Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Thực trạng cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại Ủy ban Nhân dân Thành phố Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.73 KB, 91 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ sự cần
thiết phải tiến hành cải cách hành chính, coi đây là một giải pháp quan trọng góp
phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã tiến hành cải
cách hành chính từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích
lệ. Cải cách hành chính ở Việt Nam được triển khai trên nhiều nội dung: Cải cách
thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính,
trong đó cải cách thủ tục hành chính là một khâu quan trọng và được đặt ra ngay từ
giai đoạn đầu của tiến trình cải cách.
Thủ tục hành chính liên quan không chỉ đến công việc nội bộ của một cơ
quan, một cấp chính quyền, mà còn đến các tổ chức và công dân trong mối quan hệ
với Nhà nước. Các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp
hay ở các văn bản pháp luật khác có được thực hiện hay không, thực hiện như thế
nào, về cơ bản, đều phải thông qua thủ tục hành chính do các cơ quan, các cấp
chính quyền nhà nước quy định và trực tiếp giải quyết. Nhận rõ mục đích, ý nghĩa
và tầm quan trọng của công tác cải cách thủ tục hành chính, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 38/CP ngày 4/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính mà
mục tiêu quan trọng là hướng đến việc giải quyết tốt hơn các công việc của công
dân, tổ chức, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp. Yêu cầu của Nghị quyết là
“nhằm tạo bước chuyển căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc
giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước với tổ chức xã hội và
giữa cơ quan nhà nước với công dân”.
Cùng với yêu cầu phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành chính ở nước
ta đã và đang có những chuyển biến hết sức tích cực. Điều này được thể hiện qua
những quyết sách vô cùng đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Đó là Quyết định số
136/2001/QĐ-TTg ngày 17/09/2001 về Phê duyệt chương trình tổng thể cải cách
1




Khoá luận tốt nghiệp

hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010; Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày
04/9/2003 Về việc Ban hành quy chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương; Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 về Ban hành Quy
chế thực hiện cơ chế “một cửa”, cơ chế “một cửa liên thông” tại cơ quan hành
chính nhà nước tại địa phương. Và gần đây nhất là Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày
18/11/2011 của Chính phủ về Phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2011-2020. Việc thực hiện cơ chế “một cửa, một cửa liên
thông” là giải pháp để đổi mới về phương thức làm việc của cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương các cấp, nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong quan hệ giữa
cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức và công dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và sự đòi hỏi của quá trình phát
triển kinh tế - xã hội tại địa phương, tỉnh Thanh Hóa nói chung và Ủy ban Nhân
dân thành phố Thanh Hóa nói riêng đã ban hành hàng loạt các Văn bản để chỉ đạo
thực hiện. Đó là: Chỉ thị số 27/2003/CT-UB ngày 12/12/2003 của UBND tỉnh
Thanh Hoá về việc Tổ chức thực hiện cơ chế một cửa tại cơ quan hành chính Nhà
nước ở địa phương. Quyết định số 504/2007/QĐ-UBND của UBND Thành phố
Thanh Hóa ngày 9/02/2007 Về việc ban hành Quy chế thực hiện cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế "một cửa" tại UBND Thành phố Thanh Hóa. Quyết định số
706/2007/QĐ-UBND ngày 7/03/2007 của UBND Thành phố Thanh Hóa Về việc
ban hành Quy trình hướng dẫn thực hiện Phương án mở rộng cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế “một cửa” tại UBND Thành phố Thanh Hóa.
Thông qua quá trình chỉ đạo thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ
chế “một cửa” của các cấp lãnh đạo, UBND Thành phố Thanh Hóa đã nâng cao
chất lượng phục vụ nhân dân, giảm bớt thời gian, công sức của người dân khi đến
giải quyết các loại hồ sơ, thủ tục hành chính tại Ủy ban. Tuy vậy, trong quá trình
thực hiện do những hạn chế về cơ sở vật chất, về trình độ, năng lực của đội ngũ cán

bộ, công chức tại Bộ phận “một cửa” và tính độc lập trong giải quyết công việc
khiến hiệu quả vẫn chưa đạt như mong muốn. Và để giải quyết những hạn chế trên
2


Khoá luận tốt nghiệp

thì vào tháng 02 năm 2010 dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo của các cấp lãnh đạo Tỉnh
cũng như Thành phố Thanh Hóa, Bộ phận “một cửa” của UBND Thành phố Thanh
Hóa đã phát triển thành “Trung tâm giao dịch hành chính một cửa, một cửa liên
thông” trực thuộc quản lý của Văn phòng HĐND - UBND Thành phố Thanh Hóa
xong hoạt động độc lập, mang lại hiệu quả rất cao, được đông đảo nhân dân đồng
thuận và là một trong những mô hình mẫu của tỉnh Thanh Hóa.
Và trên đây là những lý do để em chọn đề tài: “Thực trạng cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại Ủy ban Nhân dân
Thành phố Thanh Hóa”.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích
Mục đích của đề tài là làm rõ cơ sở lý luận về thủ tục hành chính và cải cách
thủ tục hành chính trong công cuộc cải cách nền hành chính Quốc gia. Đồng thời
phân tích thực trạng của công cuộc cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một
cửa, một cửa liên thông” tại UBND Thành phố Thanh Hoá.
2.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của đề tài là so sánh lý luận và thực tiễn cải cách thủ tục hành
chính, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế “một cửa, một cửa liên thông” tại UBND Thành phố Thanh
Hoá.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là nghiên cứu về thủ tục hành
chính, đây là các loại thủ tục liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ hợp pháp

của công dân, pháp nhân. Đặc biệt là việc thực hiện mô hình cải cách hành chinh
“một cửa, một cửa liên thông” của UBND Thành phố Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu

3


Khoá luận tốt nghiệp

Đề tài được tiếp cận theo phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, lấy học
thuyết Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành chính làm nền tảng sau
đó soi qua thực tiễn quan sát để rút ra kết luận.
Đồng thời đề tài cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp từ các báo
cáo, các hội thảo, các tài liệu tham khảo và các thông tin mới nhất về cải cách thủ
thục hành chính.
5. Kết cấu của đề tài gồm: Gồm 3 chương
Chương 1: Lý luận chung về cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa,
một cửa liên thông”.
Chương 2: Thực trạng cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, một cửa
liên thông” tại UBND Thành phố Thanh Hoá.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện
cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, một cửa liên thông” tại UBND
Thành phố Thanh Hoá.

