Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh nhập khẩu thiết bị viễn thông tin học tại Công ty cổ phần tư vấn chuyển giao công nghệ ITC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 119 trang )

Lời Nói Đầu

Khi nền kinh tế thị trường phát triển, khi nhịp đập của thương
trường ngày càng trở nên hối hả thì cũng là lúc sản phẩm “thông tin”
lên ngôi. Nhu cầu về thông tin ngày càng trở nên đa dạng và phong
phú. Thông tin cần thiết cho mọi người, từ những người dân bình
thường cho đến các nhà kinh doanh trong nước và quốc tế, hay thậm
chí là các chính trị gia. Để tương thích với làn sóng đó, ngành Bưu
chính viễn thông - Tin học trong hơn một thập kỷ qua đã có những
bước phát triển mạnh và đột phá được đánh giá ngang tầm với nhiều
nước phát triển. Mạng lưới và các dịch vụ bưu chính viễn thông - tin
học phát triển nhanh, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội của đất nước đảm bảo an ninh quốc gia, phòng chống bão lụt
và giảm nhẹ thiên tai và đáp ứng các nhu cầu thông tin của xã hội.
Hợp tác quốc tế được mở rộng và tăng cường, góp phần phát triển
hiện đại hóa nâng cao vị thế của ngành Viễn thông - Tin học Việt
Nam trên trường quốc tế. Sự thành công của ngành phần lớn do hiệu
quả hoạt động nhập khẩu các thiết bị chuyên ngành tạo dựng một cơ
sở hạ tầng tiên tiến.
Là một công ty được thành lập để kinh doanh các vật tư thiết bị
viễn thông - tin học, mục đích của Công ty cổ phần tư vấn chuyển
giao công nghệ ITC cũng không nằm ngoài việc thực hiện chiến lược
hiện đại hóa ngành Viễn thông - Tin học, tạo công ăn việc làm cho
người lao động.
1


Chính vì vậy, sau một thời gian ngắn thực tập ở công ty, với sự
hướng dẫn của thầy giáo Trần Chí Thành cùng các anh chị phòng
Kinh doanh, em đã chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm thúc đẩy
hoạt động kinh doanh nhập khẩu thiết bị viễn thông - tin học tại


Công ty cổ phần tư vấn chuyển giao công nghệ ITC".

Nội dung chính của đề tài gồm:
Chương I -

Lý luận chung về hoạt động kinh doanh

nhập khẩu
Chương II - Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ
phần tư vấn chuyển giao công nghệ ITC
Chương III - Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động
nhập khẩu tại Công ty cổ phần tư vấn chuyển giao công nghệ ITC
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và ý kiến đóng
góp của các thầy cô trong Khoa, đặc biệt là Thầy giáo PGS.TS Trần
Chí Thành, ban lãnh đạo và anh chị ở Công ty cổ phần tư vấn chuyển
giao công nghệ ITC đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Do hạn chế về thời gian cũng như về phạm vi nghiên cứu, đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy em rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của thầy cô và cán bộ hướng dẫn để đề
tài của em sẽ được hoàn thiện hơn.
2


3


Chương 1
lý luận chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu
I.


Khái niệm và vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
1. Khái niệm kinh doanh nhập khẩu
Kinh doanh nhập khẩu là một mặt của hoạt động kinh tế đối

ngoại dễ đem lại những hiệu quả đột biến cao, nhất là trong việc tạo ra
sự phát triển nhanh, phát triển một cách đột biến của lực lượng sản
xuất, tạo ra những khả năng đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Nhập khẩu hàng hoá là việc chuyển dịch hàng
hoá tư nước ngoài vào trong nước, việc kinh doanh nhập khẩu này cho
phép chúng rút ngắn thời gian hiện đại hoá nền kinh tế đồng thời góp
phần thúc đẩy sự phát triển sản xuất trong nước trên tất cả các lĩnh
vực: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Kinh doanh xuất nhập
khẩu nói chung, kinh doanh nhập khẩu nói riêng còn tạo ra khả năng
dẫn tới việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể kinh
tế trong và ngoài nước một cách tự giác nhằm tạo ra sức mạnh phát
triển cho các chủ thể kinh tế trong nước.
Kinh doanh nhập khẩu không chỉ tạo ra khả năng hợp tác giữa
các chủ thể kinh tế trong nước với các chủ thể kinh tế ngoài nước mà
còn thúc đẩy quá trình hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới
trên tất cả các lĩnh vực, nó có tác động khơi thông nhiều nguồn chất
xám ở cả troang và ngoài nước góp phần thiết thực vào quá trình xây
dựng đất nước.

4


Mặt khác kinh doanh nhập khẩu còn tạo điều kiện năng cao khả
năng kinh doanh thương mại quốc tế cho các tổ chức, cá nhân trong
nước. Đồng thời góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nói
chung, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu nói riêng của nhà nước ta.

