Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

BT2 truyen hinh the gioi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.12 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Có thể nói, hiện nay truyền hình là phương tiện truyền thông phổ
biến nhất thế giới. Hầu hết mọi người không có cơ hội trực tiếp gặp mặt các
nguyên thủ quốc gia, du hành tới mặt trăng, chứng kiến một cuộc chiến hay
xem một trận thi đấu thể thao…với truyền hình, họ có được cơ hội làm
những việc đó. Không chỉ là một phương tiện truyền thông, phương tiện
giải trí thuần tuý, ngày nay truyền hình còn được ứng dụng trong rất nhiều
lĩnh vực của cuộc sống hiện đại. Bộ phận an ninh sử dụng truyền hình như
một công cụ bảo vệ, giám sát. Ngành tàu điện ngầm dùng truyền hình để
quản lý hệ thống đường tàu điện hay ngầm hay để điều khiển con tàu từ xa.
Các bác sĩ khám nội tạng bệnh nhân bằng camera hiển vi thay vì mổ.
Ngành giáo dục tiến hành đào tạo từ xa cũng thông qua truyền hình.
Truyền hình là loại hình phương tiện thông tin đại chúng mới xuất
hiện từ khoảng giữa thế kỷ XX, nhưng đã phát triển rất nhanh chóng, mạnh
mẽ và được phổ biến hết sức rộng rãi trong vòng vài ba thập niên trở lại
đây. Thế mạnh đặc trưng của truyền hình là cung cấp thông tin dưới dạng
hình ảnh (Kết hợp âm thanh và ở mức độ nhất định cả với chữ viết) mang
tính hẫp dẫn sinh động, trực tiếp và tổng hợp. Từ đó, loại hình phương tiện
truyền thông độc đáo, đặc biệt này tạo nên được ở người tiếp nhận thông
tin hiệu quả tổng hợp tức thời về nhận thức và thẩm mỹ, trước hết là ở trình
độ trực quan, trực cảm.
Bằng sự kết hợp các chức năng phản ánh- nhận thức thẩm mỹ- giải
trí với nhau, truyền hình ngày càng thu hút được nhiều khán giả. Vai trò, vị
trí, ảnh hưởng và tác động của truyền hình đối với công chúng nói chung,
quá trình hình thành và định hướng dư luận xã hội nói riêng đã và đang
tăng lên nhanh chóng.

1


I. Lịch Sử Truyền hình thế giới.


Truyền hình là hệ thống phát và thu hình ảnh và âm thành bằng
những thiết bị truyền dẫn tín hiệu từ qua cáp, sợi quang và quan trọng nhất
là sóng điện từ.
Những hệ thống truyền hình thật sự đầu tiên bắt đầu đi vào hoạt
động chính thức trong thập niên 40 của thế kỷ này, không lâu sau khi khái
niệm "truyền hình" được sử dụng với nghĩa như chúng ta vẫn hiểu ngày
nay. Ngành truyền hình thế giới đã phải trải qua một thời gian dài phát triển
mới có được thành tựu đó.
Năm 1873, nhà khoa học người Scotland James Cleck Maxwell tiên
đoán sự tồn tại của sóng điện từ, phương tiện chuyền tải tín hiệu truyền
hình.
Cùng năm này, nhà khoa học người Anh Willoughby Smith và trợ lý
Joseph May chứng minh rằng điện trở suất cảu nguyên tố Selen thay đổi
khi được chiếu sáng. Phát minh này đã đưa ra khái niệm "suất quang dẫn",
nguyên lý hoạt động của ống vidicon truyền ảnh. 15 năm sau, năm 1888,
nhà vật lý người Đức Wihelm Hallwachs tìm ra khả năng phóng thích điện
tử của một số vật liệu. Hiện tượng này được gọi là "phóng tia điện tử",
nguyên lý của ống orthicon truyền ảnh.
Mặc dù nhiều phương thức chuyển đổi ánh sáng thành dòng điện tử
đã được phát minh và hoàn thiện nhưng hệ thống truyền hình đầu tiên vẫn
chưa đủ điều kiện để ra đời. Vấn đề cốt yếu là dòng điện tạo ra còn yếu và
chưa tìm sđược một phương pháp khuyếch đại hiệu quả. Mãi cho tới năm
1906, khi Lee De Forest, một kỹ sư người Mỹ đăng ký sáng chế ống triode
chân không thì vấn đề mới được giải quyết.
1.1, Đĩa Nipkow
Năm 1884, kỹ sư Paul Nipkow chế tạo thành công thiết bị thực
nghiệm truyền hình đầu tiên, đĩa Nipkow. Ông đặt chiếc đĩa có đục lỗ theo
hình xoáy ốc phía trước một bức tranh được chiếu sáng. Khi quay đĩa, lỗ
2