4


Khoá luận tốt nghiệp


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO
CƠ CHẾ “MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG”
1. LƯỢC SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1. Nước ngoài
Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, một cửa liên thông” từ lâu
đã được nhiều nước trên thế giới tiến hành thực hiện. Do có sự khác nhau về đặc
điểm phát triển kinh tế - xã hội nên việc thực hiện cơ chế “một cửa” ở mỗi Quốc
gia này luôn có sự khác biệt về phương pháp, cách thức và nội dung thực hiện. Sau
đây, chúng ta cùng tìm hiểu mô hình cơ chế “một cửa” tại Thụy Điển và các Quốc
gia trong khối WCO (Tổ chức Hải quan thế giới):
1.1.1. Kinh nghiệm thực hiện Cơ chế một cửa Quốc gia tại Thụy Điển
Thụy Điển xây dựng và phát triển Cơ chế một cửa quốc gia từ năm 1989 bắt
đầu với việc Ngành Hải quan phát triển Hệ thống thông tin Hải quan dành cho quy
trình xuất khẩu hàng hóa và gửi thông tin thống kê điện tử cho Tổng cục thống kê.
Đến nay, Cơ chế một cửa quốc gia Thụy Điển đã thu được những kết quả rất tốt
đẹp. Hàng năm, 94% tờ khai hải quan được gửi bằng phương pháp điện tử qua
XML hoặc EDIFACT. Hệ thống thông tin của Hải quan Thụy Điển hiện nay quản
lý hơn 100.000 thông điệp điện tử/ngày.
Thông qua Cơ chế một cửa quốc gia, doanh nghiệp có thể tiến hành nộp tờ
khai hải quan điện tử, nộp đơn xin giấy phép xuất nhập khẩu và giấy phép đối với
các mặt hàng chiến lược. Tờ khai xuất nhập khẩu có thể được gửi qua Internet hoặc
qua hệ thống EDIFACT của doanh nghiệp. Hiện nay, Cơ chế một cửa quốc gia
Thụy Điển có sự tham gia của Cơ quan Hải quan, Nông nghiệp, Thương mại, Ủy
ban quốc gia về giám sát hàng hóa chiến lược và Cảnh sát. Trong đó, Hải quan là
cơ quan đầu mối quốc gia về Cơ chế một cửa.

5



Khoá luận tốt nghiệp

Cơ chế một cửa quốc gia Thụy Điển đưa ra các quy định liên quan đến hoạt
động thương mại và cho phép doanh nghiệp tự động cập nhật những thay đổi về
các quy định pháp lý qua mạng Internet.
Việc xây dựng Cơ chế một cửa quốc gia Thụy Điển nhằm giải quyết tình
trạng chồng chéo về thủ tục hành chính giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Thông
qua việc áp dụng giải pháp tích hợp trong Cơ chế một cửa quốc gia, doanh nghiệp
chỉ cần gửi thông tin một lần.
Hải quan Thụy Điển vốn là cơ quan hành chính duy nhất có truyền thống lâu
dài hoạt động tại biên giới và thực hiện một số nhiệm vụ khác của các cơ quan
quản lý biên giới như Bộ Thương mại và Bộ Nông nghiệp. Vì vậy, tất cả các hoạt
động quản lý biên giới trong Cơ chế một cửa quốc gia đều phải phối hợp với Hải
quan. Việc này được thực hiện thông qua chia sẻ thông tin hồ sơ điện tử giữa các
cơ quan liên quan.
• Lợi ích của Cơ chế một cửa quốc gia
Đối với doanh nghiệp Thụy Điển, Cơ chế một cửa quốc gia giúp giảm thời
gian và kinh phí gửi thông tin đến các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó,
thông qua Cơ chế một cửa quốc gia, doanh nghiệp sẽ trở nên dễ dàng tiếp cận
thông tin hơn. Việc cải thiện trong quá trình gửi thông tin đem đến những lợi ích rất
rõ ràng cho doanh nghiệp như giảm ách tắc, tăng độ chắc chắn và giảm rào cản
thương mại.
Đối với cơ quan Chính phủ, Cơ chế một cửa quốc gia giúp giảm thời gian
xử lý công việc hành chính. Bên cạnh đó, nguồn lực sẽ được sử dụng hiệu quả hơn
nhờ tập trung nguồn lực vào những vị trí phức tạp và không thể vi tính hóa được.
Nhờ Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ quan Hải quan và các cơ quan khác của Chính
phủ có thể cải thiện hiệu quả hoạt động quản lý của mình, đồng thời cải thiện dịch
vụ cung cấp cho doanh nghiệp.
• Quá trình xây dựng Cơ chế một cửa quốc gia
6



Khoá luận tốt nghiệp

Quá trình xây dựng và thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia được Thụy Điển
thực hiện một cách tuần tự và có lộ trình, trong đó bắt đầu với việc thực hiện thủ
tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, sau đó đến hàng hóa quá cảnh và cuối
cùng là hàng hóa nhập khẩu. Việc thu thuế và phát triển hệ thống hỗ trợ như biểu
thuế hải quan đã được đưa vào thực hiện phù hợp với yêu cầu triển khai và thực
hiện Cơ chế một cửa quốc gia. Quá trình phát triển cấu phần đầu tiên của hệ thống
Cơ chế một cửa quốc gia đối với hàng hóa xuất khẩu được bắt đầu thực hiện từ
năm 1988 và đi hoạt động từ cuối năm 1989.
Để phục vụ cho việc vận hành hệ thống này, cán bộ Hải quan đã được đào
tạo với thời gian từ 16 đến 32 giờ tùy theo vị trí làm việc của họ. Hải quan Thụy
Điển đã áp dụng phương pháp “đào tạo các nhà đào tạo”. Trước hết, họ tiến hành
đào tạo tập trung các giáo viên và chuyên gia đầu ngành. Sau khi được đào tạo
xong, các giáo viên này sẽ thực hiện đào tạo lại cho cán bộ nghiệp vụ của hải quan
địa phương.
• Những dịch vụ được thực hiện qua Cơ chế một cửa quốc gia.
Bên cạnh những dịch vụ thông thường về thủ tục hải quan, Cơ chế một cửa
quốc gia Thụy Điển còn mang đến những dịch vụ sau:
* Cấp giấy phép nhập khẩu: Dịch vụ này được thực hiện nhờ kết nối giữa hệ
thống của Hải quan với các cơ quan quản lý nhà nước về cấp phép nhập khẩu như:
Nông nghiệp, Thương mại và Cơ quan quốc gia giám sát hàng hóa chiến lược.
* Thống kê ngoại thương: Thông tin thống kê được lấy từ thông tin tờ khai
hải quan. Trên cơ sở đó, Cơ quan Hải quan gửi số liệu thống kê điện tử đến Tổng
cục thống kê.
* Thu thuế VAT nhập khẩu (Thuế giá trị gia tăng): Các khoản thuế này được
Cơ quan Hải quan thu, sau đó chuyển lại cho Tổng cục Thuế.
* Thuế Hải quan: Việc chuyển các khoản thuế hải quan được thực hiện một

