Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH, MỞ CỬA Ở TRUNG QUỐC VÀ MỘT SỐ SO SÁNH VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.05 KB, 46 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LỊCH SỬ
~~~~~~~~~~

DƯƠNG THỊ TRANG

QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH, MỞ CỬA Ở TRUNG
QUỐC VÀ MỘT SỐ SO SÁNH VỚI CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

NIÊN LUẬN NĂM THỨ BA
NGÀNH ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
KHÓA 37 (2013 – 2017)

Huế, 7/2016


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LỊCH SỬ
~~~~~~~~~~

DƯƠNG THỊ TRANG

QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH, MỞ CỬA Ở TRUNG
QUỐC VÀ MỘT SỐ SO SÁNH VỚI CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

NIÊN LUẬN NĂM THỨ BA
NGÀNH ĐÔNG PHƯƠNG HỌC


KHÓA 37 (2013 – 2017)

Giáo viên hướng dẫn
Nguyễn Hoàng Linh
Huế, 7/2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành niên luận này, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến
thầy giáo – Nguyễn Hoàng Linh – cán bộ giảng dạy tại khoa Lịch sử,
trường Đai học Khoa học Huê đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong
thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các quý thầy cô trong khoa Lịch sử, chân
thành cảm ơn các cơ quan, phòng tư liệu khoa Lịch sử, trường Đại học
Khoa học Huế, thư viện tỉnh Thừa Thiên Huế, đã tạo điều kiện thuận lợi và
giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập tài liệu và hoàn thành niên luận.

Huế, tháng 07 năm 2016
Sinh viên
Dương Thị Trang


MỤC LỤC

VIẾT TẮT
NDT :

Nhân dân tệ (đơn vị tiền tệ của Trung Quốc)

OPEC :


Organization of Petroleum Exporting Countries (Tổ chức các
nước xuất khẩu dầu lửa)

TW

:

WTO :

Trung ương
Tổ chức Thương mại Thế giới



Niên luận năm thứ 3

MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
Trên con đường hội nhập và phát kinh tế luôn luôn đòi hỏi phải có
sự đổi mới để phù hợp với bối cảnh quốc tế. Quan hệ quốc tế xuất hiện
nhiều xu hướng: đối đầu, hợp tác, đối thoại… Mọi sự biến đổi ấy đòi hỏi
các quốc gia phải thích ứng và thay đổi.
Hiểu và nắm bắt được tình hình ấy, nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa đã thực hiện cải cách và cuối những năm 70 của thế kỷ XX.
Qua những chính sách và đường lối mới Trung Quốc hứa hẹn mở ra một
trang sử và một tương lai mới cho đất nước này. Việc tìm hiểu về quá

trình cải cách mở cửa sẽ đưa lại một cái nhìn đầy đủ và toàn vẹn hơn về
con đường đi đến thành công của Trung Quốc.
Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Trung
Quốc. Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo cũng đã giành được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa
lịch sử. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Chính phủ
Việt Nam rất coi trọng tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, nhất là của
Trung Quốc. Từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay, lãnh
đạo cấp cao hai nước đã nhiều lần xác định sẽ tăng cường hợp tác, trao
đổi kinh nghiệm trên các lĩnh vực như xây dựng và phát triển kinh tế,
quản lý đất nước, xây dựng Đảng v.v…
Việc nghiên cứu quá trình cải cách mở cửa của Trung Quốc sẽ
giúp chúng ta có thêm kinh nghiệm để phát triển đất nước mình. Hơn
nữa đối sánh với nước láng giềng, để thấy được những việc đã làm hiệu
quả hay chưa? Từ những sai sót để rút ra kinh nghiệm và hướng đến
hoàn thiện quốc gia của mình. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những
đặc điểm riêng biệt, tuy nhiên sẽ có những điểm chung hoặc những đặc
điểm chưa được chú ý cần phát triển hơn. Xuất phát từ những nhận thức
6

SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

thực tiễn trên, được sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn, tác giả mạnh
dạn lựa chọn vấn đề: “Quá trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc và
một số so sánh với công cuộc đổi mới ở Việt Nam” làm đề tài niên luận
năm 3 của mình.
2.


Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc tìm hiểu về quá trình cải các mở cửa của Trung Quốc từ lâu
đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước. Đã có nhiều tài liệu, công trình được in ấn, đăng tải, phát hành
rộng rãi.
Song song với sự phát triển quan hệ tốt đẹp của quan hệ hợp tác
Việt – Trung trong hơn một thập niên gần đây, ở Việt Nam đã xuất hiện
nhiều công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu về cải cách mở cửa của
Trung Quốc nhằm hiểu rõ hơn về nước láng giềng và đối sánh công cuộc
cải cách của hai quốc gia tiêu biểu phải kể đến như: Hồ Châu: “Công
nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Trung Quốc. Thực tiễn kinh nghiệm đối với
Việt Nam (1994)”, Nguyễn Minh Hằng: “Cải cách kinh tế của Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, lựa chọn mới cho sự phát triển (1995)” , Chu Công
Phùng: “Nền kinh tế của Trung Quốc sau 15 năm cải cách mở cửa (6 –
1994)”… ngoài ra, cũng xuất hiện hàng loạt các công trình nghiên cứu
hợp tác giữa hai nước, điển hình là cuốn Nghiên cứu Trung Quốc của
giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thế Tăng năm 2003, cuốn “Trung Quốc cải cách
mở cửa – Những bài học kinh nghiệm (2003)” do nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Hồng chủ biên…
Có nhiều sách báo, tạp chí liên quan đến vấn đề như: “ Một số vấn
đề phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ ở Trung Quốc” của tạp chí ngoại
thương (1998), “Một số vấn đề cải cách mở cửa của Trung Quốc và đổi
mới ở Việt Nam” của Quang Vinh năm 2001.
Bên cạnh đó các tư liệu được khai thác tại Viện nghiên cứu Trung
Quốc, Học viện ngoại giao Việt Nam… đã cung cấp một số tư liệu gốc
chi tiết, chính xác và những thông tin cập nhật cải cách mở cửa ở Trung
Quốc và Việt Nam nhằm bổ sung và làm phong phú thêm cho đề tài.
7


SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

Những công trình trên đã cung cấp những kiến thức chung về cải
các mở cửa ở Trung Quốc, đặc biệt là kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Tuy nhiên các cuốn sách và bài viết chỉ mới trình bày chung chung quá
trình cải cách mở cửa ở Trung Quốc mà chưa đi sâu phân tích, đánh giá
đối sánh với Việt Nam, do đó không thể cho đọc giả cái nhìn toàn diện
và sâu sắc về cải cách mở cửa ở Trung Quốc trong đối sánh với Việt
Nam.
Kế thừa và phát huy những thành quả mà giới nghiên cứu đã đạt
được, đồng thời muốn tìm hiểu sâu hơn cải cách mở cửa ở Trung Quốc
và một số so sánh với công cuộc đổi mới ở Việt Nam, tác giả đã thu thập
nguồn tài liệu thành văn, xử lý nguồn tài liệu để trình bày nó một cách
khoa học và xác thực nhất. Từ đó khái quát lên quá trình cải cách mở cửa
ở Trung Quốc 1978 và ảnh hưởng của nó đến công cuộc đổi mới của Việt
Nam 1986.
3.

Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Về mặt phương pháp luận, công trình được thực hiện trên cơ sở sử
dụng quan điểm sử học Macxit, quán triệt quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam, luôn lấy Chủ Nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng, tôn trọng tính khách quan, trung thực của các nguồn tư liệu.
Về các phương pháp cụ thể, niên luận sử dụng các phương pháp
chung – cở bản của phương pháp luận sử học bao gồm: Phương pháp lịch
sử và phương pháp logic.
Bên cạnh đó, niên luận còn sử dụng một số phương pháp liên


-

ngành như:
Phương pháp phân tích
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp đối chiếu so sánh
Phương pháp thống kê…
Các nguồn tư liệu bao gồm: các công trình viết về cải cách mở cửa
ở Trung Quốc, công cuộc đổi mới ở Việt Nam; các nguồn tư liệu trên báo
chí và tư liệu thông tin trên mạng Internet.
8

SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

4.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chính là hai chủ thể Trung
Quốc và Việt Nam, cụ thể ở đây là tìm hiểu quá trình cải cách mở cửa ở
Trung Quốc và một số so sánh với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

5.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về cải cách mở cửa và
một số so sánh giữa hai chủ thể Trung Quốc và Việt Nam.

Về thời gian: Đề tài nghiên cứu tìm hiểu quá trình cải cách mở
cửa 1978 ở Trung Quốc trong đối sánh với Việt Nam trong thời gian
1978 đến nay (2016) với những sự kiện quan trọng giữa hai nước như:
Cải cách mở cửa ở Trung Quốc; Kinh nghiệm đối với Việt Nam; Công
cuộc đổi mới ở Việt Nam; Nét tương đồng và khác biệt.
Về nội dung: Niên luận không trình bày dàn trải cải cách, đổi mới
của cả hai quốc gia mà chỉ tập trung vào cải cách mở cửa ở Trung Quốc,
chọn lọc những sự kiện tiêu biểu liên quan đến vấn đề cải cách mở cửa,
kinh nghiệm, ảnh hưởng của nó đến Việt Nam để làm nổi bật nội dung đề
tài nghiên cứu.

6.

Đóng góp của niên luận
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã sưu tầm, xử lý và
tổng hợp thông tin có liên quan đến quá trình cải cách mở cửa ở Trung
Quốc và một số so sánh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Vì vậy,
niên luận là tài liệu tham khảo đáng tin cậy đối với những ai quan tâm
đến vấn đề này.
Trên cơ sở kế thừa và sử dụng các nguồn tư liệu đã có, niên luận
góp phần xây dựng nên bức tranh toàn cảnh về cải cách mở cửa ở Trung
Quốc trong đối sánh với Việt Nam. Ngoài ra niên luận không chỉ trình
bày, đánh giá sự kiện trong bối cảnh hai nước mà còn đi sâu lý giải
những nguyên nhân của sự kiện đó, đặt nó trong tác động của các nhân
tố trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, ở chương I, người viết đã khái
9

SVTH: Dương Thị Trang



Niên luận năm thứ 3

quát tiền đề cải cách mở cửa trước năm 1978, điều này có tác dụng cung
cấp những hiểu biết bước đầu giúp cho việc nhìn nhận vấn đề chính dễ
dàng và chính xác hơn.
7.

Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, niên luận được chia làm 2 chương
như sau:
Chương I: Công cuộc cải cách, mở cửa ở Trung Quốc
Chương II: Một số so sánh với công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Trong quá trình thực hiện niên luận, chúng tôi đã gặp một số khó
khăn. Trước hết, do sự hạn chế về trình độ ngoại ngữ của bản thân nên
tác giả chưa tận dụng được hết các tư liệu bằng tiếng nước ngoài. Trong
khi đó, đây là một đề tài khá mới mẻ, chưa có nhiều tài liệu đề cập đến
nên tác giả phải thống kê, chắt lọc từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, đòi
hỏi khả năng tổng hợp cao và thời gian nghiên cứu dài.
Chính vì vậy đề tài mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, đánh giá
tổng quát mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu, nên chắc chắn đề tài
cần nhiều sự bổ sung và hoàn thiện hơn.
Tuy tác giả được đào tạo có hệ thống trong suốt 3 năm bậc Đại
học, nhưng khả năng và kinh nghiệm nghiên cứu của bản thân còn rất
hạn chế. Đây là công trình đầu tay của một sinh viên bước đầu làm quen
với công tác nghiên cứu khoa học, trình độ chuyên môn còn hạn chế,
việc nghiên cứu chưa được sâu sắc. Vì vậy, niên luận không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý chân
thành từ quý thầy cô cũng như những ai quan tâm đến vấn đề này để tác
giả có thể đúc rút kinh nghiệm cho hành trình nghiên cứu khoa học trong
tương lai.

