Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Bảo vệ lợi ích của người cho vay và người đi vay trong các hợp đồng tín dụng ngân hàng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.9 KB, 49 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Với một nước đang phát triển như Việt Nam thì ngân hàng là nguồn tài chính
bên ngoài cực kỳ quan trọng đối với doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại
(NHTM) đã đóng góp to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân như
cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế quốc dân, tăng trưởng đầu tư,
thúc đẩy tốc độ chu chuyển thanh toán, chu chuyển vốn với vai trò là trung
tâm thanh toán của nền kinh tế, góp phần tham gia thực hiện chính sách tiền
tệ của nhà nước. Như vậy, một ngân hàng yếu kém trong hoạt động, thường
xuyên gặp rủi ro sẽ không chỉ gây tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà còn
tạo nên những rủi ro nhất định mang tính dây chuyền cho các đơn vị khác và
ngược lại. Rõ ràng, khả năng chống đỡ của ngân hàng càng cao, khả năng hỗ
trợ cho khu vực doanh nghiệp sẽ càng lớn.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, khi thị trường biến động mạnh,
hoạt động kinh doanh trở nên không bình thường, chắc chắn dẫn đến những
bất ổn trong giao dịch kinh tế. Rất nhiều giao dịch sẽ có nguy cơ cao xảy ra
tranh chấp, kiện tụng. Với nhiều cấp độ khác nhau, việc tranh chấp trong các
giao dịch kinh tế có thể khiến các bên thiệt hại về mặt thời gian, tài chính,
hoặc đổ vỡ hoàn toàn giao dịch. Thông thường, tranh chấp là do doanh
nghiệp không dự liệu được đầy đủ các tình huống, không lường trước được
các khó khăn để đưa vào trong các điều khoản của hợp đồng. Đến khi phát
sinh tranh chấp, doanh nghiệp cũng khó có thể lường trước những rủi ro mà
mình gặp phải. Đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh đặc thù như ngành ngân hàng
thì những tranh chấp giữa ngân hàng (người cho vay) và khách hàng (người
đi vay) hay đơn giản là mâu thuẫn trong việc giải thích ngôn từ trong các hợp
đồng tín dụng rất dễ phát sinh. Tất yếu sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro và điều này sẽ
gây thiệt hại rất lớn cho quyền lợi của các bên cũng như là ảnh hưởng đến lợi
ích kinh tế nói chung.


Một trong những rủi ro xảy đến với ngân hàng thương mại đó là rủi ro pháp
lý. Những rủi ro pháp lý thường xuyên xảy ra như rủi ro pháp lý từ hợp đồng
tín dụng từ chính sách vĩ mô của nhà nước hay từ chính sách vi mô của ngân


hàng thương mại. Rủi ro pháp lý này đã gây ra nhiều thiệt hại, có những thiệt
hại vật chất có thể đo đếm được, có những thiệt hại vật chất không đo đếm
được mà trong trường hợp này là đã ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập thị
trường. Bên cạnh đó là những mất mát phi vật chất rất lớn như ảnh hưởng đến
thương hiệu, uy tín, khả năng cạnh tranh thị trường. Chính từ những thiệt hại
mà rủi ro pháp lý gây ra nên việc nghiên cứu để hiểu rõ vấn đề này từ đó có
những biện pháp phòng chống mang tính khả thi tránh được những thiệt hại
cho ngân hàng cũng như khách hàng là rất cần thiết.
Phát sinh từ những vấn đề thực tế gặp phải trong quá trình công tác tại ngân
hàng chính là lý do để em thực hiện đề tài: “Bảo vệ lợi ích của người cho
vay và người đi vay trong các hợp đồng tín dụng ngân hàng Việt Nam” làm
chủ đề nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.

Mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu giúp cho người đọc tìm hiểu và biết thêm về các văn kiện tín
dụng tại Ngân hàng, đánh giá về tổng thể phương diện pháp lý trong hoạt
động tín dụng cần những gì?
Để đạt mục đích trên, khóa luận tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề sau
đây:
- Rủi ro pháp lý trong các hợp đồng tín dụng bao gồm những gì?
- Rủi ro này gây ra những vấn đề gì (tranh chấp như thế nào)?
- Để hạn chế những rủi ro trên nhằm đạt được thỏa thuận giữa người đi vay
và người cho vay thì cần chú ý những điều gì? Hay nói cách khác chính là

biện pháp bảo vệ lợi ích của người đi vay và người cho vay trong các hợp
đồng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam là gì?
3.

Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở của phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử Mác-xit, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về rủi ro pháp lý trong hoạt động cho vay của NHTM.


Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài bao
gồm: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh,
đối chiếu, phương pháp thống kê và khảo sát thực tiễn...
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của Ngân hàng nhà nước liên quan
đến hoạt động tín dụng của ngân hàng, hướng dẫn của pháp luật và MB về
văn kiện tín dụng giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng.
4.

Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận được
thiết kế gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về những vấn đề về hợp động tín dụng và rủi ro
pháp lý trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực tiễn rủi ro hợp đồng và thực trạng tranh chấp hợp đồng tín
dụng ngân hàng.
Chương 3: Các biện pháp phòng ngừa rủi ro để bảo vệ lợi ích của người đi
vay và người cho vay trong các hợp đồng tín dụng ngân hàng.



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ
HỢP ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO PHÁP LÝ TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1

Các khái niệm

1.1.1 Hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy
định của Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS). Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín
dụng trong trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó
chủ yếu là các ngân hàng (sau đây gọi chung là ngân hàng).
Hợp đồng tín dụng chính là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho
vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong
một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và
lãi. Còn những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố, chiết khấu
giấy tờ có giá được gọi chung là hợp đồng cấp tín dụng.
1.1.2 Các khái niệm về biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng tín dụng
1.1.2.1 Cầm cố tài sản
Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Căn cứ Điều 326 BLDS 2005)
1.1.2.2 Thế chấp tài sản và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia
(sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên
nhận thế chấp. Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có
vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp.

Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì
vật phụ thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Tài


sản thế chấp cũng có thể là tài sản được hình thành trong tương lai (Căn cứ
Điều 342 BLDS 2005).
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó
bên sử dụng đất (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng quyền sử dụng đất của
mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên kia (sau đây gọi là
bên nhận thế chấp). Bên thế chấp được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn thế
chấp (Căn cứ Điều 715 BLDS 2005)
1.1.2.3 Bảo lãnh
Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các
bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
1.2

Rủi ro pháp lý và đặc trưng của rủi ro pháp lý trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại
1.2.1

Khái niệm rủi ro pháp lý

Cho vay là hình thức cấp tín dụng phổ biến nhất của ngân hàng thương
mại trong nền kinh tế thị trường. Đây là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ
yếu cho NHTM nhưng rủi ro từ hoạt động này cũng được đánh giá là cao
nhất, bởi chính những đặc thù mang tính bản chất của hoạt động cho vay.