cách tự động giữa Cơ quan quản lý nợ quốc gia, Cơ quan Hải quan và Ủy ban Châu
Âu.
7


Khoá luận tốt nghiệp

* Vật nuôi: có thể được khai báo điện tử qua Internet tới Cơ quan Hải quan
và theo yêu cầu của Bộ Nông nghiệp.
* Khai báo súng và vũ khí theo yêu cầu của Cảnh sát đối với những người
săn bắn.
• Cách thức vận hành Cơ chế một cửa quốc gia
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu và đại lý hải quan là những đối tượng chủ yếu
tham gia Cơ chế một cửa quốc gia. Cách thức hoạt động của Cơ chế một cửa quốc
gia được thực hiện như sau:
Tờ khai hải quan điện tử được gửi đến hệ thống một cửa quốc gia. Sau đó
thông tin liên quan đến bộ, ngành nào thì được chiết xuất gửi đến Bộ, ngành đó để
xử lý, ví dụ thông tin có tính chất thống kê thì được gửi cho Tổng cục thống kê
hoặc doanh nghiệp muốn xin giấy phép thì yêu cầu đó sẽ được gửi đến cơ quan
quản lý cấp phép liên quan.
Dữ liệu điện tử được gửi thông qua XML hoặc EDIFACT (tùy theo lựa chọn
của doanh nghiệp). Thông thường những doanh nghiệp có nhiều tờ khai hải quan
thường sử dụng EDIFACT. Tờ khai giấy cũng có thể được gửi và sau đó được cán
bộ hải quan nhập vào hệ thống thông tin hải quan. Tất cả tờ khai (dù điện tử hay
giấy) đều được lưu tại kho dữ liệu và sử dụng cho hoạt động kiểm tra sau thông
quan.
• Việc sử dụng và phát triển các dịch vụ
Trong thời kì đầu, việc phát triển hệ thống thông tin Hải quan và Cơ chế
một cửa được lấy từ nguồn kinh phí của Chính phủ. Hiện nay, kinh phí phục vụ cho
hoạt động Cơ chế một cửa quốc gia được lấy từ nguồn ngân sách và có phân bổ cho

từng cơ quan quản lý tham gia vào Cơ chế một cửa quốc gia.
Các dịch vụ doanh nghiệp được hưởng qua Cơ chế một cửa được cung cấp
miễn phí. Tuy nhiên, để có thể sử dụng các dịch vụ tiên tiến của Cơ chế một cửa
quốc gia như nộp tờ khai hải quan điện tử qua EDIFACT, doanh nghiệp phải thực
hiện đầu tư thêm.
8


Khoá luận tốt nghiệp

• Liên hệ và phối hợp
Tại cấp độ chiến lược và chiến thuật, cơ quan Hải quan sẽ đề xuất các Ban
hoạt động chung gồm có đại diện các nhóm doanh nghiệp và các cơ quan khác
nhau. Tại cấp độ chiến thuật, hiện nay Thụy Điển đã thành lập Nhóm làm việc
chung. Nhóm làm việc thứ nhất giải quyết các vấn đề về thủ tục hải quan. Nhóm
làm việc thứ hai giải quyết các vấn đề về nghiên cứu và phát triển công nghệ thông
tin và viễn thông. Nhờ sự hỗ trợ của hai nhóm làm việc này, doanh nghiệp và người
sử dụng dịch vụ Cơ chế một cửa quốc gia có thể tham gia một cách tích cực vào
Cơ chế một cửa quốc gia.
Để vận hành Cơ chế một cửa quốc gia, doanh nghiệp cũng được tạo cơ hội
tham gia vào khóa đào tạo do Hải quan phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước
khác tổ chức.
• Một số điều chỉnh về mặt pháp lý để thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia
Việc tham gia và thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia là hoàn toàn tự nguyện
đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục khai báo điện
tử đối với hàng hóa, phương tiện vận tải quá cảnh thì bắt buộc phải khai báo qua
Cơ chế một cửa quốc gia.
Để thực hiện được Cơ chế một cửa quốc gia, Thụy Điển đã thực hiện sửa
đổi, bổ sung hệ thống pháp luật hiện hành. Nội dung sửa đổi, bổ sung đó cho phép
sử dụng chứng từ điện tử, chữ ký số, dán tem, v.v... Thẩm quyền chia sẻ thông tin

giữa Cơ quan Hải quan và các cơ quan quản lý khác cũng được quy định trong nội
dung sửa đổi, bổ sung của pháp luật.
Đối tượng tham gia và thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia sẽ được thông
báo về thông tin mà Cơ quan Hải quan gửi cho các cơ quan quản lý khác. Nhờ việc
làm minh bạch này, người gửi thông tin được đảm bảo rằng chỉ những thông tin cần
thiết phục vụ cho những nhiệm vụ quản lý riêng biệt của từng cơ quan quản lý mới
được chia sẻ. Khi thông tin được gửi đi, mỗi cơ quan quản lý sẽ chịu trách nhiệm
bảo mật thông tin đó theo quy định pháp luật bảo mật của Thụy Điển.
9


