Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Xuất khẩu Lao động Việt Nam, giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.1 KB, 31 trang )

A.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, thế giới đã chứng kiến các cuộc khủng hoảng
kinh tế làm suy giảm đáng kể nền kinh tế thế giới như cuộc khủng hoảng tài
chính 1997_ 1998 và mới đây là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2009.
Trong thời gian gần đây, nên kinh tế thế giới đang có dấu hiệu phục hồi và
phát triển mạnh mẽ. Tuy vậy, tình trạng thất nghiệp trên toàn cầu vẫn còn
tràn lan tạo ra sưc ép mạnh mẽ về lao động và việc làm. Một trong những
giải pháp đó là Xuất khẩu lao động. Ở Việt Nam, XKLĐ ra đời vào năm
1980 và ngày càng diễn ra mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào giải quyết
việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, tăng thu ngoại tệ, cải thiện cuộc sống
nhân dân nhất là trong điều kiện đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh và
còn rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là những năm gần đây khi maf đất nước
đang càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới thì XKLĐ với những lợi ích
to lớn ngày càng trở nên cần thiết và là tất yếu.
Tuy nhiên, do nhận thức về XKLĐ ở nước ta còn chưa đầy đủ và thống
nhất, việc xác định mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả XKLĐ còn chưa phù
hợp với thị trường lao động trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nên hiệu quả
kinh tế - xã hội ở XKLĐ còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu và tiềm năng về
nguồn nhân lực hiện có của nước ta. Với mong muốn có thể góp phần nâng cao
hiệu quả của XKLĐ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nên em
chọn đề tài: “ XKLĐ Việt Nam, giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Xuân Cầu đã hướng dẫn tân
tình giúp em hoàn thành đề án này!
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu chính của đề tài là phân tích thực trạng xuất khẩu lao động


1


và công tác mở rộng thị trường và từ đó đưa ra những định hướng phát triển
và một số giải pháp nhằm tăng cường công tác XKLĐ trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế để lao động xuất khẩu của nước ta ngày càng có vị thế
vững chắc trên thị trường lao động quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đối tượng của đề án là nghiên cứu sự cần
thiết, vai trò và lợi ích của XKLĐ đối với Việt Nam, đặc biệt là vai trò tạo
việc làm cho người lao động trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, để từ đó
đề xuất phương hướng, mục tiêu cụ thể, đúng đắn và phù hợp với chiến
lược giải quyết việc làm cho người lao động.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình XKLĐ của Việt Nam từ
khi bắt đầu xuất hiện vào những năm 80 của thế kỉ XX, đặc biệt là trong
những giai đoạn gần đây khi tình hình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
mạnh mẽ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu:


Phương pháp thống kê



Phương pháp thống kê phân tích



Phương pháp suy luận



Phương pháp tổng hợp
5. Tài liệu sử dụng
Đề án sử dụng các tài liệu có được từ các nguồn: báo, tạp chí, mạng
internet, sách tham khảo, giáo trình của các môn học có liên quan ( kinh tế vĩ
mô, kinh tế lao động, phân tích lao động xã hội), cùng với tư liệu của Bộ
Lao Động Thương Binh và Xã Hội, số liệu của Cục quản lý lao động ngoài
nước –Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, báo cáo số liệu tổng điều tra
dân số và nhà ở năm 2009 về công tác xuất khẩu lao động và số liệu dân số
của nước ta, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động ở việt Nam, những đánh
giá của một số chuyên gia về thực tế vấn đề xuất khẩu lao động đang diễn ra
trong những năm gần đây.
6. Tên đề tài và kết cấu đề án
Tên đề tài: “XKLĐ - giải pháp tạo việc làm cho người lao động
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”.
Tên các chương:
2


Chương I: Cơ sở lí luận về XKLĐ_biện pháp tạo việc làm cho người
lao động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương II: Đánh giá thực trạng XKLĐ_giải pháp tạo việc làm cho
người lao động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương III: Định hướng phát triển và một số giải pháp nhằm tăng
cường công tác XKLĐ trong quá trình hội nhập KTQT ở VIệt Nam.

3



B.

NỘI DUNG
CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ XKLĐ_BIỆN PHÁP TẠO VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
I/ Xuất khẩu lao động
1. Khái niệm:
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế của một quốc gia thực
hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp
định hoặc hợp đồng có tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia
đưa và nhận lao động.
2. Sự cần thiết của việc XKLĐ:
Theo số liệu điều tra năm 2009, dân số nước ta khoảng hơn 85triệu
người, dân số trong độ tuổi lao động là 66% so với tổng dân số, hằng năm
tăng thêm 1,2 triệu lao động/năm, chiếm 3% trong tổng số lực lượng lao
động. Riêng lao động kỹ thuật cao 3 triệu người tốt nghiệp trung cấp (chiếm
3,9%), 1,1 triệu tốt nghiệp cao đẳng (chiểm 1,3%), 2,7 triệu tốt nghiệp đại
học (chiếm 3,4%), 141 nghìn người có học vị trên đại học (chiếm 0,2%). Chỉ
có 4 triệu người chưa đi học (chiếm 5,1%) so với dân số từ 5 tuổi trở lên
Với thực trạng tốc độ phát triển nguồn lao động nêu trên, mâu thuẫn
giữa lao động và việc làm ngày càng trở nên gay gắt với nền kinh tế. Để giải
quyết được vấn đề này, XKLĐ càng trở nên cấp bách trong vấn đề giải quyết
việc làm ở Việt Nam
3. Các hình thức XKLĐ
3.1 Chia theo hàng hóa sức lao động
Xuất khẩu lao đông có nghề: là loại lao động khi ra nước ngoài làm
việc họ có thể bắt tay ngay vào công việc mà không phải bỏ ra thời gian và