Rủi ro xảy ra trong hoạt động cho vay của ngân hàng xuất phát từ nhiều
nguyên nhân. Nếu lấy tiêu chí tính pháp lý để phân loại thì rủi ro sẽ bao
gồm rủi ro pháp lý và rủi ro không mang tính pháp lý.
Những rủi ro tín dụng không mang tính pháp lý không phát sinh từ những
tình huống tranh chấp, không phải hứng chịu những hậu quả pháp lý bất
lợi gì cho các chủ thể và dường như các chủ thể phải chấp nhận như một
sự xui xẻo. Trong bài viết này chỉ nghiên cứu các rủi ro tín dụng mang
tính pháp lý, hay còn gọi là rủi ro pháp lý trong hoạt động tín dụng.


Xuất phát từ khái niệm rủi ro tín dụng, có thể hiểu rủi ro pháp lý trong
hoạt động cho vay của NHTM là khả năng mà theo đó NHTM không thể
cho vay hoặc không thể thu hồi đầy đủ và đúng hạn các khoản tín dụng đã
cung cấp mà nguyên nhân xuất phát từ các quy định của pháp luật hoặc
liên quan tới những hậu quả pháp lý nhất định.
1.2.2

Đặc trưng rủi ro pháp lý

Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế đang tạo ra một môi
trường cạnh tranh gay gắt, khiến cho các ngân hàng thương mại phải thận
trọng hơn trong hoạt động của mình để tránh những rủi ro pháp lý. Rủi ro
pháp lý là rủi ro có thể có tác động xấu lên hoạt động kinh doanh, uy tín
và tài chính của ngân hàng do vi phạm các quy chế và điều luật hiện hành.
Một cách khái quát, có thể hình dung các đặc trưng của rủi ro pháp lý
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại bao gồm:
Thứ nhất, rủi ro pháp lý luôn gắn với vấn đề pháp lý. Những rủi ro này
xảy ra gắn với việc không tuân thủ pháp luật của NHTM, của người vay
hay của cơ quan pháp luật trong việc thực thi pháp luật hoặc từ chính
những bất cập của pháp luật.

Thứ hai, rủi ro pháp lý được tạo ra từ các tình huống pháp lý. Tình huống
pháp lý là những sự việc xảy ra trong thực tiễn và có liên quan đến các yếu
tố pháp lý như sự vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội và có sự
tranh chấp giữa các bên. Rủi ro pháp lý được tạo ra từ các tình huống pháp
lý này và cần được giải quyết bằng các cơ chế pháp lý thích hợp.
Thứ ba, rủi ro pháp lý làm phát sinh các hậu quả pháp lý nhất định cho các
bên liên quan hoặc cho người thứ ba. Các hậu quả pháp lý này được thể
hiện ở chỗ, có làm hạn chế các quyền năng pháp lý của chủ thể pháp luật
hoặc làm tăng các nghĩa vụ pháp lý của chủ thể pháp luật đối với Nhà
nước hoặc đối với chủ thể khác. Ví dụ: Khi khách hàng vay vi phạm nghĩa
vụ trả nợ đối với ngân hàng thì bản thân họ phải gánh chịu các hậu quả
pháp lý bất lợi như bị phạt vi phạm hợp đồng, bị đốc thúc trả nợ hoặc


thậm chí bị khởi kiện ra tòa và bị bắt buộc phải phát mại tài sản bảo đảm
để thu hồi nợ cho ngân hàng.
Đối với những rủi ro không mang tính pháp lý, hậu quả xảy ra cũng sẽ là
việc hai bên không thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình nhưng sẽ
không có hậu quả nào mang tính pháp lý xảy ra cho các bên, nghĩa là pháp
luật sẽ không buộc họ phải gánh chịu thêm những hậu quả pháp lý bất lợi
từ những rủi ro đó. Rủi ro pháp luật liên quan những sự cố hoặc sai sót
trong quá trình hoạt động kinh doanh làm thiệt hại cho khách hàng và đối
tác dẫn đến việc ngân hàng bị khởi kiện.
Thực tiễn giao dịch ngân hàng cho thấy, các hậu quả pháp lý xảy ra từ các
rủi ro pháp lý có thể là việc ảnh hưởng tới tư cách pháp lý của ngân hàng
thương mại, tính hiệu lực của hợp đồng tín dụng, một trong các bên vi
phạm hợp đồng phải bồi thường thiệt hại hoặc bị phạt vi phạm, NHTM bị
tịch thu giấy phép, khách hàng bị tịch thu tài sản để xử lý nợ... Những hậu
quả này được thể hiện trong các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền như cơ quan hành chính hoặc cơ quan tư pháp – Tòa án.

1.2.3

Các loại rủi ro pháp lý

1.2.3.1 Rủi ro hợp đồng
Xét về mặt lý thuyết, rủi ro hợp đồng tín dụng đối với ngân hàng là rủi ro do
hợp đồng được ký kết không chặt chẽ hoặc có những điều khoản bất lợi cho
phía ngân hàng, hoặc nội dung hay hình thức hợp đồng không phù hợp với
pháp luật nên có thể dẫn tới nguy cơ hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.
Ngoài ra, đôi khi các rủi ro hợp đồng có thể đến từ việc thực hiện hợp đồng
của các bên, chẳng hạn như trường hợp một bên vi phạm các điều khoản đã
cam kết và gây thiệt hại cho bên kia, hoặc trường hợp các bên đơn phương
hoặc cùng thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng tín dụng trước hạn…
Các phân tích dưới đây về rủi ro pháp lý trong quá trình soạn thảo và ký kết
hợp đồng cũng như rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng sẽ góp phần làm
rõ hơn vấn đề này.


