Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

NHẬN THỨC VỀ VIỆC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CỦA NHỮNG BẬC CHA MẸ CÓ CON Ở ĐỘ TUỔI VỊ THÀNH NIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.39 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
CẤP TRƯỜNG NĂM 2015

Tên công trình
NHẬN THỨC VỀ VIỆC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
CỦA NHỮNG BẬC CHA MẸ CÓ CON Ở ĐỘ TUỔI VỊ THÀNH NIÊN
( điểm cứu tại 11, Đoàn Kết, P.Bình Thọ, Q. Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh)

Sinh viên thực hiện:
Chủ nhiệm:
Thành viên:

LÊ THỊ THU HIỀN
HUỲNH THỊ PHẤN
YA POR YBON

1256150036
1256150072
1256150008

Người hướng dẫn: Ths. CAO VĂN QUANG – KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI

TP. HỒ CHÍ MINH tháng 10 năm 2014


MỤC LỤC



DANH MỤC VIẾT TẮT
GDGT.................................................................. Giáo dục giới tính
HCM.................................................................... Hồ Chí Minh
P........................................................................... Phường
PGS/TS …........................................................... Phó giáo sư/ Tiến sĩ
Q.......................................................................... Quận
RHIYA …………………………………………. Sáng kiến sức khỏe thanh thiếu niên
.
Châu Á
SKSS/TD …........................................................ Sức khỏe sinh sản/tình dục
Tp......................................................................... Thành phố
Ths ….................................................................. Thạc sĩ
VN........................................................................ Việt Nam
VTN..................................................................... Vị thành niên


4

TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
Công trình nghiên cứu được chia làm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung, kết
luận và khuyến nghị.
Phần 1: Mở đầu, phần này nhóm tác giả nêu lên tính cấp thiết của đề tài, tổng
quan tình hình nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ của đề tài, cơ sở lí luận, phương
pháp nghiên cứu, giới hạn của đề tài, đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
Phần 2: Nhóm tác giả chia ra làm 3 chương.
-

Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài. Nhóm đã tìm hiểu những khái niệm
từ nhiều nguồn khác nhau liên quan tới công trình để người đọc hiểu

được những thuật ngữ khó từ đó hiểu sâu hơn về đề tài. Trình bày còn có

-

giả thiết nghiên cứu và khung nghiên cứu.
Chương II: Nhóm đã chứng minh được việc giáo dục giới tính là cần
thiết. Sự khác nhau về suy nghĩ cũng như cách thức giảng dạy, bày tỏ về
vấn đề giới tính tình dục của các nước trên thế giới và nhất là ở Việt
Nam. Những nội dung cơ bản cũng như vai trò của gia đình, nhà trường,
xã hội tới việc giáo dục giới tính cho trẻ ở tuổi vị thành niên là hết sức
cần thiết. Nhóm tác giả cũng nêu ra được những nguyên nhân cũng như
tác hại sẽ xảy ra nếu trẻ không được giáo dục về giới tính một cách đúng

-

đắn và logic.
Chương III: Nhóm đã phát phiếu khảo sát tới các bậc phụ huynh ở Việt
Nam mà địa bàn khảo sát là trường trung học phổ thông Nguyễn Hữu
Huân tại phường Bình Thọ - Quận Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí Minh
về vấn đề nhận thức về việc giáo dục giới tính của các bậc cha mẹ có con
ở độ tuổi Vị thành niên. Phân tích và xử lý số liệu một cách hoàn chỉnh
và đúng phương pháp.

Phần kết luận và khuyến nghị: nhóm tác giả đã đưa ra những kết luận sau khi
nghiên cứu công trình và có một số khuyến nghị giúp các bậc phụ huynh có cái
nhìn toàn diện cũng như đúng đắn về việc giáo dục giới tính cho con cái một
cách tốt nhất tránh nhiều trường hợp đáng tiếc xảy ra.
MỞ ĐẦU



5

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay, tỷ lệ giáo dục giới tính trong trường học tại Việt Nam rất thấp (chỉ có
khoảng 0.3% trường Trung học phổ thông có đưa giáo dục giới tính vào giảng dạy cho
học sinh). Thiếu hụt kiến thức về giới tính và kỹ năng sống là nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến số lượng mang thai ở tuổi vị thành niên ngày càng tăng cao. Điều này ảnh
hưởng không tốt tới sức khỏe và khả năng học tập của thanh thiếu niên. Theo Hội Kế
hoạch hóa gia đình Việt Nam, bình quân mỗi năm có khoảng 300.000 ca nạo phá thai
ở độ tuổi 15-19 trong đó 80-90% là học sinh, sinh viên cao nhất so với các nước Đông
Nam Á và thứ 5 thế giới, và tỷ lệ vị thành niên có thai trong tổng số người mang thai
tăng liên tục qua các năm. Việc mang thai ở tuổi vị thành niên để lại những hệ lụy và
hậu quả nặng nề do các bà mẹ nhỏ tuổi còn quá trẻ, thể chất và tinh thần chưa phát
triển để sẵn sàng làm mẹ. Giáo dục giới tính dường như vẫn là một khái niệm mới
trong xã hội Việt Nam. Giáo dục giới tính, hiểu một cách đầy đủ là sự giáo dục về sinh
lý cơ thể, vệ sinh thân thể, sức khỏe sinh sản và tình dục. Thế nhưng ở nhiều gia đình,
các bà mẹ không giải thích được cho con những điều căn bản nhất về việc giáo dục
giới tính cho con cái. Cha mẹ cũng chưa hiểu được rằng nhu cầu tìm hiểu về giới tính
của con cái là điều tự nhiên, cần thiết và tất yếu nên họ không giáo dục cho con về vấn
đề này, nhiều người hiểu vấn đề nhưng vì ngại nên không muốn nói ra. Ở nước ta, giáo
dục giới tính không được hiểu theo đúng nghĩa của nó. Gia đình Việt Nam ngày nay
còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến và bởi vậy, việc giáo dục giới
tính hạn chế trong những lời răn dạy về đạo đức. Hoạt động giáo dục giới tính phổ
biến trong các gia đình chỉ dừng lại ở góc độ dạy vệ sinh thân thể ở tuổi dậy thì. Với
nhiều bậc phụ huynh, giáo dục tình dục hầu như chưa bao giờ được đặt ra. Trên thực tế
đã có nhiều trường hợp các em nam phạm tội hiếp dâm, các em nữ có thai ở tuổi vị
thành niên. Nhiều trẻ ở lứa tuổi 14-15, còn cắp sách đến trường, chưa có kinh nghiệm
về cuộc sống gia đình nhưng đã phải làm cha mẹ do thiếu hiểu biết về tình dục. Đây là
vấn đề làm đau đầu người lớn và người ta cho rằng nguyên nhân là do tác động từ kinh
tế thị trường, sự du nhập của văn hóa ngoại lai, chạy theo lối sống ăn chơi, suy đồi về

mặt đạo đức. Vì vậy “Giáo dục giới tính” là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo
dục về giải phẫu sinh dục, quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các quan hệ tình cảm,
quyền sinh sản và các trách nhiệm, biện pháp tránh thai, và các khía cạnh khác của thái