Khoá luận tốt nghiệp

1.1.2. Quá trình thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”
tại các Quốc gia trong khối WCO (Tổ chức hải quan thế giới)
Một trong những biện pháp tạo thuận lợi thương mại quan trọng đó là xây
dựng môi trường “một cửa”. Mục tiêu chính của cơ chế “một cửa” là đơn giản hóa
các thủ tục tại biên giới cho các doanh nghiệp và các tổ chức hoạt động kinh tế
khác thông qua cơ chế cho phép giao nộp thông tin một lần để hoàn thành tất cả các
yêu cầu pháp lý xuyên biên giới. Do đó, Tổ chức Hải quan thế giới và các tổ chức
khác như Liên Hiệp Quốc đã không ngừng nâng cao vai trò của cơ chế “một cửa”.
Nhiều cơ quan Hải quan đã xây dựng cơ chế một cửa quốc gia.
Vào cuối năm 2010, nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan về thực hiện cơ chế
“một cửa” trên thế giới, WCO đã tiến hành khảo sát các nước thành viên. WCO đã
đề nghị tất cả các nước thành viên trả lời bảng câu hỏi về cơ chế “một cửa”, trong
đó bao gồm các vấn đề như hệ thống giải phóng hàng, kiểm soát an ninh, trao đổi
thông tin giữa các cơ quan chính phủ. Dưới đây là kết quả khảo sát từ 58 nước
thành viên:
Hiện tại, hầu hết các nước thành viên chưa áp dụng hệ thống giải phóng hàng
theo cơ chế “một cửa”. Mô hình Hybrid được áp dụng phổ biến nhất trong cơ chế

“một cửa”,
• Đa số cơ chế “một cửa” bắt đầu được áp dụng sau năm 2000. Ngày càng
nhiều quốc gia áp dụng cơ chế “một cửa” và dự đoán tiếp tục tăng do các nước
thành viên chưa theo cơ chế này được khảo sát đang xây dựng kế hoạch thực hiện.
• Hải quan là cơ quan cung cấp dịch vụ “một cửa” nổi trội hoặc hoạt động một
mình hoặc phối hợp với các cơ quan Chính phủ khác. Tài chính của Chính phủ là
nguồn tài trợ chủ yếu cho duy trì và thực hiện cơ chế “một cửa”. Phí sử dụng và
quan hệ đối tác công tư cũng là một nguồn tài chính.
• Khảo sát khẳng định các cơ quan hải quan nhìn chung thực hiện hệ thống
giải phóng hàng tự động. Hầu hết tờ khai hàng hóa được áp dụng điện tử.
10


Khoá luận tốt nghiệp

• Nhiều nước thành viên hàng hóa dữ liệu “một cửa” theo tiêu chuẩn quốc tế
như: Mô hình dữ liệu WCO, UNTDED và UN/EDIFACT. Tuy nhiên, rất ít thành
viên áp dụng Số Tham chiếu hàng hóa duy nhất của WCO trong cơ chế “một cửa”
quốc gia, do đó cần tập trung nỗ lực để phổ biến mô hình này.
• Các nước thành viên đã phối hợp chặt chẽ hoặc đang xây dựng kế hoạch ứng
dụng XML, Webservice hoặc EDI vào cơ chế “một cửa” quốc gia trở thành chuẩn
mực giao diện. Trong đó, XML là phương pháp phổ biến nhất trong trao đổi thông
tin/dữ liệu thông qua cơ chế “một cửa”. Áp dụng rộng rãi XML góp phần tạo nên
bùng nổ internet.
• Mã số cá nhân (PIN) và Cơ sở hạ tầng khóa công khai (PKI) là các công cụ
được lựa chọn thường xuyên nhất để truy cập cơ chế “một cửa”. Các công cụ xác
nhận khác bao gồm thẻ thông minh, sinh trắc học, thiết bị điện tử xác thực.
Ngoài các Quốc gia nằm trong khối WCO thì Thụy điển là một trong những
nước đi đầu về việc cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”
1.2. Trong nước

Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, một cửa liên thông” từ lâu
đã trở thành nội dung quan trọng trong tổng thể chương trình cải cách hành chính
của Nhà nước ta qua các giai đoạn 2001 – 2010, 2011 – 2020 và trong những giai
đoạn tiếp theo. Việc cải cách theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính gắn với
việc thực hiện cơ chế “một cửa” được triển khai mạnh trong quá trình thực hiện
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010. Quyết
định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 4/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương đã tạo ra một cách thức giải quyết công việc hiệu quả cho công dân, tổ
chức, đã thể chế hóa mối quan hệ giữa chính quyền và công dân thông qua việc
thực hiện cơ chế “một cửa”. Tại cấp tỉnh, 4 sở bắt buộc thực hiện cơ chế này là: Sở
Kế hoạch và Đầu tư, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Tài nguyên và Môi
trường, Sở Xây dựng; Đồng thời ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã cũng phải thực
11


Khoá luận tốt nghiệp

hiện quy chế này. Cơ chế “một cửa” cấp huyện, cấp xã giải quyết những thủ tục
hành chính về cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở và đất đai, giấy phép xây dựng, các quyết định đầu tư, đăng ký hộ khẩu và
các vấn đề liên quan đến chính sách xã hội.
Có thể nhận thấy cơ chế “một cửa” là giải pháp đổi mới hữu hiệu về phương
thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương các cấp, nhằm tạo
chuyển biến cơ bản trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ
chức và công dân, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm phiền hà, chi phí, thời
gian, công sức; Đồng thời, điều chỉnh một bước về tổ chức bộ máy và đổi mới, cải
tiến chế độ làm việc và quan hệ công tác trong cơ quan Hành chính Nhà nước.
Nếu việc thực hiện cơ chế “một cửa” tạo nên đột phá đầu tiên trong cải cách
thủ tục hành chính trong những năm qua thì bước đột phá tiếp theo là thực hiện cơ

chế “một cửa liên thông” theo Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên
thông” tại cơ quan Hành chính Nhà nước ở địa phương. Quyết định số
93/2007/QĐ-TTg được ban hành trên cơ sở tổng kết 4 năm thực hiện Quyết định số
181/2003/QĐ-TTg. Ngoài việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết định số
181/2003/QĐ-TTg, Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg đã quy định nhiều nội dung
mới có tính hoàn thiện hơn nhằm thay đổi phương thức làm việc của cơ quan hành
chính nhà nước các cấp ở địa phương, giảm phiền hà, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước, đem lại lợi ích cho người dân và doanh nghiệp. Thực chất, cơ
chế “một cửa liên thông” là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân thuộc
trách nhiệm, thẩm quyền của nhiều cơ quan Hành chính Nhà nước cùng cấp hoặc
giữa các cấp hành chính từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ, giải quyết đến trả
kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của một
cơ quan hành chính nhà nước. Trên thực tế có nhiều loại hồ sơ hành chính có liên
quan đến thẩm quyền giải quyết của nhiều cấp, nhiều cơ quan, phải qua nhiều đầu
mối mới có kết quả cuối cùng. Cơ chế “một cửa liên thông” đặt ra yêu cầu các cơ
12