Rủi ro pháp lý trong soạn thảo và ký kết hợp đồng
Rủi ro pháp lý trong soạn thảo và ký kết hợp đồng là khả năng mà theo đó
NHTM sẽ không thể thu hồi đầy đủ và đúng hạn các khoản tín dụng đã cung
cấp cho khách hàng, do hợp đồng tín dụng được ký kết không chặt chẽ, không
phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
Rủi ro pháp lý trong soạn thảo và ký kết hợp đồng tín dụng thường thấy đó là
người ký hợp đồng không đúng thẩm quyền, bên vay không đủ các điều kiện
do luật định, hoặc có sự lừa dối ngay từ khâu này, việc thẩm định hồ sơ cho
vay của ngân hàng thương mại không thực hiện đúng theo quy trình mà vẫn
ký, soạn thảo những điều khoản trong hợp đồng không được chặt chẽ, gây
khó khăn và rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng.
Rủi ro pháp lý trong thực hiện hợp đồng

Dù đã hoàn tất các thủ tục cho vay nhưng nếu các bên không thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình thì hợp đồng tín dụng cũng không đạt được mục đích.
Thực hiện hợp đồng tín dụng là hành vi các chủ thể của hợp đồng làm cho các
điều khoản cam kết trong hợp đồng trở thành hiện thực.
Rủi ro pháp lý trong thực hiện hợp đồng là khả năng mà theo đó NHTM sẽ
không thể thu hồi đầy đủ và đúng hạn các khoản tín dụng đã cấp do người
vay hay người cho vay (NHTM) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
những cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Rủi ro này cũng khá thường xuyên xảy ra, ví dụ như ngân hàng không giao
tiền cho người vay đúng cam kết, lỏng lẻo trong khâu giám sát, người vay sử
dụng tiền không đúng mục đích đã cam kết với ngân hàng, người vay không
hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi đúng hạn, việc phát mại tài sản bảo đảm không
đúng quy định của pháp luật…
Rủi ro pháp lý trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
Tranh chấp hợp đồng tín dụng là tình trạng pháp lý của quan hệ hợp đồng tín
dụng, trong đó các bên thể hiện sự xung đột bất đồng ý chí với nhau về những
quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ hợp đồng tín dụng.


Thực tiễn cho thấy vấn đề giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng có ảnh
hưởng lớn đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Do đó, việc tiến hành giải
quyết các tranh chấp này một cách nhanh chóng và đúng pháp luật sẽ bảo
đảm quyền lợi của các bên tham gia và ngược lại, nếu giải quyết không kịp
thời, không đúng pháp luật và không thỏa đáng thì sẽ gây thiệt hại cho các
bên, trong đó có ngân hàng thương mại.
Rủi ro pháp lý trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng được
hiểu là khả năng ngân hàng không thu hồi được nguồn vốn cho vay do việc
giải quyết tranh chấp không hợp lý hoặc không đúng pháp luật. Các rủi ro này
có thể liên quan đến những tổn thất về kinh tế do việc lựa chọn hình thức giải
quyết tranh chấp và kết quả cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp từ hợp

đồng tín dụng.
Ví dụ: Khi các bên lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng con đường
tòa án, cơ chế này được coi là có mức chi phí cao hơn, thời gian cũng lâu hơn
so với các hình thức giải quyết tranh chấp khác. Hoặc, khi tòa án hoặc cơ
quan giải quyết tranh chấp tuyên hợp đồng tín dụng vô hiệu, dẫn đến hậu quả
các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Điều này rất bất lợi cho ngân
hàng bởi tiền đã giao cho khách hàng, nếu khách hàng không có khả năng trả
nợ, các tài sản bảo đảm không đủ để bù cho số tiền đã cho vay thì ngân hàng
phải chấp nhận rủi ro.
1.2.3.2 Rủi ro chính sách
Ngoài các rủi ro pháp lý phát sinh từ việc ký kết và thực hiện hợp đồng, hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại có thể đối mặt với các rủi ro phát
sinh từ sự thay đổi, điều chỉnh chính sách pháp luật của Nhà nước, cũng như
từ sự xây dựng và điều chỉnh, áp dụng chính sách mới của ngân hàng thương
mại. Loại rủi ro pháp lý này được gọi là rủi ro chính sách.
Thực tế cho thấy, nhiều ngân hàng thương mại có kinh nghiệm lâu năm trong
thương trường và có khả năng quản lý rủi ro rất tốt bằng các nghiệp vụ quản
trị rủi ro trong quá trình cho vay, nhưng rốt cuộc vẫn khó tránh khỏi những
rủi ro đến từ chính sách. Đó là những rủi ro trong quá trình xây dựng các


chính sách của Nhà nước, của NHTM, trong quá trình thực hiện chính sách
này và trong quá trình giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và NHTM.
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách vĩ mô của Nhà nước và chính sách vi
mô của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay
của NHTM. Điều đó cũng có nghĩa là những hạn chế, bất cập trong các chính
sách này có thể gây ra các rủi ro pháp lý cho hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại.
Đối với chính sách vĩ mô của Nhà nước, các rủi ro cho ngân hàng thương mại
có thể xảy ra từ những quy định không hợp lý của Nhà nước được thể hiện

trong các chính sách này. Những quy định không hợp lý có thể khiến khách
hàng không tiếp cận được nguồn vốn, tức là các ngân hàng cũng không thể
cho vay được. Có thể hiểu rủi ro pháp lý từ chính sách vĩ mô của nhà nước
chính là những bất cập của các quy định pháp luật hoặc mặt trái của các quy
định chính sách dẫn đến khả năng ngân hàng thương mại không cho vay
được hoặc không thu hồi được vốn đã cho vay.
Đối với chính sách vi mô của NHTM, đây là hệ thống các quan điểm, chủ
trương, định hướng quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân
hàng phù hợp với chiến lược phát triển của ngân hàng và những quy định
pháp lý hiện hành, các rủi ro cho ngân hàng có thể đến từ những quyết sách
sai lầm của những người tham gia quản trị, điều hành ngân hàng. Mặt khác,
các rủi ro cũng có thể xảy ra từ các bất hợp lý trong các quy chế, quy trình
nghiệp vụ cho vay của ngân hàng, dẫn đến nguy cơ thu hẹp thị trường, giảm
sút doanh thu và lợi nhuận.
Như vậy có thể hiểu rủi ro pháp lý trong chính sách vi mô của NHTM là khả
năng NHTM không cho vay được hoặc không thu hồi được vốn đã cho vay
xuất phát từ những bất hợp lý trong chính sách kinh doanh của ngân hàng
thương mại.
1.3 Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Vì tranh chấp HĐTD ngân hàng cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nói
chung, do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng.