Nhân đây, tác giả niên luận cũng xin chân thành cảm ơn các cơ
quan. Đơn vị ở Huế đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả về tư liệu trong quá
trình tìm kiếm thông tin. Xin chân thành biết ơn quý thầy cô giáo trong
khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Huế về dạy dỗ về phương pháp
10

SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

nghiên cứu, kiến thức bổ trợ cho việc nghiên cứu đề tài. Đặc biệt, tác giả
xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo
Nguyễn Hoàng Linh đã tận tình giúp đỡ, chỉ dẫn và động viên khích lệ
trong quá trình tác giả thực hiện và hoàn thành niên luận năm 3.

Huế, tháng 7 năm 2016
Sinh viên thực hiện
Dương Thị Trang

NỘI DUNG
CHƯƠNG I
11
SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

CÔNG CUỘC CẢI CÁCH, MỞ CỬA Ở TRUNG
QUỐC

I.

TIỀN ĐỀ CẢI CÁCH, MỞ CỬA Ở TRUNG QUỐC
Đối với công cuộc cải cách, đổi mới thì hoàn cảnh có vai trò hết
sức quan trọng. Tuy đó không phải là điều kiện quyết định đối với thành
công của cuộc cải cách, đổi mới nhưng nó lại góp phần vào sự thành
công và thắng lợi. Và thực tế lịch sử ở Trung Quốc đã chứng minh điều
đó.
Công cuộc cải cách và mở cửa kinh tế ở Trung Quốc, xuất phát từ
những bối cảnh lịch sử nhất định, đó là cuộc cách mạng khoa học công
nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình quốc tế hóa
và toàn cầu hóa. Những gợi mở của thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội
trong phong trào Chủ nghĩa Cộng sản quốc tế. Chính điều đó đã buộc
Trung Quốc phải có những điều chỉnh trong Đường lối phát triển kinh tế;
về bối cảnh trong nước: ở Trung Quốc lúc bấy giờ do có những khó khăn
về kinh tế, nền kinh tế lâm vào trì trệ và khủng hoảng nghiêm trọng cũng
đã buộc Trung Quốc phải có những điều chỉnh trong Đường lối và chính
sách phát triển kinh tế.
Cải cách Kinh tế Trung Quốc (giản thể: 改 革 开 放 ; bính
âm: Găigé kāifàng) (Cải cách khai phóng) là một chương trình thực hiện
các thay đổi về kinh tế gọi là "Chủ nghĩa Xã hội mang màu sắc Trung
Quốc" ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được những người theo chủ
nghĩa thực dụng bên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc do Đặng Tiểu
Bình lãnh đạo và vẫn đang tiếp diễn cho đên đầu thế kỷ 21. Mục tiêu của
cải tổ kinh tế Trung Quốc là tạo ra giá trị thặng dư đủ để cung cấp tài
chính cho quá trình hiện đại hóa nền kinh tế của Trung Hoa Đại lục.
Cả nền kinh tế chỉ huy xã hội chủ nghĩa được những người bảo
thủ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc và nỗ lực của Chủ nghĩa
12


SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

Mao trong một cuộc “Đại nhảy vọt” từ xã hội chủ nghĩa sang cộng sản
chủ nghĩa trong nông nghiệp (với chế độ công xã) đều không tạo đủ giá
trị thặng dư để phục vụ cho những mục đích này. Thách thức ban đầu của
cải cách kinh tế là giải quyết vấn đề thúc đẩy công nhân và nông dân sản
xuất một giá trị thặng dư lớn và xóa bỏ những vấn đề thiếu cân bằng kinh
tế thường có ở các nền kinh tế chỉ huy.
Mặc dù cải cách kinh tế Trung Quốc đã được nhiều người phương
Tây mô tả là sự quay trở lại tư bản chủ nghĩa, các quan chức Trung Quốc
đã khẳng định rằng cuộc cải cách này là một dạng của chủ nghĩa xã hội,
tương tự như Lenin đã từng thực hiện Chính sách kinh tế mới tại Liên Xô
thập niên 1920. Tuy nhiên, họ đã không lập luận tiền đề mà nhiều cuộc
cải tổ liên quan đến việc áp dụng các chính sách kinh tế đang được áp
dụng ở các quốc gia tư bản chủ nghĩa, và một trong những tiền đề của
công cuộc cải cách kinh tế Trung Quốc là Trung Quốc không nên né
tránh áp dụng "bất kể tác phẩm nào" vì lý do hệ tư tưởng.
Ngoài ra, nhiều cơ cấu kinh tế được tạo ra trong quá trình cải tổ
kinh tế Trung Quốc có vẻ bên ngoài giống với các cải cách ở các quốc
gia khác nhưng trên thực tế là hoàn toàn duy nhất.

II.

NGUYÊN NHÂN

1. Nguyên nhân khách quan
1.1.


Ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng
Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ bùng nổ, là thời kỳ giá dầu

mỏ tăng cao gây áp lực lớn cho nền kinh tế. Bắt đầu diễn ra từ ngày 17
tháng 10 năm 1973 khi các nước thuộc Tổ chức các quốc gia Ả Rập xuất
khẩu

dầu

mỏ (gồm

các

nước Ả

Rập trong OPEC cùng

với Ai

Cập và Syria ) quyết định ngừng xuất khẩu dầu mỏ sang các nước ủng
hộ Israel trong cuộc chiến tranh Yom Kippur chống lại Ai Cập và Syria
(gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Tây Âu). Sự kiện này đã khiến giá
13
SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

dầu thế giới tăng cao đột ngột và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 19731975 có quy mô toàn cầu.