Khoá luận tốt nghiệp

quan nhà nước có trách nhiệm phối hợp trong quy trình xử lý hồ sơ, không để tổ
chức, công dân cầm hồ sơ đi từ cơ quan này tới cơ quan khác. Người dân có nhu
cầu chỉ phải nộp hồ sơ và nhận lại kết quả tại một đầu mối. Những cải cách này đã
giúp cho cơ quan hành chính nhà nước phục vụ ngày càng tốt hơn những nhu cầu
của người dân.
Triển khai thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ, các địa phương đã tích cực, khẩn trương ban hành văn bản chỉ đạo, quán triệt
triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, bố trí, thành lập các cơ quan, đơn
vị chủ trì, chỉ đạo cơ quan Hành chính các cấp tại địa phương nghiêm túc triển khai

thực hiện. Theo báo cáo của các địa phương, cho tới nay đã có trên 85% cơ quan
Hành chính cấp tỉnh, 98% cơ quan hành chính cấp huyện và 95% cơ quan Hành
chính cấp xã đã triển khai thực hiện cơ chế “một cửa”. Về thực hiện cơ chế “một
cửa liên thông”, đã có hơn 40 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành triển
khai liên thông trên các lĩnh vực đất đai, đăng ký kinh doanh, xây dựng, lao động thương binh và xã hội, cấp phép quảng cáo, cấp phép khai thác khoáng sản, hộ tịch,
hộ khẩu, lý lịch tư pháp... giữa cơ quan Hành chính cấp xã với cơ quan Hành chính
cấp huyện và giữa các cơ quan Hành chính cùng cấp với nhau.
Có thể nhận thấy kết quả bước đầu của cải cách thủ tục hành chính thông qua
thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” là đã giảm việc đi lại của người
dân, doanh nghiệp, giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính, số hồ sơ hành
chính giải quyết đúng hẹn đạt tỷ lệ cao, công khai, minh bạch, bình đẳng, tạo thuận
lợi hơn cho các nhà đầu tư, tổ chức và doanh nghiệp trên các lĩnh vực cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, dự án đầu tư xây dựng cơ bản, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất...
Triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, các
ngành, các cấp chính quyền đã thực sự vào cuộc, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tổ
chức, doanh nghiệp và công dân. Ngành thuế và hải quan cũng đã có nhiều nỗ lực,
cải thiện nhằm phục vụ tốt hơn cho tổ chức và doanh nghiệp. Cải cách thủ tục hành
13


Khoá luận tốt nghiệp

chính trong lĩnh vực thuế, chúng ta đã triển khai thí điểm thực hiện cơ chế mới có
tính cải cách, đột phá là doanh nghiệp tự tính, tự khai, tự nộp thuế, cải tiến thủ tục
trong cấp mã số thuế, nhờ đó rút ngắn thời gian doanh nghiệp phải chờ đợi. Đồng
thời ngành thuế cũng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực và thu được nhiều kết quả khả
quan qua việc thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan thuế các cấp. Trong lĩnh vực
hiện đại hóa hải quan, quy trình thủ tục hành chính được cải tiến, bỏ nhiều khâu
trung gian theo hướng tổ chức dây chuyền thủ tục hải quan hoàn chỉnh, một cửa, do

đó đã giảm đáng kể thời gian thông quan. Công tác kiểm tra thực tế hàng hóa xuất,
nhập khẩu được chuyển sang áp dụng phương pháp quản lý rủi ro, kiểm tra có
trọng điểm, kiểm tra sau thông quan và đang thí điểm thông quan điện tử tại một số
địa phương.
Thực hiện cơ chế “một cửa” đã cơ bản thay đổi bộ mặt của cơ quan Hành
chính các cấp, nâng cao chất lượng hiện đại hóa công sở Hành chính theo chủ
trương của Chính phủ. Ở nhiều tỉnh, thành phố, bộ phận “một cửa” đã được hiện
đại hóa với việc ứng dụng công nghệ thông tin, người dân, cán bộ có thể kiểm tra
được quá trình giải quyết thủ tục tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả một cách
thuận tiện, đơn giản qua hệ thống máy vi tính, phần mềm tra cứu thủ tục và thời
gian giải quyết hồ sơ.
Trong công tác quản lý tài chính, thực hiện cơ chế “một cửa”, chúng ta đã
xác lập trật tự, kỷ cương mới trong quản lý thu phí và lệ phí. Quy định công khai và
minh bạch nguyên tắc thu, mức thu, chế độ thu nộp, quản lý và sử dụng đối với các
loại phí, lệ phí tại bộ phận “một cửa” của cơ quan hành chính các cấp. Trong giai
đoạn I (2001 - 2005) thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước, chúng ta đã rà soát, bãi bỏ 140 loại phí do Trung ương và 203 loại phí, lệ phí
do các địa phương ban hành, tạo thuận lợi hơn cho người dân khi đến làm thủ tục
hành chính tại bộ phận “một cửa”.
Kỷ cương hành chính cũng có những tiến bộ quan trọng. Thông qua sự chỉ
đạo sâu sát, kiên quyết của Thủ tướng Chính phủ thời gian vừa qua về chấn chỉnh
14