4


chi phí để đào tạo nữa vì trước khi ra nước ngoài làm việc đã được đào tạo
thành thạo một loại nghề nào đó rồi.
Xuất khẩu lao động không có nghề: là loại lao động khi ra nước
ngoài làm việc họ chưa được đào tạo một loại nghề nào hết. Loại lao động
này thích hợp với những công việc giản đơn, không cần trình độ chuyên
môn hoặc phía nước ngoài cần phải tiến hành đào tạo cho mục đích của
mình trước khi đưa họ vào sử dụng.
3.2 Chia theo cách thực hiện
Xuất khẩu lao động trực tiếp: thông qua hợp đồng cung ứng đi làm
việc ở nước ngoài các công ty cung ứng lao động trực tiếp cho các chủ sử
dụng ở nước ngoài. Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, tổ chức nước
ngoài nhưng khi làm thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh
về xuất khẩu lao động để thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm với nhà
nước.
Xuất khẩu lao động tại chỗ: là hình thức người lao động làm việc
cho các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu công nghiệp, các khu chế
xuất, khu công nghệ cao, các tổ chức cơ quan ngoại giao của nước ngoài
đóng ngay tại nước của người lao động.
3.3 Các hình thức xuất khẩu lao động mà nước ta đã sử dụng
Sau 30 năm thực hiện phát triển xuất khẩu lao động với những kinh
nghiệm bước đầu có được thi nước ta đã áp dụng được một số hình thức
khác nhau trong hoạt động xuất khẩu lao động như:
•Đưa lao động đi bồi dưỡng học nghề, nâng cao trình độ và làm việc có
thời gian ở nước ngoài.
•Hợp tác lao động và chuyên gia.
•Đưa lao động đi làm việc tại các công trình doanh nghiệp Việt Nam

nhận thầu khoán xây dựng, liên doanh hay liên kết tạo ra sản phẩm ở nước
ngoài.
•Cung ứng lao động trực tiếp theo các yêu cầu của công ty nước ngoài
5


thông qua các hợp đồng lao động được ký kết bởi các doanh nghiệp Việt
Nam làm dịch vụ cung ứng lao động.
•Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, tổ chức nước ngoài nhưng
khi làm thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh về xuất
khẩu lao động.
•Xuất khẩu lao động tại chỗ.
4. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
4.1. Xuất khẩu lao động là một loại hoạt động kinh tế và diễn ra
gay gắt
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu lao động là một
trong những giải pháp quan trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng lên
của nước họ và thu ngoại tệ bằng hình thức chuyển tiền về nước của người
lao động và các lợi ích khác. Những lợi ích này đã buộc các nước xuất khẩu
lao động phải chiếm lĩnh mức ở cao nhất thị trường lao động ở nước ngoài,
mà việc chiếm lĩnh được hay không lại dựa trên quan hệ cung cầu sức lao
động. Nó chịu sự điều tiết, sự tác động của các quy luật của kinh tế thị
trường. Bên cung phải tính toán mọi hoạt động của mình để làm sao bù đắp
được chi phí và có phần lãi. Vì vậy cần phải có cơ chế thích hợp để tăng khả
năng tối đa về cung lao động. Bên cầu cũng phải tính toán kỹ lưỡng hiệu quả
của việc nhập khẩu lao động.
Như vậy, việc quản lý Nhà nước, sự điều chỉnh pháp luật luôn luôn
luôn bám sát đặc điểm này. Sao cho mục tiêu kinh tế phải là mục tiêu số 1
của mọi chính sách pháp luật về xuất khẩu lao động.
4.2. Xuất khẩu lao động là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã

hội
Thực chất hoạt động xuất khẩu lao động không tách rời khỏi người
lao động. Vì vậy, mọi chính sách pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động phải kết hợp với chính sách xã hội: Phải đảm bảo để người lao động ở
6


nước ngoài được lao động như cam kết ở trong hợp đồng, cũng như đảm bảo
các hoạt động công đoàn... hơn nữa, người lao động xuất khẩu dù sao cũng
chỉ có thời hạn do vậy cần phải có những chế độ tiếp nhận và sử dụng người
lao động sau khi họ hoàn thành hợp đồng và trở về nước.
4.3 Xuất khẩu lao động là sự kết hợp hài hòa giữa quản lý vĩ mô
của Nhà nước và sự chủ động, tự chịu trách nhiệm của tổ chức xuất
khẩu lao động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở của hợp đồng cung ứng
lao động. Nếu như trước đây (giai đoạn 1980-1990) Việt Nam tham gia thị
trường lao động quốc tế đã xuất khẩu lao động của mình qua các hiệp định
song phương, trong đó quy định khá chi tiết về điều kiện về lương, ăn ở, đi
lại, bảo vệ người lao động ở nước ngoài. Thì ngày nay, trong cơ chế của nền
kinh tế thị trường hội nhập quốc tế thì hầu như toàn bộ hoạt động xuất khẩu
lao động đều do các tổ chức xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở hợp
đồng đã ký. Đồng thời, các tổ chức xuất khẩu lao động cũng chịu trách
nhiệm tổ chức đưa đi và quản lý người lao động. Và như vậy, các Hiệp định,
các thỏa thuận song phương chỉ có tính nguyên tắc, thể hiện vai trò và trách
nhiệm Nhà nước ở tầm vĩ mô.
4.4 Phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ xuất khẩu lao
động
Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động lợi ích kinh tế của Nhà nước
chính là khoản ngoại tệ mà người lao động gửi về nước và các khoản thuế.
Lợi ích của các tổ chức xuất khẩu lao động chính là các khoản thu được chủ