Tiếp theo là những cuộc khủng hoảng về chính trị, kinh tế, tài
chính… Những cuộc khủng hoảng này đặt nhân loại đứng trước những
vấn đề bức thiết phải giải quyết như tình trạng vơi cạn dần nguồn tài
nguyên, bùng nổ dân số… ở Trung Quốc lúc bấy giờ do có những khó
khăn về kinh tế, nền kinh tế lâm vào trì trệ và khủng hoảng nghiêm trọng
cũng đã buộc Trung Quốc phải có những điều chỉnh trong Đường lối và
chính sách phát triển kinh tế.
1.2.

Sự phát triển của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc cách mạng khoa học kỹ

thuật đã đem lại sự biến đổi sâu sắc, nhanh chóng chưa từng có trong
lịch sử nhân loại. Cuộc cách mạng đó được tiến hành trong các lĩnh vực
khoa học, kỹ thuật, công nghệ, kinh tế và xã hội. Sự phát triển vượt bậc
của khoa học kỹ thuật được thể hiện bằng 1 loạt các cuộc cách mạng nối
tiếp nhau như cách mạng công nghệ mới, cách mạng thông tin, các ngành
có “hàm lượng” khoa học kỹ thuật cao…
Cuộc cách mạng trong giai đoạn này được gọi là cuộc cách mạng
khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ thể hiện làn
sóng vĩ đại của đổi mới công nghệ góp phần thúc đẩy việc tổ chức lại
một đời sống xã hội về mọi mặt từ kinh tế đến văn hóa. Trong cuộc cách
mạng lần này, những phát minh khoa học đều trực tiếp dẫn đến việc hình
thành các nguyên lý công nghệ sản xuất mới. Cuộc cách mạng khoa học
– công nghệ sau chiến tranh đã lấy kỹ thuật điện tử làm hạt nhân, đẩy
mạnh quá trình tự động hóa sản phẩm, làm giảm tỷ trọng các ngành sản
xuất vật chất trong nền kinh tế, tăng tỷ trọng ngành dịch vụ trong đó
thông tin phát triển mạnh nhất. Nền chính trị xã hội và quan hệ kinh tế
cũng thay đổi sâu sắc [5:8].


14
SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

Các nước tư bản có sự biến đổi to lớn về kinh tế xã hội, chuyển
dần từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin hoặc xã hội hậu công
nghiệp. Trong các nước tư bản phát triển, Nhà nước như là một trung tâm
điều tiết vĩ mô, như người tổ chức đời sống kinh tế - xã hội. Cuộc cách
mạng khoa học – công nghệ đã đẩy chủ nghĩa tư bản đến một giai đoạn
mới – giai đoạn tư bản đọc quyền Nhà nước. Chủ nghĩa tư bản thích ứng
với cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội mới đang hình thành, đẩy mạnh sự
quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong các nước tư bản xã hội.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ chủ
nghĩa tư bản đã phát triển lên một bước mới về lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, quốc tế hóa, khu vực hóa các tổ chức kinh tế sự điều
chỉnh và thích ứng mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại tạo ra thời cơ có
thể rút ngắn quá trình phát triển nhưng cũng tạo ra những thách thức mới
với những nước đang phát triển trong đó có Trung Quốc và Việt Nam.
Thế giới đang bước vào thời kỳ phát triển mới mà những lợi thế
về nguồn nhân công rẻ và tài nguyên thiên nhiên ngày càng ít tác dụng.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế của mọi nước phụ thuốc nhiều vào áp dụng
khoa học công nghệ. Đổi mới công nghệ ngày càng chủ yếu tạo ra năng
lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Các nước đang phát triển trước tác động của cuộc cách mạng khoa
học công nghê đang gặp những thách đố gay gắt. Các nước này thường
giàu nguồn nhân lực, không thiếu tài nguyên thiên nhiên, có truyền thống
văn hóa phong phú những nghèo về tri thức khoa học và năng lực công
nghệ vì vậy thiếu sự cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Yêu cầu cải cách về kinh tế, chính trị, xã hội để thích nghi với sự
phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học – kỹ thuật và sự giao
lưu, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ theo xu thế quốc tế
hoá.
Trong bối cảnh trên, yêu cầu lịch sử đặt ra đối với tất cả các nước
là phải nhanh chóng cải cách về kinh tế, chính trị – xã hội để thích ứng.
15
SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

2. Nguyên nhân chủ quan
Đối nội: Từ năm 1959 đến năm 1978 Trung Quốc trải qua 20 năm
không ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội. Với việc thực hiện đường lối
“Ba ngọn cờ hồng” nền kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng hỗn loạn,
sản xuất giảm sút nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn…
Năm 1976 khi Chủ tịch Mao Trạch Đông qua đời đã để lại đất
nước sự bế tắc, thiếu thốn, sa sút, mất cân đối nghiêm trọng. Năm 1976
khi kết thúc “Cách mạng văn hóa” thu nhập quốc dân, sản xuất công
nghiệp và sản xuất nông nghiệp có mức tăng trưởng âm: - 2,7%; - 2,4%;
và - 0,4% so với năm 1975. Đời sống nhân dân giảm sút và vô cùng
khốn khổ. Trong 11 năm (1965 – 1976) thu nhập bình quân của công
nhân thành phố giảm 2,5%, còn thu nhập của nông dân trung bình theo
đầu người mỗi năm tăng không đến 1nhân dân tệ [2;15]. Trong nội bộ
Đảng và Nhà nước Trung Quốc diễn ra những bất đồng gay gắt về đường
lối, tranh chấp về quyền lực, đỉnh cao là cuộc “Đại cách mạng văn hóa
vô sản” (1966 – 1976)…
Đối ngoại: ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân Việt

Nam…xảy ra những cuộc xung đột biên giới giữa Trung Quốc với các
nước Ấn Độ, Liên Xô… Tháng 2 – 1972, Tổng thống Mĩ R.Níchxơn
sang thăm Trung Quốc, mở đầu quan hệ mới theo chiều hướng hoà dịu
giữa hai nước.
Nếu trước đây Trung Quốc coi trọng yếu tố an ninh và ý thức hệ,
coi lợi ích kinh tế là thứ yếu, đóng cửa xây dung, tự lực cánh sinh là
chính thì ngày nay Trung Quốc cho rằng: “Sự phát triển của Trung Quốc
không thể tách khỏi thế giới” [6;1].
Bối cảnh lịch sử trên đòi hỏi Trung Quốc tiến hành cải cách để
phù hợp với xu thế chung của thế giới và đưa đất nước thoát ra khỏi tình
trạng không ổn định.

