Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Hiện thực trong một số truyện ngắn của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 78 trang )

LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng sâu sắc và tình cảm chân thành, em xin gửi lời cảm
ơn tới các thầy cô trong khoa Ngữ văn, các thầy cô công tác tại Trung tâm
Thông tin - Thư viện, phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục trường
Đại học Tây Bắc đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian học
tập và trong việc tìm hiểu nghiên cứu đề tài này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Thạc sĩ Mai
Thị Chín, người đã tận tình trực tiếp chỉ dạy, giúp đỡ em trong suốt quá trình
nghiên cứu, thực hiện, hoàn thiện đề tài khoa học này.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
Em rất mong nhận được sự quan tâm, chỉ bảo, đóng góp ý kiến của quý
thầy cô và bạn bè để luận văn được hoàn thiện và có ý nghĩa hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, ngày 5 tháng 5 năm 2016
Người thực hiện

Nguyễn Lương Quỳnh Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 7
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7
7. Đóng góp của đề tài........................................................................................... 8
8. Dự kiến cấu trúc đề tài ...................................................................................... 8


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 9
1.1. Một số thuật ngữ - Hiện thực - Nhân sinh ..................................................... 9
1.1.1. Hiện thực ..................................................................................................... 9
1.1.2. Nhân sinh................................................................................................... 11
1.2. Quan niệm về hiện thực trong Văn học Việt Nam trước 1975 .................... 12
1.3. Quan niệm về hiện thực trong Văn học Việt Nam sau 1975 ....................... 18
1.4. Nhà văn Nguyễn Minh Châu........................................................................ 22
1.4.1. Tiểu sử - Sự nghiệp sáng tác ..................................................................... 22
1.4.2. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu ........................................ 24
CHƯƠNG 2: HIỆN THỰC TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU .................................................................................. 30
2.1. Nhận thức về hiện thực chiến tranh và con người ....................................... 30
2.1.1. Bi kịch về sự mất mát ................................................................................ 31
2.1.2. Những di chứng chiến tranh ám ảnh người lính ....................................... 42
2.1.3. Những sai lầm và sự đớn hèn .................................................................... 45
2.2. Hiện thực về số phận con người trong nỗi khắc khoải nhân sinh ................ 48
2.2.1. Từ nghịch lí tới triết lí ............................................................................... 48
2.2.2. Nỗi lo âu trăn trở trước hiện thực cuộc sống ............................................ 56
2.2.2.1. Đói nghèo, lạc hậu và những phong tục cổ hủ đẩy con người đến chỗ tha
hoá. ...................................................................................................................... 57


2.2.2.2. Số phận mỗi con người, mỗi gia đình vô cùng nhỏ bé, mong manh trước
bão tố của thiên nhiên và cuộc đời. ..................................................................... 62
2.2.2.3. Những nguy cơ xã hội còn tiềm ẩn dẫu chiến tranh đã lùi xa. .............. 65
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 74


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Hiện thực trong một số truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu” vì những lí do sau đây:
1.1. Nguyễn Minh Châu là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học
hiện đại Việt Nam. Quá trình sáng tác của ông gắn liền với sự trưởng thành của
một nhà văn chiến sĩ. Sự nghiệp văn chương của ông là tấm gương phản chiếu
quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại trong những
năm tháng chiến tranh ác liệt và những biến động thăng trầm của thời hậu chiến.
Sáng tác của ông là một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất của cả một quá
trình không ngừng đổi mới trong gần ba mươi năm cầm bút trên “mặt trận quân
chữ”.
Trước năm 1975, là nhà văn mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu ý thức sâu
sắc về sứ mệnh cao cả, nhiệm vụ thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn
khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Tâm niệm sáng tác của
ông trong thời điểm này là hướng đến “chiến đấu vì sự sống còn của cả dân tộc,
đất nước”. Nhà văn say sưa ca ngợi vẻ đẹp lung linh, kì ảo của cuộc sống và tâm
hồn con người trong chiến tranh, với cảm hứng sử thi - anh hùng ca.
Nhưng từ sau năm 1975, yêu cầu đổi mới văn học đòi hỏi nhà văn phải
nhìn con người trong những mối quan hệ đời thường đa đoan và phức tạp, khám
phá con người ở khía cạnh đời tư bằng cặp mắt nhiều chiều và bằng cách viết đa
thanh. Nguyễn Minh Châu đã nhìn thẳng vào sự thật, viết về cái hôm nay ngổn
ngang bề bộn, màu đỏ với màu đen đầy rẫy những biến động bất ngờ. Trong bức
màn tối, ông nhìn thấy và chăm chút cho những mầm thiện nhỏ bé, những đốm
lửa kì diệu của thiên lương, những thứ ông tin rằng sẽ có đủ sức mạnh cần thiết
để đương đầu với bóng tối đang ngự trị trên thế giới, cải tạo và làm trong sáng
cuộc sống con người. Chính bước tiến mới về tư duy này đã làm nên thành công
lớn trong những sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.

1



1.2. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói lên được sứ mệnh cao cả của văn
chương là phản ánh một cách sinh động và trung thực về con người, “văn học và
cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”, do đó tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu mang đậm ý nghĩa nhân đạo, hiện thực sâu sắc
khiến bản thân tôi - một sinh viên khoa Văn có niềm yêu thích, hăng say học tập
hơn, có quan niệm sống đúng đắn và lòng nhiệt huyết yêu nghề mình đã chọn.
Và cũng chính bởi những giá trị to lớn trong những truyện ngắn sau 1985 của
Nguyễn Minh Châu đã khiến tôi chọn nghiên cứu đề tài này.
1.3. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu có một sự chuyển mình mạnh mẽ từ
quỹ đạo chiến tranh sang quỹ đạo hòa bình sau năm 1975 cùng những đổi mới
quan niệm nghệ thuật về con người với nội dung dân chủ và nhân bản sâu sắc là
điểm quan trọng khiến tác phẩm của Nguyễn Minh Châu được đưa vào các cấp
học. Trong chương trình văn học trung học cơ sở, tác phẩm Bến quê được coi là
đơn vị kiến thức quan trọng, đưa vào giảng dạy với số lượng 2 tiết. Ở trung học
phổ thông, Chiếc thuyền ngoài xa cũng được phân phốivới 2 tiết giảng dạy, cũng
là trọng tâm kiến thức ôn tập thi tốt nghiệp và đại học trong nhiều năm. Bậc học
Cao đẳng và Đại học, tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm là đơn vị kiến
thức quan yếu, được chú trọng trong học phần văn học Việt Nam hiện đại. Như
vậy có thể thấy việc tìm hiểu về tác giả Nguyễn Minh Châu và những tác phẩm
của ông còn quá ít, chưa xứng tầm với vai trò mở đường trên tiến trình đổi mới
văn học dân tộc của ông.
Chính bởi những lí do trên đã thôi thúc chúng tôi, tạo nên động lực tìm
hiểu, khám phá những sáng tác của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là những sáng
tác sau năm 1985, để thấyNguyễn Minh Châu rất thành công trong việc xây
dựng con người lưỡng diện. Ông len lỏi vào những nẻo sâu kín nhất trong nội
tâm nhân vật, nhìn thấy những biểu hiện dù nhỏ nhất lóe lên trong tâm hồn họ,
thấy được ý nghĩa mở đường của một nhà văn lớn.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề tìm hiểu về tác gia Nguyễn Minh Châu không còn là vấn đề quá