thủng đầu tiên quét qua điểm cao nhất của bức tranh, lỗ thứ hai quét thấp
hơn lỗ đầu tiên một chút, lỗ thứ 3 lại thấp hơn chút nữa,… và cứ như vậy
cho tới tâm bức tranh. Để thu được hình ảnh, Nipkow quay chiếc đĩa, sau
mỗi vòng quay, tất cả các điểm của bức tranh lần lượt hiện lên. Những
chiếc đĩa tương tự quay ở điểm nhận. Khi tốc độ quay đạt 15 vòng/'giây,
ánh sáng đi qua hệ thống đĩa tái tạo được hình ảnh tĩnh của bức tranh.
Thiết bị của Nipkow được sử dụng mãi tới thập kỷ 20 của thế kỷ này. Sau
đó kỹ thuật truyền ảnh tĩnh dựa trên hệ thống đĩa Nipkow được Jenkins và
Baird tiếp tục hoàn thiện. Những hình ảnh thu được tuy còn thô nhưng đã
có thể nhận ra. Thiết bị thu vẫn sử dụng đĩa Nipkow đặt phía trước một
ngọn đèn được điểu khiển độ sáng bằng tin hiệu từ bộ phận cảm quang phía
sau đĩa ở thiết bị phát. Năm 1926 Baird công bố một hệ thống truyền ảnh
tĩnh sử dụng đĩa Nipkow 30 lỗ.
Kỹ thuật này được gọi là phương pháp quét cơ học, hay phương pháp phân
tích cơ học.
1.2, Truyền hình điện tử.
Đồng thời với sự phát triển của phương pháp phân tích cơ học, năm 1908
nhà sáng chế người Anh Campbell Swinton đưa ra phương pháp phân hình
điện tử. Ông sử dụng một màn ảnh để thu nhận một điện tích thay đổi
tương ứng với hình ảnh, và một súng điện tử trung hoà điện tích này, tạo ra
dòng biến tử biến thiên. Nguyên lý này được Zworykin áp dụng trong ống
ghi hình iconoscope, bộ phận quan trọng nhất của camera. Về sau, chiếc
đèn orthicon hiện đại hơn cũng sử dụng một thiết bị tương tự như vậy.
Năm 1878, nhà vật lý và hoá học người Anh, William Crookes phát
minh ra tia âm cực. Tới năm 1908, Campbell Swinton và Boris Rosing,
người Nga, độc lập nghiên cứu những kết qủa thu được của hai ông lại
tương đồng. Theo đó, hình ảnh được tái tạo bằng cách dùng một ống phóng
tia âm cực (cathode-rays, tube-CRT) bắn phá màn hình phủ phóphor. Trong
suốt những năm 30, công nghệ CRT được kỹ sư điện tử người Mỹ tên là

3


Allen DuMont tập trung nghiên cứu. Phương pháp tái hiện hình ảnh của
DuMont về cơ bản giống phương pháp chúng ta đang sử dụng ngày nay.
Ngày 13/1/1928, nhà phát minh Emst Alexanderson cho ra đời chiếc
máy thu hình áp dụng phương pháp phân hình điện tử đầu tiên trên thế giới
tại Schenectady, New York, Mỹ. Hình ảnh trên màn hình 76 mm (3 inch)
xấu và không ổn định nhưng máy thu hình vẫn phổ biến ở nhiều gia đình.
Nhiều máy thu kiểu này đã được sản xuất và bán tại Schenectady. Cũng tại
đây, ngày 10/5/ 1928, đài WGY bắt đầu phát sóng đều đặn.
1.3, Phát hình công cộng.
Trong khi đó chương trình truyền hình công cộng đầu tiên lại xuất
hiện ở London năm 1936. Những buổi phát hình này do 2 công ty cạnh
tranh với nhau thực hiện. Marconi- EMI phát bằng hình ảnh 405 dòng quét
ngang với 25 mành hình/ giây (25 frame/s) và hãng truyền hình Baird phát
bằng hình ảnh 240 dòng quét ngang cũng với 25 frame/s. Đầu năm 1937,
hệ Marconi với chất lượng hình ảnh tốt được chọn làm chuẩn. Năm 1941,
Mỹ chấp nhận chuẩn 525 dòng quét với 30 frame/s cho bộ phận giải của
mình. Thánh 11/1937, BBC thực hiện buổi phát hình ngoài trời đáng chú ý
đầu tiên. Đó là buổi phát hình lễ đăng quang của vua George VI tại công
viên Hyde, London. BBC đã sử dụng một máy phát xách tay đặt trên chiếc
xe đặc biệt. Vài ngàn khán giả đã chứng kiến buổi phát hình này
1.4, Truyền hình màu.
Ngay từ năm 1904 người ta đã biết rằng có thể chế tạo thiết bị truyền
hình màu bằng cách sử dụng 3 màu cơ bản là đỏ, lục và xanh. Năm 1928,
Baird cho ra mắt truyền hình màu dùng 3 bộ đĩa Nipkow quét hình ảnh. 12
năm sau, Peter Goldmark chế tạo được hệ thống truyển hình màu với khả
năng lọc tốt hơn. Năm 1951 buổi phát hình màu đầu tiên đã sử dụng hệ
thống của Goldmark. Tuy nhiên, hệ thống này không thích hợp với truyền

hình đơn sắc nên cuối năm đó thí nghiệm bị hủy bỏ. Cuối cùng thì hệ thống

4


truyển hình màu thích hợp với truyền hình đơn sắc cũng ra đời năm 1953.
Một năm sau, phát hình màu công cộng lại xuất hiện.
Những bước phát triển tiếp theo của nghành truyền hình thế giới chỉ
là hoàn thiệt chất lượng truyền hình bằng những màn hình lớn hơn, công
nghệ phát và truyền dẫn tín hiệu truyền hình tốt hơn mà thôi. Những màn
hình đầu tiên chỉ đạt 18 hoặc 25 cách mạng (7 hoặc 10 inch) kích thước
đường chéo. Màn hình ngày nay có kích thước lớn hơn rất nhiều. Với sự ra
đời của máy chiếu, mán ảnh truyền hình có thể phục vụ những mán hình có
kích thước đường chéo lên tới 2m. Nhưng các nhà sản xuất cũng không
quên phát triển máy thu hình để nhỏ gọn, chẳng hạn một máy thu hình cỡ 3
inch (7,6 cm)
Ngày nay, ngành truyền hình thế giới đang từng bước chuyển dần từ
công nghệ tương tự (hay tuần tự- analog) sang truyền hình kỹ thuật số
(digital). Từ thập kỷ 80, hệ truyền hình độ nét cao (high-definition
television - HDTV) sử dụng kỹ thuật số bắt đầu được nghiên cứu
1.5 Các giai đoạn phát triển của truyền hình thế giới
Truyền hình có mối liên hệ mất thiết với một số loại hình truyền thống hay
nghệ thuật khác như phát thanh, điện ảnh…Tuy nhiên, chỉ sau một vài thập
kỷ sơ khai, truyền hình đã tiến hành những bước dài và thực sự tách ra khỏi
các loại hình khác, trở thành phương tiện truyền thông độc lập và có sức
mạnh to lớn trong việc tạo dựng và định hướng dư luận.