6

độ tình dục loài người. Những cách giáo dục giới tính thông thường là thông qua cha
mẹ, người chăm sóc, các chương trình trường học và các chiến dịch sức khoẻ cộng
đồng. Thế nhưng được biết trong một cuộc khảo sát gần 4700 thanh niên chỉ có 2,6%
cho biết kiến thức về giới tính được bố mẹ giáo dục. Trung tâm nghiên cứu tâm lý và
sự phát triển nhanh của thanh thiếu niên giải thích: “Các bậc phụ huynh luôn cho rằng
những vấn đề liên quan tới giới tính rất tế nhị. Mặt khác, con mình còn quá nhỏ để tìm
hiểu về những vấn đề ấy. Có khi chính phụ huynh cũng không nắm rõ kiến thức về
giới tính để diễn đạt cho con mình hiểu”. Chính vì thế mà nhiều trường hợp đáng tiếc
đã xảy ra như: Con mắc bệnh thủ dâm, quan hệ tình dục trước tuổi trưởng thành, biến
đổi giới tính… Bố mẹ thường tránh né, ngại ngùng khi trẻ hỏi về chuyện tình dục.
Chính vì các quan niệm sai lầm đó của các bậc phụ huynh mà không ít lần người
lớn “đỏ mặt” trước các thắc mắc của trẻ. Một phụ huynh đã chia sẻ rằng: “Dạo này, cô
con gái 5 tuổi của chị hay hỏi rất nhiều chuyện liên quan đến giới tính, sinh sản. Cháu
hỏi tại sao gái đi tè phải ngồi, con trai lại đứng, con sinh ra ở đâu… làm chị phải lôi
ngay chuyện khác để đánh lạc hướng con. Thế nhưng cháu vẫn đeo mẹ để hỏi bằng
được “Con sinh ra ở đâu?”. Bí quá chị trả lời: “Con sinh ra ở bệnh viện Từ Dũ”.”
Một phu huynh khác chia sẻ lâu nay, tôi vẫn vòng vo nói với cậu con trai 8 tuổi là
cháu sinh ra từ nách, từ rốn mẹ. Lần đó, hai mẹ con đến dự một chương trình tư vấn
giới tính, khi được chuyên gia hỏi: “Con biết mình được sinh ra từ đâu không?” tôi
ngỡ ngàng khi cháu đáp: “Con sinh ra từ “cái ấy” của mẹ”. Hóa ra cháu biết nhiều hơn
mình tưởng mà mình cứ né tránh.
Về phía nhà trường hiện nay những trường hợp nữ học sinh trở thành mẹ hay
những cái chết thương tâm bởi bản thân vướng vào con đường tình yêu, tình dục quá

sớm… không còn xa lạ. Đó là hệ quả tất yếu từ việc “xem nhẹ” chương trình giáo dục
giới tính và sức khỏe sinh sản trong trường học hiện nay. Chương trình giáo dục giới
tính hay bị bố mẹ né tránh cho rằng giáo dục giới tính là việc của nhà trường. Nhưng
thực tế hiện nay ở trường học, việc giáo dục giới tính chưa được thực hiện đến nơi đến
chốn nên học trò đang phải tiếp cận kiến thức một cách “nửa vời”. Nếu như ở cấp tiểu
học học sinh học về giới tính ở lớp 5 thì lên cấp Trung học cơ sở, phải đợi tới lớp 8,
giáo dục giới tính mới trở lại, chủ yếu nằm ở môn sinh học như cơ quan sinh dục
nam/nữ, thụ tinh/thụ thai và phát triển thụ thai, cơ sở khoa học của các biện pháp tránh
thai. Tới cấp Trung học phổ thông, học sinh đều đã bước vào tuổi trưởng thành thì


7

giáo dục giới tính lại chỉ được dạy theo kiểu “lồng ghép” qua các môn giáo dục công
dân, văn học, địa lý, sinh học. Theo cô giáo Nguyễn Thị Phương, Phó Hiệu trưởng
trường tiểu học Đoàn Thị Điểm, giáo dục giới tính bắt đầu được Bộ GD-ĐT đưa vào
giảng dạy cho học sinh từ lớp 5. Cụ thể, trong sách Khoa học lớp 5, các em đã được
học về “sinh sản", phân biệt giới tính "nam hay nữ", "Cơ thể chúng ta hình thành như
thế nào?". Tuy nhiên, đúng là cách tiếp cận vấn đề giới tính hiện chưa hấp dẫn và vẫn
mang nặng kiến thức khoa học nhiều hơn là tâm lý. Vì thế, học sinh càng học thì càng
tò mò. Chẳng hạn sau khi cô giáo dạy “quá trình tinh trùng kết hợp với trứng được gọi
là sự thụ tinh. Trứng đã được thụ tinh gọi là hợp tử", đa phần các em thắc mắc tiếp…
“làm thế nào để tinh trùng gặp được trứng?”. Theo cô Phương, học sinh tiểu học cần
kiến thức khoa học nhưng chỉ vừa phải. Quan trọng hơn là phải giúp các em sẵn sàng
với biến đổi cơ thể, biết tôn trọng bạn khác giới, đặc biệt là có kỹ năng phòng chống
xâm hại tình dục. Tiếc rằng, những điều này sách giáo khoa không hề nhắc tới.
Vì vậy cha mẹ phải quan tâm đến con cái ở lứa tuổi này để nhận biết đúng sự
thay đổi của con cái để có sự uốn nắn kịp thời . Để cho các em ít hoang mang lo lắng
trước sự thay đổi của bản thân, bởi vậy việc giáo dục giới tính cho các em là hết sức
cần thiết, và các bậc cha mẹ cũng không nên hiểu rằng giáo dục giới tính là chỉ cho trẻ

hiểu biết những cơ sở của lối sống tình dục. Giáo dục giới tính, như nhà nghiên cứu
V.Vladi- D.CapuXtin trong cuốn Giáo dục giới tính tuổi thơ đã chỉ rõ: “Giáo dục giới
tính là bộ phận không thể tách rời của giáo dục đạo đức, gắn liền với một loạt các vấn
đề giáo dục học và y học. Nó giúp cho trẻ hiểu biết được vai trò của con trai hoặc con
gái, của một thanh niên hoặc một phụ nữ, tiếp đó là phải hiểu vai trò của người đàn
ông hoặc người đàn bà, cả vai trò của người chồng hoặc người vợ, người bố hoặc
người mẹ cho phù hợp với các nguyên tắc đạo đức xã hội…” Cũng như giáo dục nói
chung, giáo dục giới tính phải được tiến hành có phân hoá tuỳ theo từng lứa tuổi, có
khối lượng và hình thức phù hợp để đứa trẻ có thể nhận thức được. Muốn giáo dục
đúng thì các bậc cha mẹ phải nắm bắt được và biết tất cả các giai đoạn phát triển thông
thường và những dấu hiệu không bình thường. Để cho đứa trẻ sớm có những hiểu biết
về giới tính của mình thì ngay từ lúc đang còn nhỏ.

2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu.