mới mẻ với văn học nhưng cần tìm hiểu, nghiên cứu rộng và sâu hơn nữa để làm
2


sáng tỏ hơn những giá trị của các tác phẩm văn học này cũng như ý nghĩa, vị trí
của nhà văn đối với một nền văn học. Dưới đây tôi xin trích dẫn một số ý kiến
của những người đi trước đã tìm hiểu và nghiên cứu về tác giả Nguyễn Minh
Châu và tác phẩm của ông:
2.1. Trong bài viết Những gương mặt tình yêu thời chiến tranh trong
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Trần Thị Hồng Hạnh, tác giả đã chỉ
ra tình yêu trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là tình yêu của sự cứu rỗi thế
giới. Tình yêu đó mang sắc đỏ của đam mê nồng cháy, của đắm đuối và có chút
cực đoan. Tình yêu ấy còn mang sắc tím của sự thủy chung son sắc, bao dung và
âm thầm buồn bã. Đồng thời thứ tình cảm thiêng liêng đó mang trong mình màu
xanh của niềm tin, hi vọng cứu rỗi tâm hồn, thức tỉnh con người. Những phát
hiện này cho thấy tài năng của Nguyễn Minh Châu trong việc quan sát hiện thực
khách quan, nhạy cảm, duy mỹ và duy cảm một cách hết sức thành thực trong
những tác phẩm văn chương của mình. Tóm lại trong bài viết Trần Thị Hồng
Hạnh đã nghiên cứu về đề tài tình yêu trong tác phẩm Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành. Đây cũng chính là một phần hiện thực mà tác giả Nguyễn Minh
Châu đã nói tới và mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
2.2. Chu Văn Sơn, trong Đường tới Cỏ lau, (Báo Văn nghệ, số 42 1993),có nói tới “khuôn mặt trồi lên đầu ngọn sóng”, đó là nàng Vọng Phu, núi
Đợi. Chu Văn Sơn có nói Nguyễn Minh Châu cơ hồ đã tỏ hết vẻ đẹp thiên phú
của nó với một “giọng điệu trầm lắng se se buồn của một bài văn xuôi trong như
lọc mà ngấm mọi nỗi đời”[13, 197]. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu vừa có
chất thơ vừa thấm đẫm khí vị triết học nhân văn, vừa đến hồi kết lắng và chứa
nhiều đau xót. Đó là sự thấm thía hơn ai hết tấn bi kịch của thân phận. Chu Văn
Sơn cũng nói tới vẻ đẹp mẫu tính trong nhân vật nữ - những con người luôn
sống với một “ tình yêu âm thầm và đầy uẩn khúc”, “sống với những tâm niệm
thiêng liêng. Họ có gương mặt vọng phu. Đời họ là một chuỗi bất hạnh. Họ bị

ném vào một tình yêu kiểu ván bài tam cúc”[13, 199]. Họ đã phải xa nhau để khi
gặp lại nhau thì duyên phận từ lâu đã “chia năm xẻ bảy”. Tác giả có dẫn một “cỏ
lau chờ đợi” mỏi mòn là bà Doanh, người vợ tận tụy của nhà văn Nguyễn Minh
3


Châu. Bà đã chờ đợi hi vọng, tìm kiếm phép màu mong chồng của mình qua
khỏi cơn bạo bệnh lúc Nguyễn Minh Châu nguy kịch cuối đời. Qua bài viết Chu
Văn Sơn muốn nói tới thân phận của người phụ nữ trong tác phẩm Cỏ lau mang
đầy bi kịch.
2.3. Cuộc trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh
Châu(của nhiều tác giả), được in trên báo Văn nghệ số 27, 28 - 1985, là một cuộc
bàn luận sâu sắc về các vấn đề của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Ở đó đã có cái
nhìn đồng tình khen ngợi, đã có những lời góp ý chỉ ra hạn chế trong những sáng
tác. Trong đó Bùi Hiển có nhận xét về sự đổi mới “trước kia anh hồn hậu, trữ tình,
hào hứng ngợi ca, giờ đây anh trầm giọng, nghiêm giọng nữa nói lời phê phán thì
cũng phê cái mặt trái, cái phía bóng tối, cái khía cạnh vị kỉ, cá nhân chủ nghĩa, để
làm nổi bật thêm lên những cái là đẹp, là rực rỡ, là hi sinh cao cả”… “ý nghĩa rõ,
thái độ dứt khoát, nội dung ấy lại được phục vụ bằng những tình tiết khá đắt và tập
trung, những chi tiết độc đáo, sắc sảo”[13,241].
Trong cuộc hội đàm đó, Nguyễn Minh Châu đã bày tỏ ông không yên tâm,
ông lo lắng về những biểu hiện lối sống, đạo đức, quan niệm sống thay đổi “cái
người ta thấy ngoài đường hay ở nơi công cộng, nó sẽ vào từng nhà, và lâu ngày,
liệu nó có trở thành cốt cách của con người Việt Nam chúng ta hay không?”[13,
244]. Và ông muốn “dùng ngòi bút tác gia trợ lực vào cuộc giao tranh giữa cái
tốt và cái xấu bên trong mỗi con người”[13, 244]. Mỗi truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu đều bàn bạc về quan niệm sống và báo động một điều gì đó.
Lê Lựu nói: “Tất cả các cung bậc có trong đời, cái cao thượng, cái ti tiện,
cái bi lẫn cái hài, anh đều đưa vào truyện”[13, 249].
Xuân Thiều lại nói: “Dường như Nguyễn Minh Châu muốn phô diễn cho

người đọc biết rằng cuộc sống đâu phải phẳng lì, đơn điệu, nó phức tạp, xù xì,
gai góc”[13, 248].
Và kết lại là lời nhận xét của Xuân Trường như lời tổng kết một quy luật
của văn học “Cái thước đo cuối cùng của văn học là sự đóng góp của nhà văn
cho cuộc sống hôm nay, cho sự cải tạo nó, cho sự xây dựng nên nó, và trước
tiên là sự xây dựng con người”[13, 259].
4


Qua cuộc trao đổi đó, các nhà văn, các nhà phê bình đã làm sáng tỏ những
mặtưu nhược điểm trong việc phản ánh những vấn đề của hiện thực đời sống xã
hội được Nguyễn Minh Châu đưa vào trong những truyện ngắn của mình.
2.4. Trong Tạp chí Văn học số 3, 1993, Nguyễn Văn Hạnh có bài viết
Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người. Tác
giả có nhận xét về những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu những năm 80
“Khẳng định cái đẹp, chất thơ trong đời sống nhưng không thi vị hóa cuộc sống,
không nhìn cuộc sống một chiều dễ dãi. Bao giờ cũng vậy, có ánh sáng và bóng
tối, có cả dương và âm, rằng bản chất con người hoàn toàn không đơn giản”,
“cuộc đấu tranh giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân
bản và phi nhân là một cuộc đấu tranh vĩnh viễn… nhìn kĩ lại, ước mơ vẫn xa
vời, và dường như cái xấu xa, ác độc không mất đi mà chỉ thay hình đổi dạng để
tiếp tục hoành hành”[13, 228 - 229]. Nguyễn Minh Châu đã “đi sâu vào số phận
con người, xem con người là giá trị cao nhất của cuộc sống, là đối tượng khám
phá đầy bí ẩn của văn học, đề cao nguyên tắc nhân bản và tôn trọng sự thật
trong sáng tác nghệ thuật”[13, 232].
Qua bài viết này Nguyễn Văn Hạnh đã làm sáng tỏ hiện thực về con người
trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu những năm 80 là con người lưỡng
diện, được nhìn nhận đa chiều, nhiều góc khuất được phơi bày trong con người.
2.5. Trong bài viết Một số cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, Trịnh Thu Tuyết có bàn về vấn đề cốt truyện của những trang truyện ngắn

và cho rằng truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu hầu hết là cốt truyện
không chú trọng tình tiết sự kiện mà chủ yếu dựa trên một cái nền của “tình
huống xung đột cố hữu”, tái hiện cuộc sống trong dòng chảy tự nhiên, dung dị ở
những tầng sâu của nó. “Bởi cuộc sống và con người như những dòng sông trôi
chảy không ngừng, không nhất thiết lúc nào dòng sông đó cũng có xoáy ngầm,
và cũng không hẳn trong cái bằng phẳng dung dị của nó không có những vấn đề
bức bối đặt ra đối với con người”[13, 324]. Tác giả đi sâu tìm hiểu sáng tác của
Nguyễn Minh Châu trong thập kỉ 80 theo ba kiểu cốt truyện:

5


1. Cốt truyện xây dựng trên những nguyên tắc luận đề
2. Cốt truyện sinh hoạt thế sự
3. Cốt truyện dựa vào những số phận đời tư
Trịnh Thu Tuyết cũng khẳng định đây không phải kiểu cốt truyện mới mẻ,
song với kiểu cốt truyện tâm lí, dựa vào hành động bên trong, Nguyễn Minh
Châu đã đưa văn học về gần với cuộc đời, với con người “vừa mở rộng khả
năng phản ánh hiện thực của văn xuôi tự sự, vừa làm giảm bớt tính loại biệt ước
lệ và sự gián cách của nội dung nghệ thuật với hiện thực cuộc sống”[13, 333]. Ở
bài viết này, tác giả đã làm sáng tỏ vấn đề cốt truyện trong các truyện ngắn sau
1975 của Nguyễn Minh Châu. Các cốt truyện đó đều phản ánh những vấn đề của
hiện thực xã hội đương thời với vô vàn những biến động của con người trong
cuộc sống mới.
Những bài viết trên cho thấy sự quan tâm của giới văn học tới Nguyễn
Minh Châu và những tác phẩm của ông không hề ít, nhưng các tác giả đa phần
quan tâm tới sự đổi mới nghệ thuật, hoặc chỉ nói tới các tác phẩm trước 1985.
Nếu có nói đến các sáng tác sau 1985 thì cũng chỉ tìm hiểu ở một khía cạnh rất
nhỏ như tình yêu. Và qua những công trình nghiên cứu, những bài viết trên đã tạo
cơ sở, tiền đề cũng như định hướng cho những nghiên cứu của chúng tôi về vấn

đề phản ánh hiện thực trong những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1985.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu hướng tới góp thêm một tiếng nói và trình bày những
hiểu biết của mình về một vấn đề văn học, nhằm trang bị hiểu biết cho chính
mình và cho những người muốn tìm hiểu nhiều hơn về tác gia Nguyễn Minh
Châu và những truyện ngắncủa ông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi chỉ quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu về hiện
thực trong một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ tìm hiểu chúng tôi chỉ khảo sát năm truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu, bao gồm: Bến quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa (1987),
Chợ tết (1988), Phiên chợ Giát (1988), Cỏ lau (1989). Còn những sáng tác khác,
những vấn đề khác được phản ánh trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu nằm
ngoài phạm vi nghiên cứu của tôi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu và làm sáng rõ những vấn đề về hiện thực được phản ánh trong
năm truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã nêu ở mục trên.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình đi vào nghiên cứu đề tài nghiên cứu khoa học này chúng
tôi đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nhau để phân tích, giải quyết
vấn đề, songmột số phương pháp nghiên cứu: Tiếp cận hệ thống các tác phẩm,
so sánh, phân tích, tổng hợp vấn đề.
6.1. Phương pháp thống kê
Phương pháp này được sử dụng trong việc thống kê các truyện ngắn được

Nguyễn Minh Châu. Và chúng tôi đã khảo sát được năm truyện ngắn và tiến hành
nghiên cứu trên cả năm truyện ngắn: Bến quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa (1987),
Chợ tết (1988), Phiên chợ Giát (1988), Cỏ lau (1989).
6.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp này được vận dụng khi so sánh đối chiếu các tình tiết cốt
truyện, nghệ thuật của những truyện ngắn Nguyễn Minh Châu với các tác phẩm
ông viết trước đó và các sáng tác của các nhà văn khác có điểm tương đồng hoặc
đối lập.
6.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp, bình giảng
Các phương pháp này được vận dụng nhiều hơn cả trong quá trình nghiên
cứu và trình bày. Phân tích, bình giảng, tổng hợp được sử dụng trong quá trình
tìm hiểu tác phẩm, bóc trần những vấn đề hiện thực mà nhà văn muốn truyền tải
tới bạn đọc.

7


7. Đóng góp của đề tài
Qua việc nghiên cứu hiện thực được phản ánh trong các truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu, tôi hi vọng sẽ góp phần giúp các bạn sinh viên có cái nhìn
cụ thể, sâu sắc hơn,những giá trị trong sáng tác của một tác gia mở đầu cho công
cuộc đổi mới sáng tạo văn học, về đặc điểm của văn học nước nhà những năm
80 của thế kỉ XX.
8. Dự kiến cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài của chúng tôi
có phần nội dung chính gồm 2 chương:
Chương I: Những vấn đề chung
Chương II: Hiện thực trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu

8



CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Một số thuật ngữ - Hiện thực - Nhân sinh
1.1.1. Hiện thực
Theo triết học phạm trù hiện thực được dùng để phản ánh những gì hiện
có, hiện đang tồn tại thực sự. “Hiện thực khách quan là khái niệm chỉ các sự vật,
vật chất tồn tại độc lập với ý thức của con người. Hiện thực bao gồm cả những
sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại một cách khách quan trong thực tế và cả
những gì đang tồn tại một cách chủ quan trong ý thức của con người”[28, 3].
Hiện thực đời sống chính là những gì đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ
trong đời sống, trước mắt chúng ta.
Theo giáo sư Trần Đình Sử: Văn học - hiện thực là một trong bốn quan hệ
cơ bản của văn học nghệ thuật. Văn học và hiện thực là một trong những vấn đề
trung tâm của lí luận văn học cho đến nay. Văn học là tấm gương phản ánh hiện
thực và thời đại.
Đối với các bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực, phản ánh hiện thực có
nghĩa là tìm kiếm các giá trị nhận thức, đạo đức, thẩm mĩ của đời sống, lột trần
cái dối trá, phơi bày mọi ung nhọt, xé toạc mọi mặt nạ, là dấn thân vào tiến trình
tiến bộ của xã hội. Toàn bộ các sự kiện, nhân vật, tư tưởng, tình cảm thể hiện
trong văn học nghệ thuật đều là sự phản ánh của đời sống xã hội.
Hiện thực của văn học là thế giới ý nghĩa do thực tiễn gợi ra. Hiện thực là
thực tại trong mối quan tâm của con người. Hiện thực của văn học không tách
rời với chính trị, nhưng không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực của chính
trị. Hiện thực của văn học là thế giới ý nghĩa mà con người sống trong đó cảm
thấy được. Vũ trụ, thiên nhiên, con người, xã hội, văn hoá, đồ vật… chỉ khi có ý
nghĩa đối với con người mới là hiện thực. Tất cả những gì mà con người tìm
thấy có ý nghĩa đối với cuộc sống và từ đó khám phá những con đường để đi tới
cuộc sống có ý nghĩa tốt đẹp hơn, thú vị hơn trong nghệ thuật đều là hiện thực.
Ý nghĩa của sự vật thay đổi theo quá trình thực tiễn. Không có hiện thực bất

biến, muôn thuở. Văn học phản ánh hiện thực đó trong tính đa diện, toàn vẹn và
tính thời đại.
9