yếu từ các loại phí giải quyết việc làm ngoài nước. Còn lợi ích của người lao
động chính là các khoản thu nhập. Chính vì chạy theo lợi ích mà các tổ chức
xuất khẩu lao động có quyền đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc
ở nước ngoài rất dễ vi phạm quy định của Nhà Nước, nhất là việc thu các
loại phí dịch vụ. Từ chỗ các quyền lợi của người lao động bị vi phạm sẽ
khiến cho việc làm ngoài nước không thật hấp dẫn người lao động
7


Ngược lại, cũng vì chạy theo thu nhập cao mà người lao động rất dễ
vi phạm những hợp đồng đã ký, bỏ hợp đồng ra làm việc bên ngoài... Do
vậy, các chế độ chính sách phải tính toán làm sao cho đảm bảo được sự hài
hòa lợi ích của các bên, trong đó phải đặc biệt chú ý đến lợi ích trực tiếp của
người lao động.
4.5 Xuất khẩu lao động là hoạt động đầy biến đổi
Hoạt động xuất khẩu lao động phụ thuộc rất nhiều vào nước có nhu
cầu nhập khẩu lao động. Do vậy, cần phải có sự phân tích toàn diện các dự
án ở nước ngoài đang và sẽ được thực hiện để xây dưng chính sách và
chương trình đào tạo giáo dục định hướng phù hợp và linh hoạt. Chỉ có
những nước nào chuẩn bị được đội ngũ công nhân với tay nghề thích hợp
mới có điều kiện thuận lợi hơn trong việc chiếm lĩnh thị phần lao động ở
nước ngoài. Và cũng chỉ có nước nào có nhìn xa trông rộng, phân tích, đánh
giá và dự đoán đúng tình hình mới không bị động trước sự biến đổi của tình
hình. Từ đó đưa ra được chính sách đón đầu trong hoạt động xuất khẩu lao
động.
5. Vai trò của việc xuất khẩu lao động
5.1 Về mục tiêu kinh tế
Trong khi nền kinh tế nước ta còn gặp vô vàn khó khăn, mọi nguồn
lực còn eo hẹp thì việc chúng ta đưa hàng vạn lao động ra nước ngoài làm
việc hàng năm đã mang về cho đất nước hàng tỷ USD/năm. Đóng góp quan

trọng vào việc phát triển đất nước.
5.2 Về mục tiêu xã hội
Mặc dù còn những hạn chế nhất định với tiềm năng, song xuất khẩu
lao động Việt Nam trong những năm qua đã bước đầu đạt được những thành
công nhất định về mục tiêu mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước
đề ra.
Trước hàng loạt những khó khăn và gánh nặng thất nghiệp của
người lao động trong nước, cùng với các biện pháp tìm kiếm và tạo công ăn
8


việc làm trong nước là chủ yếu thì xuất khẩu lao động đã trở thành một trong
những ngành kinh tế quan trọng, góp phần tạo việc làm và thu nhập cho
hàng vạn lao động mỗi năm, đồng thời làm giảm sức ép về việc làm và tạo
sự ổn định xã hội ở trong nước...
II/ Việc làm và tạo việc làm
1. Một số khái niệm
1.1. Việc làm
Theo điều 13 – Bộ luật Lao động đã nêu rõ:
Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm.
Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động
đều có cơ hội làm việc là trách nhiệm của Nhà Nước, của các doanh nghiệp
và của toàn xã hội
1.2. Thất nghiệp
Là tình trạng người có khả năng lao động, từ đủ 15 tuổi trở lên
trong nhóm hoạt động kinh tế tại thời điểm điều tra không có việc làm
nhưng có nhu cầu tìm việc.
1.3.Tạo việc làm :
Là quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất; số lượng

và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết khác để
kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.
2. Vai trò của tạo việc làm
Tạo việc làm là 1 chính sách của Đảng và Nhà nước giải quyết . những
vấn đề xã hôi. Mọi lao động đều có việc sẽ rút ngắn được khoảng cách giàu
nghèo trong xã hội. Mặt khác, khi có việc thì người lao động yên tâm hơn,
phát huy được hết khả năng sáng tạo trong công việc. Việc làm và thu nhập
giúp người lao động có điều kiện học hỏi và nâng cao trình độ dân trí, chăm
sóc sức khỏe, tinh thần làm cho xã hội ngày càng ổn định và văn minh hơn.
Tạo việc làm được quan tâm đúng mức sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát
9


triển, xóa bỏ tình trạng đói nghèo. Mỗi quốc gia, mỗi địa phương cần phải
quan tâm xây dựng để có 1 chính sách việc làm phù hopwp. Mọi lao động
đều có việc làm chứng tỏ quốc gia đó khai thác triệt để nguồn lực con người
và tạo ra 1 nền sản xuất phát triển.
III/ Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
1. Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế: Là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc
gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan
hệ giữa các nước thành viên có sự rằng buộc theo những quy định chung của
khối. (Giáo trình Kinh tế quốc tế, trang 235).
2. Những thời cơ và thách thức hội nhập kinh tế quốc tế đem lại.
Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế là sự mở cửa nền kinh tế, đón
nhận những luồng gió mới từ bên ngoài vào, kích thích các yếu tố, điều kiện
trong nước để phát triển kinh tế. Những cơ hội và thách thức mà hội nhập
kinh tế quốc tế đem lại cho các quốc gia thành viên của nó là:
• Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xoá bỏ từng bước, từng phần
của rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia.

• Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho việc mở rộng thị trường
ngoài nước, khơi thông các nguồn lực trong và ngoài nước để tạo điều kiện
phát triển kinh tế.
• Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội vươn lên của các quốc gia đang
phát triển và kém phát triển. Thông qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
các quốc gia này phát huy tối ưu các lợi thế so sánh của mình đồng thời cũng
tiếp nhận công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại trên thế giới.
• Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hợp tác để phát triển nhưng
đồng thời cũng là quá trình đấu tranh rất phức tạp của các quốc gia (nhất là
các quốc gia chưa phát triển) để bảo vệ lợi ích của mình, chống lại sự áp đặt
phi lý của các cường quốc mạnh hơn.
• Hội nhập kinh tế quốc tế cũng thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước
10


không ngừng đổi mới để nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
3. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu khách quan.
Thật vậy, khi hiện nay nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới có
mối liên hệ phụ thuộc ngày càng chặt chẽ thì sự liên kết, hội nhập giữa các
quốc gia này là điều hoàn toàn tất yếu. Quá trình đó diễn ra ngày càng mạnh
mẽ dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, nền kinh tế và sự phân công lao
động quốc tế diễn ra ngày càng sâu. Trong thời đại mới này không thể có
một quốc gia nào lại tồn tại được nếu không có bất cứ một sự liên hệ nào với
thế giới bên ngoài và cũng không có quốc gia nào có nền kinh tế phát triển
mà lại không có nhiều sự hợp tác với các quốc gia khác. Hội nhập là quy
luật tất yếu khi lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Chính vì thế,
trong thời đại mới này hội nhập kinh tế quốc tế là 1 xu hướng tất yếu
khách quan.
4. XKLĐ_ 1 giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế

Xuất khẩu lao động là một biện pháp để giải quyết việc làm cho
người lao động. Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý rằng việc tiến hành xuất
khẩu lao động hiện nay đã bước sang một thời kỳ mới đó là thời kỳ xuất
khẩu lao động chịu sự tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quá
trình này sẽ tạo ra những thuận lợi và cả những khó khăn nữa cho công tác
xuất khẩu lao động. Vì thế, cần có những chiến lược, chính sách và bịên
pháp cụ thể cho hoạt động này. Và chúng ta cũng cần khẳng định rằng: ba
phạm trù trên có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ, không thể tách rời. Giải
quyết việc làm trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những
yêu cầu, những thách thức không giống giai đoạn trước. Người lao động
không chỉ cần có việc làm, có thu nhập đủ sống mà cần cả những môi trường
làm việc đảm bảo tính mạng,sự an toàn và sức khoẻ cho họ; cần cả những
phúc lợi xã hội mà họ sẽ nhận được thông qua quá trình lao động này. Và
xuất khẩu lao động với tư cách là một giải pháp tạo việc làm sẽ phải có
11


những bước đi như thế nào để đáp ứng được những yêu cầu trên? Ngược lại,
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sự di chuyển tự do lao động quốc tế
sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn và đó có thể là nguy cơ đẩy cao mất việc làm của
người lao động trong nước, tạo sức ép việc làm tăng lên. Tuy vậy, hội nhập
kinh tế quốc tế cũng có thể tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho lao động trong
nước, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu lao động góp phần giải quyết
việc làm. Tóm lại, giữa xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm, hội nhập
kinh tế quốc tế luôn có mối quan hệ tác động qua lại và mang tính biện
chứng.

12



CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XKLĐ _GIẢI PHÁP
TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TÊ.
I/ Thực trạng XKLĐ ở Việt Nam
1. Những thành tựu của xuất khẩu lao động trong những năm qua
Trong nhiều năm qua hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta đã có
nhiều chuyển biến rõ rệt, số lao động được đi làm việc không chỉ tăng theo
cấp số cộng mà đã tăng theo cấp số nhân trong những năm gần đây. Nhìn lại
thành tựu mà xuất khẩu lao đông nước ta đã mang lại qua các thời kì từ năm
1980 đến nay sẽ cho chúng ta thấy rõ điều đó.
SƠ ĐỒ: THỐNG KÊ SỐ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU QUA CÁC THỜI KÌ