Khoá luận tốt nghiệp

kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của cơ quan Hành chính, về rà soát, đơn giản hóa
và công khai các thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa” với chất lượng tốt
hơn đã nâng cao trách nhiệm người đứng đầu cơ quan Hành chính, bằng các việc
làm cụ thể ở các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp đã khẳng định sự

chuyển biến bước đầu trong mối quan hệ giữa cơ quan Hành chính Nhà nước với
người dân và doanh nghiệp.
Thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” cũng đã góp phần tăng
cường năng lực, trách nhiệm của cán bộ, công chức và cơ quan Nhà nước, kỹ năng,
nghiệp vụ hành chính, cũng như tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ
cán bộ, công chức hành chính nhằm xây dựng nền Hành chính Nhà nước dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả. Mặt khác, cơ chế “một cửa liên thông” đã điều chỉnh mối quan hệ giữa nhân
dân và công chức, tạo cơ chế giám sát, quản lý của nhân dân đối với cơ quan nhà
nước, giữa lãnh đạo với cán bộ, công chức thuộc quyền, thể hiện rõ bản chất của
công tác cải cách thủ tục hành chính.
Bên cạnh những kết quả, thành tựu đã đạt được, việc thực hiện cơ chế “một
cửa”, “một cửa liên thông” còn những hạn chế chủ yếu như sau:
Nhiều nơi, nhiều chỗ kết quả giải quyết hồ sơ hành chính trên một số lĩnh
vực cho tổ chức, công dân vẫn còn thấp so với yêu cầu đề ra. Nhiều hồ sơ giải
quyết chưa đúng hẹn, nhất là trên lĩnh vực đất đai, xây dựng, nhà ở.
Ý thức trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, công vụ, thái độ phục vụ nhân dân của đa
số cán bộ, công chức tuy đã có chuyển biến nhưng vẫn còn chậm. Một bộ phận cán
bộ, công chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả còn thiếu trách nhiệm,
chưa quan tâm đầy đủ đến thời hạn đã hẹn trả hồ sơ cho tổ chức, công dân nên để
hồ sơ tồn đọng, kéo dài, có trường hợp sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức tại bộ phận “một cửa” chưa thạo việc, hạn
chế về năng lực, giải thích, tiếp nhận hồ sơ của người dân không được thỏa đáng,
đầy đủ dẫn đến việc người dân phải đi lại nhiều lần. Có những công chức phòng
15


Khoá luận tốt nghiệp

chuyên môn khi thẩm định giải quyết hồ sơ còn thiếu linh hoạt, máy móc, có biểu

hiện quan liêu trong xử lý công việc.
Việc triển khai thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” còn thiếu
đồng bộ, thủ tục giải quyết một số loại hồ sơ hành chính còn bị cắt khúc theo cấp
hành chính, chưa tạo thành quy trình giải quyết thống nhất từ Trung ương đến địa
phương nên còn gây phiền hà cho tổ chức, công dân khi thực hiện các giao dịch
hành chính. Quan hệ phối hợp trong giải quyết hồ sơ giữa các cấp, các ngành tuy có
tiến bộ, nhưng còn tồn tại nhiều thiếu sót, ý thức cộng đồng trách nhiệm giữa các
bên chưa cao, còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm. Công tác tuyên truyền về cải
cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tiến hành
chưa mạnh và thiếu chiều sâu, chưa tạo ra những chuyển biến căn bản trong nhận
thức về trách nhiệm thực hiện công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức và hiểu biết
của nhân dân về cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của bộ phận “một cửa”
của cơ quan hành chính các cấp tại một số địa phương chưa được quan tâm hỗ trợ
đầy đủ. Công khai thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” ở một số địa phương
chưa được tốt theo yêu cầu, như không đầy đủ, thiếu thông tin, không cập nhật kịp
thời các quy định mới, nhiều nơi công khai thủ tục nhưng lại thiếu mẫu đơn, mẫu tờ
khai.
Nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ chế “một
cửa”, “một cửa liên thông”, cơ quan hành chính các cấp cần quan tâm thực hiện
những giải pháp sau:
Thực hiện đồng bộ cải cách thủ tục hành chính với triển khai cơ chế “một
cửa”, “một cửa liên thông”. Rà soát lại hệ thống thủ tục, đánh giá mức độ phù hợp
của các thủ tục và kiểm soát việc định ra các thủ tục mới của các bộ, ngành và địa
phương. Nhanh chóng đưa vào thực hiện tại bộ phận “một cửa” của cơ quan hành
chính các cấp những thủ tục hành chính đã được rà soát, công khai tại giai đoạn I
của Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà
16



Khoá luận tốt nghiệp

nước. Kiên quyết giảm tối thiểu 30% các quy định về thủ tục hành chính trong năm
2010 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Tiếp tục quán triệt chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, nâng
cao chất lượng thực hiện cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông" một cách sâu
rộng, toàn diện, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, cơ sở theo các nghị quyết
của Đảng, Quốc hội và chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2011 – 2020.
Các cấp ủy Đảng thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai
thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, tăng cường trách nhiệm, vai trò
của người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp trong việc chỉ đạo triển khai thực
hiện, lựa chọn, bố trí cán bộ công chức, kiểm tra chất lượng, hiệu quả cung cấp
dịch vụ cho công dân và tổ chức thông qua bộ phận “một cửa”.
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao hiểu biết của cán bộ,
công chức và người dân về cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”. Khen thưởng
và khuyến khích những sáng kiến, cách làm hay trong thực hiện cơ chế “một cửa”,
“một cửa liên thông”, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
2. CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
2.1. Khái quát chung về thủ tục hành chính
2.1.1. Khái niệm
Cải cách thủ tục hành chính đang là vấn đề được đặt ra đòi hỏi sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân. Điều này xuất phát từ vị trí và vai trò
đặc biệt quan trọng của thủ tục hành chính đối với đời sống và sự phát triển xã hội
nói chung. Để hiểu rõ hơn về cải cách thủ tục hành chính, trước hết chúng ta cần
làm rõ khái niệm thủ tục hành chính là gi? Vai trò, ý nghĩa của thủ tục hành chính
là như thế nào?
Theo cách hiểu chung nhất, thủ tục hành chính là:
“ Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức giải quyết công việc của cơ quan
hành chính Nhà nước có thẩm quyền trong mối quan hệ nội bộ của hành chính và