5



Việc phát sóng truyền hình đầu tiên ở Mỹ được bắt đầu từ những
năm 1930, và truyền hình chỉ thực sự phổ biến từ những năm 1950. Những
đài phát thanh như NBC, CBS, ABC… sau khi phát triển thêm hệ thống
truyền hình đã thực sự lớn mạnh và trở thành những tập đoàn phát thanh truyền hình tầm cỡ thế giới.
Trên thực tế, sự hình thành và phát triển của truyền hình gắn liền với
các sự kiện khoa học - công nghệ cũng như các sự kiện chính trị - xã hội
khác. Ngay từ đầu những năm 1920, người ta đã chú ý đến truyền hình do
họ nhận thức được vai trò của truyền hình trong việc tuyên truyền, quảng
bá trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội…có thể điểm qua một vài mốc
quan trọng trong niên đại truyền hình như sau.
1887: Heinrich Hertz (người Đức) chứng minh những tính chất của sóng
điện từ.
1890-1895: Edouart Branly (người Pháp), Oliver Lodge (người Anh) và
Alexandre Popov (người Nga) hoàn chỉnh điện báo vô tuyến.
1895: Guglielmo Marconi (người Ý) ứng dụng những công trình nghiên
cứu về vô tuyến điện.
Tháng 3/1899: Liên lạc vô tuyến quốc tế đầu tiên ra đời ở Anh và Pháp, dài
46 Km
1923: Vladimir Zworykin (người Nga) phát minh ra ống iconoscop, cho
phép biến năng lượng ánh sáng thành năng lượng điện.
1929: Chương trình phát hình đâu tiên của BBC được thực hiện từ kết quả
nghiên cứu của John Baird về quét cơ học.
Tháng 4/1931: Chương trình phát hình đầu tiên được thực hiện ở Pháp dựa
trên những nghiên cứu của René Barthélemy.
1934: Vladimir Zworykin hoàn chỉnh nghiên cứu về iconoscop và bắt đầu
ứng dụng vào việc xây dựng và phát sóng truyền hình.
1935: Pháp đặt máy phát trên tháp Eiffel
1936: Thế vận hội Berlin được truyền hình tại một số thành phố lớn.
6



1939: Truyền hình Liên Xô phát đều đặn hàng ngày
1941: Mỹ chấp nhận 525 dòng quét với bộ phân giải của mình
Trong và sau chiến tranh thế giới thứ II: Các cường quốc chạy đua gay
gắt để phát các chương trình truyền hình nhằm vận động nhân dân ủng hộ
các chiến lược quân sự và kinh tế của mình.
1948: Pháp chấp nhận chuẩn 819 dòng quét, kết quả nghiên cứu của Henri
de France.
1954: Đài RTF phát những buổi tryền hình đầu tiên bằng điều biến tần số.
1956: Hãng Ampex giới thiệu máy ghi hình từ (thu hình ảnh trên băng từ)
Tháng 10/1960 truyền hình trực tiếp cuộc tranh luận trên kênh truyền hình
giữa 2 ứng cử viên tổng thống Mỹ: Richard Nixon và John Kennedey
1964: Vệ tinh đĩa tĩnh đầu tiên được phóng lên quỹ đạo mang tên Early
Bird.
1965: Diễn ra cuộc chiến về các chuẩn truyền hình màu SECAM (Pháp) và
PAL (Đức) tại Châu Âu
Tháng 10/1967: Khánh thành truyền hình màu ở Pháp và Liên Xô
1969: Cuộc đổ bộ lên bề mặt trăng của tàu Apollo 11 được chuyền hình
trực tiếp qua Mondovision.
1970: Hiệp hội viễn thông quốc tế phân chia các sóng truyền hình centimet
cho các nước và giới thiệu loại băng hình video dùng cho công chúng.
1992: Truyền hình kỹ thuật số trở thành hiện thực
Như vậy, có thể thấy, lịch sử phát triển của truyền hình luôn nằm
trong và cùng song hành với lịch sử tiến bộ nhân loại. Truyền hình ngày
một lớn mạnh lớn là do nhu cầu thông tin của công chúng ngày càng cao,
khoa học kỹ thuật phát triển và xuất hiện nhu cầu được giao lưu quốc tế.
Chính bản thân các vấn đề sự kiện chính trị, xã hội cũng góp phần thúc đẩy
truyền hình phải tự phát triển và phát huy hơn nữa những ưu thế của mình,
từ đó dần tạo nên những đặc trưng riêng biệt mang tính loại hình trong hệ
thống các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay. Được thiết kế với

7


những màn ảnh rộng áp dụng kỹ thuật hình ảnh 1125 dòng quét ngang thay
cho máy thu hình truyền thống chỉ 525 hoặc 625 dòng quét.
II. Xu Hướng Phát Triển Của Truyền Hình Thế Giới Hiện Nay
2.1 Thách thức của truyền hình ngày nay
Sự ra đời của internet kéo theo những biến đổi to lớn của lĩnh vực
truyền thông đại chúng. Rất nhiều dự đoán về tương lai của ngành truyền
thông sẽ thuộc về loại hình này, với ưu thế vượt trội của nó là đa phương
tiện và tính tương tác. Theo khảo sát của hãng nghiên cứu thông tin Nielsen
(Mỹ) cho thấy: việc sử dụng internet và các dịch vụ trên mạng trong các gia
đình đã chen vào thời gian xem truyền hình của họ. Các gia đình nối mạng
internet trung bình giảm 13% thời gian theo dõi truyền hình khoảng 1 tiếng
mỗi ngày so với các gia đình khác. Đây là kết quả khảo sát 5000 gia đình ở
Mỹ trong năm 2000. Nhiều con số thống kê khác cho thấy: khán giả thường
xuyên của màn ảnh nhỏ cũng bắt đầu giảm dần, kể từ khi họ bị lôi cuốn bởi
máy tính và internet, đặc biệt là lớp trẻ. Ông Marshal Cohen, chuyên gia
thẩm định thông tin của hãng truyền hình AOL – Turner nhận định rằng:
“Con người đang thay đổi, thoát khỏi sự quyến rũ của các chương trình
truyền hình. Họ thích tự nghiên cứu và tiếp cận với thông tin hơn là bị chi
phối bởi thông tin”.
Mặc dù mới chỉ là những nhận định như trên và tính dự đoán còn ở
phía trước, cũng như sự thay đổi chưa mang tính bước ngoặt nhưng người
ta cũng bắt đầu lo ngại trước sức mạnh của internet. Chính vì vậy, tương tự
như lịch sử của việc kết hợp nhiều loại hình báo chí trong vòng kiểm soát
của một ông chủ hay một tập đoàn tư bản trước đây, thì nay, các hãng
truyền hình lớn cũng muốn xích lại gần các công ty dịch vụ internet bằng
hàng loạt những hợp đồng chuyển sở hữu hay sáp nhập. Mục tiêu nhằm
“lập chiến lược đúp để vươn tới khách hàng, cung cấp cả truyền hình và