16
SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

III.

ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI

1. Tình hình Trung Quốc trước cải cách

Tình hình kinh tế Trung Quốc từ ngày thành lập nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa (1/10/1949), cho đến trước cải cách – mở cửa kinh
tế trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm với nhiều hạn chế, yếu kém của
mô hình kế hoạch hóa tập trung. Thông qua những chính sách kinh tế sai
lầm, coi thường các quy luật khách quan của “ Đại nhảy vọt” và “Đại
cách mạng văn hóa vô sản”, nền kinh tế Trung Quốc đã rơi vào khủng

hoảng và sa sút. Hậu quả là, thu nhập quốc dân giảm, các ngành kinh tế
bị thụt lùi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Cuộc “Đại nhảy vọt”
và “Công xã nhân dân” đã gây ra lãng phí to lớn về sức người, sức của,
làm nền tài chính bị cạn kiệt… Trong mười năm cách mạng văn hóa, thu
nhập quốc dân của Trung Quốc đã bị thiệt hại khoảng 500 tỷ nhân dân tệ,
mức lương trung bình của công nhân viên giảm 4,9%, thu nhập bình
quân của nông dân không được cải thiện, thậm chí nhiều nơi rơi vào tình
trạng đói kém [2;17]. Trước những thực trạng trên, nền kinh tế Trung
Quốc đứng trước yêu cầu phải thực hiện cải cách một cách triệt để.
2. Cải cách – mở cửa kinh tế của Trung Quốc
2.1.

Đường lối, chính sách cải cách kinh tế
Công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc chính thức được phát
động từ Hội nghị TW 3 khóa XI tháng 12/1978. Với quan điểm “ giải
phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, đoàn kết nhất trí, hướng về phía trước”,
Hội nghị đã đánh giá lại điểm xuất phát của nền kinh tế Trung Quốc, phê
phán sai lầm của giai đoạn trước, đưa ra nhận thức mới về chủ nghĩa xã
hội. Trong các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo, những lý luận về cải cách, mở
cửa của Trung Quốc đã được khẳng định và tổng kết thành những quan
điểm lớn sau đây: Thực hiện “giải phóng tư tưởng” nhằm thay đổi nhận
thức về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc. Chủ trương đa dạng hóa
sở hữu, khôi phục và phát triển nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã
17

SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3


hội. Điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo hướng tập trung phát triển nông
nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành công nghiệp đáp ứng nhu
cầu cấp bách của đất nước. Đối với các ngành công nghiệp nặng, Trung
Quốc chủ trương giảm bớt quy mô và tốc độ phát triển, ưu tiên đầu tư
cho công nghiệp nhẹ và các ngành khác. Mở cửa, thu hút nguồn lực từ
bên ngoài. Cải cách thể chế chính trị gắn liền với cải cách kinh tế.
2.2.

Các giai đoạn thực hiện cải cách – mở cửa kinh tế của Trung Quốc

2.2.1. Giai đoạn bắt đầu cải cách (12/1978 – 10/1984)

Nhằm xây dựng một kỷ nguyên mới bắt đầu với một hội nghị của
Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 18/12/1978, đánh dấu bằng việc công
nhận trang trại tư nhân quy mô nhỏ, bước đầu tiên từ bỏ chính sách công
xã trong nông nghiệp và công nghiệp thời Mao Trạch Đông, dựng một
nền kinh tế bắt đầu từ nông nghiệp. Cải cách kinh tế Trung Quốc mở đầu
bằng việc thực hiện "chế độ trách nhiệm trong sản xuất nông nghiệp" mà
sau này được người ta gọi tắt là "khoán sản lượng tới hộ" vốn đã diễn ra
thực tế trước đó tại hai tỉnh An Huy và Tứ Xuyên. Với việc để cho người
nông dân được tự chủ làm ăn và được hưởng toàn bộ sản phẩm làm ra
trên mảnh đất được phân phối sau khi nộp cho nhà nước một số phần
trăm thu hoạch, tính tích cực sản xuất hay là nói sức sản xuất trong nông
nghiệp Trung Quốc đã được giải phóng mạnh mẽ. Thuế nông nghiệp đã
được xoá bỏ, con em nông dân một số vùng sâu vùng xa được phát sách
giáo khoa, được miễn học phí, chính sách hộ khẩu với những nông dân
vào thành phố làm thuê đã được nới lỏng... Chỉ trong một thời gian ngắn,
với diện tích canh tác chỉ chiếm 7% thế giới, nhưng Trung Quốc đã nuôi
được 22% dân số thế giới. Cho đến nay có thể nói đây là bước cải cách
mang tính đột phá, là thành tựu lớn nhất trong cải cách nông nghiệp ở