Đối với các doanh nghiệp trong nước, hoạt động kinh doanh
nhập khẩu giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong nền kinh
tế thị trường, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài, góp phần phát triển nền kinh tế đất nước.
2. Vai trò của kinh doanh nhập khẩu
- Vai trò của kinh doanh nhập khẩu đối với doanh nghiệp :
Kinh doanh nhập khẩu trước hết là một hình thức kinh doanh
giúp cho doanh nghiệp đảm bảo được mục tiêu lợi nhuận của mình,
mặt khác lại có thể tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh
nghiệp. Sở dĩ như vậy vì doanh nghiệp có thể phát huy được tối đa các
lợi thế so sánh cua mình, chẳng hạn so sánh lợi thế về vị trí, lợi thế về
nguồn lực (nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực, nguồn vốn, nguồn công
nghệ, nguồn thông tin...) lợi thế về kinh nghiệm, uy tín hay lợi thế về
các mối quan hệ rộng rãi trên thị trường...
Kinh doanh xuất nhập khẩu giúp cho quá trình sản xuất, kinh
doanh ở doanh nghiệp diễn ra bình thường. Quá trình sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp sẽ chỉ được diễn ra một cách thường
xuyên, liên tục và ổn định khi nó được cung cấp đầy đủ, kịp thời
những yếu tố đầu vào của sản xuất, đồng thời có thị trường để tiêu thụ
các sản phẩm và dịch vụ và đầu ra. Kinh doanh xuất nhập khẩu tạo
điều kiện để gắn liền sản xuất với lưu thông và phân phối hàng hoá.
5


Kinh doanh xuất nhập khẩu nâng cao vị thế của doanh nghiệp,
tạo thế lực cho doanh nghiệp không những ở thị trường trong nước mà
cả trên thị trường quốc tế thông qua việc mua, bán hàng hoá ở thị
trường trong và ngoài nước, cũng như việc mở rộng quan hệ bạn hàng.
Kinh doanh nhập khẩu còn có vai trò điều tiết, hướng dẫn sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

- Vai trò của kinh doanh nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc
dân:
Kinh doanh xuất nhập khẩu phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi
mới kinh tế thông qua việc sử dụng tốt hơn nguồn vốn, nguồn lao
động, và nguồn tài nguyên của đất nước, tăng giá trị ngày công lao
động, tăng thu nhập quốc dân, tăng hiệu quả sản xuất, tạo vốn và kỹ
thuật bên ngoài cho nền sản xuất trong nước, kích thích sự phát triển
của lực lượng sản xuất và làm thức tỉnh các nhu cầu tiềm tàng của
người tiêu dùng...
Sự tăng trưởng nền kinh tế của một quốc gia đòi hỏi phải có bốn
điều kiện là: vốn, nhân lực thị trường và kỹ thuật công nghệ. Đối với
quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay còn đang thiếu vốn,
kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, đồng thời đang dư thừa lao động.
Như vậy khi thực hiện kinh doanh nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt
Nam có thể chuyên môn hoá vào sản xuất, kinh doanh trong các ngành
nghề sử dụng các yếu tố dệt may, chế biến thuỷ hải sản, da giày.... để
xuất khẩu hay thực hiện kinh doanh các dịch vụ gia công quốc tế, xuất
khẩu lao động ...bên cạnh đó, chúng ta sẽ tiến hành nhập khẩu những
mặt hàng chứa đựng nhiều yếu tố kỹ thuật công nghệ mà điều kiện sản
xuất trong nước chưa đáp ứng được, bổ sung cho yếu tố công nghệ
6


đang khan hiếm trong nước. Nói một cách khác thì nhập khẩu cũng là
một hình thức để tiến hành chuyển giao công nghệ tiên tiến, dần dần
thu hẹp khoảng cách về công nghệ giữa Việt Nam và các nước khác
trên thế giới.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng là một yếu tố góp phần mở
rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo ra sự hiểu biết quan hệ lẫn
nhau giữa các quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên

trường quốc tế.
- Vai trò của nhập khẩu đối với ngành Bưu điện:
Trong nền kinh tế quốc dân, ngành Bưu điện được coi là một
ngành sản xuất vật chất đặc biệt, có đặc thù khác so với ngành sản
xuất khác. Đó là tính thống nhất cao trong toàn ngành trong quá trình
tạo ra sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp không phải là vật chất
cụ thể mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức được trải
dài trên một vùng không gian rộng lớn. Để hình thành một sản phẩm
phải có sự tham gia cùng một lúc hay của nhiều nhà máy, xí nghiệp
trên cùng một địa phương cách nhau rất xa.
Giá trị sản phẩm của ngành là những hao phí về lao động và lao
động vật hóa kết tinh trong quá trình làm thay đổi lượng lao động từ
không gian này đến không gian kia trong một khoảng thời gian cho
phép nào đó. Quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ sản phẩm của
ngành không tách rời nhau và có ít nhất từ 2 đơn vị tham gia trở lên.
Điều đó có nghĩa là sản phẩm của ngành được tiêu thụ ngay trong quá
trình tạo ra nó.
Trong sản xuất doanh nghiệp không có sản phẩm tồn kho chờ
tiêu thụ, không có sản phẩm ế thừa, không có phế phẩm.
7