8

Liên quan đến đề tài, đã có những bài viết, công trình nghiên cứu sau:
Bài nghiên cứu '' Sức khỏe sinh sản thanh thiếu niên Việt Nam '' nằm trong
chương trình điều tra ban đầu của RHIYA ( Sáng kiến sức khỏe thanh thiếu niên châu
Á ) do PGS.TS Nguyễn Thị Thiềng, ThS Lưu Bích Ngọc thực hiện, đã chỉ ra những
sai lầm trong kiến thức về giới tính nói chung và sức khỏe sinh sản nói riêng. Đề tài
được thực hiện vào năm 2006, với đối tượng là thanh thiếu niên ở độ tuổi từ 15-20.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các kiến thức hợp về sức khỏe sinh sản-tình dục,
tránh thai và các bệnh liên quan đến đường tình dục chỉ được xác định ở mức biết ban
đầu, chỉ có 21% thanh thiếu niên được đánh giá là có kiến thức này. Trong đó, kiến
thức về sinh sản và phòng tránh thai được đánh giá là kém nhất trong các kiến thức về
sức khỏe sinh sản, chỉ có 46.7% thanh thiếu niên có kiến thức đúng về sinh sản. Kiến
thức về bệnh liên quan đến đường tình dục là kém thứ hai chỉ có 1/3 thanh thiếu niên

được hỏi nêu được tên ba loại bệnh trở lên, rất ít trong số đó biết được cách chữa trị và
nơi chữa trị. Kiến thức về về sử dụng biện pháp tránh thai được đánh giá là kém thứ
ba. Từ những kết quả nghiên cứu cứu này, đề tài đã cho chúng ta một bức tranh tổng
quát về kiến thức, thái độ, hành vi về sức khỏe sinh sản.
Bài viết “Tại sao cần giáo dục giới tính cho lứa tuổi Vị thành niên” của trang
cẩm nang sức khỏe1 cũng đã có bài viết nêu rõ một số nguyên nhân để chứng minh
rằng việc giáo dục kiến thức giới tính ở độ tuổi VTN là rất quan trọng. Trong bài viết
này tác giả cũng đã đưa ra những con số cụ thể của việc trẻ không được GDGT như:
“Việt Nam là nước đứng thứ 5 thế giới về tình trạng nạo phá thai ở tuổi vị thành niên.
Theo số liệu của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, tỷ lệ trẻ vị thành niên có thai trong
tổng số người mang thai tăng liên tục qua các năm: Năm 2010 là 2,9%, năm 2011 là
3,1% và đến năm 2012 là 3,2% tương ứng với tỷ lệ phá thai ở lứa tuổi này là 2,2%
năm 2010, 2,4% năm 2011 và 2,3% năm 2012.” Những số liệu cụ thể cũng đã phần
nào minh chứng cho việc giáo dục giới tính ở trẻ VTN là rất quan trọng và cần
thiết.Giúp các em trong bị đầy đủ các kiến thức cơ bản nhất về vấn đề giới tính chính
là một cách phòng tránh cho các em những trường hợp đáng tiếc xảy ra.
Bài viết “Người lớn là rào cản...khi giáo dục giới tính” 2 của tác giả Lê Hiền
đăng trên báo Thanhnien online, bằng việc những số liệu nghiên cứu của Trung tâm
1

/>
2 />

9

Sáng kiến sức khỏe và dân số tác giả đã chứng minh việc thiếu hụt kiến thức về giới
tính ở độ tuổi vị thành niên là rất lớn, đồng thời cũng chỉ ra những sai lầm trong quan
niệm của cha mẹ và thầy cô trong việc giáo dục giới tính. Theo tác giả việc giáo dục
giới tính trong nhà trường còn mang tính hàn lâm, khô cứng, không thiết thực, khiến
cho nó trở nên nhàm chán không thu hút được sự quan tâm và hứng thú của học sinh.

Vì thế, các em có xu hướng tự tìm hiểu, khám phá, đây chính là nguyên nhân dẫn đến
những suy nghĩ và hành vi lệch lạc về giới tính. Bài viết cũng thể hiện những mong
muốn của trẻ trong việc tiếp cận với những thông tin về giới, họ mong muốn người lớn
coi chuyện tình yêu tình dục tuổi vị thành niên một cách nghiêm túc. Thông qua bài
viết tác giả muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục về giới tính, mà vai trò
của người lớn đối với vấn đề này.
Trang vinaresearch.net đã có một khảo sát dựa trên nhóm đáp viên trực tuyến
Vinaresearch về vấn đề “giáo dục giới tính cho trẻ” 3. Ở đây trang đã khảo sát trực
tuyến các bậc cha mẹ độ tuổi từ độ tuổi 20 với 862 mẫu hợp lệ và cho ra các kết quả,
số liệu cụ thể rõ ràng và chi tiết. Bài nghiên cứu với những câu hỏi thiết thực về vấn đề
liên quan tới vấn đề cha mẹ giáo dục giới tính cho con cái mặt khác mẫu nghên cứu
cũng đã cho thấy được rằng các bậc phụ huynh chỉ thỉnh thoảng hay lúc con cái thắc
mắc về vấn đề giới tính mới bày tỏ, nói cho con hiểu nhưng mà vẫn không giải thích tỉ
mỉ cho con cái, nhưng giải thích cũng chỉ dựa vào kinh nghiệm và hiểu biết của bản
thân. Hầu hết các bậc phụ huynh ủng hộ vấn đề GDGT trong trường học nhưng cũng
có một bộ phận các phụ huynh không đồng ý vì sợ ảnh hưởng tới tâm lý trẻ nếu GDGT
quá sớm. Bài khảo sát cũng đã cho ta thấy được cha mẹ cũng đã có nhiều xu hướng
nhìn nhận tích cực về vấn đề GTGT cho trẻ, giúp trẻ nhận thức tốt về vấn đề giới tính.
Thà vẽ cho hươu chạy đúng đường còn hơn là để hươu chạy sai đường.
Một bài viết thuộc bản quyền của viện Xã hội học4 của tác giả Nguyễn Thị Tố
Quyên viết về vấn đề “giáo dục giới tính cho trẻ em trong gia đình”. Tác giả đã đề cập
đến nhiều nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em không được giáo dục giới tính từ cha mẹ,
nhà trường do tâm lý ngại ngùng nên họ sẽ im lặng trước các câu hỏi liên quan tới giới
tính mà các em thắc mắc thì các em sẽ tò mò mà tìm đếm các mạng xã hội, sách báo. ..
để thỏa chí tò mò. Ngoài ra tác giả cũng đã nêu ra mục đích cuối cùng mà giáo dục
giới tính mang lại cho các em đó chính là trang bị những kiến thức tâm lý đặc điểm
3
4

/>bản quyền của viện Xã hội học số 1 (89), 2005- 85 của tác giả Nguyễn Thị Tố Quyên