(Nguồn số liệu: Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động-

13


Thương binh và Xã hội)
Nhìn vào biểu đồ xuất khẩu lao động của nước ta từ năm 1980 đến nay
ta có thể chia làm 3 thời kì chủ yếu như sau:
Thời kì thứ nhất từ năm 1980 đến 1990
Thời kì thứ hai từ năm 1991 đến năm 2000
Thời kì thứ ba từ năm 2001 đến nay
1.1. Thời kì từ năm 1980 đến năm 1990
Trong thời kì này nước ta chủ yếu quan hệ hợp tác lao động với các
nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa ở khu vực Đông Âu như Liên Xô,
Tiệp Khắc, CHDC Đức, … Và một số quốc gia thuộc khu vực Trung Đông
như Irắc, Quatar… Thời kì này nước ta chủ yếu là đưa cán bộ, công nhân
viên đi bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề về những ngành kĩ thuật then
chốt mà nước ta đang cần hoặc những ngành có độ phức tạp và tinh vi trong

quá trình chế tạo sản phẩm và trong cả dây chuyền công nghệ hoặc học hỏi
thêm những kiến thức và rèn luyện tay nghề để có thể tự chế tạo ra những
sản phẩm mới.
BẢNG 1: SỐ LIỆU VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG THỜI KÌ 1980 – 1990
Tiền

gửi

NĂM
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988
1989
1990

SỐ LAO ĐỘNG
1570
20230
25970
12402
4489
5008
9012
46098

71835
40618
3069

(Triệu VND)
0
0.955
8.5
25.1
32.1
76.9
433.5
1426.18
23027.9
1084.32
8512.8

TỔNG

240301

34628.255

về

(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội)
Qua bảng số liệu trên cho ta: Thời kì 1980 – 1990, Việt Nam đã đưa

14



được 240301 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Con số này không phải là
cố định mà tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng lao động của các nước tiếp nhận
lao động nước ta. Ở thời kì này, số lượng lao động được đưa đi nhiều nhất là
các năm 1981, 1982, 1987, 1988, 1989.
Mặc dù số lượng lao động được đưa đi trong thời kì này là không tăng
lên theo từng năm nhưng số lượng ngoại tệ gửi về nước tăng lên rõ rệt theo
từng năm càng về cuối thời kì này thì số lượng ngoại tệ đã tăng dần theo cấp
số nhân.
BẢNG 2: THỐNG KÊ VỀ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU CÓ NGHỀ VÀ KHÔNG CÓ
NGHỀ THỜI KÌ 1980 – 1990

LAO
ĐỘNG

LAO
LAO

XUẤT ĐỘNG

ĐÔNG
KHÔNG

NĂM KHẨU
CÓ NGHỀ NGHỀ
1980
1570
1570
0

1981
20230
14882
5348
1982
25970
12116
13784
1983
12402
4603
7799
1984
4489
3297
1192
1985
5008
3658
1350
1986
9012
1800
7212
1987
46098
21024
25074
1988
71835

25109
46726
1989
40618
12034
28584
1990
3069
921
2148
TỔNG
240301
101014
139217
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội )
Trong tổng số 240301 lao động được đưa đi xuất khẩu thì có tới
101014 lao động có tay nghề chiếm tỉ lệ 42,06% so với 139217 lao động
chưa có nghề. Điều này cho thấy tỉ lệ lao động có tay nghề của nước ta được
đưa đi xuất khẩu chiếm một tỉ trọng khá cao. Đặc biệt năm 1980 tỉ lệ này là
100%, còn từ những năm 1981 trở đi thì số lượng lao động giản đơn được

15


tăng lên, nguyên nhân chính là do yêu cầu của phía Chính phủ các nước tiếp
nhận lao động Việt Nam không yêu cầu về trình độ tay nghề của lao động.
Phần lớn các nước này đã phân phối ngay lao động Việt Nam vào các nhà
máy, cơ sở sản xuất. Họ đào tạo theo hình thức kèm cặp cho lao động nước
ta để trở thành công nhân thực thụ. Đây là một đặc điểm rất đặc biệt của lao

động Việt Nam khi đi làm việc ở nước ngoài kể từ trước đến nay. Nó cũng
khác biệt với hoạt động xuất khẩu lao động của các nước khác trong khu vực
như Philippin, Thái Lan…trong cùng khoảng thời gian này.
Về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam xuất khẩu được thể hiện
ở bảng số liệu sau:
BẢNG 3: SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ CỦA LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
VIỆT NAM THỜI KÌ 1980 – 1990

SỐ
NGÀNH NGHỀ
LAO ĐỘNG
công nghiệp
178190
Cơ khí
63206
công nghiệp nhẹ
104427
hóa chất
7407
Thực phẩm
3150
Xây dựng và vật
liệu xây dựng
nông ngiệp
Lâm nghiệp
Các ngành khác
TỔNG

45597
1531

4718
10265
240301

(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội )
Có thể thấy rằng cơ cấu ngành nghề mà lao động nước ta được tiếp
nhận là tương đối đa dạng. Tuy nhiên nó vẫn chưa mang tính đa dạng dạng
về loại, nhóm lao động. Việc làm của lao động Việt Nam đảm nhận chủ yếu
là lao động giản đơn, chủ yếu là lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng. Tuy nhiên cơ cấu ngành nghề này không phải là do lao động Việt
Nam được đào tạo từ trong nước mà phần lớn là do các nước tiếp nhận lao
động tự kèm cặp, đào tạo và sử dụng cho đến khi kết thúc thời hạn.
16


