Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô về Chiến tranh tiền tệ Currency War

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.1 KB, 54 trang )

Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập tài chính quốc tế và toàn cầu hóa luôn là chủ đề được quan tâm hàng
đầu trong thời gian qua. Để thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, hàng loạt các nước
sử dụng biện pháp tiền tệ nhằm hạ giá đồng tiền nước mình. Thế nhưng bên cạnh
những lợi ích ban đầu mang lại, việc hạ giá đồng tiền trong nước đã dẫn đến một cuộc
chiến tranh tiền tệ, gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế. So với các cuộc
chiến tranh vật chất, chiến tranh tiền tệ có mức độ tàn phá không hề thua kém. Không
chỉ tạo nên xung đột giữa các quốc gia, các đợt tấn công tiền tệ còn có tác động tới cả
những yếu tố cội rễ của nền kinh tế như niềm tin của dân cư vào tính ổn định của hệ
thống tài chính – tiền tệ và năng lực giải quyết các vấn đề an sinh xã hội của chính
phủ. Vì vậy, chúng ta cần có những nhận thức đúng đắn về chiến tranh tiền tệ cũng
như những tác động của nó trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài này được nghiên cứu nhằm giúp hiểu rõ hơn về chiến tranh tiền tệ để có
thể xây dựng hệ thống quan sát và cảnh báo, chuẩn bị phương án chống đỡ trước cuộc
tấn công tiền tệ từ các nhóm tài phiệt công nghiệp – tài chính quốc tế.
Để đạt được những mục đích trên tiểu luận đề cập giải quyết những vấn đề sau:
-

Tổng quan về chiến tranh tiền tệ
Lịch sử các cuộc chiến tranh tiền tệ
Nguy cơ bùng nổ chiến tranh tiền tệ trong giai đoạn 2010 – 2015

Trong quá trình làm, nhóm em không thể tránh khỏi thiếu xót. Vì vậy, chúng em
mong nhận được nhiều lời góp ý từ thầy và các bạn để chúng em có thể hoàn thành đề
tài tiểu luận này một cách tốt nhất.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy.

1



Chương 1.

Tổng quan về chiến tranh tiền tệ

1.1. Khái niệm chiến tranh tiền tệ:

Chiến tranh tiền tệ là một cuộc xung đột kinh tế, trong đó các nền kinh tế tìm
cách giảm giá tiền tệ của mình và như vậy làm tăng khả năng cạnh tranh quốc tế,
làm thiệt thòi các nền kinh tế khác. Khi đồng tiền của một nước mất giá thì hàng
hóa sản xuất trong nước khi bán ra ngoài sẽ rẻ hơn. Nhờ vậy sự xuất cảng hàng hóa
nước đó sẽ gia tăng, họ có thể sản xuất nhiều hơn, do đó sẽ giảm số người thất
nghiệp. Đặc điểm của một cuộc chiến tranh tiền tệ là những biện pháp trả đũa của
các nền kinh tế liên hệ, nói chung là sẽ dẫn tới sự bất ổn của nền kinh tế toàn cầu.
Theo nhà kinh tế người Hoa kỳ,Joseph Stiglitz, nó dẫn tới nguy cơ, là cuối cùng các
nền kinh tế liên hệ sẽ hoạt động kém hơn trước.
1.2. Lý do để giảm giá tiền tệ:

Giảm giá tiền tệ, từ trước tới giờ, không bao giờ là một chiến thuật của chính
phủ mà được dân chúng ưa chuộng. Vì nó làm giảm đi mức sống của người dân
cũng như khả năng mua sắm khi họ mua hàng hóa nhập cảng hay khi đi ra nước
ngoài. Nó cũng có thể đưa tới lạm phát. Giảm giá tiền tệ có thể làm cho việc trả lãi
những món nợ quốc tế trở nên đắt hơn, nếu phải trả bằng tiền ngoại tệ. Cho tới bây
giờ, một tiền tệ mạnh được xem là một dấu hiệu uy tín, trong khi giảm giá tiền tệ
được liên hệ tới một chính phủ yếu kém.
Tuy nhiên, khi một nước có nạn thất nghiệp cao hay muốn theo đuổi chính
sách tăng trưởng xuất khẩu, tỷ giá hối đoái thấp hơn là một lợi điểm. Từ đầu thập
niên 1980 Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã đề xuất giảm giá tiền tệ như là một trong
những giải đáp cho các quốc gia đang pháp triển mà tiếp tục nhập cảng nhiều hơn là
họ có thể xuất cảng. Khi đồng tiền nội địa giảm giá, giá cả hàng nhập khẩu sẽ đắt
hơn và làm cho hàng xuất khẩu sẽ rẻ hơn. Giảm giá tiền cũng là một giải pháp thích

hợp cho nạn thất nghiệp khi những biện pháp khác như gia tăng việc tiêu sài công
cộng không thể thực hiện được vì nợ công đã cao, hay khi một nước có cán cân
thanh toán thâm hụt. Một lý do mà các nước đang phát triển hay giảm giá tiền tệ vì