17


Khoá luận tốt nghiệp

giữa các cơ quan hành chính Nhà nước với tổ chức và các nhân công dân. Nó giữ
vai trò đảm bảo cho công việc đạt được mục đích đã định, phù hợp với thẩm quyền
của cơ qaun Nhà nước hoặc của các cá nhân, tổ chức được uỷ quyền trong việc
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước”.1
2.1.2. Đặc điểm của thủ tục hành chính
So với hệ thống các loại thủ tục trong ngành lập pháp và tư pháp, thủ tục
hành chính có những điểm khác biệt sau:
1) Thủ tục hành chính là thủ tục thực hiện hoạt động quản lí Hành chính
Nhà nước
Thủ tục hành chính được thực hiện bởi các chủ thể quản lí Hành chính Nhà
nước. Các chủ thể quản lí Hành chính Nhà nước bao gồm các cơ quan Nhà nước,
các tổ chức xã hội, cá nhân được nhà nước trao quyền; Trong đó quan trọng nhất
phải kể đến các cơ quan hành chính, các cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan
này. Ngoài cơ quan Hành chính, các cơ quan Nhà nước khác cũng tiến hành thủ tục
hành chính khi thực hiện hoạt động quản lí Hành chính Nhà nước như khi các cơ
quan đó xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ; Các cơ quan tổ chức, các
nhân khi tiến hành các hoạt động quản lí Hành chính được Nhà nước trao quyền
trong các trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
2) Thủ tục hành chính do quy phạm pháp Luật hành chính quy định
Căn cứ vào mối quan hệ được điều chỉnh, quy phạm pháp luật hành chính
được chia thành quy phạm nội dung và quy phạm thủ tục. Quy phạm thủ tục quy
định cách thức thực hiện quy phạm nội dung, là yếu tố cần thiết và chiếm phần lớn
trong các quy phạm pháp luật hành chính bởi vì:
Thứ nhất, các quan hệ thủ tục hành chính là đối tượng điều chỉnh của Luật
hành chính.


1

Giáo trình thủ tục hành chính – Học viện Hành chính Quốc gia.

18


Khoá luận tốt nghiệp

Thứ hai, thủ tục hành chính do nhiều chủ thể tiến hành. Muốn tạo sự thống
nhất trong hoạt động quản lí tất yếu phải được thể hiện dưới dạng các quy phạm
pháp luật có giá trị bắt buộc thi hành.
Bên cạnh đó, thủ tục hành chính cần được quy định cụ thể, rõ ràng để tránh
sự lạm quyền, lộng hành hay không thực hiện hết thẩm quyền của chủ thể quản lí,
tạo nên sự tin tưởng của người dân đối với việc tham gia thủ tục hành chính, ngăn
ngừa khả năng xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân.
3) Thủ tục hành chính có tính mềm dẻo, linh hoạt
Tính mềm dẻo và linh hoạt của thủ tục hành chính được thể hiện qua các
biểu hiện sau:
Biểu hiện đầu tiên đó chính là việc có rất nhiều thủ tục hành chính khác
nhau. Mỗi thủ tục hành chính tương ứng với một hoạt động quản lí Hành chính Nhà
nước cụ thể. Có thê lấy một ví dụ trong thủ tục tiến hành xử phạt vi phạm hành
chính gồm hai thủ tục: Thủ tục đơn giản và thủ tục có lập biên bản. Việc áp dụng
thủ tục nào thì cần dựa trên việc xác định việc vi phạm hành chính đó là gì? Do vậy
không thể có thủ tục hành chính duy nhất cho toàn bộ hoạt động quản lí hành chính
nhà nước mà phải có rất nhiều thủ tục hành chính. Thậm chí để giải quyết một loại
công việc nhất định cũng có thể cần các thủ tục hành chính khác nhau.
Không những thế, thủ tục hành chính còn có sự thay đổi tương đối nhanh. Sự
thay đổi này cần được hiểu theo mặt tích cực mang tính khách quan: Thay đổi để

phù hợp và hiệu quả với tình hình xã hội đương thời. Khả năng thay đổi theo nhu
cầu của thủ tục hành chính nhanh hơn các thủ tục khác.
2.1.3. Ý nghĩa của thủ tục hành chính
 Thủ tục hành chính bảo đảm cho các quy định nội dung của Luật hành chính
được thực hiện;
 Thủ tục hành chính còn đảm bảo cho các quy phạm nội dung của các ngành
luật khác đi vào cuộc sống;
19


Khoá luận tốt nghiệp

 Thủ tục hành chính bảo đảm cho việc thi hành các quyết định hành chính
được thống nhất;
 Làm giảm sự phiền hà, củng cố được quan hệ giữa Nhà nước và công dân;
 Công việc sẽ có thể được giải quyết nhanh chóng, chính xác theo đúng yêu
cầu cơ quan Nhà nước, góp phần chống được tệ nạn tham nhũng, sách nhiễu;
 Thủ tục hành chính khi được tạo lập một cách hợp lý, sẽ tạo khả năng mang
lại kết quả thiết thực trong việc thực hiện các quyết định quản lý, góp phần nâng
cao hiệu lực và hiệu quả cho hoạt động quản lý nhà nước, thúc đẩy sự tăng trưởng
và phát triển nền kinh tế xã hội.
2.2. Cải cách thủ tục hành chính
2.2.1. Nội dung chính của cải cách thủ tục hành chính giai đoạn 2011 – 2020
Theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 18/11/2011 của Chính phủ về Phê
duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.
Thì nội dung chính về cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn này bao gồm
những vấn đề sau:
1. Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh
vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh
nghiệp;

2. Trong giai đoạn 2011 – 2015, thực hiện cải cách thủ tục hành chính để tiếp
tục cải thiện môi trường kinh doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước
phát triển nhanh, bền vững. Một số lĩnh vực trọng tâm cần tập trung là: Đất đai;
Đầu tư; Xây dựng; Sở hữu nhà ở; Thuế; Hải quan; Xuất khẩu; Nhập khẩu; Y tế;
Giáo dục; Lao động; Bảo hiểm; Khoa học công nghệ và một số lĩnh vực khác do
Thủ tướng Chính phủ quyết định theo yêu cầu cải cách trong từng giai đoạn;
3. Cải cách thủ tục hành chính giữa cơ quan hành chính Nhà nước, các
ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính Nhà nước;
20


Khoá luận tốt nghiệp

4. Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy
định của pháp luật;
5. Công khai minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình thức
thiết thực và thích hợp; Thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức
phải bỏ ra giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính Nhà nước; Duy trì
và cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính;
6. Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể
chế, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với
doanh nghiệp và nhân dân; Mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức và
chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ
tục hành chính; Giảm mạnh các thủ tục hành chính hiện hành; Công khai các chuẩn
mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực hiện;
7. Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định
hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và giám sát
việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp.
2.2.2. Mục tiêu và phương thức cải cách thủ tục hành chính