Thực tiễn là tính chất quan trọng nhất của hiện thực con người. Thực tiễn
là phương thức tồn tại của con người, là hoạt động tự thực hiện của con người,
hoạt động của con người để vượt qua hữu hạn nhằm hướng tới lí tưởng vô hạn
và tự do. Con người là giống vật luôn ý thức sự hữu hạn của chính mình từ trong
mọi hoạt động sống như cô đơn, tuổi thọ, khả năng chinh phục thế giới và bản
thân, hữu hạn trong sản xuất, trong tình yêu, trong sáng tạo, nhận thức, cảm
nhận. Trong hoạt động vượt lên chính mình con người nếm trải mọi tình cảm từ
vui sướng, tự hào, cao cả, đến bất lực, bi đát, khôi hài, nhục nhã, cay đắng… Vì
vậy hiện thực con người rất phong phú, phức tạp, muôn màu.
Hiện thực của văn học là lĩnh vực của cái khả nhiên. “Văn học nói chung
không phản ánh hiện thực như các sự kiện hiện tồn như báo chí, thông tấn, lịch
sử biên niên, tư liệu… Văn học phản ánh hiện thực trong những ý nghĩa do thực
tế và các xu thế, khả năng đời sống gợi ra. Vì thế từ xưa Aristote đã nói văn học
(thi ca) do mô phỏng cái khả nhiên mà giàu tính triết lí hơn lịch sử. Văn học
ngày nay vẫn thế, thiên về phản ánh cái khả nhiên của đời sống, bởi đặc điểm
con người là không chỉ quan tâm thực tại mà chủ yếu quan tâm hơn tới những
khả năng, cái tương lai. Người ta có thể chịu khổ, hi sinh, nếu điều đó có ý
nghĩa đối với tương lai của đất nước, con cháu mình hoặc loài người nói
chung”[27, 2].
Hiện thực vốn đã vô cùng phức tạp, song khả năng là lĩnh vực còn rộng lớn
và phong phú hơn hiện thực gấp nhiều lần. Các khả năng hiện thực và khả năng phi
hiện thực, văn học đều quan tâm. Trong hiện thực tồn tại vô vàn khả năng, nhưng
do điều kiện cụ thể, hiện thực chỉ là sự thực hiện của một trong vô vàn các khả
năng nào đó. Mọi sáng tác nghệ thuật đều phản ánh hiện thực theo những cái khả
nhiên mà nghệ sĩ lựa chọn để nêu lên những vấn đề bức xúc của nhân sinh, hướng

tới tạo lập một nhãn quan mới về thế giới cho người đọc [27, 1 - 5].
Trong Lí luận văn học 1, chương II: Quan hệ giữa văn nghệ và hiện thực
đã nêu “Quan hệ giữa văn chương và hiện thực là một biểu hiện của quan hệ
giữa tư duy và tồn tại, giữa cái phản ánh và cái được phản ánh. Hiện thực là
nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, văn chương là một hình thái ý thức, một
10


hình thức nhận thức. Do đó, hiện thực đời sống là nguồn gốc của văn chương, là
mảnh đất nuôi dưỡng văn chương, là chìa khóa để giải thích mọi hiện tượng, dù
là phức tạp nhất của văn chương. Cũng chính từ cơ sở lí luận này mà chúng ta
đã hiểu vì sao đối tượng của văn chương là hiện thực khách quan, là con người
và đời sống xã hội”.
Bất kỳ một nền văn chương nào cũng hình thành trên cơ sở một hiện thực
xã hội nhất định, bất kỳ một tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ của những vấn đề
cuộc sống, bất kỳ một nhà văn nào cũng thoát thai từ một môi trường sống nhất
định. Phản ánh hiện thực là thuộc tính tất yếu của văn chương. Hiện thực độc
đáo của văn nghệ là thế giới tinh thần, tình cảm, tâm lí của con người xã hội.
Con người trung tâm của hiện thực là con người kết tinh của những quan hệ xã
hội - “tổng hòa của những quan hệ xã hội” nhưng không phải là con người được
trừu tượng hóa với những phẩm chất người nói chung mà là con người cá nhân,
con người số phận. Nhà văn thông qua việc phản ánh thế giới khách quan để
biểu hiện thế giới chủ quan của mình. Tác phẩm nghệ thuật là khát vọng thể hiện
một quan niệm về chân lí đời sống, về cái “chân” “thiện” “mĩ” trong tự nhiên, xã
hội, trong quan hệ giữa người với người và trong mỗi con người. Ðó là chân lí
tác giả đã thể nghiệm, tác giả muốn bày tỏ, muốn trang trải, muốn thuyết phục
mọi người.
Phản ánh hiện thực là thuộc tính, còn biểu hiện trước hiện thực là phẩm
chất của văn nghệ. Tính hiện thực là khái niệm xác định cơ sở khách quan của
nhận thức nghệ thuật, tính chân thực lại xác định cơ sở chủ quan của nhận thức

nghệ thuật.
1.1.2. Nhân sinh
Theo Từ điển tiếng Việt thì nhân sinh là “Sự sống của con người”[23, 772].
Còn theo Từ điển Từ nguyên giải nghĩa - giải thích nhân sinh là “Sự sống,
đời người”.
Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng đã giải thích nhân sinh là:
“Cuộc sống nói từ mọi góc độ từ đó con người nhìn nó (về các mục đích, lí
tưởng, phương hướng, hành động, giá trị, hành vi)”[7, 590]. Và rộng hơn: “Hệ
11


thống những ý nghĩ tồn tại tương đối lâu về cuộc sống của con người”[7, 956].
Ý nghĩa là “cái được thể hiện, được nói lên, được biểu thị bằng lời nói, bằng
một cử chỉ hành động” [7, 956].
Từ những định nghĩa trên, chúng tôi hiểu “nhân sinh”và “cuộc sống của
con người” được nhìn nhận từ nhiều phương diện, các chuẩn mực đạo đức phục
vụ cho cuộc sống tốt đẹp hơn, là những quan niệm sống của con người. Đó là
những vấn đề xoay quanh cuộc sống đời thường của mỗi người trong xã hội này.
Và việc phản ánh hiện thực của đời sống tinh thần và vật chất của con người
trong từng thời kì biến động của thời đại, dân tộc đất nước chính là đang phản
ánh những vấn đề nhân sinh. Những khắc khoải nhân sinh chính là những băn
khoăn trăn trở của con người trong cuộc sống đó. Và trong phạm vi nghiên cứu
đây chính là những nỗi lo âu và đầy day dứt của nhà văn Nguyễn Minh Châu về
cuộc sống của nhân dân ta trong thời kì Đổi mới của đất nước qua nội dung, tư
tưởng của một số truyện ngắn. Và việc tìm hiểu thuật ngữ nhân sinh nhằm làm
sáng rõ cơ sở lí luận và những vấn đề chúng tôi trình trong luận văn.
Qua các vấn đề của hiện thực nhà văn muốn gửi gắm những điều mà nhà
văn đang băn khoăn, trăn trở trong cuộc sống nhân sinh. Cuộc sống đời thường
với bao day dứt được nhà văn đưa vào trang viết với ước vọng có thể làm thay
đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Hay nói cách khác qua lăng kính chủ quan của