10

của mỗi giới. Tác giả cũng đã có những số liệu cụ thể về tính cần thiết cũng như mức
độ hiểu biết về giới tính của các bậc cha mẹ trong đó thì phần lớn cha mẹ vẫn ý thức
được tầm quan trọng của những cuộc nói chuyện trao đổi trực tiếp với con cái. Nhưng
cũng có một số bộ phận cha mẹ còn chưa ý thức được tầm quan trọng của GDGT cho
thấy họ vẫn còn có những tầm nhìn hạn hẹp, theo xu hướng truyền thống hơn là hiện
đại. Thông điệp mà tác giả giửi đến đó là cha mẹ cần nghiêm túc, tế nhị trong giảng
dạy về giới tính cho con trẻ và không được đánh trống lảng hay bỏ mặc trẻ trong
những vấn đề nhạy cảm như giáo dục giới tính.
ThS. Đào Thị Vân Anh thuộc trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Phổ thông cũng
đã có bài viết “Cha mẹ với việc giáo dục giới tính trong gia đình”5. Tác giả đã đưa ra
những dẫn chứng cụ thể cần thiết về việc GDGT cho trẻ, những nguyên nhân khách
quan và chủ quan, hậu quả của việc GDGT không đúng cách. Tác giả cũng đã nói
rằng: “Giáo dục tình dục thật ra có mục đích duy nhất là chuẩn bị cho con cái một tâm
lý phù hợp nhất trong cuộc sống yêu đương để rồi có một đời sống tình dục thực sự hài
lòng, thực sự hạnh phúc trong quan hệ vợ chồng sau này.” Việc cha mẹ GDGT hay
không GDGT cho con cái và giáo dục thế nào cho đúng và hiệu quả sẽ ảnh hưởng rất
lớn tới việc phát triển tâm lý cũng như tình dục của trẻ bị sai lệch, hiểu sai về vấn đề
giới tính thì sẽ rất dễ mắc phải những hậu quả khôn lường. Tác giả cũng đã kết luận
rằng cần giáo dục giới tính cho trẻ tự nhiên, bình thường như các chương trình giáo
dục khác và phải có sự nối kết chặt chẽ hai chiều giữa cha mẹ và con cái. Những phân
tích cụ thể của Ths. Đào Thị Vân Anh đã cho ta thấy tầm quan trọng của cha mẹ về
vấn đề giáo dục giới tính đã viết cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện hơn về việc định hướng và
nhìn nhận, suy nghĩ đúng đắn của kến thức về giới.
Bài viết “Giáo dục giới tính và thái độ của người lớn” 6 của TS Thụy Anh đăng
trên wedsite Tuoitre.vn. Bài viết đã cho chúng ta thấy, ngay từ khi còn rất nhỏ trẻ đã
có những thắc mắc, tò mò về vấn đề giới tính thông qua các câu được đặt ra cho bố

mẹ. Đó chính là những tìm hiểu đầu tiên về giới tính chính đáng cần được bố mẹ giải
đáp rõ ràng, khéo léo, dễ hiểu chứ không phải lảng tránh hoặc lờ đi. Bắt đầu từ những
hỏi - đáp như thế, bố mẹ có thể giáo dục giới tính cho con rất nhẹ nhàng và tự nhiên.
Nếu bố mẹ có thói quen bỏ qua không đối mặt với những câu hỏi hóc búa của con
5
6

/> />

11

hoặc những câu hỏi liên quan đến các vấn đề tế nhị, không sớm thì muộn đứa trẻ sẽ
tiếp cận nguồn thông tin khác để thỏa mãn tò mò của mình. Vô hình chung, đây chính
là bước đầu tiên cho việc chính các phụ huynh bị sốc sau này khi bé con khoe những
kiến thức thu nhặt được bên ngoài, từ các nguồn đáng tin hoặc chưa được kiểm chứng.
Cũng theo tác giả vai trò của bố mẹ hoặc giáo viên rất quan trọng. Họ phải vượt qua
được cảm giác ngại ngùng khi bàn vấn đề này với trẻ và tỏ ra rất bình thản, đúng mực,
không hoảng hốt. Thái độ đó khiến trẻ nhìn vấn đề một cách khoa học hơn và cũng
không quá lo sợ khi nhìn ra thế giới. Thêm vào đó, người lớn phải có thái độ chấp
nhận và đối mặt với bất kỳ vấn đề gì trẻ nêu ra, cũng lại một cách bình thản, để giữa
trẻ và người lớn có thể có những thảo luận thật sự, chân thành, không e ngại, cũng
không tự đánh lừa mình rằng “con/học trò của mình còn quá bé, chưa biết đến điều
này đâu” Thái độ tôn trọng, bình tĩnh, tiếp nhận vấn đề và sẵn sàng cùng giải quyết bất
kỳ vấn đề nào của trẻ là thái độ cần có trong giáo dục giới tính.
Thông qua những bài viết, công trình nghiên cứu này. Đã cung cấp cho chúng
tôi một số thông tin để phục vụ cho đề tài như là thực trạng việc giáo dục giới tính
hiện nay, những sai lầm trong quan niệm của những bậc cha mẹ, đồng thời còn giúp
chúng tôi giải thích được một số nguyên nhân dẫn đến việc ngày càng nhiều trẻ những
nhận thức sai lệch về giới tính. Từ đó, giúp đưa ra một số kiến nghị, giải pháp giúp các
nhà lãnh đạo có những chiến lược phù làm giảm bớt tình trạng trên


3. Lý do chọn đề tài, mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài:
Lý do chọn đề tài:
Theo báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm (2001-2006) đạt 7% . Tổng vốn
đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn năm 2001-2005, đạt 42.9% GDP. Mặc
dù khủng hoảng kinh tế và suy thoái toàn cầu nhưng thu hút vốn đấu tư nước ngoài sản
phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá trị thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26
lần năm 2000, GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Hầu hết các ngành, các lĩnh
vực kinh tế đều có bước phát triển khá. Xóa đói giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội
đạt kết quả tích cực. Trong 5 năm đã giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao
động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm 9,5%, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%...Với


12

những con số ấn tượng mà nước ta đã đạt được trong hơn một thập kỉ thì đây chính là
những thành tựu đáng kể về sự phát triển kinh tế xã hội trong kỷ nguyên mới… Tuy
nhiên, chính sách hội nhập và mở cửa cũng làm phát sinh và gia tăng những thách thức
mới về văn hóa xã hội như : tham nhũng, ma túy, mại dâm, lây nhiễm HIV… Điều này
đã gây ra những tác động lớn đối với trật tự xã hội ở Việt Nam và ảnh hưởng mạnh mẽ
tới lớp trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước.
Dù bất cứ quốc gia nào thì vai trò của người trẻ luôn được khẳng định, họ là
tiềm năng to lớn quyết định sự thịnh vượng của mỗi quốc gia, dân tộc, chính vậy mà
họ luôn nhận được sự quan tâm hàng đầu của nhà nước và toàn xã hội trong việc chăm
sóc, bảo vệ, đặc biệt là việc giáo dục. Ở đây việc giáo dục không chỉ dừng lại ở việc
giáo dục nhân cách, nhận thức, hành vi, hay văn hóa. Mà việc giáo dục về giới tính
cũng rất được coi trọng nhất là ở các nước phương Tây như:
Ở Hà Lan7, hầu như mọi trường cấp II đều có các bài giảng về giáo dục giới
tính một phần của môn sinh học, hơn một nửa trường tiểu học có thảo luận về tình dục

và tránh thai. Truyền thông đã khuyến khích đối thoại công khai và chương trình chăm
sóc sức khỏe đảm bảo một cách tiếp cận bí mật và không phán xét. Hà Lan có tỉ lệ
mang thai vị thành niên ở hàng thấp nhất thế giới, và cách tiếp cận của Hà Lan thường
được các nước khác coi là hình mẫu.
Ở Thụy Điển8, giáo dục giới tính trở thành chương trình bắt buộc trong giáo dục
học đường từ năm 1956. Môn học được bắt đầu từ tuổi lên 7-10 và tiếp tục ở những
lớp cao hơn, có liên hệ chặt chẽ với những môn như sinh học và lịch sử. Ở Anh và Xứ
Wales, giáo dục giới tính trong trường học không phải là môn bắt buộc do có nhiều
bậc cha mẹ e ngại không muốn cho con tham gia. Chương trình nhắm vào việc giảng
dạy hệ thống sinh sản, sự phát triển của bào thai và những thay đổi tâm sinh lý của tuổi
thiếu niên.
Còn ở nước ta, do đặc trưng văn hóa và nhận thức của người dân còn hạn chế,
nên vấn đề giới tính được xem là tế nhị nên thường lảng tránh và không đề cập công
khai.
Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc mỗi năm tại Việt Nam trung
bình có khoảng 300.000 ca nạo phá thai, tỉ lệ nạo phá thai cao nhất trong khu vực
7
8