Tuy nhiên, với bản chất đặc thù của HĐTD, tranh chấp HĐTD ngân hàng
mang một số đặc trưng riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp
hợp đồng khác. Có thể khái quát đặc điểm của tranh chấp hợp đồng tín dụng
bằng các ý sau:
Thứ nhất, giá trị của tranh chấp HĐTD ngân hàng thường có giá
trị lớn hoặc thậm chí là rất lớn.
Khi ký kết HĐTD thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà không

thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh doanh
đối với tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình. Do
đó, số tiền này không phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ chức, cá nhân
ngoài xã hội mà không phải là ngân hàng.
Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng vốn
cho nền kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể
khác để cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các TCTD thường ký kết
các HĐTD có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho
vay. Do bên vay vốn dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động
sản xuất kinh doanh nên nếu bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp
đồng, không trả nợ cho các TCTD sẽ làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của
TCTD đó. Thực tế không hiếm các trường hợp các TCTD lâm vào tình trạng
mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi khách hàng vay không thể thanh
toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là chủ thể bị thiệt hại lớn vì
nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc phục, mục đích lợi
nhuận ban đầu không còn hoặc bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp HĐTD
phải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD khi muốn thu hồi
vốn. Bởi khi đã bị khởi kiện tại Tòa án thì thường là người đi vay không còn
có khả năng trả nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì
TCTD sẽ mất lòng tin với khách hàng vay vốn, các HĐTD tiếp theo sẽ khó
mà thực hiện, kể cả khi bên đi vay chứng minh lại được khả năng tài chính
của mình. Do đó, có thể nói tranh chấp HĐTD là loại tranh chấp có giá trị
thiệt hại lớn, không chỉ ảnh hưởng đến bên cho vay mà còn cả đối với bên đi
vay. Thậm chí nếu tranh chấp xảy ra nhiều thì ảnh hưởng đó không chỉ ảnh


hưởng đến một TCTD mà có thể ảnh hưởng dây chuyền đến các TCTD khác
trong nền kinh tế.
Thứ hai, tranh chấp HĐTD ngân hàng được giải quyết dựa trên
nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên

tham gia tranh chấp.
Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Bộ Luật dân
sự 2005 ghi nhận :“cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với
các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”. HĐTD về
bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính thỏa
thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết tranh
chấp phát sinh từ HĐTD thì các bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt được
hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Việc tôn trọng
quyền định đoạt này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì quan hệ dân sự giữa
các bên mang tính bình đẳng, không phải là mối quan hệ mệnh lệnh - phục
tùng như các quan hệ hành chính nhà nước khác. Khi các bên tham gia tranh
chấp có thể thỏa thuận được với nhau thì việc giải quyết tranh chấp sẽ diễn ra
nhanh chóng, thuận lợi hơn, đồng thời giảm thiểu được thiệt hại về thời gian,
tiền bạc, công sức của các bên. Về phía các cơ quan tài phán, thi hành án thì
việc thỏa thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm nhẹ khối lượng, áp lực
công việc trong điều kiện các tranh chấp ngày càng xảy ra nhiều và phức tạp
như hiện nay.
Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với các
TCTD là ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng
hơn bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các TCTD trong nước, chịu sự
điều chỉnh của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt Nam và sự khác
nhau trong quy định của pháp luật giữa Việt Nam và nước khác là điều không
thể tránh khỏi. Vì vậy, việc cho phép, tôn trọng quyền tự thỏa thuận của các
bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm thiểu tối đa những xung đột pháp luật có
thể xảy ra trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, nguyên tắc
đối với các thỏa thuận này là phải phù hợp với các quy định của pháp luật
Việt Nam.


Nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giải quyết tranh chấp giữa các bên cũng được

Bộ Luật tố tụng dân sự thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa giải là trách
nhiệm của cơ quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đó các bên có thể
thỏa thuận về việc giải quyết vụ án. Ngay cả trước khi diễn ra hoặc tại phiên
tòa sơ thẩm, phúc thẩm các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận về việc giải
quyết tranh chấp miễn sao thỏa thuận đó phù hợp với các quy định của pháp
luật.
Thứ ba, tranh chấp HĐTD luôn có sự tham gia của một bên là
TCTD và phần lớn các tranh chấp HĐTD thì nguyên đơn là tổ chức tín
dụng cho vay, bị đơn là bên đi vay.
Với đặc thù của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến những tổ
chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ chức, cá nhân
có thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung gian trong
mối quan hệ này. Sự tham gia của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng nhằm
phân biệt giữa tranh chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng vay tài sản thông
thường giữa các tổ chức, cá nhân khác mà không phải là TCTD.
Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD, các TCTD và khách
hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia thỏa thuận. Nhưng với tư cách là
chủ thể có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với
khách hàng là điều không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia ký kết hợp
đồng thì hợp đồng thường do bên cho vay là các TCTD soạn thảo với đội ngũ
cán bộ có trình độ chuyên môn về mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó, chủ
thể đi vay là khách hàng thường là các tổ chức, cá nhân, trình độ chuyên môn
về mặt pháp lý của họ còn thấp và nhiều khi không được chú trọng đúng mức.
Và như vậy là hợp đồng được ký kết với các điều khoản chặt chẽ nhằm bảo
đảm cho quyền lợi của TCTD khi bên vay không trả nợ hay trả không đúng
nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì TCTD luôn nắm đằng chuôi với
các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng
được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì là do
bên đi vay vi phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính những điều khoản do
chính mình soạn thảo.



Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên đi vay
thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất
việc giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của
mình. Các nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ
sơ tín dụng, nghĩa vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản
đảm bảo... là ít quan trọng và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì
lý do đó nên nếu có tranh chấp xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa
vụ của mình, rất hiếm gặp trường hợp bên đi vay khởi kiện TCTD.
Thứ tư, đa phần các tranh chấp liên quan đến HĐTD ngân hàng
chính là các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả
vốn, lãi của bên vay cho TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trong HĐTD.
Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD như: tranh chấp về chủ thể
xác lập, thực hiện HĐTD, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh vay vốn, tranh
chấp liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay... Tuy nhiên, tranh chấp xảy ra
nhiều nhất là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về mức
lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy là bởi vì những nghĩa vụ này
chính là những nghĩa vụ chính nhất, đóng vai trò nòng cốt trong quá trình
thực hiện HĐTD của các bên và việc thực hiện này có tác động trực tiếp đến
quyền lợi của TCTD. Các tranh chấp khác cũng có tác động đến các TCTD
nhưng không phải là cơ bản nên ít xảy ra hơn so với tranh chấp về nghĩa vụ
hoàn trả vốn và lãi hay tranh chấp về lãi suất, về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Thứ năm, tranh chấp HĐTD ngân hàng thường là tiền đề làm phát
sinh và gắn liền với một quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm tiền
vay thông qua hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba
Các TCTD khi tham gia vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ việc cho
vay đó vì bản chất của TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Để giảm
thiểu rủi ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD

chỉ đồng ý cho bên đi vay được vay vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài
sản hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò
là phương pháp dự phòng của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo


cho nghĩa vụ được đảm bảo trong HĐTD thì các bên ký kết hợp đồng bảo
đảm cho khoản vay. Tùy trường hợp mà đó có thể là hợp đồng cầm cố, hợp
đồng thế chấp hay là dưới hình thức chứng thư bảo lãnh của bên thứ ba.
Những điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong các hợp đồng bảo đảm cho
nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc vay vốn, xuất phát từ hợp đồng tín
dụng đã được ký kết và mục đích cuối cùng là bảo đảm cho việc trả nợ của
bên đi vay.
Như vậy, không có trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra khỏi
HĐTD với tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn có mối quan
hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối quan hệ
giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này có ảnh
hưởng đến loại hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp đồng có
nghĩa vụ được bảo đảm vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng thì giao
dịch bảo đảm chấm dứt, nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có
nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác”. Ngược lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm
chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác”. Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh chấp HĐTD, với tư cách là hợp
đồng chính, luôn gắn liền và làm cơ sở phát sinh tranh chấp hợp đồng bảo
đảm - hợp đồng phụ trong quan hệ tín dụng giữa các bên.
Thứ sáu, tranh chấp HĐTD phát sinh từ sự xung đột về lợi ích giữa
các bên tham gia tranh chấp.
Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nên phải xuất phát
từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong quan hệ
dân sự, pháp luật hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể khởi

kiện để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà không phải là lợi ích
của chính cơ quan, đoàn thể đó. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát sinh từ
HĐTD thì chỉ có chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có
quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay hay
TCTD. Không có trường hợp nào mà tranh chấp HĐTD phát sinh do tổ chức,
cá nhân khác khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia HĐTD.
Như vậy, tranh chấp phát sinh từ HĐTD chỉ phát sinh khi các bên khởi kiện


yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ tín dụng,
hay nói cách khác, tranh chấp HĐTD thường gắn liền với lợi ích của các bên
tranh chấp.


CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN RỦI RO HỢP ĐỒNG VÀ THỰC
TRẠNG TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG
2.1

Thực tiễn rủi ro hợp đồng trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại

Như đã nói ở trên, hợp đồng tín dụng là hình thức pháp lý của quan hệ cho
vay giữa NHTM và khách hàng vay, đồng thời cũng là luật đối với các bên
cam kết. Qua khảo sát thực tiễn cho thấy, các rủi ro pháp lý đối với ngân hàng
trong hợp đồng tín dụng là rất phổ biến và phát sinh dưới nhiều hình thức
khác nhau. Cụ thể là:
Thứ nhất, rủi ro pháp lý từ thỏa thuận bảo đảm tiền vay.
Biện pháp bảo đảm tiền vay là một biện pháp nhằm khắc phục những rủi ro
có thể xảy ra trong hợp đồng tín dụng, nó có thể là một điều khoản của hợp

đồng tín dụng hoặc được tách ra thành một hợp đồng phụ. Các biện pháp bảo
đảm thông dụng nhất thường được ngân hàng chấp nhận hiện nay, đó là bảo
đảm bằng tài sản gồm cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh bằng tài sản của người
thứ ba. Ngoài ra, có một số trường hợp ngân hàng chấp nhận hình thức bảo
lãnh bằng uy tín (hình thức tín chấp) của người thứ ba đối với bên vay.
Đối với các biện pháp bảo đảm bằng tài sản: Rủi ro xảy ra khi NHTM nhận
tài sản bảo đảm tiền vay trong trường hợp giá trị của tài sản nhỏ hơn giá trị
nghĩa vụ được bảo đảm, nhưng khách hàng vay chưa đáp ứng các điều kiện
vay không có bảo đảm bằng tài sản. Bảo đảm bằng tài sản loại này, nhiều
NHTM tỏ ra thiếu nhất quán, lúng túng trong việc quyết định của mình, thể
hiện một cách mơ hồ bằng cách ghi chép theo kiểu hàng hai trong tờ trình
thẩm định và trên hợp đồng tín dụng, đại loại như “có tài sản bảo đảm +
không có tài sản bảo đảm” hay “thế chấp tài sản của khách hàng vay, tài sản
của bên thứ ba và tín chấp”. Việc NHTM sử dụng đồng thời biện pháp bảo
đảm tiền vay bằng tài sản và biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp
cho vay không có bảo đảm bằng tài sản trong một hợp đồng tín dụng là để
che dấu hành vi cho vay vượt giá trị tài sản bảo đảm (nếu ghi cho vay có tài


sản bảo đảm) và cho vay không đáp ứng đủ các điều kiện về biện pháp bảo
đảm tiền vay không có bảo đảm bằng tài sản (nếu ghi bảo đảm bằng tài sản
như là một biện pháp bổ sung đối với khoản vay). Thậm chí, có trường hợp
khách hàng vay không còn tài sản, hoặc còn nhưng giá trị tài sản bảo đảm
không đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ cho khoản vay mới mà NHTM vẫn cho vay,
chính điều này làm cho ngân hàng tự đưa mình vào những rủi ro.
Để giảm thiểu rủi ro, các NHTM hiện nay phần lớn sử dụng biện pháp bảo
đảm bằng tài sản. Tuy nhiên, tình trạng thiên về tài sản bảo đảm, coi đây là
yếu tố quan trọng để xem xét quyết định cho vay đôi khi quá khắt khe, không
những gây ra phiền phức cho khách hàng, mà còn đánh mất cơ hội đầu tư,
nhất là đối với khách hàng có quy mô hoạt động lớn đang cần vốn mở rộng

sản xuất kinh doanh, khách hàng thuộc sở hữu nhà nước có lịch sử tài chính
trung bình đủ điều kiện vay không có bảo đảm bằng tài sản, hoặc khách hàng
có tài sản nhưng do giá trị tài sản bảo đảm thấp so với nhu cầu vốn thực hiện
dự án đầu tư. Đó là chưa kể đến bản thân các tài sản bảo đảm này cũng ẩn
chứa nhiều rủi ro như tài sản hư hỏng, khó bán, mất mát, giảm giá trị…
Đặc biệt, với tài sản bảo đảm là bất động sản thì mức độ rủi ro của nó phụ
thuộc nhiều vào sự biến động giá cả trên thị trường bất động sản. Nếu thị
trường ổn định, tính thanh khoản cao thì độ rủi ro được hạn chế và ở mức
thấp. Ngược lại, mức độ rủi ro sẽ là rất cao khi thị trường có nhiều biến động
mạnh. Đối với Việt Nam, thị trường bất động sản được đánh giá là có nhiều
biến động mạnh, thất thường. Điều này sẽ ảnh hưởng nhất định đến hoạt động
của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, qua đó
gây rủi ro cho hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng bất động sản của các
NHTM.
Đối với biện pháp bảo đảm bằng tín chấp: Khi xảy ra rủi ro không thu hồi
được nợ, hầu như bên tín chấp đều không có khả năng hoặc không muốn thực
hiện việc đôn đốc trả nợ thay cho khách hàng, cái phao cứu hộ cuối cùng là
tài sản bảo đảm đối với các NHTM cũng không có. Đây cũng là lý do mà
nhiều ngân hàng còn rụt rè đối với hình thức này.