Xuất phát từ đặc điểm này mà con đường duy nhất của các
doanh nghiệp để tăng khối lượng tổng sản phẩm là hiện đại hóa mạng
lưới, áp dụng công nghệ hiện đại để hoà nhập với thế giới, mở rộng thị
trường, mở rộng mạng lưới, mở rộng các chùm kênh liên tỉnh, quốc tế
và đa dạng hóa các chủng loại dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của khách
hàng một cách nhanh nhất với chất lượng tốt nhất. Do đó, việc nhập
khẩu được các thiết bị chuyên ngành có chất lượng phù hợp, đồng bộ
mạng lưới là công việc quan trọng đóng vai trò quyết định trong việc

thực hiện tốt các chức năng của ngành.
3. Yêu cầu của nhập khẩu
Yêu cầu nhập khẩu phải vừa đảm bảo phù hợp với lợi ích của xã
hội, vừa phải tạo ra lợi nhuận cho các doanh nghiệp
Xác định mặt hàng nhâp khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước và nhu cầu tiêu dùng
của nhân dân. Trước hết phải ưu tiên phập khẩu kỹ thuật công nghệ
tiên tiến và hiện đại phù hiện với điều kiện nước ta.
Dành ngoại tệ cho nhập khẩu vật tư để phục vụ sản xuất trong
nước xét thấy có hiệu quả hơn nhập khẩu.
Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp,
với giá cả có lợi phục vụ cho sản xuất và nâng cao đời sống cho nhân.
- Nhập khẩu thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại
Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công
nghệ, kể cả thiết bị theo con đường đầu tư hay viện trợ đều phải nắm
vững phương châm đón đầu, đi thẳng và tiếp thu công nghệ hiện đại.
Nhập khẩu phải chọn lọc, tránh nhập những loại công nghệ lạc hậu
các nước đang tìm cách thải ra
8


- Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng nhanh xuất
khẩu
Nền sản xuất hiện đại của nhiều nước trên thế giới đầy ắp những
kho tồn trữ hàng hoá dư thừa và những nguyên nhiên vật liệu. Trong
hoàn cảnh đó, việc nhập khẩu dễ hơn là sản xuất trong nước. Trong
điều kiện các ngành sản xuất trong nước còn non kém của Việt Nam,
giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, phẩm chất tốt hơn. Nhưng chỉ
nhập khẩu không chú ý tới sản xuất sẽ bóp chết sản xuất trong nước.
Vì vậy cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của nước trong từng thời

kỳ để bảo hộ và mở mang sản xuất trong nước vừa đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng nội địa vừa tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu mở rộng thị
trường ngoài nước.
4. Các công cụ quản lý hoạt động nhập khẩu
- Thuế nhập khẩu
+ Mục đích: thuế nhập khẩu nhằm bảo vệ sản xuất trong nước,
hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu cho ngân
sách
+ Biểu thuế quan: Được xác định trên cơ sở chính sách của mỗi
nước, mức thuế có thể tính chung cho tất cả các nước theo từng mặt
hàng, nhưng cũng có thể tính riêng cho từng nhóm nước. Mức thuế chỉ
có thể có một nhưng cũng có thể có hai mức: thông thường và ưu đãi.
Để khuyến khích nhập khẩu phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Luật
thuế xuất khẩu, nhập khẩu còn quy định những trường hợp miễn giảm
và hoàn lại thuế.
Thuế nhập khẩu là một công cụ để bảo vệ ngành công nghiệp
non trẻ vì thuế nhập khẩu có xu hướng làm tăng giá trên thị trường nội
9


địa, giảm khối lượng tiêu thụ, ngoài ra thuế nhập khẩu còn có mục
đích thu ngân sách.
- Hạn ngạch nhập khẩu: là quy định của nhà nước hạn chế nhập
khẩu hoặc xuất khẩu số lượng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó hoặc
một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định
Mục tiêu áp dụng cho biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn
ngạch của nhà nước nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, sử dụng có
hiệu quả quỹ ngoại tệ, bảo đảm cam kết của chính phủ ta với nước
ngoài
- Giấy phép nhập khẩu : quy định hàng hoá xuất khẩu, nhập

khẩu có điều kiện theo NĐ57/CP của Chính phủ
- Quản lý ngoại tệ: Đối với những nước thiếu ngoại tệ như nước
ta, áp dụng biện pháp kiểm soát ngoại tệ bằng cách điều tiết nhập khẩu
một số loại sản phẩm thông qua việc phân phối lại ngoại tệ để nhập
khẩu các mặt hàng đó qua Ngân hàng quốc gia nhiều nước quy định
“hạn ngạch ngoại tệ“ trên cơ sở hạn ngạch nhập khẩu được cấp. Người
nhập khẩu có thể ký kết hợp đồng mua hàng ở nước ngoài, nhưng phải
xin được quyền sử dụng ngoại tệ của nước mình.
ii. Các hình thức nhập khẩu của ngành Bưu điện
Trên thực tế, việc mua sắm nhập khẩu thường được thực hiện
theo hình thức sau:
1. Nhập khẩu trực tiếp
Đây là phương thức chủ yếu của kinh doanh xuất nhập khẩu và
nó lưu chuyển khoảng 2/3 hàng hoá giữa các quốc gia trên thế giới,
Phương thức này sẽ giúp cho nhà nhập khẩu trực tiếp liên hệ với bạn
10