/> />

13

Đông Nam Á và được xếp thứ 5 trên thế giới 9. Điều đáng buồn nhất là tỉ lệ nạo phá
thai lại rơi chủ yếu vào lứa tuổi vị thành niên. Nếu chúng ta không thay đổi quan niệm
và cách tiếp cận ngay bây giờ thì con số ấy sẽ còn ra tăng vào những năm tiếp theo.
Nhận thấy tầm quan trọng và cần thiết của việc giáo dục giới tính hiện nay, nên
nhóm chúng tôi đã thực hiện đề tài '' Nhận thức về việc giáo dục giới tính của những
bậc cha mẹ có con ở độ tuổi vị thành niên ( điểm cứu P.Bình Thọ, Q.Thủ Đức, Tp. Hồ
Chí Minh )'' nhằm tìm hiểu về mức độ nhận thức của những bậc cha mẹ về vấn đề giới

tính, những lý do gì khiến họ lảng tránh vấn nó. Từ đó đưa ra những kiến nghị và giải
pháp góp phần thay đổi cách suy nghĩ của họ một cách tích cực.
Mục tiêu của đề tài:
Mục tiêu tổng quát
Tìm hiểu nhận thức thực trạng về việc giáo dục giới tính của những bậc cha mẹ
có con ở độ tuổi vị thành niên.
Mục tiêu cụ thể
Với đề tài '' Nhận thức về việc giáo dục giới tính của những bậc cha mẹ có con
ở độ tuổi vị thành niên'' chúng tôi mong muốn đạt được những kết quả sau đây:
Tìm hiểu nhận thức thực trạng việc giáo dục giới tính của những người làm cha mẹ có
con ở độ tuổi vị thành niên.
Đánh giá mức độ coi trọng việc giáo dục về giới của những người làm cha mẹ
Tìm hiểu những khó khăn trở ngại của cha mẹ trong việc giáo dục giới tính cho con cái
của họ từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị. Giúp các cơ quan có cái nhìn tổng
quát vế vấn đề giáo dục giới tính nhằm đưa ra những chiến lược kế hoạch can thiêp kịp
thời.
Nhiệm vụ của đề tài:

Vì đề tài của chúng tôi là “ nhận thức về việc giáo dục giới tính của những bậc
cha mẹ có con ở độ tuổi vị thành niên” nên nhiệm vụ của đề tài chúng bao gồm như
sau: Nhiệm vụ đầu tiên: Phải làm cho các bậc cha mẹ nhận thức tốt và rõ ràng hơn về
việc giáo dục giới tính ở lứa tuổi vị thành niên. Bởi vì khi bậc cha mẹ càng hiểu rõ về
việc giáo dục giới tính thì việc giáo dục giới tính mới mang tính hiệu quả thiết thực và
xóa bỏ những suy nghĩ sai lệch về việc giáo dục giới tính.
9 />

14

Nhiệm vụ thứ 2: Là đề tài phải nêu lên tầm quan trọng của việc giáo dục giới
tính không những ở trong gia đình mà còn ở trường học và trong xã hội cũng là những

môi trường để thực thi việc giáo dục giới tính. Như ta biết gia đình là môi trường xã
hội hóa đầu tiên của con người, trong đó bố mẹ là nhân tố quan trọng nhất đến sự phát
triển của con cái, cũng qua nghiên cứu chúng tôi cho thấy được tầm quan trọng của
môi trường gia đình trong việc giáo dục giới tính (chiếm 45%). Ngoài ra không ít
những bậc cha mẹ chọn môi trường trường học là nơi để giáo dục giới tính vì họ cho
rằng trường học là nơi giáo dục tốt nhất (chiếm 51%), và đây là môi trường quan trọng
và hiểu quả không kém so với gia đình. Gia đình và trường học nơi có điều kiện giáo
dục tốt nhất, tuy nhiên các tổ chức xã hội cũng mang lại sự hỗ trợ không nhỏ cho qáu
trình thay đổi nhận thức của mọi người về giáo dục giới tính theo phương thức thẩm
thấu từ ngoài vào trong (chiếm 7%).
Nhiệm vụ thứ 3: Nêu lên nguyên nhân và tác hại khi trẻ vị thành niên thiếu kiến
thức về giáo dục giới tính. Khi xem về nhiêm vụ này của đề tài ta thấy khi các em
không được giáo dục đầy đủ, kém hiểu biết về giới tính, không làm chủ được một số
bản năng, thì sẽ dễ đưa các em sa vào các con đường sai trái. Chỉ ra được một số
nguyên nhân chủ yếu như là thiếu hiểu biết về nguyên nhân, ảnh hưởng phim ảnh,
không được gai đình quan tâm, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, ảnh hưởng qua
lối sống du nhập từ nước ngoài…

4.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

4.1.

Cơ sở lý luận của đề tài:

4.1.1. ''Lý thuyết xã hội hóa”10.
Xã hội hóa là quá trình học tập văn hóa của mọi người và phong cách sống
trong nền văn hóa ấy. Đối với cá nhân, xã hội hóa mang lại những động lực cần thiết
cho hoạt động và tham gia xã hội. Đối với cá nhân, xã hội hóa là những phương tiện

để đạt được sự tương tác văn hóa của xã hội thông qua việc đưa các thành viên cá nhân
vào các luật lệ, cách ứng xử, giá trị, động lực của xã hội. Đây chính là ý tưởng tập hợp
của Clausen (1968). Từ nền tảng các lý thuyết xã hội hóa đã có từ Platon, Montaigne
và Roussean, Clausen định nghĩa: ''Xã hội hóa là khiến con người có tính xã hội, thích
10 Trích:giáo trình công tác xã hội cá nhân, Lê Chí An, Đại học Mở Tp. Hồ Chí Minh


15

hợp với xã hội''.
Ely Chinoy (1961) xã hội hóa gồm 2 chức năng chủ yếu:
+

Chuẩn bị cho cá nhân những vai trò mà người ấy sẽ thực hiện, cung cấp

nội dung cấn thiết vế thói quen tín ngưỡng, các giá trị, mẫu thức về cách ứng dụng tình
cảm, cách cảm nhận, các kỹ năng và kiến thức cơ bản.
+

Truyền thông những nội dung văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác để

duy trì sự bền vững và tương ứng về văn hóa.
Từ điển American Heritage đã định nghĩa xã hội hóa một cách tổng quát. Xã
hội hóa là '' Một quá trình tương tác, nhờ đó cá nhân đạt được sự nhận biết mình và các
chuẩn tác, giá trị, cách ứng sử và các kỹ năng xã hội thích hợp với vị trí của mình. Một
hành động hoặc một quá trình hành động tạo tính xã hội''.
Xã hội hóa sẽ mang đến cho cá nhân những kỹ năng cần thiết mà xã hội đòi hỏi,
nhờ các kỹ năng đó có đủ khả năng hòa nhập mà chính họ đang sống và làm việc. Quá
trình xã hội hóa có thể đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều.
Quá trình xã hội hóa diễn ra ở ba quá trình: giai đoạn gia đình, giai đoạn nhà trường,