Xem ra hình thức cho vay tín chấp vẫn khó thực hiện trên thực tế, để đảm bảo
an toàn cho ngân hàng, lãi suất cho vay tín chấp thường cao hơn hình thức
khác, tuy nhiên đối tượng cho vay tín chấp tiêu dùng thường là cá nhân với
những nhu cầu riêng như mua nhà, sửa chữa, xây dựng nhà cửa, mua ô tô…
cộng với những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày thì việc lãi suất cao sẽ trở thành
rào cản cho họ tiếp cận với hình thức vay này.
Một thực tế nữa là các điều kiện của ngân hàng đưa ra trong cho vay tín chấp
cá nhân phải được cung cấp bằng văn bản. Tuy nhiên, có trường hợp người
vay liên lạc với một ngân hàng để đề nghị được vay tín chấp nhưng hộ khẩu

không thể xuất trình do đang phải nộp cho cơ quan nhà nước, chỉ có thể nộp
bản photo (không có chứng thực sao y) và đã được cán bộ tín dụng chấp
nhận. Việc xác nhận thu nhập lại càng đơn giản. Bằng mối quan hệ chưa đến
mức thân thiết thì khách hàng cũng có thể xin được xác nhận bảng lương lên
đến cả chục triệu đồng với dấu đỏ hẳn hoi. Khi cán bộ ngân hàng gọi điện đến
công ty để xác nhận công tác thì sẽ nhận được câu trả lời quen thuộc:
“anh/chị A vừa mới ra ngoài”. Khâu xác định tính xác thực về nhân thân của
khách hàng cá nhân hầu như bỏ ngỏ, chỉ dựa trên các giấy tờ do khách hàng
cung cấp. Việc rút ngắn thời gian giải ngân xuống chỉ còn 8 giờ là nguyên
nhân của tình trạng này. Rõ ràng, việc “đơn giản hóa” các thủ tục và giấy tờ
vay vốn sẽ tạo điều kiện để người dân thật sự có nhu cầu được tiếp cận nguồn
vốn của ngân hàng dễ dàng hơn, song rủi ro của các ngân hàng là vô cùng lớn
nếu khách hàng cố tình gian dối khi làm giả các giấy tờ trên.
Thứ hai, rủi ro pháp lý từ thỏa thuận về bồi thường thiệt hại và phạt vi
phạm hợp đồng.
Để phòng ngừa một bên vi phạm hợp đồng gây thiệt hại cho bên kia thì thỏa
thuận về bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng là không thể thiếu
trong các hợp đồng tín dụng. Nhưng cách thỏa thuận thế nào để bồi thường
thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng phát huy được tác dụng của nó thì không
phải trường hợp nào cũng dễ, chỉ một sai sót có thể dẫn đến việc bị thiệt hại
mà không được bồi thường.


Trong giao dịch, các bên thường thỏa thuận trong trường hợp một bên vi
phạm hợp đồng gây thiệt hại cho bên kia thì bên vi phạm phải bồi thường
thiệt hại cho bên bị vi phạm. Pháp luật Việt Nam quy định giá trị bồi thường
thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải
chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ
được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Căn cứ để bên bị vi phạm yêu cầu
bên vi phạm bồi thường thiệt hại là: có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại

thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Tuy nhiên, gần đây một số khách hàng nước đã yêu cầu đưa vào hợp đồng
quy định bên Việt Nam có nghĩa vụ bồi hoàn cho bên nước ngoài tất cả các
thiệt hại phát sinh từ/hoặc liên quan hợp đồng trong trường hợp bên Việt Nam
vi phạm hợp đồng dẫn đến gây thiệt hại cho bên nước ngoài. Đối chiếu với
quy định nêu trên của pháp luật Việt Nam, thì quy định trong dự thảo hợp
đồng do bên nước ngoài đưa ra là không có lợi cho bên Việt Nam. Bởi vì,
theo yêu cầu của khách hàng nước ngoài, bên Việt Nam phải trả cho bên
nước ngoài cả những thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp liên quan đến
hợp đồng. Bồi hoàn những thiệt hại trực tiếp là có thể chấp nhận được vì thỏa
thuận này phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Nhưng đối với
những thiệt hại gián tiếp, bên Việt Nam khó có thể kiểm soát được và không
có nghĩa vụ bồi hoàn cho bên nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Hơn nữa, trong trường hợp có thiệt hại gián tiếp, bên nước ngoài có thể
có lỗi khi gây thiệt hại cho bên thứ ba. Chính vì những lẽ trên, ngay từ khi
đàm phán hợp đồng, bên Việt Nam cần có thái độ kiên quyết đề nghị sửa đổi
điều khoản nói trên theo hướng bên Việt Nam chỉ bồi thường cho bên nước
ngoài thiệt hại trực tiếp và thực tế phát sinh từ/hoặc liên quan đến hợp đồng
vì yêu cầu của bên nước ngoài trong dự thảo hợp đồng không phù hợp với
quy định của pháp luật Việt Nam.
Về thỏa thuận sự kiện bất khả kháng trong hợp đồng tín dụng: Sự kiện bất
khả kháng là một trong những sự kiện pháp lý rất quan trọng mà pháp luật
thường quy định các bên được miễn giảm trách nhiệm trong giao dịch. Tuy
nhiên khi soạn thảo ký kết hợp đồng tín dụng, các bên không định nghĩa cụ
thể thế nào là sự kiện bất khả kháng thì có thể dẫn đến những tranh cãi bất tận
về khái niệm bất khả kháng. Bởi vì các trường hợp bất khả kháng được pháp


luật quy định chỉ áp dụng với một vài trường hợp cá biệt chứ không áp dụng
chung cho tất cả các giao dịch. Ví dụ Bộ Luật dân sự chỉ định nghĩa sự kiện