Tóm lại, xuất khẩu lao động Việt Nam thời kì này đã cho thấy chất
lượng lao động xuất khẩu của nước ta đã được nâng lên rõ rệt, nó thể hiện
qua kết quả xuất khẩu lao động tăng dần theo từng năm, khẳng định lao
động Việt Nam đã có thể đáp ứng nhu cầu lao động của nước tiếp nhận trong
nhiều lĩnh vực và ngành nghề.
1.2. Thời kì từ năm 1991 đến năm 2000
Đến năm 1991 thì tình hình chính trị các nước tiếp nhận lao động của
nước ta trong giai đoạn 1980_1990 đều có những biến động. Các nước ở khu
vực Đông Âu như Liên Xô, Tiệp Khắc, CHDC Đức có sự biến đổi lớn về thể
chế chính trị và thể chế kinh tế, cũng trong thời điểm này một số quốc gia ở
châu Phi có tiếp nhận các chuyên gia Việt Nam sang làm việc đều rơi vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế. Irắc và một số quốc gia ở Trung Đông xảy ra
chiến tranh vùng vịnh. Tất cả những điều này đã làm cho thị trường xuất
khẩu lao động của nước ta bị thu hẹp và rơi vào tình thế bất lợi.

Trước tình hình đó, ngày 09/11/1991 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
nghị định số 370/HĐBT về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài. Nghị định này đã mở ra một cơ chế mới trong hoạt
động xuất khẩu lao động. Nó cũng đã mở đường cho thời kì xuất khẩu lao
động mới, một số thị trường mới đã được khai thác và một số thị trường
trọng điểm đã được mở rộng như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Malaysia…. Và đặc biệt là thị trường lao động trên biển
Sau 10 năm thực hiện hoạt động xuất khẩu lao động theo cơ chế mới
nước ta đã thu được những thành tựu đáng khích lệ.
BẢNG 4: SỐ LIỆU VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG THỜI KÌ 1991 2000

SỐ
NĂM
1991
1992

TIỀN GỬI

LAO

VỀ

ĐỘNG
1022
810

(USD)
7971600
14289600
17



1993
3960
45177600
1994
9230
109200000
1995
10050
181272000
1996
12661
249139800
1997
18469
321205000
1998
12000
341874000
1999
20700
404578200
2000
31468
505950400
TỔNG
95298
1822747400
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh

và Xã hội)
Từ năm 1992 cho đến năm 1994 tình hình xuất khẩu lao động của
nước ta có dấu hiệu giảm sút trầm trọng so với những năm trước đây. Mặc
dù vậy nhưng số lượng lao động được đưa đi xuất khẩu đã tăng trở lại và đều
đặn trong nhũng năm tiếp theo. Ở giai đoạn đầu của thời kì này tình hình
xuất khẩu lao động của nước ta có dấu hiệu đi xuống nhưng số lượng ngoại
tệ gửi về nước thì không hề giảm, cho đến những năm cuối của thời kì này
thì số lượng ngoại tệ đã gấp nhiều lần so với những năm đầu, tiêu biểu như
năm 2000 thì lượng ngoại tệ gửi về nước đã gấp 4,64 lần so với năm 1994 và
gấp 63,5 lần so với năm 1991. Cho thấy XKLĐ của Việt Nam đã vượt qua
giai đoạn khó khăn và phát triển một cách nhanh chóng.
Ở giai đoạn này XKLĐ ở nước ta có nhiều biến động về số lượng,
nhưng chất lượng của người lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài thì
không ngừng được cải thiện. Số người lao động có tay nghề được đưa đi làm
việc luôn cao hơn số lao động chưa qua đào tạo.
BẢNG 5: THỐNG KÊ VỀ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU CÓ NGHỀ VÀ KHÔNG CÓ
NGHỀ THỜI KÌ 1991 - 2000

LAO
SỐ
NĂM
1991
1992

LAO

ĐỘNG

ĐÔNG


LAO



KHÔNG

ĐỘNG
1022
810

NGHỀ
520
423

NGHỀ
502
387
18


1993
3960
2341
1619
1994
9230
4679
4551
1995
10050

5489
4561
1996
12661
7251
5410
1997
18469
9457
9012
1998
12000
6178
5822
1999
20700
11457
9243
2000
31468
16412
15056
TỔNG
120370
64207
56163
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội)
Tỉ lệ lao động có nghề ở thời kì này là 53,34 % cao hơn 11,28 so với
thời kì 1980 – 1990. Mặc dù vậy tỉ lệ này vẫn còn thấp so với các nước trong

khu vực như Philippin la 78,63%, Thái Lan là 80,26% và số lượng lao động
nước ta tham gia vào các ngành nghề là không đồng đều. Cũng giống như
thời kì 1980 – 1990, thời kì này lao động của nước ta chủ yếu vẫn làm việc ở
những ngành nghề giản đơn không đòi hỏi trình độ chuyên môn kĩ thuật và
độ lành nghề cao.
BẢNG 6: SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ CỦA LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
VIỆT NAM THỜI KÌ 1991 – 2000

SỐ
NGÀNH NGHỀ
LAO ĐỘNG
công nghiệp
67050
công nghiệp nặng
5019
công nghiệp nhẹ
62031
Xây dựng và vật
liệu xây dựng
37459
dịch vụ
4199
nông ngiệp
260
Lâm nghiệp
6475
Các ngành khác
4927
TỔNG
120370

(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội)
Đến thời điểm này cơ cấu lao động xuất khẩu của Việt Nam làm việc
ở nước ngoài của nước ta có sự thay đổi có chiều hướng sang những ngành

19


công nghiệp nhẹ và có sự biến đổi giữa các ngành nghề nhưng sự thay đổi
đó là không đáng kể. Lao động Việt Nam chủ yếu vẫn làm việc trong các
lĩnh vực không đòi hỏi trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chủ yếu tập trung ở
các ngành công nghiệp và vật liệu xây dựng có tỉ trọng cao nhất. Đó là một
dấu hiệu tốt cho lao động Việt Nam góp phần nâng cao thu nhập và đào tạo
tay nghề cho lao động Việt Nam sau khi về nước.
1.3. Thời kì từ năm 2001 đến năm 2010
Tổng kết kinh nghiệm của 20 năm xuất khẩu lao động nước ta đã rút
ra nhiều bài học mới về công tác đào tạo nghề và mở rộng thị trường xuất
khẩu nên ở giai đoạn 2001 -2010 này đã thu được nhiều thành tựu đáng kể
và cao gấp nhiều lần so với các thời kì trước.