Trung Quốc. Năm 1979, Trung Quốc quyết định xây dựng các đặc khu
kinh tế, gồm ba đặc khu kinh tế là Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu tại
tỉnh Quảng Đông và đặc khu kinh tế Hạ Môn tại tỉnh Phúc Kiến. Việc
18
SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

quyết định xây dựng đặc khu nhằm mở rộng hợp tác kỹ thuật và giao lưu
kinh tế với nước ngoài, tận dụng FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài),
đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến vào Trung Quốc. Từ năm 1978-2007, FDI
tích lũy vượt 760 tỉ USD, đứng đầu thu hút FDI tại các nước đang phát
triển và đứng thứ hai thế giới. Năm 1982, Trung Quốc thực hiện khoán
sản lượng hoặc khoán toàn bộ đến hộ nông dân. Việc giải phóng năng lực
sản xuất cho hàng trăm triệu hộ nông dân đã mang lại bước nhảy vọt
trong kinh tế nông thôn. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng bình
quân 11,5%/năm trong giai đoạn 1980 - 1985, gấp 3,5 lần giai đoạn 1953
– 1980 [15;58]. Tuy nhiên, quá trình thực hiện khoán sản phẩm đã nảy
sinh những hạn chế, tiêu cực: tư tưởng bình quân chủ nghĩa trong khoán
ruộng đất, tâm lý “sợ thay đổi” trở nên khá phổ biến, công tác quản lý
ruộng đất trở nên hỗn loạn, cơ sở hạ tầng trong nông thôn yếu kém lại bị
phân tán… Để khắc phục tình trạng này, từ năm 1984 Trung Quốc đã
thực hiện những biện pháp hoàn thiện chế độ khoán sản phẩm, trong đó
có hai nội dung quan trọng: quy định thời gian khoán ruộng đất từ 15
năm trở lên và áp dụng chính sách “hộ chuyên”. Những biện pháp này đã
đưa công cuộc cải cách kinh tế ở nông thôn Trung Quốc đạt được những
kết quả ban đầu khá căn bản. Trên đà những thắng lợi đạt được ở khu
vực nông thôn, Trung Quốc bước đầu cải cách ở thành thị. Trong giai
đoạn này, cải cách ở thành thị chỉ dừng lại ở mức thăm dò thí điểm.

2.2.2. Giai đoạn mở rộng cải cách kinh tế (10/1984 – 9/1988)

Năm 1984, Trung Quốc mở cửa 14 thành phố ven biển nhằm thu
hút đầu tư nước ngoài và mở rộng điều kiện ngoại thương, buôn bán Giai
đoạn này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc đẩy mạnh cải cách
kinh tế ở Trung Quốc , cải cách toàn diện thể chế kinh tế của Trung
Quốc. Trọng tâm của giai đoạn này là cải cách kinh tế thành thị, đặt hiệu
quả kinh tế là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá các thành phần kinh tế,
tách chức năng quản lí nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh, tách
quyền sở hữu khỏi quyền kinh doanh, làm sống môi trường kinh doanh
19
SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

bằng việc đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, mở cửa thị trường, cải
cách hệ thống giá cả, tiếp tục cải cách kinh tế nông thôn theo hướng
thương phẩm hóa , hiện đại hóa.
2.2.3. Giai đoạn chấn chỉnh, sửa chữa và tiếp tục cải cách (10/1988 –

12/1991)
Trên cơ sở của việc phất triển kinh tế ở các giai đoạn trước, từ
năm 1988 Trung Quốc bắt đầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
Duyên Hải làm cho các tỉnh này có thể tham gia trực tiếp vào việc buôn
bán quốc tế. Theo Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc lựa chọn con đường cải
cách mở cửa và kiên trì theo con đường đó, do vậy Trung Quốc coi “ổn
định là trên hết” [9;416], “ Trung Quốc không cho phép loạn lạc ”
[9;418]. Trong giai đoạn này cũng tiếp tục cải cách về thể chế kinh tế,
cho phép ký hợp đồng mua bán thuê mướn và chuyển nhượng ruộng đất,

lập lại xí nghiệp, ban bố luật thuế và nhiều đạo luật khác. Đồng thời, tiếp
tục cải cách về tài chính, tài vụ, chỉnh Cải cách – mở cửa kinh tế Trung
Quốc đốn trật tự kinh tế, ổn định giá cả, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng. Đặc biệt trong thời gian này Trung Quốc đã tiến hành nhiều biện
pháp nhằm khắc phục tình trạng quá nóng của nền kinh tế, như: Thực thi
các biện pháp xiết chặt tiền tệ, thực hiện nghiêm ngặt chính sách bốn
giảm: giảm quy mô đầu tư, giảm tăng cầu xã hội, giảm lạm phát và giảm
tốc độ tăng trưởng công nghiệp. Trong đó, kìm hãm và loại bỏ lạm phát
là mục tiêu hàng đầu. Tiếp tục mở rộng quyền tự chủ cho các xí nghiệp,
điều chỉnh hệ thống giá cả theo hướng cơ chế thị trường, chuẩn bị những
điều kiện để hình thành thị trường chứng khoán. Những biện pháp trên
đã tỏ ra rất hiệu quả thông qua chỉ số tăng trưởng kinh tế hàng năm của
Trung Quốc trong giai đoạn này năm sau cao hơn năm trước, chẳng hạn
như: Ngoại thương của năm 1988 có doanh số 82 tỉ USD bằng 41 lần
năm 1978 [17;1]. Số hợp đồng liên doanh với nước ngoài cũng tăng lên
dưới nhiều hình thức và tỉ lệ khác nhau. Trung Quốc đã mở cửa nhiều
thành phố lớn, thị trấn cho người nước ngoài vào kinh doanh và du lịch.
20
SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

2.2.4. Giai đoạn bước đầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ

nghĩa (1/1991 – 11/2002)
Từ năm 1992 trở lại đây, các cải cách kinh tế ở Trung Quốc bước
vào giai đoạn mới: xây dựng thể chế kinh tế thị trường và tăng cường hội
nhập quốc tế. Đặc điểm chính của giai đoạn này là cải cách chuyển sang
xây dựng thể chế mới, từ điều chỉnh chính sách sang sáng tạo mới về chế

