nhưng đằm thắm ân tình của người bình dân Việt
Nam. Đó là những tiếng ca cất lên từ cuộc sống, giản dị nhưng đằm thắm và
sâu sắc, đầy ắp những nghĩa tình...Để hiểu thêm điều đó chúng ta cùng vào bài
học hôm nay…
* Nội dung bài mới
Hoạt động của GV và HS
Yêu cầu cần đạt
GV: Yêu cầu HS đọc tiểu dẫn và trình I. Tìm hiểu chung (15’)
bày định nghĩa, phân loại, đặc điểm 1. Định nghĩa ca dao (Tham khảo
nghệ thuật của ca dao? Từ đó đề xuất bài: Khái quát VHDG Việt Nam)
phương pháp tìm hiểu bài học?
2. Phân loại: có 3 nhóm
HS: Đọc tiểu dẫn và trình bày khái - Ca dao than thân: là những câu hát
quát
cất lên từ những cuộc đời còn nhiều
xót xa cay đắng
- Ca dao yêu thương tình nghiã là
những bài ca dao diễn tả tình yêu


24

thương, ân tình, nghĩa tình như: tình
cảm gia đình, bạn bè, tình yêu lứa đôi,

tình yêu quê hương đất nước, con
người
- Ca dao hài hước: là những bài ca
dao dùng để giải trí, châm biếm đả
kích
3. Đặc điểm nghệ thuật
- Thể thơ: phần lớn là lục bát hoặc
lục bát biến thể, ngoài ra còn có thể
song thất lục bát, vãn bốn, vãn năm.
- Giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ và
nhiều biểu tượng mang tính truyền
thống: hạt mưa, tấm lụa đào, cái
giếng, cây đa, bến nước, con đò, con
thuyền...
- Hình thưc lặp lại cũng rất phổ biến
trong ca dao: kết cấu, hình ảnh, công
thức ngôn từ...
- Ngôn ngữ: gần với ngôn ngữ hàng
ngày, mang đậm tính địa phương và
dân tộc.
4. Phương pháp khai thác
(Bài học thuộc phạm vi giảm tải.
Chỉ dạy các bài ca dao 1,4,6)
- Ca dao than thân: Bài 1
- Ca dao yêu thương tình nghĩa bài 4,
6
GV: Yêu cầu HS đọc bài ca dao 1 và cho II. Đọc hiểu
biết bài ca dao này có cách mở đầu 1. Ca dao than thân (bài 1) (25’)
như thế nào? Nó gợi lên điều gì?
- Bài ca dao mở đầu bằng cụm từ:

HS: Phát hiện, trả lời
“thân em như...”. Lối mở đầu này xác
định rõ đây là lời than thân của
GV: Tổ chức trò chơi “Ai nhanh người phụ nữ. Đồng thời, còn gợi lên
hơn”
sự ngậm ngùi, xót xa, cảm thương, có


25

Hình thức trò chơi: chia lớp thành
2 nhóm (tương đương 2 dãy bàn
học)
Cho HS thi nhau tìm hiểu và lên
bảng viết những câu ca dao có mở
đầu công thức “thân em như”.
Nhóm nào viết được nhiều câu ca
dao và nhanh nhất nhóm đó thắng.
HS: Tham gia trò chơi
GV: Đưa ra một số đáp án:
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn
hoa
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày…
Hoặc
Thân em như giếng giữa làng
Người thanh rửa mặt người phàm
rửa chân
Thân em như lá đài bi

Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm
sương
Thân như như củ ấu gai
Ở trong thì trắng ở ngoài thì đen

tác dụng nhấn mạnh, gây sự chú ý với
người nghe, người đọc.
- Nỗi khổ của họ được thể hiện qua
hình ảnh ẩn dụ so sánh: “tấm lụa
đào”- là thứ lụa mềm mại, óng ả, rất
quí và hiếm
 Tự ví mình như thế nghĩa là người
phụ nữ đã ý thức rõ phẩm chất bên
trong, giá trị của mình, vai trò cần
thiết không thể thay đổi trong cuộc
đời.

- Lối nói so sánh ví von cho thấy
người phụ nữ là những người đẹp cả
về hình thức bên ngoài lẫn phẩm chất
bên trong và luôn cần thiết, hữu ích
cho cuộc đời (Là tấm lụa đẹp trang
sức cho đời)

- Người phụ nữ ý thức được sắc đẹp,
tuổi xuân và giá trị của mình (như
tấm lụa đào), nhưng số phận thật
chông chênh không có gì đảm bảo
(phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?),
giống như một món hàng để mua

GV khẳng định: Như vậy ca dao có bán.
cả một hệ thống những bài mở đầu
bằng “thân em như..” được xem
như lời chung của người phụ nữ
trong xã hội xưa. Hình thức lặp lại
với một tần số khá lớn đã nói lên
họ là những người khổ nhất trong


×