2


duy trì một tỷ giá hối đoái thấp giúp đỡ tích trữ tiền ngoại tệ, mà có thể bảo vệ trước
những cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai.
Tuy nhiên khi các nước ban giao thương mại phản ứng bằng cách cũng giảm
giá trị đồng tiền của mình, thì việc giảm giá sẽ không còn có hiệu quả nữa. Trên
nguyên tắc khi đó không nước nào có hậu quả tốt hay xấu đi. Tuy nhiên một chiến
tranh tiền tệ như vậy sẽ làm các doanh nghiệp, và các nhà đầu tư hoang mang, mất
niềm tin, làm hại cho việc thương mại quốc tế, làm nản chí các nhà đầu tư. Hậu quả
gián tiếp của cuộc chiến tranh tiền tệ này gây ảnh hưởng không tốt cho tất cả các
nước liên hệ.
1.3. Cách thức gây ra cuộc chiến tranh tiền tệ:

Cách thức thực hiện:
- Áp dụng chính sách nới lỏng định lượng (QE – Quantitative Easing)
- Can thiệp thị trường ngoại hối
- Kiểm soát các dòng vốn
1.3.1.
Chính sách nới lỏng định lượng
Nới lỏng định lượng (Quantitative Easing) là tiến hành in thêm tiền nhằm mua
trái phiếu Chính phủ hoặc chứng khoán, góp phần bơm thêm tiền cho nền kinh tế
với mục đích tăng lượng lưu thông tiền tệ (tăng thanh khoản), kích thích đầu tư và
chi tiêu, đối phó với khủng hoảng; cân đối ngân sách; giải quyết tạm thời vấn đề nợ
công.
Thông thường, khi nền kinh tế tăng trưởng chậm chạp, thậm chí lâm vào thời

kỳ suy thoái trong một thời gian dài, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) sẽ giảm lãi
suất ngắn hạn để đẩy mạnh cho vay và chi tiêu. Tuy nhiên, khi FED đã cắt giảm lãi
suất xuống mức thấp nhất ở mức gần 0% và không thể đi xa hơn được nữa, NHTW
sẽ sử dụng các gói QE.
Cụ thể, FED có thể mua vào các tài sản dài hạn như trái phiếu chính phủ hoặc
các chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS) từ các ngân hàng thương
mại và các định chế tài chính khác. Lượng tiền này được bơm vào nền kinh tế sẽ
khiến lãi suất dài hạn giảm xuống, khuyến khích cho vay và chi tiêu.
1.3.2.

Can thiệp vào thị trường ngoại hối

3


- Thị trường ngoại hối (Forex, FX, hoặc thị trường tiền tệ) là một thị trường
phi tập trung toàn cầu cho việc trao đổi các loại tiền tệ. Những người tham gia chính
trong thị trường này là các ngân hàng quốc tế lớn. Các trung tâm tài chính khắp thế
giới giữ chức năng như các neo của trao đổi giữa một loạt các loại người mua và
người bán khác nhau suốt ngày đêm, ngoại trừ những ngày cuối tuần. EBS và
Reuters' dealing 3000 là hai nền tảng trao đổi FX liên ngân hàng chính. Thị trường
ngoại hối xác định giá trị tương đối của các tiền tệ khác nhau.
- Biện pháp điều chỉnh tỉ giá hối đoái


Chính sách chiết khấu
Đây là chính sách mà ngân hàng Trung Ương bằng cách thay đổi lãi suất cho

vay chiết khấu của mình để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường.
Khi muốn cho tỷ giá hối đoái giảm xuống, ngân hàng Trung Ương nâng cao

lãi suất chiết khấu, làm cho lãi suất trên thị trường tăng lên, kết quả là làm cho các
nguồn vốn ngắn han trên thị trường quốc tế chạy vào trong nước để thu lợi tức cao.
Lượng vốn nước ngoài chạy vào sẽ góp phần làm dịu sự căng thẳng của cầu vượt
cung ngoại hối, do đó làm cho tỷ giá giảm xuống.
Còn khi ngân hàng Trung Ương muốn cho tỉ giá tăng lên thì sẽ làm ngược lại
bằng cách giảm lãi suất chiết khấu xuống.


Chính sách hối đoái
Đây là chính sách mà Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại

hối bằng cách mua bán ngoại hối trên thị trường.Cụ thể:
Khi tỷ giá lên cao, ngân hàng Trung Ương tăng cường bán ngoại hối ra thị
trường làm cung ngoại hối trên thị trường tăng lên do đó làm giảm bớt căng thẳng
về cung cầu ngoại hối trên thị trường và kéo tỷ giá tụt xuống.
Khi tỉ giá giảm xuống , ngân hàng Trung Ương sẽ mua vào ngoại hối, tăng nhu
cầu ngoại hối trên thị trường và làm giảm bớt căng thẳng trong quan hệ cung cầu
ngoại hối trên thị trường dẫn tới tỉ giá hối đoái từ từ tăng lên.