độ kinh tế, từ cải cách đơn lẻ sang cải cách đồng bộ, từ đột phá trọng
điểm chuyển sang kết hợp giữa thúc đẩy tổng thể với đột phá trọng điểm.
Trong giai đoạn này, Trung Quốc đã đưa ra chiến lược ''tăng tốc'' mà mục
tiêu là tăng gấp đôi giá trị tổng sản lượng quốc gia so với năm 1990 vào
năm 2000, tạo cơ sở cho giai đoạn cất cánh kinh tế trong những thập kỷ
đầu thế kỷ 21 và lại tiếp tục tăng GDP gấp bốn lần mức GDP năm 2000
vào năm 2020 [18;1].
Để thực hiện chiến lược mới, Trung Quốc ưu tiên hàng đầu nhiệm
vụ chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường với năm trụ cột
chính là ''hai hệ thống" gồm hệ thống điều tiết vĩ mô của nhà nước và hệ
thống thị trường thống nhất “ba chế độ” là: chế độ xí nghiệp hiện dại,
chế độ phân phối thu nhập mới và chế độ bảo hiểm xã hội; đề ra mục tiêu
ba bước để xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đồng
thời Trung Quốc thực hiện chính sách mở cửa toàn phương vị: “duyên
hải - ven biển - ven sông - các khu sâu trong nội địa”, thực hiện ở cả ba
miền: miền Đông, miền Trung và miền Tây, theo cả hai hướng: ven biển
và nội địa; cả hai thị trường: trong nước và quốc tế, xây dựng các khu
phát triển từ đơn lẻ thành quần thể mà trọng điểm là Thượng Hải, Quảng
Đông, Giang Tô, Sơn Đông, Đại Liên. Từ năm 1992, Trung Quốc đã tiến
hành một loạt các biện pháp cải cách mới mẻ như: cải cách tài chính tiền
tệ, cải cách hệ thống ngân hàng, cải cách thuế, cải cách hệ thống ngoại
thương, từng bước cải cách hệ thống giá cả, thống nhất tỷ giá hối đoái,
cải cách mạnh mẽ hơn các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xoá bỏ
thua lỗ, xây dựng chế dộ xí nghiệp hiện đại thích ứng với yêu cầu của
kinh tế thị trường, từng bước đưa các doanh nghiệp làm quen và thích
21
SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3


ứng với các yêu cầu mới sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới WTO [3;95].
2.2.5. Giai đoạn từ 2002 đến nay

Đây là giai đoạn tiếp tục cải cách sâu rộng nền kinh tế, đẩy mạnh
xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và bước đầu thực
hiện mục tiêu “tập trung lực lượng xây dựng toàn diện xã hội khá giả”.
Hiện nay, Trung Quốc đang trong giai đoạn cuối của quá trình thực hiện
kế hoạch 5 năm lần thứ 11 (2006 – 2010) và cả giai đoạn đến 2020 được
thông qua tại Hội nghị Trung ương khóa 5 tháng 12/2005, Đại hội lần
thứ XVI. Đây là một hội nghị then chốt. Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 có
một ý nghĩa vô cùng trọng đại bởi đây là thời kỳ Trung Quốc chuyển từ
xã hội nông thôn sang xã hội công nghiệp, từ xây dựng xã hội ấm no
sang xã hội khá giả, với những mục tiêu và nội dung sau:
Đảm bảo tăng trưởng bền vững, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,
phát triển một “xã hội hài hòa” có tầm quan trọng như phát triển kinh tế,
chính trị xã hội. Thay đổi phương thức tăng trưởng kinh tế: Chuyển từ
đầu tư và xuất khẩu vào công nghiệp, tài nguyên và nhân lực sang tiêu
dùng và đầu tư, công nghiệp và dịch vụ, nhân lực và khoa học kỹ thuật,
tăng trưởng có chất lượng cao. Thay đổi cơ cấu ngành nghề, tăng ngành
có hàm lượng khoa học cao. Phát triển cân đối giữa các vùng, các khu
vực, giữa thành thị và nông thôn. Giải quyết tốt vấn đề tam nông (nông
nghiệp, nông thôn và nông dân). Giải quyết tốt vấn đề ô nhiễm môi
trường, tạo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp và các vấn đề xã hội. Xây
dựng một xã hội công bằng, văn minh. Về đối ngoại thực hiện nguyên
tắc hòa bình và phát triển, hợp tác. Thực hiện khẩu hiệu: “An ninh với
láng giềng, giàu có với láng giềng, hợp tác với láng giềng”.

22

SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

IV.

Hạn chế và bài học kinh nghiệm từ cải cách – mở cửa kinh tế của
Trung Quốc đối với Việt Nam
Thời kỳ đầu, trước con đường mới mẻ, Trung Quốc thực hiện
những thử nghiệm kinh tế ở quy mô nhỏ, khi thành công được áp dụng
rộng ra toàn quốc. Bắt đầu, các thành phố và đặc khu ven biển có ưu thế
địa lý ở miền Đông tiến hành cải cách mở cửa, tạo ra các nhân tố đầu tư
tốt, điển hình, như xây dựng cơ sở hạ tầng, hậu cần và quy chế quản lý…
Miền Đông trở thành đầu tàu lôi kéo kinh tế cả nước. Sự cạnh tranh lành
mạnh giữa các thành phố, các khu vực kinh tế kích thích mạnh mẽ việc
tạo môi trường tốt cho kinh doanh và đầu tư nước ngoài. Trung Quốc cơ
bản hình thành cục diện phát triển kinh tế theo khu vực, mở rộng quy mô
ngành nghề với trình độ hiện đại hóa cao. Xuất khẩu và đầu tư trực tiếp
nước ngoài là hai động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế Trung Quốc.
Bên cạnh việc huy động mạnh mẽ vốn nước ngoài, phát huy tối đa nguồn
nhân công giá rẻ, Trung Quốc chú trọng tiếp thu công nghệ, đào tạo mới
nguồn nhân lực và học tập kinh nghiệm quản lý của các công ty nước
ngoài. Trung Quốc thành công nổi bật trong việc kết nối với thị trường
toàn cầu. Nền kinh tế năng động chuyển đổi cơ cấu sản xuất và công
nghệ, không ngừng thích ứng với thị trường toàn cầu. Từ hàng sơ cấp
sang thành phẩm công nghiệp, từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang
sản phẩm kỹ thuật cao. Đầu tư nước ngoài được ưu hóa. Trung Quốc đạt
được tiến bộ rõ rệt trên các lĩnh vực khoa học kỹ thuật công nghệ, thể
hiện nổi bật qua những thành tựu khám phá vũ trụ, tự lực phát triển các

lĩnh vực công nghiệp quốc phòng then chốt, phục vụ đắc lực cho hiện đại
hóa quốc phòng của nước này.
Về ngoại thương: Một là, trao quyền tự chủ kinh doanh ngoại
thương xuống các địa phương. Nhà nước đề ra các biện pháp cụ thể như:
cho phép các địa phương có thể thành lập các công ti ngoại thương địa
phương; các thành phố trực thuộc Trung ương và tỉnh cũng được phép
thành lập tổng công ti ngoại thương riêng; ưu tiên quyền hạn kinh doanh
23

SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

xuất - nhập khẩu cho hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông; đưa quyền sản
xuất kinh doanh và xuất khẩu cho các xí nghiệp sản xuất cỡ nhỏ và vừa;
từng bước mở rộng quyền kinh doanh cho các tổng công ti xuất - nhập
khẩu... Chính sách này đã mở ra một bước ngoặt mới quan trọng mới
quan trọng trong hoạt động ngoại thương của Trung Quốc, có tác dụng
mở rộng quan hệ mậu dịch. Hai là, đổi mới cơ chế quản lí ngoại thương.
Trước đây, các hoạt động ngoại thương được quản lí trực tiếp bằng các
công cụ hành chính đã gây cản trở rất lớn cho hoạt động ngoại thương.
Chính vì vậy, cần phải thay cơ chế quản lí này bằng một cơ chế quản lí
ngoại thương khác gọn nhẹ hơn và năng động hơn, phối hợp quản lí vĩ
mô với quản lí vi mô. Thông qua việc thành lập Bộ Ngoại thương với
những quyền hạn và chức năng của mình trong việc quản lí ngoại thương
ở cấp vĩ mô thì các tỉnh, thành phố, khu vực tự trị cũng thành lập các Uỷ
ban ngoại thương, Cục quản lí ngoại thương để lãnh đạo và quản lí công
tác ngoại thương của các địa phương. Ngoài ra, các công ty cũng từng
bước thay đổi chức năng quản lí sang kinh doanh, thực hiện kinh doanh

tổng hợp, đa dạng; được phép hoạt động riêng. Do đó, hoạt động buôn
bán với nước ngoài ở các địa phương phát triển khá mạnh. Ba là, thực
hiện chế độ khoán kinh doanh ngoại thương. Thể chế này thực hiện nới
lỏng quyền hạn kinh doanh, thông qua phương thức khoán chỉ tiêu hàng
hoá và thu nhập từ xuất - nhập khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp và
công ty xuất - nhập khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp và công ty xuất
- nhập khẩu ngoại thương. Hình thức khoán được thực hiện là: tổng công
ty ngoại thương trung ương giao khoán xuất nhập khẩu trực tiếp cho các
địa phương. Các địa phương chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan
đến xuất - nhập khẩu và giao nộp ngoại tệ lên trên, đảm bảo đầy đủ chỉ
tiêu và hiệu quả đối với Nhà nước. Sau khi đã nhận khoán, các địa
phương giao chỉ tiêu khoán xuống các doanh nghiệp và cơ sở hoạt động
ngoại thương trong tỉnh, thành phố và huyện. Để phối hợp với việc thực
hiện chế độ trách nhiệm khoán kinh doanh ngoại thương một cách đồng
24
SVTH: Dương Thị Trang


Niên luận năm thứ 3

bộ, Trung Quốc đã thực hiện cải cách một số thể chế chủ yếu có liên
quan đến sản xuất hàng hoá xuất - nhập khẩu và kinh doanh xuất - nhập
khẩu như cải cách thể chế kế hoạch ngoại thương, cải cách thể chế kinh
doanh xuất - nhập khẩu, cải cách thể chế phân phối lợi nhuận ngoại
thương, cải cách thể chế giữ lại ngoại tệ, cải cách thể chế tài vụ ngoại
thương. Bốn là, phát triển các cơ quan thương vụ ở nước ngoài. Cùng với
việc mở rộng quan hệ mậu dịch qua lại với các nước trên thế giới, hoạt
động ngoại thương của Trung Quốc ngày càng sôi động thông qua việc
thành lập các cơ quan thương vụ ở các nước có và chưa có quan hệ ngoại
giao. Những năm qua, các cơ quan này đã đóng góp rất lớn vào các hoạt

động đàm phán và kí kết các hiệp định mậu dịch, bảo vệ quyền lợi của
mình ở các nước sở tại, giúp đỡ các tổ chức hoạt động ngoại thương của
nước mình trong lĩnh vực trao đổi, buôn bán với nước ngoài. Ngoài ra,
Trung Quốc còn lập ra các văn phòng đại diện, công ty xuất - nhập khẩu
của mình, đặc biệt là bốn trung tâm mậu dịch lớn ở New York, Atlanta,
Panama, Hambourg.
Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Trung
Quốc. Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo cũng đã giành được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa
lịch sử. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Chính phủ Việt Nam
rất coi trọng tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, nhất là của Trung
Quốc. Từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay, lãnh đạo cấp
cao hai nước đã nhiều lần xác định sẽ tăng cường hợp tác, trao đổi kinh
nghiệm trên các lĩnh vực như xây dựng và phát triển kinh tế, quản lý đất
nước, xây dựng Đảng. Từ những kinh nghiệm cải cách mở cửa của Trung
Quốc, có thể rút ra một vài bài học có giá trị gợi ý cho Việt Nam trong
quá trình đổi mới và phát triển, vời tám nôi dung lớn: Kiên trì lập trường
mở cửa ra thế giới, coi toàn cầu hoá là cơ hội ngàn năm có một mà Việt
Nam phải nắm lấy để tiến lên. Xây dựng các đặc khu kinh tế, tạo đột phá
mạnh, tạo đà lan toả phát triển nhanh và rộng. Tăng trưởng nhanh và
25
SVTH: Dương Thị Trang


×