giai đoạn mà người ta thực sự bước vào đời. Đây là ba tác nhân giúp cá nhân hòa nhập
vào xã hội. Trong quá trình xã hội hóa của một cá nhân chúng ta cần chú ý đến quá
trình đứt đoạn xã hội hóa thì phải tái hòa nhập dù vậy ở đây xảy ra trường hợp nếu cá
nhân đã bị đứt đoạn xã hội hóa quá lâu thì việc tái hòa nhập là một khó khăn.
Lý thuyết này cho phép chúng ta tìm hiểu về đề tài nhận thức của cha mẹ về
việc giáo dục giới tính cho con của họ. Dưới góc độ tìm hiểu những yếu tố tác động và
ảnh hưởng của văn hóa lên nhận thức của cha mẹ trong việc giáo dục giới tính cho con
cái của họ chẳng hạn như trình độ học vấn, thu nhập, lối sống văn hóa... Từ đó hình
thành nên những đặc điểm trong suy nghĩ của bậc cha mẹ về vấn đề giới tính. Có thể
nói đa số những người làm cha mẹ ở Việt Nam đều đánh giá sai về tầm quan trọng của
việc giáo dục giới tính, họ coi giới tính là một vấn đề tế nhị nên thường lảng trách khi
con cái của họ đề cập đến nó.
Theo Clausen quá trình xã hội hóa chia làm ba giai đoạn trong đó giai đoạn đầu
là từ gia đình. Chính gia đình là nơi cung cấp những kiến thức đầu tiên cho cá nhân để
hòa nhập vậy nên việc thay đổi suy nghĩ sai lệch về vấn đề giáo dục giới tính là rất cần
thiết.


16

4.1.2. “Lý thuyết nhu cầu của Maslow”11
Theo thuyết nhu cầu của Maslow, nhu cầu tự nhiên của con người được chia
thành các thang bậc khác nhau từ đáy lên tới đỉnh phản ánh mức độ cơ bản của nó với
sự tồn tại và phát triển của con người vừa là một sinh vật tự nhiên vừa là một thực thể
xã hội.
Theo Maslow về căn bản nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm chính:
nhu cầu căn bản và nhu cầu bậc cao. Nhu cầu căn bản liên quan đến vấn đề thể lý của
con người như mong muốn có thức ăn, nước uống, được ngủ nghỉ, tình cảm...Những
nhu cầu cơ bản này đều là những nhu cầu không thể thiếu vì nếu con người không
được đáp ứng đủ những nhu cầu này, họ sẽ không thể tồn tại được nên họ sẽ đấu tranh

để dành được và tồn tại trong cuộc sống hằng ngày. Các nhu cầu cao hơn các nhu cầu
trên gọi là nhu cầu bậc cao. Những nhu cầu này bao gồm nhiều nhân tố tinh thần sự
đòi hỏi công bằng, an tâm vui vẻ, địa vị xã hội, sự tôn trọng... Trong đó các nhu cầu cơ
bản thường được ưu tiên chú ý trước so với những nhu cầu bậc cao này.
Chi tiết nội dung tháp nhu cầu này: Cấu trúc của tháp nhu cầu này gồm 5 tầng,
trong đó thứ những nhu cầu con người được liệt theo một cấu trúc trật tự thứ bậc hình
kim tự pháp.
Những nhu cầu căn bản ở phía đáy tháp, phải được thỏa mãn trước khi nghĩ đến
các nhu cầu khác. Các nhu cầu bậc cao hơn sẽ nảy sinh và mong muốn và thỏa mãn
ngày càng mãnh liệt khi tất cả các nhu cầu ở dưới đã được đáp ứng đầy đủ.
Năm tầng tháp trong nhu cầu của Maslow:
+

Tầng thứ nhất : Các nhu cầu căn bản nhất về '' thể lý'' đó là thức ăn, nước

uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.
+

Tầng thứ hai : Nhu cầu an toàn, cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân

thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
+

Tầng thứ ba : Nhu cầu giao lưu tình cảm và được trực thuộc, muốn được

trong một cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.
+

Tầng thứ tư : Nhu cầu được quý trọng, kính mến, cần có cảm giác được


tôn trọng, kính mến, được tin tưởng.
+

Tầng thứ năm : Nhu cầu về tự thể hiện bản thân, muốn sáng tạo được thể

hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công nhận là thành công.
11 Trích:


17

Cấp độ thấp nhất và cơ bản nhất là nhu cầu thể chất hay thể xác của con người
gồm nhu cầu ăn, mặc, ở... Cấp độ tiếp theo là nhu cầu an toàn hay nhu cầu bảo vệ.
Cao hơn nhu cầu an toàn là nhu cầu quan hệ giữa người với người, quan hệ con người
với tổ chức với tự nhiên. Con người luôn có nhu cầu được yêu thương gắn bó, nhận
được sự chú ý. Thuyết nhu cầu sắp xếp nhu cầu con người từ thấp đến cao. Những nhu
cầu ở cấp cao hơn sẽ thỏa mãn khi nhu cầu cấp thiết hơn được đáp ứng.
Đề tài sử dụng thuyết nhu cầu của Maslow để xem xét nhu cầu của trẻ vị thành
niên. Trong đó nhu cầu tình dục trong tháp nhu cầu được xếp ở đáy. Chính vì thế, trẻ ở
độ tuổi vị thành niên rất cần được trang bị những kiến thức liên quan về giới như quan
hệ tình dục, kiến thức sinh sản...

4.2.

Phương pháp nghiên cứu:
Nhằm mục đích tìm hiểu về nhận thức trong việc giáo dục giới tính của những

bậc cha mẹ có con ở độ tuổi vị thành niên, đang cư trú tại 11, Đoàn Kết, P.Bình Thọ,
Q. Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh, chúng tôi tiến hành bằng các phương pháp nghiên cứu,
thu thập thông tin sau đây:

Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội.
Phương pháp nghiên cứu định lượng ( bảng hỏi ) là chính kết hợp với phương
pháp nghiên cứu định tính ( phỏng vấn sâu )
Xử lý thô bằng tay và tổng hợp những số liệu có sẵn được sử dụng theo mục
tiêu của đề tài.
Mẫu nghiên cứu : Tổng số mẫu là 100 ( bảng hỏi ) (dùng mẫu phi xác suất) và 5
trường hợp phỏng vấn sâu. Đối tượng phát bảng hỏi là những người có con ở độ tuổi
vị thành niên đang sinh sống và làm việc tại 11, Đoàn Kết, P.Bình Thọ, Q. Thủ Đức,
Tp. Hồ Chí Minh
Cách tiếp cận lấy mẫu : phi xác suất.
Khó khăn trong việc lấy mẫu. Do không có nhiều thời gian tiếp cận với đối
tượng được lựa chọn và thông tin trong đề tài nghiên cứu này dựa vào những thông tin
có được do các đối tượng cung cấp nhưng thông tin có thể không đầy đủ như mong
muốn vì nhiều lý do tế nhị và nhiều trở ngại trong việc trao đổi thông tin nên nhóm
gặp rất nhiều khó khăn khi tiến hành thu thâp thông tin... Tuy nhiên, chúng tôi sẽ cố
gắng để tận dụng và xử lý những thông tin thu thập được.


18

5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, giới hạn của đề tài:

5.1.

Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là nhận thức của những bậc làm cha làm

mẹ có con ở độ tuổi vị thành niên trong việc giáo dục giới tính.

5.2.

Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu đối tượng cha mẹ có con ở độ tuổi vị thành niên

đang sinh sống và làm việc tại 11, Đoàn Kết, P.Bình Thọ, Q. Thủ Đức, Tp. Hồ Chí
Minh.
5.3.