nhà văn, tác phẩm đã khúc xạ được những góc cạnh của thế giới khách quan và
thể hiện lí tưởng khát vọng của nhà văn về chân lí cuộc sống, hướng tới “chân”
“thiện” “mĩ”.
1.2. Quan niệm về hiện thực trong Văn học Việt Nam trước 1975
Văn học luôn vận động và phát triển gắn liền với tiến trình vận động, phát
triển của dân tộc, thời đại. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước chìm
trong khói bom đạn lửa. Chính bởi vậy hiện thực được phản ánh trong văn học
khi đó là những mối quan hệ của con người trong chiến tranh. Hiện thực về cuộc
kháng chiến của dân tộc, về cách mạng và người lính.
Bối cảnh lịch sử - xã hội bấy giờ đất nước đang trong cảnh nô lệ, chúng ta
phải đối mặt với kể thù là hai cường quốc xâm lược lớn mạnh nhất nhì thế giới
12


khi đó. Phía địch được trang bị tối tân về mọi mặt, vũ khí hiện đại, quân đội tinh
nhuệ, được huấn luyện chuyên nghiệp. Ngược lại, đối với dân tộc ta khi đó là
một đất nước đói nghèo bị bóc lột cùng cực bởi phong kiến và thực dân. Những
thứ chúng ta có là cổ hủ, lạc hậu và lỗi thời, trình độ dân trí thấp. Chính điều
kiện hoàn cảnh đó đòi hỏi dân tộc ta phải là một khối đoàn kết, tận dụng mọi
nguồn lực có được dốc vào cuộc kháng chiến trường kì, toàn diện này. Văn học
nói riêng và văn nghệ nói chung đã trở thành một mặt trận lớn tham gia vào sự
nghiệp giải phóng đất nước. Nhà văn trở thành người chiến sĩ kiên cường, ý chí
thép trên phương diện văn hóa - chính trị và ngòi bút như là cây súng đắc lực
cho người chiến sĩ trên mặt trận đó. Văn học được coi như một thứ vũ khí chiến
đấu, phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng trong truyền
thống lịch sử của văn học dân tộc. Chính vậy mà biết bao tác phẩm văn học ra
đời với đề tài người chiến sĩ, lý tưởng cách mạng mang âm hưởng của chiến
tranh tàn khốc. Giai đoạn mà cả đất nước đều mang tâm thế “dồn vào một con
đường: ấy là con đường ra mặt trận, ấy là con đường cứu nước”(Nam Cao). Đã
có rất nhiều nhà văn khoác ba lô vào chiến trận, vừa cầm súng vừa cầm bút cống

hiến tận lực cho cuộc chiến đấu gian nan này. Dòng văn học viết về người lính
cách mạng và chiến tranh chống ngoại xâm của ta ra đời cùng lúc với cuộc chiến
tranh chống Pháp, rồi chống Mỹ, suốt 30 năm dường như chiếm vị trí độc tôn
trên văn đàn.
Như một công cụ của chính trị - cần thiết và tiến bộ - văn học kháng chiến
đã hoàn thành nhiệm vụ mà lịch sử giao phó. Văn học sử sẽ không thể bỏ qua
những sáng tác xuất sắc về đề tài chiến tranh như: “Đất nước đứng lên” và
“Rừng xà nu” của Nguyên Ngọc, “Hòn Đất” của Anh Đức, “Chiếc lược ngà”
của Nguyễn Quang Sáng,“Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi,… tạo nên một
bức tranh hùng tráng về cuộc kháng chiến vệ quốc của người dân Việt Nam. Họ
đã đem vào văn xuôi những trải nghiệm từ chiến hào của cá nhân mình và của
thế hệ mình. Cảm hứng sáng tác của văn học viết về chiến tranh trước năm 1975
nghiêng về miêu tả sự hi sinh, sự xả thân vì nghĩa lớn của con người tham gia
chiến tranh. Khi đó mỗi nhà văn cầm bút sáng tác đều có chung tâm thế, như
13


cách Xuân Diệu thể hiện bằng thơ: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu/ Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu
người yêu dấu gian lao”. Viết là thể hiện cái “tôi” nhưng cái “tôi” trong chiến
tranh hòa vào cái “ta” rộng lớn - đó là nhân dân vĩ đại.
Xuất phát từ lợi ích dân tộc và giai cấp, các nhà văn đề cao việc xây dựng
mâu thuẫn đối kháng và tính sử thi của tác phẩm: “Nhưng dù thế nào, viết về
chiến tranh vẫn cứ phải lấy mâu thuẫn địch ta làm sợi chỉ xuyên suốt, không khí
bi hùng và cách mạng của cuộc vật lộn sống còn của dân tộc vẫn phải bao
trùm”(nhà văn Hồ Phương). Quan niệm trên là một hướng tiếp cận phản ánh
hiện thực và là cơ sở cho khuynh hướng sử thi phát triển trong thời kì đó phát
triển mạnh mẽ và nhất quán.
Với quan niệm ấy, nhà văn chú trọng khắc họa vẻ đẹp của lòng dũng cảm,
đức hy sinh, lối sống vị tha, tình nghĩa của người lính và tình quân dân, viết về

kẻ thù bằng thái độ khinh bỉ, thù hận. Kẻ thù đã chia rẽ dân tộc, gieo rắc đau
thương, mất mát cho ta, bởi vậy việc giết chúng là cần thiết, người giết được
chúng là anh hùng. Người viết vạch trần tội ác của kẻ thù, lên án, tố các những
hành động dã man, phi nhân đạo thiếu tình người của thực dân như tội diệt
chủng, giết người vô tội trong Hòn đất, giết hại phụ nữ, trẻ nhỏ, người già trong
Rừng xà nu…
Ở Rừng xà nu ta bắt gặp một ý chí bất khuất, tinh thần chiến đấu của
người dân Tây Nguyên và con đường giải phóng của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Qua nhân vật Tnú, nhân vật đại diện cho sức
mạnh và ý chí cộng đồng. Anh đã chiến đấu đầy anh dũng để bảo vệ quê hương
làng bản. Từ nhỏ Tnú và Mai đã tiếp tế cho bộ đội của ta trong rừng, nhằm xây
dựng lực lượng lớn mạnh. Ý chí tình yêu của anh được thể hiện qua việc chăm
sóc Mai khi Mai sinh con. Hành động cứu Mai trong tay địch cho thấy phẩm
chất của người lính cụ Hồ, dù bị đốt mười ngón tay nhưng anh không thấy đau
về thể xác mà đau về tinh thần, đau trong lòng. Câu chuyện một đêm được cụ
Mết kể về cuộc đời anh, nhằm giáo dục thế hệ sau tinh thần chiến đấu, ý chí kiên
định đi theo Đảng, theo cụ Hồ, bởi chỉ có vậy mới đem lại cuộc sống yên bình,
14