20


BẢNG 7: SỐ LIỆU VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG THỜI KÌ 2001 2010

SỐ LAO

TIỀN GỬI VÊ

NĂM ĐỘNG

(Triệu VND)
2001
36168
689660400
2002
46122
1400000000
2003
75000
1578025000
2004
68600
1485140200
2005
70594
1498000000
2006
85000
1625600000
2007
80000
1687422300
2008
87000
1752891010
2009
75000
1548201000
2010
85000*

1700000000*
TỔNG
708484**
14964939910**
(Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội)
(* số liệu dự kiến cho năm 2010)
(** gồm cả số liệu ước tính cho năm 2010)
Vào thời kì này chính sách xuất khẩu lao động của nước ta đã có phần
thông thoáng và mở rộng được nhiều hơn. Ngày 1/7/2006, Luật Xuất khẩu
lao động mới đã có hiệu lực. Giúp mở rộng laoij hình tham gia XKLĐ. So
với Luật cũ,đã điều chinh và mở rộng tới 5 loại hình tham gia XKLĐ.
Chính vì vậy mà số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày
một tăng lên, nhất là 4 năm trở lại đây, tình hình xuất khẩu lao động nước ta
đã có nhiều khởi sắc. Riêng năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh
tế toàn cầu nên tình hình xuất khẩu lao động bị giảm nhưng không đáng kể.
Thời kỳ này cũng cho thấy sự biến chuyển rõ rệt về cơ cấu lao động.
Cơ cấu lao động có nghề cung đã tăng lên đáng kể so với 2 thời kỳ trước:

21


BẢNG 8: THỐNG KÊ VỀ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU CÓ NGHỀ VÀ KHÔNG CÓ
NGHỀ THỜI KÌ 2001 – 2010

LAO
ĐỘNG

LAO
LAO


XUẤT ĐỘNG

ĐÔNG
KHÔNG

NĂM KHẨU
CÓ NGHỀ
NGHỀ
2001
36168
18426
17742
2002
46122
26875
19247
2003
75000
33128
41872
2004
68600
42085
26515
2005
70594
43582
27012
2006

85000
56230
28770
2007
80000
52580
27420
2008
87000
59032
27968
2009
75000
58658
16342
2010
85000
65000*
20000*
TỔNG
708484
460596
247888

(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội)
(* số liệu dự kiến cho năm 2010)
Tỉ lệ lao động có nghề không hoàn toàn là 100% nhưng đang từng
bước được nâng lên. Có thể thấy được công tác xuất khẩu lao động ở nước ta
thời kỳ này chú trọng về chất lượng nhiều hơn là số lượng. Muốn khai thác

hết tiềm năng của các thị trường cao cấp và củng cố chất lượng tại các thị
trường truyền thống thì không còn cách nào khác ngoài đào tạo nghề cho
người lao động
Do được đào tạo nên cơ cấu lao động cho xuất khẩu của nước ta cũng
có nhiểu thay đổi rõ rệt, nó thể hiện qua bảng số liệu sau:

22


BẢNG 9: SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ CỦA LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
VIỆT NAM THỜI KÌ 2001 – 2010*

SỐ

LAO

NGÀNH NGHỀ
ĐỘNG
Công nghiệp
512520
công nghiệp nặng
128920
công nghiệp nhẹ
383600
Xây dựng và vật
liệu xây dựng
45896
Dịch vụ
25869
Nông ngiệp

21583
Lâm nghiệp
13589
Các ngành khác
89027
TỔNG
708484
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội)
(* số liệu bao gồm cả số liệu dự kiến cho năm 2010)
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành nghề, lĩnh vực là khá
rõ, ở thời kỳ này lao động nước ta tập trung chủ yếu ở các ngành công
nghiệp nhẹ, vật liệu xây dựng. Đặc biệt các lĩnh vực như nông nghiệp, lâm
nghiệp cũng đã được các doanh nghiệp nước ta tập trung khai thác. Sở dĩ các
lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp có số lao động nước 23at ham gia nhiều
hơn là vì những lĩnh vực này không đòi hỏi phải có chuyên môn kỹ thuật và
phù hợp với trình độ lao động của lao động nước ta.
Tóm lại, qua 30 năm đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
nước ta đã giải quyết được rất nhiều việc làm cho người lao động và góp
phần cải thiện đời sống cho rất nhiều người lao động. Có thể nói, 30 năm
qua xuất khẩu lao động là một lĩnh vực xuất khẩu đặc biệt mang lại lợi
nhuận kinh tế tương đối cao cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
này và góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế trong 30 năm qua. Tuy
nhiên xuất khẩu lao động ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót cần
được khắc phục kịp thời.