Khách thể nghiên cứu.
Khách thể nghiên cứu trong đề tài là những những bậc cha mẹ có con ở độ tuổi

vị thành niên đang sinh sống, làm việc tại 11, Đoàn Kết, P.Bình Thọ, Q. Thủ Đức,
Tp. Hồ Chí Minh.
5.4.

Giới hạn của đề tài.
Đề tài xoay quanh về đối tượng là cha mẹ có con ở độ tuổi vị thành niên.

Chúng tôi chỉ nghiên cứu ở một địa điểm nhỏ nên khó có thể có cái nhìn toàn diện về
vấn đề này, cũng như việc không thể nghiên cứu sâu vào các vấn đề nhỏ của đề tài.
Trong quá trình làm bài nhóm cũng gặp nhiều khó khăn nên không thể tránh khỏi việc
đề tài còn nhiều sai sót. Nhưng cũng mong đề tài sẽ là một trong những nền tảng cho
các nghiên cứu sau này.

6.

Đóng góp mới của đề tài:
Qua những nhiệm vụ được chúng tôi đề ra, chúng tôi cũng đã có một số đóng


góp thông qua đề tài đó là: Nói lên được tầm quan trọng của bậc cha mẹ trong việc
giáo dục giới tính đối với trường học, gia đình và xã hội. Mỗi môi trường đều góp
phần vào công cuộc giáo dục giới tính, vấn đề quan tâm ở đây là những môi trường đó
sẽ tác động theo chiều hướng nào mà thôi. Bậc cha mẹ là rất quan trọng trong việc
giáo dục giới tính nhưng nếu bậc cha mẹ không nhận thức và nhận thức sai lệch về vấn
đề giới tính thì hậu quả sẽ rất tai hại. Qua đề tài chúng tôi đã cho thấy được nhiều bộ
phận các bậc cha mẹ vẫn chưa nhận thức đúng về việc giáo dục giới tính họ coi vấn


19

đề giới tính là một vấn đề tế nhị và ít khi đề cập đến. Ngoài ra chúng ta còn thấy có rất
nhiều yếu tố tác động đến nhận thức của những bậc cha mẹ về việc giáo dục giới tính,
chủ yếu họ hầu hết chỉ đọc qua sách báo, các phương tiện truyền thông (chiếm 54%),
điều này cho thấy sự tác động rất lớn của phương tiện truyền thông đến nhận thức của
họ. Có quá nhiều thông tin thì họ lại không biết chọn lọc các thông tin. Một số bộ phận
nhỏ bậc cha mẹ lại chịu ảnh hưởng văn hóa, tâm lý của phương đông từ bao thế hệ nay
và không dạy cho trẻ biết tường tận về vấn đề giới tính, trong đầu lúc nào cũng mang
suy nghĩ “vẽ đường cho nai” nên tỉ lệ trẻ làm mẹ sớm ngày càng tăng. Nhìn chung thì
các bậc cha mẹ đều có nhận thức đúng về nội dung giáo dục giới tính dù bên cạnh đó
vẫn còn 25% chưa nhận thức được hoặc chưa đầy đủ về nội dung của vấn đề giáo dục
giới tính. Dù là ở môi trường nào “gia đình, trường học, các tổ chúc xã hội thì vai trò
của bậc cha mẹ vẫn rất quan trọng trong việc giáo dục con cái ở đây là giáo dục giới
tính.
7.

Ý nghĩa luận và ý nghĩa thực tiễn:

7.1.


Ý nghĩa lý luận
Tìm hiểu nhận thức của cha mẹ trong việc giáo dục giới tính. Từ đó góp phần

làm phong phú hệ thống lý luận, lý thuyết về vấn đề này.
Học được phương pháp nghiên cứu, cách nêu vấn đề và cách giải quyết vấn đề.
7.2.

Ý nghĩa thực tiễn
Việc nghiên cứu đề tài là một cơ hội tốt để nhóm được thực tập và hiểu rõ hơn

về phương pháp nghiên cứu trong khoa học xã hội. Đồng thời đề tài cũng cho thấy thái
độ của những bậc cha mẹ trong việc giáo dục giới tính cho con mình. Cung cấp những
thông tin và giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của họ về vấn đề giáo dục giới tính.
Thông qua đề tài, chúng tôi cũng hi vọng những nhà hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, sẽ có những chính sách, chương trình phù hợp để giúp đỡ các bậc cha mẹ trong
việc thay đổi nhận thức và thấy được tầm quan trọng trong việc giáo dục giới tính.
Và quan trọng nhất, là thông qua đề tài nhóm có thể học thêm đươc nhiều kinh nghiệm
cho mình để thực hiện các đề tài nghiên cứu khác.

8.

Kết cấu của đề tài:


20

Ngoài phần mở đầu, phụ lục và danh mục đề tài liệu tham khảo, đề tài chúng tôi
chia làm 3 chương:
+


Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài

+

Chương 2: Tổng quan vài nét về vấn đề giáo dục giới tính

+

Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Kết luận
Khuyến nghị.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI


21

1.1.

Các khái niệm liên quan.

1.1.1. Giáo dục giới tính12.
Là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục , sinh sản ,
quan hệ tình dục, sức khỏe sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách
nhiệm, tránh thai , và các khía cạnh khác của thái độ tình dục của loài người. Những
cách giáo dục giới tính thông thường là thông qua cha mẹ, người chăm sóc, các
chương trình trường học và các chiến dịch sức khoẻ cộng đồng.
Giáo dục giới tính có thể được dạy một cách không chính thức, như khi một ai
đó nhận được thông tin từ một cuộc trò chuyện với cha mẹ, bạn bè, người lãnh đạo tôn

giáo, hay qua truyền thông. Nó cũng có thể được truyền dạy qua các tác giả với các tác
phẩm về giới tính, chuyên mục báo chí, hay qua các trang web về giáo dục giới tính.
Giáo dục giới tính chính thức diễn ra khi các trường học hay người cung cấp dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ thực hiện điều này.
Thỉnh thoảng giáo dục giới tính chính thức được dạy như một chương trình đầy
đủ như một phần của chương trình học tại các trường trung học hay trung học cơ sở. Ở
những trường hợp khác nó chỉ là một bài học bên trong một lớp học rộng hơn về sinh
học, sức khỏe, kinh tế gia đình hay giáo dục thể chất. Một số trường không dạy giáo
dục giới tính, bởi nó vẫn là một vấn đề gây tranh cãi ở một số quốc gia, đặc biệt là Hoa
Kỳ (đặc biệt về vấn đề độ tuổi trẻ em cần nhận được sự giáo dục như vậy, số lượng chi
tiết liên quan, và các chủ đề về khuynh hướng tình dục ví dụ như cách thực hiện, tình
dục an toàn, thủ dâm, tình dục trước hôn nhân và đạo đức tình dục).
1.1.2. Nhận thức13.
Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng của sự
phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và
không ngừng tiến đến gần khách thể.
Theo “quan điểm triết học Mác-Lênin”, nhận thức được định nghĩa là quá trình
phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích
cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
Nhận thức còn là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người,
sự phản ánh đó không phải là hành động nhất thời, máy móc, đơn giản, thụ động mà là
12
13

Trích nguồn từ thư viện giáo án điện tử)
/>

22

cả một quá trình phức tạp của hoạt động trí tuệ tích cực, sáng tạo.

Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức con người đi
từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Một khái niệm khác lại cho rằng: Nhận thức là hành động (quá trình) con người tìm
hiểu thế giới tự nhiên. Trong quá trình này, con người lý giải vạn vât theo từng giai
đoạn nhận thức của mình; từ đó tìm ra qui luật vận động và phát triển, thay đổi và tiến
hóa, bản chất và hình thức, hình thành và tiêu vong của thế giới vật chất và tinh thần.
Do yêu cầu của lao động, của cuộc sống, con người thường xuyên tiếp xúc với
các sự vật hiện tượng xung quanh, qua đó con người nhận thức được các nétcơ bản của
sự vật hiện tượng (Ví dụ con người gò đá thấy lửa) Cứ như vậy, nhận thức của con
người ngày càng được mở rộng.
Theo từ điển triết học: Nhận thức là quá trình tái tạo lại hiện thực ở trong tưduy
của con người, được quyết định bởi quy luật phát triển xã hội và gắn liền cũngnhư
không thể tách rời khỏi thực tiễn, nó phải là mục đích của thực tiễn, phải hướng tới
chân lý khách quan.
Theo Cuốn “Giải thích thuật ngữ Tâm lý – Giáo dục học”: “Nhận thức là toàn
bộ những quy trình mà nhờ đó những đầu vào cảm xúc được chuyển hoá,được mã hoá,
được lưu giữ và sử dụng. Hiểu nhận thức là một quy trình, nghĩa là nhờ có quy trình
đó mà cảm xúc của con người không mất đi, nó được chuyển hoá vào đầu óc con
người, được con người lưu giữ và mã hoá,…
Theo Từ điển Giáo dục học: “Nhận thức là quá trình hay là kết quả phảnánh và
tái tạo hiện thực vào trong tư duy của con người”. Như vậy, nhận thức được hiểu là
một quá trình, là kết quả phản ánh. Nhận thức là quá trình con người nhận biết về thế
giới, hay là kết quả của quá trình nhận thức đó (Nhận biết là mứcđộ thấp, hiểu biết là
mức độ cao hơn, hiểu được các thuộc tính bản chất).
Các quan niệm khác về nhận thức: “Nhận thức là hành động bằng trí tuệ, để
hiểu biết các sự vật hiện tượng”. Như vậy, Nhận thức và trí tuệ được đồng nhất như
nhau. Nhờ hoạt động trí tuệ này mà con người mới hiểu biết được sự vật hiện tượng.
Nhà Tâm lý học người Đức cho rằng :” Nhận thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan trong ý thức của con người, nhận thức bao gồm; Nhận thứccảm tính và
Nhận thức lý tính, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau vàcơ sở, mục đích và

tiêu chuẩn của Nhận thức là thực tiễn xã hội “


23

Khái niệm của nhà Tâm lý học người Đức đã phản ánh tương đối đầy đủ nội
hàm của Nhận thứcvà chúng ta sử dụng khái niệm này.
1.1.3. Vị thành niên.
Vị Thành Niên14 là người đang chuyển tiếp từ trẻ con sang người trưởng thành.
Tuổi từ 10 – 19 tuổi ( Theo WHO ) và chia làm 3 giai đoạn:
-

Giai đoạn đầu: 10 tuổi – 13 tuổi.

-

Giai đoạn giữa: 14 tuổi – 16 tuổi.

-

Giai đoạn sau: 17 tuổi – 19 tuổi.
Theo giáo án điện tử15 thì vị thành niên là một giai đoạn ( một thời kỳ ) trong

quá trình phát triển của con người với đặc điểm lớn nhất là sự tăng trưởng nhanh
chóng để đạt tới sự trưởng thành về cơ thể, sự tích lũy kiến thức, kinh nghiệm xã hội
và định hình nhân cách để có thể nhận lãnh trách nhiệm đầy đủ trong cuộc sống sau
này. Giai đoạn này được hiểu một cách đơn giản là giai đoạn “sau trẻ con và trước
người lớn” của mỗi cá thể, được gọi là thời kỳ “vị thành niên”.
Về độ tuổi của vị thành niên, Tổ chức Y tế thế giới cũng đã chính thức đề nghị
vị thành niên là những người có độ tuổi từ 10 – 19 tuổi. Tuổi vị thành niên được chia

thành 3 giai đoạn: Giai đoạn đầu (tiền vị thành niên): 10 – 13 tuổi. Giai đoạn giữa
(trung vị thành niên): 14 – 16 tuổi. Giai đoạn cuối ( hậu vị thành niên): 17 – 19 tuổi.
Việc phân định này cần thiết để kết hợp phát triển sinh học và tâm lý xã hội từng thời
kỳ. Căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam, năm 1995, Vụ Bảo vệ sức khỏe bà mẹ,
trẻ em và KHHGĐ – Bộ Y tế đã đưa ra đề nghị xếp tuổi VTN thành hai nhóm tuổi,
nhóm một từ 10 – 14 tuổi và nhóm hai từ 15 – 19 tuổi.
Theo trang thanhnien.net16 thì tuổi vị thành niên là một giai đoạn đặc biệt của
đời người, giai đoạn này được đánh dấu bằng những thay đổi đồng loạt và xen lẫn
nhau từ đơn giản sang phức tạp…
Một giai đoạn đặc biệt của đời người, giai đoạn này được đánh dấu bằng những
thay đổi đồng loạt và xen lẫn nhau từ giản đơn sang phức tạp bao gồm: sự chín muồi
về thể chất, sự biến đổi điều chỉnh về tâm lý và các quan hệ xã hội,chuẩn bị cho một
cơ thể trưởng thành cả về thể chất và tâm lý xã hội.
14
15

16

/>(trích nguồn từ thư viện giáo án điện tử)
/>

24

Theo tổ chức Y tế thế giới thì tuổi Vị thành niên là giai đoạn từ 10-19 tuổi. Căn
cứ vào mức độ phát triển thể chất, tâm lý xã hội và nhu cầu, tuổi VTN được chia làm
ba giai đoạn nhỏ hơn:
-

Giai đoạn đầu tuổi VTN (10-13)


-

Giai đoạn giữa tuổi VTN (14-16)

-

Giai đoạn cuối tuổi VTN (17-19)
Ở tuổi VTN, các em phải đương đầu với hàng loạt thách thức như sự biến đổi

nhanh về thể chất, tâm sinh lý, tình yêu, tình bạn, những hiện tượng sinh lý sinh dục
mới xuất hiện (cường dương, kinh nguyệt, sự ham muốn về tình dục), sự lôi kéo và
sức ép từ phía bạn bè, chưa có hiểu biết và chưa được trải nghiệm các kĩ năng tự bảo
vệ, khó khăn trong mới quan hệ với người lớn…Tất cả những điều đó làm các em dễ
lung túng và gặp những nguy cơ trong giai đoạn này.

1.2.

Giả thiết nghiên cứu.
Giả thiết 1: Do nhận thức sai về tầm quan trọng của việc giáo dục giới tính nên

những bậc cha mẹ không coi trọng việc giáo dục giới tính cho con cái của họ.
Giả thiết 2: Giới tính là một vấn đề nhạy cảm nên những bậc cha mẹ gặp khó
khăn trong việc nói chuyện và giáo dục về vấn đề này.
Giả thiết 3: Do những bậc cha mẹ thiếu thông tin về những vấn đề liên quan
đến giới tính nên không thể chia sẻ với con của mình.

1.3.

Khung nghiên cứu.



25

CHƯƠNG II
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH LÀ THỰC SỰ CẦN THIẾT.


×