sản phẩm tương tác (tức các dịch vụ internet) cho mọi đối tượng tiêu dùng,
từ trẻ em đến người lớn, mọi tầng lớp khán giả truyền hình” – theo như lời
8


của Ringo Chan – giám đốc chi nhánh của Turner Internationl tại Hồng
Kông (Công ty mẹ của CNN) khẳng định.
Mạng lưới truyền hình của Mỹ cũng đã tung ra đòn phản công phù
đầu chống lại các đối thủ đe dọa của mình. Qua một loạt giao dịch mua bán
nhanh chóng, các hãng truyền hình nước này đã thôn tính nhiều công ty
internet nhằm tạo dựng một vị trí tốt trong bối cảnh truyền thông mới, các
website trên mạng. Những vụ mua bán này đều phản ánh mong muốn kéo
lại khán giả đang trôi về môi trường tương tác, đa màu sắc trên web. Mặc
dầu vậy, tất cả mới dừng lại ở mục đích tranh giành thị phần, khán giả và
quảng cáo.
Trên thực tế, hiện nay và tương lai, internet khó có thể gây nguy hại
cho đời sống báo chí nói chung và truyền hình nói riêng. Trong vòng 10
năm qua, kể từ khi bùng nổ internet, số lượng phát hành, lợi nhuận từ
quảng cáo trên báo in vẫn không ngừng tăng lên, kể cả ở những nước có
điều kiện phát triển internet như Mỹ, Châu Âu. Với truyền hình, nhìn bề
ngoài có vẻ bị suy yếu vì lượng khán giả ngày một giảm, nhưng trên thực
tế, các tập đoàn truyền hình lớn vẫn rất sung sức. Truyền hình vẫn là
phương tiện truyền thông phổ cập nhất, đặt dưới sự kiểm soát của các tư
bản kếch xù và lâu đời, trong khi nhiều công ty internet còn quá non trẻ và
kinh doanh vẫn thua lỗ.
Mặt khác, theo tài liệu phân tích của tổ chức phát thanh – truyền hình
châu Á – Thái Bình Dương (ABU) thì chất lượng audio, video qua internet
hiện nay vẫn còn là vấn đề cần xem xét. Âm thanh trên internet mới chỉ
dừng ở mức độ “nghe được”, còn xa mới có thể đạt chất lượng cao. Hình
ảnh qua internet thường có khuôn hình bằng 1/16 toàn bộ màn ảnh, chất

lượng kém và chỉ truyền được 6 hình/giây. Nếu so sánh với internet thì
truyền hình chỉ thua kém ở mặt tương tác. Tuy nhiên trong tương lai, khi
truyền hình tương tác (interactive television) hoàn thiện hệ thống và phổ
cập thì gần như ranh giới giữa truyền hình và internet sẽ rất mờ nhạt, khi
9


mà chúng trộn lẫn vào nhau. Những tham vọng và toan tính kể trên của các
hãng truyền hình lớn nhằm thâu tóm các công ty internet cũng chính là để
chuẩn bị cho tương lai đó.
2.2 Giải pháp cho truyền hình
Trước mắt, người ta tạm bằng lòng với những website trực tuyến mà
tất cả các hãng truyền hình được phát sóng và những thông tin bổ sung
được truyền tải trên mạng theo một cách thức khác, đã khiến cho truyền
hình ngày càng phát huy sức mạnh của nó. Người ta tìm đọc những thông
tin về một sự kiện nào đó được đưa trên mạng và nảy sinh nhu cầu xem
hình ảnh về sự kiện đó trên truyền hình. Ngược lại khi xem truyền hình,
khán giả bị lôi cuốn và thôi thúc tìm hiểu về tin tức đó kĩ hơn bằng cách
truy cập vào internet. Và thật khéo là, không chỉ bổ sung cho nhau về mặt
thông tin, cách thức tiếp cận thông tin mà hai loại hình này luôn biết cách
quảng cáo cho nhau theo nghĩa đen của từ này, vì xét cho cùng, chúng đều
thuộc về một hãng mà thôi. Có thể kể tên hàng loạt các website của các
hãng lớn như là CNN.com, BBC.com, ABCnews.com, NBCi.com...
Danh mục các chương trình truyền hình luôn được chuyển tải trên
mạng, thể hiện đầy đủ trên thanh công cụ của các trang web. Khi truy cập
vào đây người đọc sẽ tiếp cận sâu hơn những vấn đề đã hoặc sẽ phát sóng.
Phát huy ưu thế tương tác của mạng trực tuyến, các website này luôn có
diễn đàn để người truy cập tham gia bàn luận sâu hơn về các sự kiện. Ví dụ
như trong thời điểm xảy ra sự kiện 11/9/2001 tại Mỹ, trang web
ABC.news.com đã xây dựng hẳn một diễn đàn trao đổi ý kiến trực tiếp với

tên gọi: “Cầu Chúa phù hộ nước Mỹ, Tại sao? Tại sao?”. Chỉ sau 3 ngày,
số lượng thông tin trao đổi đã lên quá con số 3 triệu.
Tuy nhiên xu hướng hợp tác, hợp nhất giữa truyền hình và internet
không dừng lại ở đó, cũng không chỉ khởi nguồn theo ý đồ của các tập
đoàn truyền hình lớn. Đó còn là tham vọng của các công ty tin học khổng
lồ mà tiêu biểu nhất là Microsoft. Bill Gates, chủ nhân của tập đoàn này
10