bất khả kháng để loại trừ khỏi “ thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự (Điều 161
BLDS “thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu
yêu cầu giải quyết việc dân sự”) hoặc Bộ Luật lao động định nghĩa sự kiện
bất khả kháng để cho phép người sử dụng lao động có quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động (Điều 38 Bộ Luật lao động và khoản 2 Điều 12
Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 9/5/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của BLLĐ về hợp đồng lao động).
Phạt vi phạm cam kết sử dụng vốn vay
Thứ ba, rủi ro pháp lý từ thỏa thuận về luật điều chỉnh hợp đồng tín dụng.
Thực tế, có một số quan hệ cho vay quốc tế, NHTM Việt Nam không quan
tâm đến luật điều chỉnh hợp đồng mà chỉ quan tâm đến lợi ích thu được từ
giao dịch đó với mong muốn, hy vọng không có tranh chấp xảy ra trong quá
trình thực hiện hợp đồng đặc biệt trường hợp này xảy ra với các NHTM nhỏ.
Cho nên, ngân hàng Việt Nam đã chấp nhận luật điều chỉnh là luật của nước
nơi có trụ sở của bên đối tác nước ngoài, trong khi ngân hàng Việt Nam hầu
như không biết pháp luật của nước được chọn làm luật điều chỉnh hợp đồng.
Nhưng chính luật áp dụng lại là cơ sở để giải thích các quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia hợp đồng; và cũng là cơ sở để quan tòa ra phán quyết khi
giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên. Chỉ cho đến khi có tranh chấp
xảy ra hoặc bên nước ngoài không tuân thủ đúng những cam kết, thỏa thuận
trong hợp đồng, ngân hàng Việt Nam mới hiểu được mục đích, ý nghĩa của
việc lựa chọn luật điều chỉnh hợp đồng. Lúc đó thì ngân hàng Việt Nam
thường mất lợi thế bảo vệ quyền lợi của mình trong vụ tranh chấp liên quan
đến giao dịch thương mại do sự thiếu hiểu biết về luật nước đó.
Thứ tư, rủi ro pháp lý từ thỏa thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp và
nơi giải quyết tranh chấp.
Pháp luật Việt Nam không quy định điều khoản về giải quyết tranh chấp, là
một trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng, nhưng điều khoản này khá
phổ biến trong các hợp đồng tín dụng quốc tế. Cơ quan giải quyết tranh chấp



và nơi giải quyết tranh chấp được thỏa thuận trong hợp đồng sẽ có ảnh hưởng
nhất định đến quyền lợi của bên Việt Nam trong quá trình khởi kiện (nguyên
đơn).
Thứ năm, rủi ro pháp lý từ thỏa thuận về lãi suất.
Thực tế thời gian qua cho thấy, khi giá cả thị trường tăng cao, đồng tiền mất
giá, những biến động trên thị trường thế giới tác động không tốt vào Việt
Nam khiến cho NHTM có những khi phải cho vay với lãi suất cao. Tuy
nhiên, chính lãi suất cao làm cho khách hàng tiềm lực yếu khó vay vốn, nếu
khách hàng chấp nhận vay để tiếp tục sản xuất kinh doanh thì mức độ rủi ro
lại tăng cao. Đã có thời gian, NHTM cho vay một số sản phẩm tín dụng với
mức lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước ban hành
bởi lãi suất cho vay tiêu dùng trong thời gian đó thường cao hơn mức trên nên
các NHTM lựa chọn việc cho vay trái với pháp luật (khoản 1 Điều 476 BLDS
qui định lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố với loại cho vay
tương ứng) để có thể tồn tại trên thương trường. Rủi ro xảy ra từ hai phía, nếu
NHTM lựa chọn cho vay thấp để đúng luật thì kinh doanh không hiệu quả,
trong môi trường cạnh tranh mạnh thì việc làm ăn không hiệu quả có thể dẫn
tới NHTM bị đẩy ra khỏi cuộc chơi. Ngược lại nếu cho vay với lãi suất cao
hơn thì lại phạm luật. Ví dụ thực trạng Ngân hàng cho vay với lãi suất hơn
1.031% /tháng trong suốt năm 2007.
Lãi suất bất ổn còn gây rủi ro cho hoạt động cho vay trung và dài hạn. Hiện
nay, NHTM thường sử dụng nguồn vốn huy động ngắn để cho vay trung và
dài hạn. Đặc biệt các thỏa thuận lãi suất trong các dự án cho vay bất động sản
trung và dài hạn. Theo thống kê của NHNN Việt Nam, cơ cấu cho vay bất
động sản trung dài hạn luôn chiếm tỷ trọng khoảng 80% tổng dư nợ cho vay
bất động sản.
Một thực tế rủi ro nữa đó là lãi suất cho vay không được xác định khoa học
dựa trên chi phí vốn, mức độ rủi ro và mức lợi nhuận hợp lý của ngân hàng.

Các ngân hàng không định giá khoản vay trên cơ sở đảm bảo lãi cho vay đủ
bù đắp chi phí biên của vốn, chi phí quản lý khoản vay, phần bù rủi ro và lợi


nhuận hợp lý cho ngân hàng. Việc định giá khoản vay được thực hiện một
cách cảm tính hoặc cứng nhắc dựa vào mức lãi suất thông báo áp dụng chung
cho tất cả mọi khách hàng; việc lượng hoá độ rủi ro của khách hàng, dự án
vẫn rất khó khăn ở Việt Nam. Khi các ngân hàng không có phần mềm và đầy
đủ thông tin để định giá. Các thông số của thị trường dùng trong đo lường
(như hệ số bêta, xếp hạng tín dụng…) chưa có cơ quan chuyên nghiệp để xác
định, ngoài kết quả thu hẹp lợi nhuận của ngân hàng còn đồng thời làm cho
tính rủi ro của dự án cao hơn do sự dễ dãi của ngân hàng.
Một thực tế rủi ro nữa đó là lãi suất cho vay không được xác định khoa học
dựa trên chi phí vốn, mức độ rủi ro và mức lợi nhuận hợp lý của ngân hàng.
Các ngân hàng không định giá khoản vay trên cơ sở đảm bảo lãi cho vay đủ
bù đắp chi phí biên của vốn, chi phí quản lý khoản vay, phần bù rủi ro và lợi
nhuận hợp lý cho ngân hàng. Việc định giá khoản vay được thực hiện một
cách cảm tính hoặc cứng nhắc dựa vào mức lãi suất thông báo áp dụng chung
cho tất cả mọi khách hàng; việc lượng hoá độ rủi ro của khách hàng, dự án
vẫn rất khó khăn ở Việt Nam. Khi các ngân hàng không có phần mềm và đầy
đủ thông tin để định giá. Các thông số của thị trường dùng trong đo lường
(như hệ số bêta, xếp hạng tín dụng…) chưa có cơ quan chuyên nghiệp để xác
định, ngoài kết quả thu hẹp lợi nhuận của ngân hàng còn đồng thời làm cho
tính rủi ro của dự án cao hơn do sự dễ dãi của ngân hàng.
Việc trích lập dự phòng rủi ro trên cơ sở nợ quá hạn chứ không phải trên mức
rủi ro tín dụng. Tuy nhiên có những khoản vay mặc dù chưa tới hạn nhưng đã
tiềm ẩn khả năng mất vốn rất cao, cần được dự phòng rủi ro song lại không
được trích lập. Điều khoản về lãi suất quá hạn cũng là một trong các điều
khoản quan trọng của hợp đồng tín dụng giữa NHTM và khách hàng vay.
Nếu ngân hàng và khách hàng thỏa thuận và áp dụng lãi suất quá hạn không

phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng tín dụng có thể bị tuyên vô
hiệu một phần do quy định về lãi suất quá hạn vi phạm quy định của pháp
luật. Nhưng cũng có trường hợp như trong quý I năm 2008, lãi suất quá hạn
lại thấp hơn lãi suất cho vay mới (nguyên nhân do biến động thị trường) dẫn
đến người vay không trả nợ đến hạn vì e ngại ngân hàng không cho vay và
khó có thể vay tại ngân hàng khác trong điều kiện thị trường tín dụng hầu như


đóng băng hoặc nếu vay lại phải chịu lãi suất quá cao (lãi suất vay cũ khoảng
12%/năm, lãi suất phạt quá hạn 18%/năm thấp hơn lãi suất cho vay mới
21%/năm). Như vậy ngân hàng không thể thu hồi nợ đến hạn, làm giảm lợi
nhuận cho ngân hàng.
Thứ sáu, rủi ro pháp lý từ Điều khoản thỏa thuận “Bên thua kiện sẽ chịu
toàn bộ các chi phí pháp lý phát sinh”.
Thường thì các NHTM chỉ ghi bên thua kiện phải trả các chi phí tố tụng mà
không thỏa thuận việc trả các chi phí luật sư, chi phí pháp lý khác cho bên
thắng kiện trong khi những khoản chi phí này lại khá lớn. Song, nếu trong
bản hợp đồng có điều khoản “bên thua kiện trả toàn bộ các chi phí pháp lý”,
toà án thường sẽ quyết định cho bạn được bù đắp các chi phí này bởi bên thua
kiện. Hơn thế nữa, mối lo về việc phải trả các khoản tiền này có thể hạn chế
những tranh chấp kiện tụng không đáng có và đưa các bên ngồi xuống bàn
đàm phán nhằm tìm ra một giải pháp tốt nhất cho cả hai bên.
Thứ bảy, rủi ro pháp lý từ Điều khoản “giới hạn trách nhiệm hay thiệt
hại” trong hợp đồng tín dụng.
Điều khoản này cũng dễ bị bỏ qua khi NHTM ký hợp đồng tín dụng với các
khách hàng. Những khoản tiền bồi thường thiệt hại có khi lớn hơn so với giá
trị hợp đồng và nếu không có thỏa thuận này thì có thể NHTM sẽ bị mất oan
nếu chẳng may sai sót điều gì.
2.2


Thực trạng tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

Trong thời gian qua, tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại trong đó có
tranh chấp HĐTD không ngừng gia tăng đó là chưa kể đến các tranh chấp
được các bên thoả thuận giải quyết bằng các phương thức khác như thương
lượng, hoà giải hay trọng tài thương mại.
2.2.1 Các dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng trên thực tế


Dạng tranh chấp HĐTD phổ biến, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong HĐTD là dạng
tranh chấp về hành vi vi phạm nghĩa vụ của một hoặc các bên trong hợp
đồng. Hành vi vi phạm nghĩa vụ này, có thể là hành vi của bên cho vay (các
ngân hàng và các định chế tài chính khác). Theo quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam, HĐTD là một dạng của hợp đồng ưng thuận có hình thức bắt
buộc bằng văn bản (văn bản viết hoặc văn bản điện tử). Tại khoản 4 Điều 404
BLTTDS: “thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau
cùng ký vào văn bản”; tại Điều 405 quy định: “hợp đồng được giao kết hợp
pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác”. Vì thế, sau khi HĐTD có hiệu lực, việc giải
ngân khoản tín dụng mà hai bên đã thoả thuận là nghĩa vụ của bên cho vay.
Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp sau khi ký kết HĐTD với khách
hàng bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên
vay như bên vay không tiến hành kế hoạch kinh doanh như dự kiến, không có
vốn đầu tư vào dự án đầu tư, đấu thầu đã được đăng ký. Hậu quả là bên cho
vay bị tổn thất rất lớn về hiệu quả kinh tế cũng như uy tín, danh dự, thậm chí
thương hiệu của bên vay.
Tranh chấp HĐTD còn có thể xuất phát từ việc vi phạm nghĩa vụ trả lãi và
thậm chí cả gốc và lãi. Trên thực tế, có trường hợp hai bên không thoả thuận
rõ ràng về lãi suất đối với cả thời hạn vay hoặc ban đầu do cần tiền để thực

hiện kế hoạch của mình nên khách hàng chấp nhận mức lãi suất đó nhưng sau
một thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng nhận thấy lãi suất đó cao
quá nên không đồng ý. Tuy nhiên, đa phần là dạng tranh chấp về vi phạm
nghĩa vụ trả nợ của khách hàng khi đáo hạn.
Tình huống 1: Năm 1995, do nhu cầu sản xuất kinh doanh mở rộng, công ty
trách nhiệm hữu hạn Phương Đông (CTPĐ) đã vay của Ngân hàng Nông
Nghiệp và Phát triển Nông Thôn chi nhánh tỉnh Bắc Giang số tiền là 400,667
triệu VNĐ, trong đó lần vay cuối cùng ngày 24/6/1996 là 80 triệu VNĐ do
trung tâm tư vấn doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang bảo lãnh. Số vay còn lại được
công ty Phương Đông thế chấp bằng ngôi nhà ba tầng có diện tích 482 mét
vuông, là trụ sở làm việc và mặt bằng sản xuất của công ty. Nhưng sau đó, do


×