hàng và không bị mất một khoản chi phí nào khác cho các tổ chức
trung gian. Tuy nhiên, phương thức này đòi hỏi nhà nhập khẩu phải có
những kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm nhất định trong lĩnh vực
kinh doanh xuất khẩu theo pháp luật của nước sở tại. Đây là điều rất
khó khăn và ít xẩy ra đối với các đơn vị không trực tiếp kinh doanh
thương mại xuất nhập khẩu.
2. Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là phương thức nhập khẩu mà một doanh
nghiệp có nhu cầu nhập khẩu nhưng không có đủ điều kiện để tiến
hành nhập khẩu trực tiếp hoặc tiến hành nhập khẩu trực tiếp thì không
mang lại hiệu quả nên uỷ thác cho một doanh nghiệp khác có khả
năng nhập khẩu trực tiếp với hiệu quả cao, nhập khẩu hàng hoá theo

yêu cầu của mình. Phương thức nhập khẩu qua trung gian này có thể
giúp doanh nghiệp khai thác được thông tin, kiến thức, nguồn tài
chính, nguồn nhân lực và các mối quan hệ của người trung gian. Tuy
nhiên các nhà uỷ thác sẽ bị mất một phần lợi nhuận do phải chi ra một
khoản chi phí gọi là phí uỷ thác hay hoa hồng đại lý, mặt khác họ
cũng bị mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường mà lại là thị trường
nước ngoài, một yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh.
Trên thực tế, trong kinh xuất nhập khẩu hàng hoá là các vật tư, thiết bị
máy móc thông thường phải qua 3 bước thậm chí 4 bước trung gian,
do đó xuất nhập khẩu uỷ thác là phương thức kinh doanh tương đối
phổ biến trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển.
3. Nhập khẩu thông qua đấu thầu quốc tế
Đây là phương thức nhập khẩu mà doanh nghiệp có nhu cầu
nhập khẩu tổ chức đấu thầu quốc tế để thu hút các nhà cung cấp tiềm
11


năng đến tham dự và trả giá cũng như đưa ra các điều kiện giao dịch
khác cho việc cung cấp hàng hoá mà doanh nghiệp muốn mua. Đây là
một phương pháp mua bán đặc biệt vì người bán là người trả giá còn
người nhập khẩu là người chọn giá, do đó nó tạo ra môt tính cạnh
tranh rất cao giữa các nhà cung cấp và tạo ra một áp lực giảm giá đối
với họ, Theo phương thức này người nhập khẩu có thể chọn được cho
mình một đối tác có giá trị dự thầu thấp nhất với những điều kiện tín
dụng phù hợp với việc mua sắm nhập khẩu hàng hoá của mình.
III. Tổ chức thực hiện hoạt động nhập khẩu
Việc tổ chức hoạt động kinh doanh đối với bất kỳ doanh nghiệp
nào cũng rất quan trọng vì nó trực tiếp quyết định đến sự thành bại
trong kinh doanh. Đặc biệt khi tham gia vào kinh doanh trên thị
trường quốc tế, do những sự khác biệt về ngôn ngữ, tập quán, văn hoá,

về môi trường kinh doanh lại càng quan trọng và khó khăn hơn. Trong
kinh doanh nhập khẩu, việc tổ chức thực hiện hoạt động của doanh
nghiệp nên tuân theo các bước sau đây:
Lập phương án kinh doanh ; điều tra ; nghiên cứu thị trường ; đàm
phán và ký kết hợp đồng; thực hiện hợp đồng; giải quyết tranh chấp và
khiếu nại (nếu có)
1. Lập phương án kinh doanh
Đây là bước khởi đầu của một doanh nghiệp khi bước vào kinh
doanh. Doanh nghiệp cần phân tích khả năng và nguồn vốn của mình
để trả lời các câu hỏi: đâu là thị trường của doanh nghiệp? Dung lượng
thị trường là bao nhiêu? Sự thích ứng của sản phẩm đó trên thị trường
đó như thế nào ? Phương thức tiến hành ra sao? Lập kế hoạch kinh
doanh bao gồm các công việc:
12


a. Lựa chọn thị trường nhập khẩu:
Việc lựa chọn các bạn hàng nước ngoài tuân theo các nguyên tắc
đôi bên cùng có lợi. Thông thường các doanh nghiệp thường lưu tâm
trước hết đến những mối quan hệ cũ của mình sau đó là các bạn hàng
mà các doanh nghiệp khác trong nước đã quen. Các bạn hàng thường
được phân theo các khu vực thị trường như: Châu Âu - Châu Mỹ Châu á - Châu Phi - Châu Đại Dương. Tuỳ thuộc vào sản phẩm mà
doanh nghiệp lựa chọn để buôn bán quốc tế, mà có các quốc gia đối
tác ưu tiên. Chẳng hạn hàng dệt may của Việt Nam thì hiện đang có
các khu vực và nước ưu tiên khai thác (do đã ký được các hiệp định
như EU, Canada, Na-uy, Thổ Nhỹ Kỳ và Mỹ ).
b. Lựa chọn mặt hàng nhập khẩu :
Đối với các doanh nghiệp chuyên kinh doanh nhập khẩu thì
những mặt hàng được lưạ chọn phải thuộc phạm vi được xác định tại
giấy phép kinh doanh. Đối với các tổ chức mua sắm nhập khẩu thì các

mặt hàng nhập khẩu được cân nhắc trên cơ sở nhu cầu mua sắm của
mình
c. Lựa chọn các phương thức giao dịch:
Trong mục này sẽ nêu ra một số phương thức giao dịch chủ yếu
trên thị trường quốc tế mà các doanh nghiệp cấn biết tới:
Giao dịch thông thường: Là sự giao dịch mà người mua và người
bán thảo luận trực tiếp với nhau thông qua thư từ, điện tín...để bàn về
các điều khoản sẽ ghi trong hợp đồng. Các bước tiến hành giao dịch
thông thường gồm 4 bước : Hỏi giá, báo giá, chào hàng, chấp nhận,
xác nhận.
13