nhân thấy rằng: trong tương lai, nếu muốn giữ sự phát triển thần kỳ của
Microsoft thì nhất thiết phải nắm giữ lấy thị trường mà các nhà sáng chế
của ông gọi là không gian truyền hình (television space). Vấn đề là ở chỗ,
trong thị trường đó, ông sẽ chiếm một vị trí lớn đến mức nào.
Báo chí phương Tây ví sự hợp tác, hợp nhất giữa truyền hình và
internet là một cuộc hôn phối giữa hàng loạt các tập đoàn truyền thông –
truyền hình nắm trong tay quyền lực thông tin và các công ty tin học với ưu
thế to lớn về công nghệ. Trong cuộc cạnh tranh nhằm thâu tóm tương lai
của ngành truyền thông, phần thắng có thể thuộc về ông Bill Gates hay ông
Ted Turner, đồng nghĩa với việc truyền hình lợi dụng Internet để phát triển
hoặc ngược lại. Song đây là xu hướng có tính tất yếu, nếu xét trên phương
diện khoa học công nghệ thuần túy. Bởi đó là sự kết hợp của một loại hình
truyền thông tương tác với một phương tiện báo chí nghe nghìn để thực sự
trở thành truyền thông đa phương tiện.
Người ta đã nhìn thấy: trong tương lai gần, chiếc máy thu hình thông
thường hiện nay sẽ trở thành lạc hậu, thay vào đó là các thiết bị đa phương
tiện – multimedia, tiện lợi và đa dụng hơn nhiều. Đó là một máy tính đa
chức năng: tính toán, soạn thảo văn bản, tra cứu thông tin, đánh cờ, chơi
điện tử, viết và nhận email và xem hàng trăm kênh truyền hình. Khi xem
truyền hình nhiều kênh, khán giả chẳng cần bấm nút chuyển kênh liên hồi
vì bên tay phải của màn hình sẽ có hàng loạt màn hình mini, hiển thị cho

bạn biết kênh nào hiện đang chiếu gì, và lúc đó bạn sẽ dễ dàng lựa chọn. Ví
dụ như khi bạn đang xem bóng đã, bạn chỉ cần bám điều khiển từ xa để
hiển thị một khuôn hình nhỏ, giống như trên internet nằm hai bên lề màn
hình, không chiếm diện tích lớn và vẫn đủ để bạn theo dõi bóng đá. Tuy
đồng thời làm các việc như trên, người ta vẫn thao tác nhiều việc khác: khai
thác thông tin về một cầu thủ nào đó từ trang web hay xem lại một vài pha
gay kết hay kết quả các trận đấu khác, trao đổi cùng bạn bè hay xem một
bản bình luận mới cập nhật.
11


Tuy nhiên sự hội nhập giữa truyền hình và internet không có nghĩa
biến truyền hình thành một thứ hình ảnh động được chuyển tải trên mạng
và hòa tan và đó. Về bản chất, mặc dù cả hai loại hình dều mang tính báo
chí và giải trí. Song chiếc máy vi tính là phương tiện để làm việc, trong khi
máy thu hình còn là một sản phẩm văn hóa của gia đình. Máy thu hình sẽ
được nối mạng internet nhưng sẽ không làm nhiệm vụ giống máy tính, việc
sử dụng sẽ dễ dàng hơn và dịch vụ của nó đơn giản hơn. Như vậy trong gia
đình vẫn sẽ có cả hai loại máy kỹ thuật tương đối giống nhau. Khi đó, máy
thu truyền hình sẽ đảm bảo việc quản lý hàng trăm kênh truyền hình, những
dịch vụ như: mua hàng qua truyền hình, các trò chơi truyền hình, kiểm tra
tài khoản ngân hàng… Còn máy tính sẽ đảm nhiệm các chức năng phức tạp
hơn như xử lý, quản lý thu nhập gia đình, xử lý văn bản, hội thảo, hội nghị
qua mạng, xử lý hình ảnh…
Cũng như tốc độ phát triển của internet, người ta dự đoán rằng chỉ
trong vòng một thập kỷ tới, một thế hệ truyền hình thông minh sẽ quen
thuộc với nhiều gia đình. Với công nghệ sản xuất các màn hình cực mỏng,
bạn có thể treo trên tường mỗi phòng một máy thu hình như một bức tranh
treo tường. Bạn chỉ cần ngồi trên ghế, nói lên bạn muốn gì, toàn bộ hệ
thống này sẽ thực hiện ý muốn của bạn: tìm chương trình bạn thích xem,

ghi lại các chương trình chưa kịp xem, xem tin tức mới cập nhật…
2.3 Xu hướng phát triển của truyền hình
Với sự cạnh tranh khốc liệt từ các loại hình báo chí khác, đặc biệt là
từ internet, truyền hình cần phải tự thay đổi bản thân mình để đáp ứng được
yêu cầu của công chúng hiện đại cũng như tự cứu sống bản thân mình. Bên
cạnh việc nâng cao chất lượng tin bài, chất lượng phát sóng… thì một yêu
cầu đặt ra cho truyền hình là phải tạo ra được những chương trình mới hấp
dẫn khán giả. Ta có thể thấy một vài thay đổi của truyền hình trong tương
lai:

12


Truyền hình kỹ thuật số: Giữa năm 2008 và 2012, truyền hình công nghệ
tương tự (analogue TV) sẽ chấm dứt tại Anh để hoàn toàn chuyển sang
dịch vụ truyền hình kĩ thuật số với chất lượng tốt hơn. TV kĩ thuật số có thể
thu sóng từ dây anten, vệ tinh, cáp hoặc các đường dây điện thoại. Để
chuyển sang truyền hình công nghệ số, yêu cầu phải có bộ chuyển đổi để
xem truyền hình kĩ thuật số trên TV thông thường (set-top box) hoặc bộ
giải mã cho TV.
TV độ nét cao: TV với độ nét cao hay HDTV (High-definition television)
là định dạng mới cho phép người xem có được những hình ảnh sắc nét, rõ
ràng, màu sắc trung thực, độ tương phản cao và chất lượng âm thanh cũng
tốt hơn nhiều nhờ có thêm nhiều điểm ảnh hơn trên từng cm. Những chiếc
TV được coi là HDTV nếu màn hình có đủ điểm ảnh (pixel) để thể hiện
được những hình ảnh sắc nét với độ phân giải 720p (1280x720 pixel) hoặc
1080i (1920x1080 pixel). Bạn cần phải có một chiếc HDTV và bộ chuyển
đổi HD hoặc bộ giải mã để xem được truyền hình kĩ thuật số.
Máy ghi hình cá nhân PVR: Với PVR (Personal video recorder), người
xem có thể ghi lại nội dung truyền hình trực tiếp vào PC để xem lại sau đó.

Trong quá trình ghi lại các chương trình, chúng ta cũng có thể tạm dừng
(pause), xem lại (replay), tua hình (fast forward)… Hầu hết PVR đều được
kết hợp với các dịch vụ TV kĩ thuật số như: Sky, Freeview
Xem video theo yêu cầu (on demand): “On demand” có nghĩa là người
xem có thể xem danh sách các chương trình để lựa chọn chương trình
muốn xem và không bị bó buộc về thời gian xem. Với dịch vụ theo yêu
cầu, đài truyền hình sẽ gửi tới khách hàng những show diễn hay những bộ
phim được yêu thích thông qua việc kết nối băng thông rộng nhờ bộ
chuyển đổi cho TV.
Sự kết hợp giữa TV và máy tính: Gìờ đây, việc kết nối TV với máy tính
(PC) hay một thiết bị có thể đảm nhận cả 2 chức năng này không còn là
điều khó tưởng tượng. Nó sẽ mở ra một thư viện khổng lồ các đoạn video
13


từ mạng internet và có thể xem trực tiếp chúng trên TV. Điều này cũng gần
giống như việc sử dụng bộ nhớ PC như một chiếc PVR. Người tiên phong
trong lĩnh vực này là Microsoft với Media Centre. Bên cạnh đó, chiếc iTV
của Apple cũng mang đến những tiện nghi tương tự. Còn phải kể tới Xbox
360 cho phép tải các show để xem trực tiếp trên TV.
Truyền hình di động: Hiện nay xem TV trên màn hình di động là điều khá
phổ biến. Nhờ kết nối mạng tốc độ cao 3G, việc tải về các gói dịch vụ để
xem trực tiếp trên di động đơn giản hơn bao giờ hết. Các công nghệ cạnh
tranh như: DAB-IP và DVB-H đang được các nhà sản xuất điện thoại đưa
vào để thu hút nhiều hơn nữa khách hàng. Cũng như điện thoại, việc xem
show trên iPod và máy nghe nhạc MP3 ngày càng phổ biến hơn.
Truyền hình theo yêu cầu (on-demand)
Truyền hình theo yêu cầu là dịch vụ mà khán giả có thể tự mình lựa
chọn chương trình yêu thích để xem mà không phải phụ thuộc vào giờ phát
của đài truyền hình.

Từ năm 1991, Microsoft đã muốn đưa máy điện toán vượt xa các
loại máy PC thường và hướng đặc biệt về truyền hình tương tác mà họ rất
thích khả năng thực hiện việc xem video theo yêu cầu (video on demand).
Hậu quả tức thì của việc này là làm cho các cửa hàng thuê băng đĩa bị lỗi
thời phải đóng cửa.
Microsoft tự nhận cho mình sứ mạng phải phát minh lại truyền hình,
theo đó, họ phải chuyển đổi một phương tiện báo chí mang tính giải trí,
giáo dục chuyển tạo ra một sự thụ động, uể oải, đờ đẫn ở người xem thành
một phương tiện có khả năng kích thích cac phản ứng của đông đảo khán
giả.
Để thực hiện mục đích đó, Microsoft lao vào nghiên cứu truyền hình
tương tác nhưng không thành công. Trong khi đó, năm 1995, tập đoàn
Time Warner của ông Ted Turner đã đưa ra biểu diễn một mô hình thí
nghiệm truyền hình tương tác có thể vừa thu được các chương trình truyền
14


hình, vừa có thể yêu cầu chiếu những bộ phim khá giả yêu thích, vừa có thể
đặt mua vé máy bay, đặt phòng khách sạn… Những việc này thực hiện
được nhờ có bộ phận thiết bị server (cho phép truy cập dữ liệu trực tiếp) và
nhờ hộp setto đặt trên máy thu hình. Trở ngại chính của nó còn quá cồng
kềnh và giá quá cao: 8000$ cho chiếc hộp setto. Bill Gates đã nhanh nhạy
nhận ra rằng: chỉ có mạng internet mới là chìa khóa giúp Microsoft bước
vào lĩnh vực kinh doanh truyền hình một cách vững chắc. Với 425 triệu
USD, Bill Gates mua ngay công ty điện tử WebTV Sun chuyên sản xuất
các thiết bị điện tử hệ thống, biến nó thành một phòng thí nghiệm tốt nhất
của truyền hình tương tác. Mục tiêu của Microsoft là thiết kế chiếc hộp
webtv, cho phép truy cập các website từ máy thu hình bình thường với giá
chỉ khoảng 199 USD.
Nếu Microsoft thành công trong việc sản xuất loại máy thu hình kèm