ấm no cho người dân. Hình ảnh rừng xà nu mở đầu và kết thúc tác phẩm nhằm
nói về những con người Tây Nguyên, họ quật cường anh dũng, thế hệ sau tiếp
bước thế hệ trước đứng lên chiến đấu chống giặc ngoại xâm, như cậu bé Heng,
chị Dít tiếp bước Mai và Tnú. Tác phẩm cho thấy những đặc điểm cơ bản của
văn học nước nhà trước 1975, nó mang khuynh hướng sử thi và lãng mạn sâu
sắc, nhằm cổ vũ, khích lệ, động viên nhân dân trong chiến đấu bảo vệ đất nước.
Đến với tác phẩm Vợ chồng A Phủ, ta cũng bắt gặp một dáng dấp thân
quen mang khuynh hướng đó. Đó chính là cuộc đấu tranh của đồng bào miền
ngược trong việc chống lại cường quyền, thần quyền của chế độ phong kiến và
chống giặc ngoại xâm. Họ xuất thân đều là những con người lao động nhỏ bé, họ

bị áp bức, bóc lột đến tận cùng như thân con trâu con ngựa. Họ đã đứng lên
chiến đấu, khi cách mạng về đã đem lại một nguồn sinh khí mới thúc giục họ
chiến đấu, làm sáng con người họ, đem họ về với tự do, về với công lí. Câu
chuyện của vợ chồng A Phủ ở Phiềng Sa nhằm cổ vũ nhân dân hãy đứng lên đòi
quyền sống, quyền con người. Qua đó con cho thấy vị trí vai trò lớn lao của
Đảng của Bác Hồ đối với nhân dân. Hiện thực của giai đoạn này chính là hiện
thực chiến đấu của nhân dân.
Và do yêu cầu cổ vũ cho chiến đấu, nhà văn rất coi trọng việc phản ánh
kịp thời những sự kiện nóng bỏng ở mặt trận, sau những trận đánh, những sự
kiện ta chiến thắng, chiếm ưu thế thì đều có những sáng tác kịp thời để động
viên khích lệ, tinh thần chiến đấu của dân tộc, như Việt Bắc ra đời phản ánh
chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và sự kiện cán bộ cách mạng và
Bác Hồ trở về thủ đô hoa vàng nắng,…
Do phục vụ nhiệm vụ trước mắt nên tiếng lòng của nhân vật phần nào bị
làm lu mờ đi. Họ là cái nhỏ chung trong cái lớn chung. Con người cá nhân
dường như bị khỏa lấp trong sự kiện chiến tranh. Tình yêu đôi lứa được hòa
chung vào tình yêu Tổ quốc: “Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí/ Một tấm lòng
trong vạn tấm lòng” (Núi đôi - Vũ Cao). Nói như nhà văn Khuất Quang Thụy:
“khi nhà đang cháy thì tất cả phải lao vào dập lửa, cứu người trước đã, của nả
có thất thiệt thì hẵng để đấy”. Văn học phản ánh hiện thực đất nước trước 1975
15


có những đặc điểm như đề cao vẻ đẹp lý tưởng, đề cao mẫu người anh hùng, ca
tụng nhân dân… Đó là một dân tộc tự cường, bất khuất, đất nước của trận mạc:
“Đến em thơ cũng hóa thành anh hùng/ Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ/
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí”(Tố Hữu).
Nhà phê bình, lí luận Bùi Việt Thắng nhận xét về cách phản ánh hiện thực
theo khuynh hướng sử thi giai đoạn đó của văn học như sau: “Nên coi đấy là đặc
điểm, không nên quy vào khuyết điểm. Mỗi người có “thời” của mình, mỗi nền

văn học cũng có “thời” của nó. Nên có cách nhìn lịch sử - cụ thể, không nên
“hiện đại hóa” cách nhìn quá khứ, vì chúng ta không thể sửa chữa được quá
khứ”. Vậy chúng ta hãy nhìn nhận văn học viết về hiện thực thời chiến trước
1975 đã góp phần xây dựng một lý tưởng thẩm mỹ cho cả một thời đại và hướng
dẫn bạn đọc tiếp cận thẩm mỹ ấy. Đặc biệt, văn học về đề tài chiến tranh đã góp
phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng nằm trong đội ngũ nhà văn chiến sĩ đó,
ông đã đóng góp khả năng bút chiến của mình vào công cuộc chung của đất
nước. Với Cửa sông, ông viết về làng Kiều, một làng ven biển với cuộc sống hết
sức thuần hậu có những mâu thuẫn thật đời thường. Nhưng tất cả họ đều chung
một chí hướng, một lí tưởng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những con người
phía hậu phương luôn là điểm tựa niềm tin vững chắc, động lực, tạo sự an tâm
cho người chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Đến với Mảnh trăng cuối rừng ta thấy chiến
tranh không chỉ có bom đạn, không chỉ có chiến công mà còn có tình yêu những tình yêu làm con người ta lớn cao hơn, đẹp đẽ hơn. Mảnh trăng cuối rừng
là câu chuyện “cổ tích diệu huyền” lãng mạn về một tình yêu chân thành của
Nguyệt và Lãm trong chiến tranh, ở đó có những con người đi tìm nhau, ngồi
cạnh nhau mà không hề hay biết… Viết truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu
muốn khẳng định sức mạnh bất diệt của tình yêu trong bom đạn khốc liệt của kẻ
thù và ca ngợi những tâm hồn ngọc. Tác giả đã gửi gắm ý tưởng đó qua nhân vật
Nguyệt với lòng dũng cảm, thông minh lòng vị tha quên mình vì người khác,
thủy chung, trong sáng trong việc cô giữ sợi chỉ xanh,… Sự tàn ác của kẻ thù có
thể tàn phá được thành quả lao động của con người nhưng không thể tiêu diệt
16


niềm tin, tiêu diệt được sức sống bất diệt trong tâm hồn con người. Câu chuyện
cho ta niềm tin vào sức mạnh tình yêu: tình yêu có thể chiến thắng tất cả, có thể
giúp con người vượt qua tất cả.
Và đến với tiểu thuyết Dấu chân người lính lại có ý nghĩa ghi lại những
khoảnh khắc của cuộc chiến tranh tàn khốc, khắc họa người lính cách mạng với

hàng chục nhân vật thuộc các thế hệ khác nhau, đến với quân đội từ những vùng
miền, những hoàn cảnh xuất thân khác nhau nhưng họ đều mang những phẩm
chất chung là lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm với Tổ quốc, niềm say mê
chiến đấu và tâm hồn trong sáng. Hùng hậu và sinh động nhất là thế hệ trẻ, thế
hệ trưởng thành là những con người ưu việt.
Dấu chân người lính, cho ta thấy những giây phút sinh tử trong chiến
tranh, tinh thần trách nhiệm, chiến đấu cao độ và những tình cảm đồng điệu của
những trái tim yêu nước. Nhân vật được đặt trong hoàn cảnh chiến tranh - hoàn
cảnh đau thương, vô cùng khốc liệt - nhưng hình ảnh những con người luôn làm
chủ và chiến thắng hoàn cảnh. Viết về chiến tranh, song các tác phẩm của ông
không mang không khí chết chóc, thê lương mà tràn đầy ý chí, quyết tâm và cảm
xúc lãng mạn. Hình tượng người lính hiện lên với sự dũng cảm, mưu trí, tinh
thần chiến đấu lạc quan trên chiến trận. Họ thân tình, đoàn kết bởi tình đồng chí,
tình yêu đôi lứa, tình yêu gia đình nơi hậu phương. Qua đó ta thấy con người chỉ
được nhìn nhận ở một chiều tích cực nhất “luôn được bao bọc trong bầu không
khí vô trùng” (Niculin) và hiện thực thì được “tráng lên một lớp men trữ tình”
(Nguyễn Minh Châu). Một số những sáng tác khác cũng nằm trong khung
hướng sáng tạo nghệ thuật chung như vậy, vì mục tiêu chung tạo sức mạnh
chiến đấu giải phóng dân tộc.
Nhìn từ yêu cầu của thời đại, văn học phục vụ kháng chiến trước 1975 đã
hoàn thành trọng trách một cách xứng đáng - luôn có mặt để động viên tinh thần
những người lính và toàn dân tin tưởng vào sự nghiệp chống ngoại xâm, hăng
hái cầm vũ khí chiến đấu và phục vụ chiến đấu… Đó là một nguồn sức mạnh có
thật và có tác động to lớn vào chiến thắng cuối cùng của dân tộc. Những tác
phẩm văn xuôi, thơ… tiêu biểu trong công cuộc đó như những chứng nhân tâm
17


hồn của một thời, những hiện vật bảo tàng lưu giữ bức tranh tâm hồn của thời
đại cho con cháu mai sau.