Giao dịch qua trung gian: Là việc người mua hoặc người bán
quy định những điều kiện trong giao dịch mua bán hàng hoá và nhờ
tới sự giúp đỡ của người thứ ba để đàm phán và đi đến ký kết hợp
đồng.
Buôn bán đối lưu: Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu
kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua,
lượng hàng hoá trao đổi với nhau có giá trị tương đương.
Đấu giá quốc tế: Đây là phương thức bán hàng đặc biệt được tổ
chức công khai ở một nơi nhất định, tại đó sau khi xem xét trước hàng
hoá, những người mua cạnh tranh với nhau trong việc trả giá và cuối
cùng ai trả giá cao nhất sẽ được mua hàng hoá đó.
Đấu thầu quốc tế: Đây là phương thức giao dịch, trong đó người
mua công bố trước điều kiện mua hàng để các người bán đưa ra giá
mình muốn bán
Ngoài ra còn có một số loại các giao dịch khác như :
- Giao dịch tai sở giao dịch hàng hoá
- Giao dịch tại hội chợ và triển lãm

d. Lựa chọn điều kiện cơ sở giao dịch:
Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, từng mặt hàng cụ thể mà các
bên lựa chọn diều kiện cơ sở giao dịch cho phù hợp. Trên thực tế, các
doanh nghiệp còn phải dựa trên các phương thức vận tải trong và
ngoài nước để chọn điều kiện giao dịch cho phù hợp.
e. Lựa chọn phương thức thanh toán:
Có nhiều phương thức thanh toán mà các bên có thể lựa chọn sử
dụng, tuy nhiên trên thực tế, thông thường các doanh nghiệp kinh
14


doanh xuất nhập khẩu thường thanh toán bằng L/C để đảm bảo quyền
lợi cho cả hai bên.
2. Tổ chức điều tra nghiên cứu thị trường
Việc điều tra nghiên cứu thị trường là nhằm tìm kiếm các cơ hội
thuận lợi. có hiệu quả cho việc thâm nhập thị trường, mục đích của
việc nghiên cứu thị trường là nhằm tìm ra thị trường cho hàng hoá,
dịch vụ trong một thời gian nhất định với một nguồn tài lực hạn chế.
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu thì đây là hoạt động nghiên cứu
thị trường nước ngoài.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại xuất nhập
khẩu thì hoạt động nghiên cứu thị trường bao gồm cả nghiên cứu thị
trường trong nước và ngoài nước. Sở dĩ như vậy là vì đối với doanh
nghiệp này, bên cạnh việc tìm bạn hàng cung cấp hàng nhập khẩu thì
việc tìm các bạn hàng tiêu thụ những hàng hoá nhập khẩu ấy cũng
không kém phần quan trọng. Công tác nghiên cứu thị trường bao gồm
các vấn đề chủ yếu sau:
a. Nội dung nghiên cứu thị trường thế giới:
Nghiên cứu thị trường thế giới là nhằm tìm kiếm cơ hội thuận lợi
có hiệu quả cho việc thâm nhập trong quan hệ thương mại của doanh

nghiệp với nước ngoài, nghiên cứu thị trường để tìm thị trường cho
các hàng hoá, dịch vụ trong một khoảng thời gian và nguồn tài lực hạn
chế. Công tác nghiên cứu thị trường gồm 3 vấn đề chủ yếu sau:
- Nghiên cứu chính sách ngoại thương của các quốc gia
- Xác định và dự báo biến động của quan hệ cung cầu hàng hoá
trên thị trường thế giới.
15


- Tìm hiểu thông tin giá cả và phân tích cơ cấu các loại giá quốc
tế
• Nghiên cứu các chính sách ngoại thương của các quốc gia :
giúp doanh nghiệp nắm được những thông tin cần thiết khi kinh doanh
với các doanh nghiệp nước ngoài như mức độ ổn định của chính sách
ngoại thương, sự can thiệp hay ưu đãi của các chính phủ nước ngoài
khi doanh nghiệp tham gia kinh doanh tại thị trường của quốc gia đó.
Chính sách ngoại thương của các quốc gia bao gồm:
- Chính sách thị trường
- Chính sách mặt hàng
- Chính sách hỗ trợ
Chính sách ngoại thương của các quốc gia có ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế mà mỗi doanh nghiệp
cần nắm được là: Chính sách ngoại thương đó có ổn định hay không?
Sự can thiệp của Chính phủ đối với các doanh nghiệp kinh doanh
thương mại quốc tế ra sao?
• Xác định và dự báo biến động của quan hệ cung cầu hàng
hoá trên thị trường thế giới:
Cung hàng hoá là khối lượng hàng hoá mà những người bán có
thể đáp ứng ở một mức giá cả nhất định.
Cầu hàng hoá là khối lượng hàng hoá mong muốn mà người tiêu

dùng có khả năng tiêu thụ ở một mức giá nhất định.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu hàng hoá trên thị trường
bao gồm:
- Nhóm nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có
tính chu kỳ :
16