theo một số thiết bị cho phép vừa xem được các chương trình truyền hình
thông thường, vừa sử dụng được như máy điện toán, vừa là máy truyền
hình tương tác thì có nghĩa là công ty này sẽ chiếm được vị trí mạnh trong
lĩnh vực truyền hình, ảnh hưởng và lợi nhuận sẽ tăng rất nhanh đồng thời
thế lực của Bill Gates sẽ được nâng cao.
Nếu như không lâu trước đây, truyền thông đại chúng (mass media)
là sự thống trị của một tam đầu chế bao gồm Báo in, Truyền hình và Phát
thanh thì hôm nay, với sự ra đời và tương hỗ của Internet, đường truyền
băng thông rộng và công nghệ không dây, thế giới đang chứng kiến sự soán
ngôi của một tam đầu chế mới trong truyền thông, đó là Truyền hình,
Internet và Mobile.
May mắn thay, với những đặc thù về việc truyền hình ảnh và khả
năng thích ứng cao cho tương tác. “Đế chế” truyền hình vẫn và sẽ luôn là
một kênh thông tin quan trọng bậc nhất trong bộ ba này. Hơn thế nữa, khác
với giai đoạn phân mảnh trước đây với báo in, với phát thanh, truyền hình
ngày nay hoàn toàn có thể kết nối, dùng chung tập khán giả và phân chia
15


quyền lợi với hai hình thức nghe nhìn mới này, từ đó tạo ra vô số giá trị gia
tăng trên cả ba mô hình. Xu hướng và hiện trạng của thế giới, đó là việc ba
hình thức nghe nhìn thế hệ mới này đang kết nối để tụ về một điểm chung.
Mobile  Truyền hình
Hình thức sử dụng SMS để tác động lên chương trình truyền hình
trong thời gian gần đây đang như nấm sau mưa với hàng loạt các công ty
khai thác các dịch vụ giá trị gia tăng trên các thiết bị di động. Có thể nói
đây là hình thức phổ biến và hiệu quả nhất trong việc khai thác truyền hình
tương tác ở Việt Nam. Tuy nhiên, với cách thức khai thác ồ ạt và na ná
giống nhau dàn trải trên mọi chương trình truyền hình, sự nhàm chán và
thờ ơ của khán giả đối với loại hình dịch vụ này đã manh nha xuất hiện.

Truyền hình  Mobile
Với việc công nghệ WiMax sẽ triển khai sớm ở Việt Nam, cho phép
các thiết bị không dây có thể truy cập đường truyền tốc độ cao, việc xem
những chương trình truyền hình trực tiếp trên Mobile đang dần trở nên tực
tế
Internet  Truyền hình
Máy tính PC với khả năng tương tác trực tiếp lên Internet cung cấp
những công cụ mới cho việc tương tác truyền hình một khi Internet và
truyền hình đã kết nối. Thay cho các hình thức tương tác cổ điển như thư
phản hồi hay điện thoại cố định, chúng ta hãy nghĩ đến tất những gì chúng
ta tương tác được với Internet cũng sẽ chính là những gì chúng ta tương tác
được với truyền hình. Đó là khả năng phản hồi thông điệp trực tiếp, trực
tuyến, đó là khả năng gửi âm thanh và thậm chí cả hình ảnh trực tiếp lên
truyền hình.
Truyền hình  Internet.
IPTV cũng như Internet Television đã rậm rịch xuất hiện ở Việt Nam
cùng với các giao thức truyền video trực tiếp (streaming), các giao thức
phân phối ngang hàng (P2P sharing) đang hoàn thiện mở ra những hình
16


thức mới trong việc xem truyền hình. Khán giả đã có thể xem trực tiếp
chương trình của VTV, VTC… được ngay trực tiếp trên trang chủ cũng
như download những chương trình truyền hình số thông qua những mạng
ngang hàng mà VNN-TV là một trong những ví dụ đầu tiên của những nhà
cung cấp dịch vụ Video theo yêu cầu (VOD - Video On Demand), hình
thức xem TV rất phổ biến tại Bắc Mỹ.
Ba hình thức truyền thông thế hệ mới đang kết nối để hội tụ, tạo ra
nhiều dịch vụ giá trị gia tăng cho khán giả nhưng cũng tạo ra không ít thách
thức cho người làm truyền hình. Rõ ràng 3 hình thức truyền thông thế hệ

mới đang kết nối để hội tụ, tạo ra vô vàn dịch vụ giá trị gia tăng trên bản
thân mỗi loại hình,
Truyền hình theo yêu cầu iTV
IPTV (Internet Protocol Television) là dịch vụ truyền tải hình ảnh kỹ
thuật số tới người sử dụng qua giao thức Internet với kết nối băng thông
rộng - ADSL. Nó thường được cung cấp kết hợp với VoIP và truyền dữ
liệu nên còn được gọi là công nghệ tam giác (dữ liệu, âm thanh và hình
ảnh).
Tính tương tác cao
Bên cạnh các kênh truyền hình như các loại truyền hình analog và
truyền hình cáp khác, IPTV cho phép cung cấp các dịch vụ kèm theo như
Video theo yêu cầu (VoD - Video on demand), Truyền hình theo yêu cầu
(TVoD), Đọc báo trên TV (iNews), Âm nhạc theo yêu cầu (iMusic), Phát
thanh trực tuyến (iRadio), Lưu trữ trực tuyến (iStorage), Gửi tin nhắn qua
TV (iMessenger), Chia sẻ Video (Clip4U) và bầu chọn (Voting)... mà các
dạng truyền hình từ trước đến nay bao gồm analog, cáp hay truyền hình kỹ
thuật số không có được.
Truyền hình: Dễ dàng theo dõi lịch phát sóng
Từ công nghệ tương tác EPG của IPTV, người dùng có thể xem lịch
phát ngày hôm đó cũng như những ngày tiếp theo trên TV, đồng thời có thể
17


dễ dàng xem hiển thị tên chương trình đang phát cũng như ngày giờ bắt đầu
của chương trình kế tiếp. Chức năng đặt giờ cho phép đặt sẵn chương trình
muốn xem và đến đúng giờ đó, TV sẽ tự động chuyển sang kênh đã chọn.
VoD và TVoD – Phim và truyền hình theo yêu cầu
Đây là dịch vụ xem phim theo yêu cầu, với kho phim ảnh chương
trình các loại được lưu trữ trên máy chủ của nhà cung cấp. So với các bộ
phim được phát sóng trên truyền hình analog, truyền hình cáp hay truyền