Do bối cảnh lịch sử - xã hội của đất nước, văn học trước 1975 là nền văn
học phản ánh hiện thực thời chiến, phục vụ cho cách mạng, văn học là vũ khí
chiến tranh và làm nhiệm vụ chiến đấu. Văn học được viết theo khuynh hướng
sử thi lãng mạn, lí tưởng hóa. Giai đoạn này nhân vật trung tâm của văn học là
những người có sự kết tinh các phẩm chất cao quý của cộng đồng, gắn bó số
phận mình với số phận của đất nước. Đó là những con người đại diện cho giai
cấp, cho dân tộc và cho thời đại. Trong thời kì này đề tài về hiện thực chiến
tranh anh hùng là đề tài xuyên suốt, là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn khám
phá phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần
nhiệt tình, nhiệt huyết của nhà văn đối với Tổ quốc, đối với nhân dân.
1.3. Quan niệm về hiện thực trong Văn học Việt Nam sau 1975
Văn học Việt Nam sau 1975 là văn học thời kì đổi mới. Trong đời sống xã
hội, “thời kỳ đổi mới” ở Việt Nam được tính từ năm 1986. Đây là năm diễn ra
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên diễn đàn của Đại hội này, Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “cởi trói”, “đổi mới tư duy”, với rất nhiều
“việc cần làm ngay”. Nhưng văn học có vẻ như nhạy cảm hơn chính trị. Hàng
chục năm trước đó, người ta đó thấy xuất hiện nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết,
kịch, thơ, bút ký… thể hiện sự đổi mới sâu sắc trong đời sống của văn học nghệ
thuật. Miền cháy và Lửa từ những ngôi nhà là tác phẩm đánh dấu bước chuyển
mình của Nguyễn Minh Châu từ chủ nghĩa hiện thực bay bổng chất lãng mạn
cách mạng và cảm hứng sử thi bước sang chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo. Cho nên,
có thể chọn năm 1975 làm cột mốc phân kỳ lịch sử, đánh dấu bước ngoặt đổi
mới của văn học Việt Nam.
Nếu chỉ nhìn ở bề ngoài thì sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước
thống nhất, lịch sử Việt Nam chuyển qua một thời đại mới, nhưng văn học nghệ
thuật thì hình như vẫn vận động theo quán tính của văn học thời chiến. Đề tài về
chiến tranh và người lính vẫn là đề tài cơ bản của nhiều sáng tác văn
học. Nhưng hình như những người cầm bút đã cảm thấy không thể tiếp tục viết
18



văn như trước. Họ viết về chiến tranh như một sự tri ân. Bước ra từ chiến trường
máu lửa, các nhà văn - chiến sĩ hiểu hơn ai hết về sự hi sinh lớn lao và nghĩa tình
của đồng bào, đồng chí. Với họ, viết về chiến tranh là một món nợ ân tình cần
phải trả. Nguyễn Minh Châu thấy rằng: “Viết về hai cuộc kháng chiến, viết về
chiến tranh, nhiều đồng chí cầm bút viết văn trong quân đội đã đứng tuổi nhiều
lần nói tới công việc đó như một trách nhiệm, một món nợ chưa trả được. Một
món nợ chưa trả và không thể nào quên”. Quan niệm ấy được nhiều người đồng
tình, và nó được phát biểu trực tiếp, hiện thực hóa bằng thực tiễn sáng tác. Nhà
văn quan tâm về số phận cá nhân và đời tư của con người. Nói như nhà phê bình
Hồng Diệu dứt khoát cho rằng, nhà văn cần “viết về thân phận con người trong
cuộc chiến, còn các sự kiện thì hãy dành phần cho các nhà sử học và các nhà
quân sự”.
Khi miêu tả trực tiếp về nỗi đau và bi kịch của con người trong chiến
tranh, văn học Việt Nam có sự gặp gỡ nhất định với văn học hiện đại thế giới.
Qua những tác phẩm xuất sắc về chiến tranh như Phía tây không có gì lạ
(Remacque), Giã từ vũ khí và Chuông nguyện hồn ai (Hemingway), Số phận con
người (Sholokhov), Bác sĩ Zhivago (Pasternak), Tuổi sắt đá (Coetzee)… có thể
thấy bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng là điều con người không mong muốn. Ở
đó, người lính và dân thường phải chịu nhiều bi kịch hơn cả.
Khoảng thời gian mười năm sau chiến tranh, từ 1975 đến 1985, trong lĩnh
vực sáng tác, khuynh hướng đổi mới chưa trở thành một phong trào rầm rộ.
Nhưng vào nửa sau của những năm 80, những cuộc tranh luận về văn học ở Việt
Nam có thể diễn ra sôi nổi như thế vì lúc ấy người ta được ăn nói, được phát
biểu chính kiến, được hít thở trong một bầu không khí tương đối dân chủ, lành
mạnh. Khi tiếng nói sử thi lắng xuống, thì tiếng nói thế sự vang lên. Cũng chính
bầu không khí ấy đó tạo nên sự khởi sắc trong sáng tác văn học. Các nhà văn
đặc biệt quam tâm tới đề tài phản ánh hiện thực thế sự - đời tư của con người
trong cuộc sống thực tại. Thành tựu nổi bật của văn học Việt Nam thời kỳ đổi
mới được kết tinh ở truyện ngắn và tiểu thuyết. Rất nhiều nhà văn thành công