Trong nhóm này có thể kể ra những nhân tố quan trọng như sự
vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới, tính chất thời vụ
trong quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hoá.
Khi nghiên cứu các nhân tố nhóm này, các doanh nghiệp kinh
doanh thương mại quốc tế cần lưu ý tới sự vận động của các nước giữ
vai trò chủ yếu trên thị trường thế giới trong việc xuất nhập khẩu các
loại hàng hoá thuộc đối tượng nghiên cứu.
Tuỳ thuộc vào tính chất của sản phẩm, cụ thể đó là sản phẩm
công nghiệp hay nông nghiệp ...mà chu kỳ sản xuất của chúng dài hay
ngắn và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên đến mức nào? Chẳng hạn
nếu hàng xuất nhập khẩu mà doanh nghiệp đang tiến hành nghiên cứu
là các hàng hoá nông nghiệp thì tính thời vụ là nhân tố không thể
không nghiên cứu
- Nhóm nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường:
Các nhân tố thuộc nhóm này có thể kể ra như: tiến bộ khoa học
và công nghệ, biện pháp, chế độ chính sách của các nhà nước, thị hiếu,
tập quán của người tiêu dùng, các hàng hoá thay thế...chẳng hạn thị
hiếu và tập quán người tiêu dùng nhiều khi không phụ thuộc vào chất
lượng hàng hoá đó. Bởi vậy, nếu nắm bắt được thị hiếu và tập quán
của người tiêu dùng sẽ cho phép mở rộng khối lượng cầu một cách
nhanh chóng.
- Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị

trường:
Các nhân tố thuộc nhóm này có thể kể ra như: sự đầu cơ, sự thay
đổi chính sách bất ngờ của nhà nước hoặc của các tập đoàn kinh
17


doanh lớn, các yếu tố bất thường khác như các xung đột chính trị - xã
hội, chiến tranh, hạn hán bão lụt ...
Điều quan trọng khi phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đối với
sự thay đổi dung lượng thị trường là phải xác định nhân tố nào có ý
nghĩa quyết định xu hướng phát triển của thị trường ở giai đoạn hiện
tại và tương lai.
Thông tin giá cả và phân tích cơ cấu các loại giá quốc tế
Giá cả thị trường là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, do
cung cầu hàng hoá trên thị trường quyết định, do người mua, người
bán thoả thuận và quyết định.
Giá cả quốc tế là mức giá có tính chất đại biểu cho một loại hàng
hoá nhất định trên thị trường thế giới, ở một thời điểm nhất định.
Một mức giá cả muốn được coi là giá cả quốc tế thì phải hội đủ
ba điều kiện sau:
Mức giá đó được ghi trong hợp đồng thương mại
Mức giá đó phải thể hiện trên thị trường tập trung phần lớn khối
lượng giao dịch để đảm bảo tính khách quan và sát với quan hệ cung
cầu nói chung.
Mức giá đó phải được tính bằng đồng tiền tự do chuyển đổi, vì
thông qua đó dễ dàng so sánh với đồng nội tệ và ít chịu ảnh hưởng của
yếu tố lạm phát ở từng quốc gia.
Trên thực tế, biểu hiện của giá cả quốc tế còn gắn với những
điều kiện không gian và thời gian cụ thể, với những điều kiện và
phương thức giao hàng nhất định. Trong trao đổi mậu dịch quốc tế tồn

tại một số loại giá sau:
18


Giá tham khảo: Là loại giá được công bố rộng rãi trong các tài
liệu tham khảo, chuyên môn, báo chí hằng ngày, trong các bảng báo
giá ...
Giá đấu giá: Là giá cả hàng hoá khi có một hoặc ít người bán,
trong khi đó lại có nhiều người mua. Đặc điểm của loại giá này
thường cao hơn giá quốc tế. Giá này thường áp dụng đối với các loại
hàng khó tiêu chuẩn hoá về phẩm chất, quy cách.
Giá đấu thầu: Là giá cả hàng hoá khi có một hoặc ít người mua,
trong khi đó lại có rất ít người bán. Đặc điểm của loại giá này thường
thấp hơn mức giá cả quốc tế. Giá này thường áp dụng khi xây dựng
công trình hoặc bán vật tư, thiết bị cho các công trình.
Đối với những loại hàng hóa không có các trung tâm giao dịch
truyền thống thì người ta thường lấy giá ở những nước xuất khẩu hoặc
nhập khẩu chủ yếu ví dụ như dầu mỏ có thể lấy giá ở Trung Đông.
Đối với những mặt hàng chuyên môn hoá cao và phức tạp như
máy móc, thiết bị thì người ta thường lấy giá ở hãng dự vị trí chủ yếu
trong sản xuất và cung cấp nó trên thị trường.
Đối với những mặt hàng có trung tâm giao dịch truyền thống thì
chọn giá ở đó làm giá quốc tế.
b. Phương pháp nghiên cứu thị trường
Có hai phương pháp chủ yếu nghiên cứu thị trường đó là nghiên
cứu tại bàn và nghiên cứu tại thị trường. Hai phương pháp này được
kết hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu tại bàn:

19



Đây là phương pháp phổ biến nhất vì nó ít tốn kém và phù hợp
với khả năng của mọi cán bộ nghiên cứu. Các tài liệu dùng để nghiên
cứu tại bàn bao gồm
Các tài liệu xuất bản ở trong nước: Báo tạp chí, thống kê của các
ngành và thống kê của tổng cục thống kê, tài liệu đại diện của thương
mại, của Bộ Thương mại ở các nơi gửi về...
Các tài liệu xuất bản ở nước ngoài: Báo tạp chí, trung tâm
thương mại quốc tế (ITC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
Thống kê của Liên hiệp quốc (UNSO) các thống kê của các cơ quan
nước ngoài …Các tài liệu không xuất bản của các tổ chức cơ quan.
* Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường :
Phương pháp này tốn kém hơn phương pháp trên. Thông tin thu
được thông qua tiếp xúc với những người kinh doanh trên thị trường
bằng một số biện pháp sau:
Quan sát: Là phương pháp cổ điển và rẻ tiền nhất, tránh được
thiên kiến của người trả lời câu hỏi. Việc quan sát có thể được thực
hiện thông qua mắt thường hoặc các phương tiện khác như quay phim,
chụp ảnh ..., nhược điểm của phương pháp này là chỉ mô tả bên ngoài,
tốn kém công sức và thời gian.
Phỏng vấn trực tiếp: Là phương pháp có độ tin cậy cao và đòi
hỏi nghệ thuật của người phỏng vấn.
Phỏng vấn qua điện thoại: Tỷ lệ trả lời qua điện thoại cao hơn
nhiều so với thăm dò qua thư. Đây là phương pháp tốt nhất để tiếp xúc
với những người bận việc hoặc với những người không muốn dành
thời gian cho một cuộc phỏng vấn.
20



Phỏng vấn qua thư: ít tốn kém nhất song lại có độ tin cậy kém
nhất trong các phương pháp nghiên cứu tại thị trường.
3. Tổ chức ký kết hợp đồng
Đây là bước tiếp theo trong các công đoạn thực hiện hoạt động
kinh doanh nhập khẩu. Sau khi đã điều tra nghiên cứu kỹ thị trường và
lên được một phương án kinh doanh phù hợp, doanh nghiệp phải tiến
hành đàm phán và đi đến ký kết hợp đồng nhập khẩu. Tuỳ theo
phương thức nhập khẩu mà doanh nghịêp lựa chọn, các giai đoạn của
đàm phán và ký kết hợp đồng có thể khác nhau. Tuy nhiên các doanh
nghiệp phải hết sức chú trọng đến các điều khoản thoả thuận trong
hợp đồng, vì đó chính là cơ sở để thực hiện các hoạt động nhập khẩu
và là cơ sở pháp lý để giải quyết những tranh chấp phát sinh liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Do tính chất quốc
tế, việc đàm phán và ký kết hợp đồng có thể thông qua thư từ, telex,
fax, điện thoại ... chứ không nhất thiết là các bên phải trực tiếp đàm
phán và ký kết hợp đồng.
Khi ký kết hợp đồng kinh doanh thương mại quốc tế, doanh
nghiệp phải tập trung vào các điều kiện cơ bản sau:
Điều kiện tên hàng
Điều kiện phẩm chất
Điều kiện số lượng
Điều kiện bao bì
Điều kiện cơ sở giao hàng
Điều kiện thanh toán
Điều kiện khiếu nại
Điều kiện bảo hành
21


Điều kiện bất khả kháng

Điều kiện trọng tài
Điều kiện vận tải
4. Tổ chức thực hiện hợp đồng
a. Xin giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá:
Nhà nước quy định có 4 nhóm hàng như sau:
Những danh mục hàng hóa Nhà nước cấm xuất hoặc nhập khẩu.
Những danh mục hàng hoá xuất, nhập khẩu theo quy chế quản lý
chuyên ngành.
Những danh mục hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch
Những danh mục hàng hoá có liên quan đến các cân đối lớn của
nền kinh tế quốc dân.
Các danh mục hàng hoá ngoài các danh mục được nêu trên được
phép xuất nhập khẩu tuỳ theo nhu cầu của các doanh nghiệp. Khi tiến
hành hoạt động xuất nhập khẩu các loại hàng hoá này, các doanh
nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ thương mại
cấp và có ngành hàng phù hợp thì không phải xin giấp phép xuất nhập
khẩu của bất kỳ một cơ quan nào mà chỉ cần đến Hải quan làm thủ tục
để xuất hoặc nhập khẩu.
- Chuẩn bị hàng xuất khẩu (Chuẩn bị nhập khẩu):
Đối với việc chuẩn bị hàng xuất khẩu, doanh nghiệp cần tổ chức
làm các công việc sau:
Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu: Nếu là doanh
nghiệp kinh doanh thương mại đơn thuần thì phải tổ chức đi thu mua
hay thuê gia công hàng, đi nhận uỷ thác xuất ....Nếu là doanh nghiệp
sản xuất thì tổ chức dự trữ ở doanh nghiệp.
22