2.2.2.1. Mục tiêu cải cách thủ tục hành chính
- Phát hiện và xóa bỏ những thủ tục hành chính thiếu đồng bộ, chồng chéo,
rườm rà, phức tạp. Đặc biệt là loại bỏ những thủ tục đã lỗi thời, không phù hợp với
tình hình mới.
- Xây dựng và ban hành các thủ tục hành chính giải quyết công việc đơn
giản, rõ ràng thống nhất, đúng pháp luật và công khai.
Từ đó hướng tới sự đồng bộ thống nhất của thủ tục hành chính trên cả nước.
2.2.2.2. Phương thức cải cách thủ tục hành chính
Cải cách thủ tục hành chính đặt ra những yêu cầu sau:
• Đơn giản hóa thủ tục hành chính
• Mẫu hóa các văn bản
21


Khoá luận tốt nghiệp

• Giải quyết các thủ tục hành chính theo hướng nhanh gọn, linh hoạt, công
khai và có hiệu quả.
Theo đó cải cách thủ tục hành chính tức cần phải tiến hành các công việc
sau:
1. Rà soát lại toàn bộ các quyết định hiện hành về thủ tục hành chính, phí và
lệ phí thuộc lĩnh vực của mình phụ trách. (Theo báo cáo số 01 của Ban chỉ đạo cải
cách hành chính của Chính phủ ngày 27/04/2006, sau 5 năm triển khai tổng thể cải
cách hành chính 2001- 2010, tất cả các thủ tục hành chính đều đã được rà soát lại).
2. Loại bỏ những thủ tục không cần thiết, bổ sung thêm những thủ tục mới có
tính linh hoạt và phù hợp hơn với tình hình mới. Đồng thời, tiến hành hệ thống hóa
lại các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng vào trong thực
tế và cho công tác nghiên cứu khoa học.
3. Công bố, công khai hóa hệ thống các thủ tục hành chính cho mọi người
dân, tổ chức cùng biết, giải thích thống nhất những từ ngữ, thuật ngữ chuyên ngành

cần thiết, giúp người dân dễ hiểu, dễ tiếp cận và dễ dàng chấp nhận, thực hiện theo.
Thủ tục hành chính cần được mẫu hóa văn bản, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân, tổ chức trong quá trình giao tiếp, làm việc với cơ quan Nhà nước.
3. CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ “MỘT CỬA, MỘT
CỬA LIÊN THÔNG”
3.1. Khái quát về cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, một cửa
liên thông”
Theo Điều 1, Quyết định số 93/2007/NĐ-TTg, ngày 22/6/2007 của Thủ
tướng Chính phủ về “ Thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan
hành chính nhà nước tại địa phương”:
1. Cơ chế “một cửa” là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân, bao
gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài (sau đây gọi là tổ chức, cá nhân) thuộc trách
nhiệm, thẩm quyền của một cơ quan hành chính nhà nước, từ hướng dẫn, tiếp nhận
22


Khoá luận tốt nghiệp

giấy tờ, hồ sơ, giải quyết đến trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan hành chính nhà nước.
2. Cơ chế “một cửa liên thông” là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, cá
nhân thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của nhiều cơ quan hành chính nhà nước cùng
cấp hoặc giữa các cấp hành chính từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ, giải quyết
đến trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả
của một cơ quan hành chính nhà nước.
Theo đó , việc xây dựng và thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa, một cửa liên thông” chính là việc xây dựng một trung tâm chuyên trách
có chức năng tiếp nhận và giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính cho nhân dân. Đồng
thời, đây cũng là nơi trao trả hồ sơ cho nhân dân theo đúng thời gian quy định về
trình tự, thủ tục giải quyết.

3.1.1. Quy trình giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, một cửa
liên thông”
Quy trình giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, một cửa liên
thông” được mô tả theo trình tự 5 bước:
• Bước 1: Hướng dẫn, tiếp nhận ( trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức
thuộc Bộ phận tiệp nhận và trả kết quả hồ sơ).
• Bước 2: Chuyển giao hồ sơ giữa Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả với cán bộ,
công chức và phòng ban chuyên môn: Mô tả đầy đủ các công việc, trách nhiệm liên
quan, thời gian hoàn thành, thời gian phản ánh. Xử lý lỗi thiếu sót trong quá trình
thụ lý hồ sơ, trách nhiệm trả lời với tổ chức, công dân khi sai hẹn.
• Bước 3 : Nhận kết quả từ cơ quan chuyên môn ( công chức Bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả).
• Bước 4 : Thu phí, lệ phí ( nếu có).
• Bước 5 : Trả kết quả cho các tổ chức, công dân (công chức Bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả).
23


Khoá luận tốt nghiệp

Sơ đồ 1
Quy trình giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa, một cửa liên thông”
Nộp hồ sơ
Phòng
tiếp dân
Phòng
tiếp dân
Trả hồ sơ
Nhận kết quả


Phường (xã)
P. Kinh tế

P. Tư pháp

P. Quản lý đô
thị

24

Phường (xã)

Phường (xã)


Khoá luận tốt nghiệp

P. Văn hoá

P. LĐ-TBXH

P. Tổ chức
chính quyền
Phường (xã)

Ký – Đóng dấu

Lãnh đạo ký


Văn phòng ký

Trưởng phòng


3.1.2. Yêu cầu trong giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, một
cửa liên thông”
• Thống nhất sắp xếp quy định quy trình giải quyết từng thủ tục hành chính lần
lượt ghi theo thứ tự ghi trong danh mục thủ tục hành chính công bố công khai và
phần mềm quản lý thủ tục hành chính.
• Xác định rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức Bộ phận tiếp nhận và trả kết
quả của cán bộ, công chức phòng chuyên môn, quy trình, thời gian khắc phục lỗi
trong quá trình nhận hồ sơ.
3.2. Mục đích và nguyên tắc trong thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo
cơ chế “một cửa, một cửa liên thông”
3.2.1. Mục đích
• Giảm phiền hà cho tổ chức, công dân khi có yêu cầu giải quyết công việc tai
cơ quan hành chính nhà nước.
• Góp phần chống tệ qan liêu, cửa quyền, tham nhũng của một bộ phận cán bộ,
công chức.

25


×