19


với thể loại này, có vị trí lớn trên văn đàn trong giai đoạn đó như Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp,…
Trong truyện ngắn của Nguyễn Khải, ông đã quan tâm tới cuộc sống ở
nhiều góc cạnh. Qua Một người Hà Nội, nhà văn cho thấy “một hạt bụi vàng”
trên đất phố. Bà Hiền là một tấm gương về người tốt việc tốt, đó không phải lối
sống tư sản và mỗi người có cách yêu nước khác nhau. Nguyễn Khải cho thấy
một xã hội thay đổi kéo theo vô vàn những điều khác cũng thay đổi theo. Đạo
đức xã hội cũng đi xuống, điều đó ta thấy rõ trong Đời khổvà một số tác phẩm
khác. Còn đến Nguyễn Huy Thiệp ta cũng bắt gặp tiếng nói ấy, song mạnh mẽ
và dữ dội hơn. Qua tác phẩm Tướng về hưu, ta thấy đạo đức con người đi xuống
một các nghiêm trọng. Nhân vật bác sĩ Thủy cho thấy một xã hội chạy theo giá
trị vật chất đồng tiền, đôi khi đã bỏ lại lương tâm của mình. Việc làm của Thủy
ám ảnh người đọc và thức tỉnh giá trị nhân sinh nhân bản trong con người hiện
đại về những điều chúng ta cần gìn giữ bảo vệ để có một tâm hồn sáng. Đặc biệt
Nguyễn Minh Châu được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có biệt tài về truyện
ngắn. Trên thể loại truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu có điều kiện để thể nghiệm
và bộc lộ những chiêm nghiệm và lối viết giàu suy tư sâu lắng của mình.
Vượt qua mọi sự cấm kỵ, văn học sau 1975 nói thật to cái sai, cái xấu và
cả cái ác trong nội bộ chúng ta, giữa chúng ta với nhau. Nguyễn Minh Châu chủ
yếu nói về cái sai của những quan niệm giản đơn về con người từng tồn tại lâu
dài trong văn học và ý thức xã hội. Ma Văn Kháng nói về sa sút của đạo đức, sự
băng hoại không thể nào níu giữ của phong hoá và sự tàn bạo, dữ dội của đời
sống bán khai. Nguyễn Mạnh Tuấn thường nói tới cái sai trong cung cách làm
ăn, lề lối quản lý. Trong sáng tác của Dương Thu Hương có cả một lũ tu mi nam
tử mũ áo xênh xang, mà nhân cách hèn hạ. Dương Thu Hương không chỉ nói
nhiều về cái hèn, mà còn nói về sự ngu dại của đám người nhẹ dạ cả tin. Lê Lựu,

Nguyễn Khắc Trường nói về sự nhếch nhác và cái xấu của những lề thói được
nuôi dưỡng hàng ngàn đời nay sau luỹ tre làng. Rất nhiều trang văn của Nguyễn
Huy Thiệp nói về sự phân rẽ trong quan niệm nhân sinh giữa các thế hệ và sự
đốn mạt của con người. Tiếng nói trên những trang văn của Phạm Thị Hoài,
20


Nguyễn Huy Thiệp là tiếng nói của “quỷ ở trong thơ”: “thi trung hữu
quỷ”. Trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, người giống như
đã hoá thành quỷ, nên đâu đâu cũng thấy có ma quỷ hiện hình biết nói thứ tiếng
của con người.
Sau 1975, văn học nói rất to về vẻ đẹp phồn thực của cuộc đời trần thế.
Nhiều truyện ngắn của Ma Văn Kháng cất lên cái giọng thật hả hê, khoái hoạt,
nói về lòng ái dục như mạch sống thầm thào, mà dạt dào, hăm hở giữa cõi nhân
sinh. Trong truyện Không có vua, Nguyễn Huy Thiệp để cho ông bố văng vào
mặt thằng con, khi thằng này giở giọng đạo đức: “Đàn ông chẳng nên xấu hổ vì
có con buồi”. Nhiều nhà văn Việt Nam không còn phải “xấu hổ” khi nói chuyện
tình dục. Có lẽ vì thế, văn thơ viết về tình yêu thường đậm màu sắc dục. Sáng
tác của Ma Văn Kháng, Phạm Thị Hoài và nhiều cây bút khác như báo trước sự
xuất hiện của Phan Huyền Thư, Vi Thuỳ Linh. Đọc truyện ngắn Phạm Thị Hoài,
thơ Vi Thuỳ Linh ta như nghe được tiếng reo hò khởi loạn của cõi thầm kín, vốn
là vùng cấm bao đời nay bị thứ văn học sạch sẽ thơm tho chôn chặt, giấu kỹ.
Văn học sau 1975 là văn học cất lên tiếng nói của cá nhân con người, đó
là tiếng nói của thế sự - đời tư với những đòi hỏi của cuộc sống mới hoàn toàn
khác với thời kì trước đó. Lắng nghe tiếng nói ấy ta nhận ra dân trí, dân khí, dân
tâm. Hiện thực cuộc sống, hoàn cảnh đất nước đổi thay, văn học đã vận động,
phát triển theo những yêu cầu của xã hội. Do đó văn chương trở thành một thứ
vũ khí sắc bén đóng góp đáng kể vào công cuộc làm đẹp, làm giàu cho đất nước.
Văn học đã phản ánh một cách chân thực về bức tranh hiện thực cuộc sống, về
những khó khăn vất vả và tinh thần lao động, phấn đấu không mệt mỏi của

người dân Việt Nam, đồng thời nó cũng phản ánh được những bất cập tồn tại
trong đời sống hiện tại để từ đó, văn chương góp phần hoàn thiện bức tranh toàn
cảnh xã hội Việt Nam thời kỳ hậu chiến. Và người tiên phong cho công cuộc đổi
mới đó, được xem như “người tiền trạm” là Nguyễn Minh Châu. Ông đã có
nhiều đóng góp trong bước “tiếp lửa” của thời kì văn học trước và thực sự phản
ánh rõ nét tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân thời kỳ đổi mới, đồng

21


thời lên án những thói xấu, những tiêu cực trong xã hội hiện tại để tạo nên một
dòng văn học trung thực và giàu ý nghĩa.
1.4. Nhà văn Nguyễn Minh Châu
1.4.1. Tiểu sử - Sự nghiệp sáng tác
Được biết đến là nhà văn “ đất nghèo xứ Nghệ” Nguyễn Minh Châu đã có
những đóng góp rất lớn cho sự phát triển của văn học nước nhà. Người con xứ
Nghệ đó sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930, tại làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Là con út trong một gia đình có sáu anh chị em,
Nguyễn Minh Châu được tạo điều kiện học hành khá chu đáo. Lớn lên trong thời
kì đất nước bị chia cắt, chiến tranh gây bao đau thương, phần nào hoàn cảnh đã
hằn vào trong con người, tâm hồn ông.
Năm 1944 - 1945, ông học trường Kỹ nghệ Huế và khi Nhật đảo chính
Pháp thì ông trở về quê thi đỗ bằng Thành chung. Những năm đầu cuộc kháng
chiến chống Pháp, Nguyễn Minh Châu tiếp tục học trung học trong vùng kháng
chiến.
Năm 1950, Nguyễn Minh Châu theo học chuyên khoa trường Huỳnh
Thúc Kháng (Hà Tĩnh), tiếp đó ông tình nguyện gia nhập quân đội, theo học một
khóa đào tạo ngắn hạn tại trường sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn.
Năm 1952 - 1956, ông công tác tại Ban tham mưu tiểu đoàn 772, 706 làm
cán bộ tuyên huấn thuộc sư đoàn 320.

Năm 1961, ông theo học trường văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, ông công
tác tại Phòng Văn nghệ quân đội, sau đó chuyển sang công tác tại tạp chí Văn
nghệ quân đội.
Ngày 23 tháng 1 năm 1989, ông qua đời tại Hà Nội, khi nghiệp văn đang
cháy quyết liệt, vẫn còn bao nhiêu băn khoăn, trăn trở ông chưa kịp gửi tới
người đọc. Những sáng tác cuối đời Nguyễn Minh Châu viết trên giường bệnh
đã nói lên điều đó.
Về đặc điểm con người Nguyễn Minh Châu, “những bạn bè quen biết ông
đều thấy dưới cái bề ngoài không có gì nổi bật, thậm chí hơi dè dặt, ngần ngại
nói trước đám đông. Nhưng ở bên trong là một con người nhiều ưu tư trăn trở,
22


×