Tổ chức đóng gói bao bì hàng xuất khẩu và kẻ ký mã hiệu hàng
xuất khẩu sao cho phù hợp với hợp đồng đã ký và phù hợp với luật

pháp của người nhập khẩu.
- Kiểm tra chất lượng hàng xuất nhập khẩu:
Việc kiểm nghiệm và kiểm dịch xuất khẩu là nghĩa vụ của các
nhà sản xuất và được tiến hành ở hai cấp: ở cơ sở và ở cửa khẩu nhằm
đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và cho nhà sản xuất.
Việc kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu có liên quan đến các
cơ quan nhà nước (ga, cảng, các cơ quan giám định ) trong các bước
như: kiểm tra niêm phong kẹp chì khi dỡ hàng, kiểm nghiệm, kiểm
dịch. Đơn vị nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên trên vận đơn
cần lập thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự có tổn thất, thiếu
hụt ....không đồng bộ theo hợp đồng.
b. Thuê tàu lưu cước:
Tuỳ thuộc vào điều kiện đã ký kết trong hợp đồng mà việc quyết
định thuê loại phương tiện vận tải nào được thực hiện. Hiện nay, các
đơn vị kinh doanh xuất khẩu ở Việt Nam thường uỷ thác thuê tàu lưu
cước cho một công ty vận tải.
c. Mua bảo hiểm:
Khi mua bảo hiểm cần lưu ý đến các điều kiện bảo hiểm và lựa
chọn công ty bảo hiểm.
d. Làm thủ tục hải quan:
Mọi hàng hoá xuất nhập khẩu khi qua biên giới quốc gia đều
phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm:
• Khai báo hải quan: Kê khai theo tờ mẫu.
23


• Xuất trình hàng hoá: Đối với hàng xuất lượng ít, người ta vận
chuyển hàng hoá tới kho của hải quan để kiểm tra hàng hoá làm thủ
tục hải quan và nộp thuế (nếu có). Đối với hàng nhập cũng đưa tới kho
hải quan sau khi đã bốc lên bờ để làm thủ tục và nộp thuế (nếu có)

• Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiểm tra giấy
tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra các quyết định: Cho hàng qua biên giới,
hoặc cho hàng qua biên giới sau khi chủ hàng đã nộp thuế xuất nhập
khẩu, hoặc không được phép xuất nhập khẩu
e. Giao nhận hàng xuất khẩu:
Chủ hàng cần tiền hành các hoạt động sau đây:
Lập bản đăng ký hàng chuyên chở.
Xuất trình bản đăng ký cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng
Trao đổi với cơ quan điều độ cảm để nắm vững ngày giờ làm
hàng.
Bố trí phương tiện đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu.
Lấy biên lai thuyền phó: Đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường
biển hoàn hảo và chuyển nhượng được; sau đó chuyển gấp về bộ phận
chứng từ thanh toán.
* Đối với hàng nhập khẩu:
Đơn vị kinh doanh nhập khẩu cần phải:
- Ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải (ga, cảng) về việc giao
nhận hàng.
- Xác nhận hoặc tiếp nhận hàng và cơ cấu mặt hàng tiếp nhận.
- Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập về kế
hoạch hàng về.
24


- Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản chi phí thuộc phạm vi
của mình.
- Theo dõi đôn đốc và giải quyết các vấn đề xảy ra trong phạm vi
của mình trong quá trình nhận hàng.
f. Tổ chức thanh toán:
Thanh toán theo hình thức đã ghi trong hợp đồng và lưu ý rằng

trong quá trình thực hiện hợp đồng khi hàng hoá có tổn thất hoặc
thanh toán có nhầm lẫn ... thì hai bên có thể khiếu nại hoặc đi kiện.
5. Tổ chức giải quyết tranh chấp khiếu nại ( nếu có )
Trong một số trường hợp khi xảy ra các tổn thất, thiếu hụt, nhầm
lẫn ... sẽ phát sinh các tranh chấp khiếu nại
Cơ sở để giải quyết khiếu nại là hợp đồng đã ký và các bằng
chứng về việc tổn thất như biên lai giám định, vận đơn vận tải, các
hoá đơn ...Trên cơ sở các quy định đã thoả thuận trong hợp đồng và
tổn thất thực tế, hai bên quyết định biện pháp, hình thức, thời gian để
giải quyểt các tranh chấp khiếu nại này. Dù là bên khiếu nại hay bên
bị khiếu nại, doanh nghiệp nên lưu ý tới thời gian giải quyết và giao
trách nhiệm giải quyết vụ việc cho cán bộ đã phụ trách hợp đồng này.
Trường hợp bất đắc dĩ thì đưa vụ việc ra toà án.
Tóm lại, việc giải quyết các tranh chấp và khiếu nại thành công
là một biện pháp rất quan trọng, không những để thoả mãn các bên
trong hợp đồng mà còn đảm bảo việc tiếp tục buôn bán duy trì các
hợp đồng trong thời gian sau đó;
Mọi doanh nghiệp kinh doanh thương mại quốc tế phải luôn khai
thác thị trường và các bạn hàng hiện tại, đồng thời không ngừng mở
rộng tìm kiếm các thị trường mới. Thực hiện tốt các khâu, các bước
25


×