23


2 – Những hạn chế của xuất khẩu lao động ở Việt Nam.

2.1 Về chất lượng lao động
Do lao động Việt Nam vốn xuất thân từ nông thôn, đa số không
nghề, không ngoại ngữ, không tác phong công nghiệp, mà chúng ta vẫn
thường gọi là lao động “3 không”, rất bất lợi khi muốn ra nước ngoài làm
việc. Thông thường những lao động “3không” bao giờ cũng rất khó được
tuyển chọn và thu nhập thấp. Đối tượng lao động này cũng rất khó tiếp cận
và học hỏi công việc cũng như phong tục tập quán, văn hóa của nước sở tại
nếu được tuyển dụng. Thời gian kéo dài sẽ dẫn đến tâm lý chán việc, tệ hơn
là góp phần vào số lượng lao động bỏ trốn. Đó là những vấn đề ảnh hưởng
trực tiếp đến bản thân người lao động. Ngoài ra, thực trạng này còn ảnh
hưởng rất lớn đến thương hiệu, uy tín lao động Việt Nam trên thị trường thế
giới. Thực tế thì cho đến thời điểm này, thị trường lao động ngoài nước vẫn
cần chấp nhận một bộ phận lao động giản đơn, chưa qua đào tạo nghề hoặc
trình độ nghề thấp. Tuy nhiên, ở hầu hết các thị trường, nhu cầu về lao động
có tay nghề đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là những lao động có tay nghề
cao. Cụ thể, những thị trường như Mỹ, Canada, Australia. Singapore được
coi là thị trường cao nhất kể cả thu nhập và điều kiện nhập cảnh. Muốn có
một tấm visa vào những thị trường này, người lao động phải có kỹ năng tay
nghề cao, kinh nghiệm làm việc thực tế và phải đạt trinh độ tiếng Anh 4.5
điểm IELTS trở lên…
2.2 Về thị trường xuất khẩu
Theo đánh giá của chuyên gia,một số thị trường nhận nhiều lao động
đang gặp khó khăn, như nhu cầu lao động của Malaysia giảm đi, Đài Loan
vẫn tạm ngừng nhận lao động Việt Nam làm việc tại các gia đình, Quatar
giảm hẳn tốc độ tiếp nhận lao động từ giữa năm 2006 do tình trạng lao động
Việt Nam vi phạm kỹ luật tăng lên, năm 2011 khủng hoảng chính trị ở
Libya, nguy cơ mất thị trường lao động ở Hàn quốc. Thị trường cao cấp
cánh cửa đi vào còn hẹp. Thị trường Nhật Bản cũng là một trong những
24



điểm dừng chân đem lại thu nhập cao cho lao động Việt Nam. Nhưng chủ
yếu lao động Việt Nam đưa sang Nhật Bản là dưới dạng tu nghiệp sinh, phía
bạn đánh giá cao tay nghề, tính cần cù, chịu khó và khả năng tiếp thu kỹ
thuật lao động mới của lao động Việt Nam. Còn với thị trường Australia, số
lượng không nhiều do lao động không đáp ứng được các điều kiện về tay
nghề và ngoại ngữ. Riêng thị trường Hoa Kỳ và Canada vẫn chưa đưa được
nhiều lao động sang làm việc do các doanh nghiệp gặp khó khăn khi xin thủ
tục nhập cảnh cho người lao động.
2.3 Về vấn đề quản lý người lao động ở nước ngoài
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho biết, hiện nay có 50
doanh nghiệp được phép đưa người lao động sang thị trường Trung Đông.
Tuy nhiên, trong đó chỉ có 3 doanh nghiệp có văn phòng đại diện tại các
nước trên. Điều đó chứng tỏ phần lớn các doanh nghiệp đang hoạt động theo
kiểu “đem con bỏ chợ”. Đấy là chưa kể tại một số thị trường, các doanh
nghiệp chỉ biết tạo nguồn trong nước, thu phí, bàn giao lao động và… hết
trách nhiệm. Chính vì thế mới xảy ra chuyện lao động Việt Nam tại nước
ngoài không có “người quản lý” dẫn tới việc sống và làm việc vô tổ chức, bị
trục xuất về nước cũng chẳng có cơ quan nào đứng ra giải quyết. Trong thời
gian ngắn gần đây, có hàng trăm lao động Việt Nam đi Trung Đông làm việc
bị trục xuất về nước vì vi phạm pháp luật. Một số khác thì bị bắt, bị phạt tù
vì nấu rượu, đánh nhau và ăn cắp. Nghịch lý là các doanh nghiệp xuất khẩu
lao động đang tìm mọi cách mở rộng thị trường thì người lao động của ta lại
vô tư phá. Trước khi lên đường đến các nước ở khu vực Trung Đông làm
việc, phần lớn lao động Việt Nam đều được học giáo dục định hướng, trang
bị kiến thức về luật pháp, lối sống nghiêm khắc ở xứ sở đạo hồi. Đó là cấm
uống rượu, nấu rượu và chọc ghẹo phụ nữ,… Thế nhưng, vừa chân ướt chân
ráo đến đây nhiều lao động của ta đã phá rào – ngang nhiên nấu rượu và chè
chén say sưa. Theo ông Phạm Văn Thắng, trưởng phòng Trung Đông công
ty Sovilaco nói “đúng là lao động của ta coi trời bằng vung”.Nhiều công

25


×