hình kỹ thuật số, dịch vụ này có những ưu điểm vượt trội như khả năng
cung cấp lượng phim ảnh không hạn chế, chọn lựa phim muốn xem và tua
tới, tua lui, dừng hình như khi xem DVD.
iMusic – Nghe nhạc theo yêu cầu: đáp ứng nhu cầu về Nghe – Nhìn, dịch
vụ này cho phép lưu các album âm nhạc trên máy chủ để người dùng tự do
lựa chọn, tìm kiếm và lên danh sách các bài hát riêng cho mình. Số lượng
bài hát lưu trữ là không hạn chế.
iNews – Đọc báo trên TV: Hữu ích và đơn giản khi kết hợp TV với báo
điện tử. Đây là một dịch vụ liên thông với báo điện tử và người dùng sẽ đọc
báo trên TV tùy thích mà không cần phải sử dụng máy vi tính rồi truy cập
web báo điện tử để xem.
Sự vượt trội về công nghệ tương tác thế hệ mới này còn ở khả năng
giao tiếp giữa những người sử dụng hệ thống với nhau qua các dịch vụ
iMessenger và Voting: gửi và nhận tin nhắn, cùng tham gia các chương
trình bình chọn qua TV bằng cách bấm trực tiếp trên điều khiển từ xa.
iKaraoke, dịch vụ Karaoke gia đình tích hợp vào bộ giải mã cũng sẽ được
phát triển rộng rãi nhằm thỏa mãn thị hiếu của những khách hàng yêu ca
hát trong tương lai gần.
Với các tính năng nổi trội, trên thế giới IPTV đang chiếm thị phần
ngày càng lớn, nhất là ở các nước có hạ tầng ADSL phát triển. Theo các
chuyên gia, trong 5 năm tới IPTV sẽ đẩy lùi các loại dịch vụ truyền hình

18


truyền thống, truyền hình cáp và dẫn đầu trong lĩnh vực truyền thông
truyền hình.
Truyền hình tương tác (Interactive Television – ITV)
Truyền hình tương tác là khả năng cung cấp
các chương trình có thể tác động trực tiếp đến

khán giả. Tức là người xem có thể can thiệp vào
nội dung của chương trình truyền hình.
Từ ngữ “truyền hình tương tác”, về thực
chất, được dùng để nói về thể loại “đàm luận
chuyên đề” (talk show). Trong đó những người
tham gia có thể là các vị khách mời hoặc là đơn
thuần chỉ là những khán giả bình thường của
truyền hình.
Tất các các đài truyền hình ngày nay đều có tối thiểu vài ba chương
trình tương tác khác nhau, đó có thể là một chương trình bình luận về một
sự kiện thời sự, một gameshow trong đó có người chơi là khán giả… Ý
kiến của khán giả sẽ đóng góp vào thành công của chương trình. Điều đó là
cần thiết đề tạo ra một xu hướng báo chí khách quan.
Ở Úc, một bộ phim truyền hình phát sóng kèm theo lời kêu gọi khán
giả nhắn tin bình phẩm, thêm thắt chi tiết nhân vật, muốn tập sau nhân vật
đó như thế nào... Cách này phim truyền hình Hàn Quốc cũng áp dụng để
thăm dò khán giả. Các nhà đài được lợi ba bên: vừa tìm hiểu phản ứng
khán giả, vừa tăng lượng công chúng, vừa có nguồn thu phí từ lượng tin
gửi về.
Truyền hình thực tế (reality show)
Truyền hình thực tế (reality show) là những show truyền hình mà
người tham gia là những người không chuyên,được quay cảnh đời sống
thật và trong một mức độ nào đó không có bàn tay của đạo diễn can thiệp.

19


Đây là loại hình rất phổ biến ở các quốc gia phát triển, đặc biệt là ở
Mỹ. Để tạo ra cảm xúc thật và mới lạ cho công chúng, các đài truyền hình
tiến hành xây dựng các chương trình trong đó người tham gia sẽ được thể

hiện cảm xúc thật, hành động thật như trong đời thường mà không chịu sự
chi phối của đạo diễn. Có thể hiểu là người tham gia sẽ quên đi sự hiện
diện của máy quay và sống như cuộc sống thường ngày. Những hình ảnh
đó sẽ được máy ghi lại và truyền tới cho công chúng.

20


Kết Luận
Truyền hình là một thể loại sử dụng hình ảnh và âm thanh để tạo nên
thông tin cung cấp cho khán giả. Từ khi ra đời và phát triển đến nay, truyền
hình vẫn luôn tận dụng được những lợi thế của mình để cung cấp hình ảnh
của thế giới cho công chúng. Các đài truyền hình trên thế giới vẫn đang nỗ
lực để cải tiến chương trình của mình để cạnh tranh với các loại hình truyền
thông khác đồng thời cung cấp cho công chúng những tin tức tốt nhất, nóng
nhất của thế giới xung quanh.
Truyền hình khác với các loại hình khác ở chỗ nó đòi hỏi phải có
hình ảnh và âm thanh kết hợp, điều đó dẫn tới công nghệ đi theo nó cũng
phải cao hơn, đầu tư tốn kém hơn. Để thực hiện một tin tức truyền hình thì
ít nhất cũng phải có 2 người cùng hợp tác: một phóng viên và một quay
phim.
Trong xu thế cạnh tranh ngày nay, khán giả đã chán ngán những tin
tức khô khan, chậm chạp… do đó nhiều đài truyền hình ở Mỹ đã phát triển
rất nhiều chương trình truyền hình trực tiếp, những chương trình tin nóng
phát trực tiếp từ hiện trường. Rất thường gặp những chương trình đang phát
dở thì bị cắt ngang bởi những “tin nóng”… tại hiện trường một sự việc nào
đó, ta sẽ thấy một phóng viên đang dẫn hiện trường tường thuật trực tiếp
những gì đang diễn ra xung quanh họ… khán giả trước màn hình tivi sẽ
cảm thấy tò mò và chăm chú theo dõi. Đó là một bước đi mới để chinh
phục khán giả.


21



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×