4


Một hình thức khác của chính sách hối đoái đó là việc thành lập quỹ bình ổn
hối đoái. Nhà nước sẽ thành lập quỹ này dưới hình thức bằng ngoại tệ, vàng hoặc
phát hành các loại trái phiếu ngắn hạn, chủ động mua vào bán ra ngoại tệ để kịp thời
can thiệp làm thay đổi quan hệ cung cầu về ngoại hối trên thị trường, nhằm mục
đích điều chỉnh tỉ giá.
Song để thực hiện tốt biện pháp này thì vấn đề quan trọng ở đây là Ngân hàng
trung ương phải có dự trữ ngoại hối lớn, nếu cán cân thanh toán của một nước bị
thiếu hụt thường xuyên thì khó có đủ số ngoại hối để thực hiện phương pháp này.



Phá giá tiền tệ
Đây là sự nâng cao một cách chính thức tỷ giá hối đoái hay nói khác đi đó là

việc nhà nước chính thức hạ thấp sức mua đồng tiền nước mình so với ngoại tệ. Ví
dụ tháng 12 năm 1971, chính phủ Mỹ chính thức phá giá đồng tiền đô la với mức
7,89%, tức là giá của 1 GBP tăng từ 2,40 USD( trước khi phá giá ) lên 2,605 USD,
hay sức mua của một đô la giảm từ 0,416 GBP xuống 0,383 GBP.
Phá giá tiền tệ có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và hạn chế nhập
khẩu hàng hoá, do vậy nó đã góp phần cải thiện cán cân thương mại, làm cho tỷ giá
hối đoái bớt căng thẳng.


Nâng giá tiền tệ
Đây là việc nhà nước chính thức nâng giá đơn vị tiền tệ nước mình so với

ngoại tệ, làm cho tỉ giá hối đoái giảm xuống. Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đối
với ngoại thương của một nước hoàn toàn ngược lại với phá giá tiền tệ, nghĩa là, nó
có tác dụng hạn chế xuất khẩu và đẩy mạnh nhập khẩu do đó nó góp phần duy trì sự
ổn định của tỉ giá đảm bảo tỉ giá không tụt xuống.
Trong cuộc chiến tranh thương mại nhằm chiếm lĩnh thị trường bên ngoài,
những quốc gia có nền kinh tế phát triển quá "nóng" muốn làm "lạnh" nền kinh tế đi
thì có thể dùng biện pháp nâng giá tiền tệ để giảm đầu tư vào trong nước và tăng
cường chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài.
1.3.3.

Kiểm soát các dòng vốn
5



- Kiểm soát vốn là thực hiện các biện pháp can thiệp của chính phủ dưới nhiều
hình thức khác nhau, để tác động (hạn chế) lên dòng vốn nước ngoài chảy vào và
chảy ra khỏi một quốc gia để nhằm đạt mục tiêu nhất định của chính phủ.
- Dòng vốn là các giao dịch quốc tế mau bán tài sản thực và tài sản tài chính.
Ngoài ra còn có các loại giao dịch tài khoản vốn khác như tài chính – thương mại,
giao dịch trên các tài khoản ngân hang, các nguồn vồn viện trợ chính thức và không
chính thức… các dòng lưu chuyển vốn này được ghi nhận trong tài khoản vốn của
cán cân thanh toán.
Để đối phó với những rủi ro kinh tế vĩ mô từ các dòng vốn vào, nhiều nền kinh
tế mới nổi đã cho phép tỷ giá hối đoái dao động tới mức phù hợp; tăng dự trữ tới
mức phù hợp với hệ thống bảo hiểm quốc gia, và đảm bảo rằng việc kết hợp các
chính sách trong nước (các chính sách tài khóa và tiền tệ) phù hợp với sự cân bằng
bên trong và với một phương án vững chắc cho nợ công.
1.4. Hậu quả của cuộc chiến tranh tiền tệ

Đồng nội tệ yếu dường như là hy vọng cuối cùng cho các quốc gia để cứu vãn
tăng trưởng kinh tế khi mà dư địa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa không và
hưởng lợi từ việc xuất khẩu ... đó là những gì mà các nhà lập chính sách hay các nhà
kinh tế hay dùng để miêu tả về nó. Nhưng liệu mục đích thực sự của nó có phải như
vậy hay không?
1.4.1.

Về mặt thương mại - Cuộc chiến giữa các quốc gia là đối tác thương

mại của nhau:
Một phần tốt của “ chiến tranh tiền tệ” là tạo thêm việc làm, nhưng những
người hưởng lợi nhất từ nó lại chính là giới tư bản tài chính, ngân hàng và công
nghiệp và tất nhiên là giới chính khách đứng đằng sau hỗ trợ cho việc nới lỏng tiền
tệ (mối quan hệ giữa tiền và quyền mà Stiglitz đã phê phán). Nợ xấu được mua, lợi

nhuận tăng, giá cổ phiếu tăng là những điều mà giới tư bản được hưởng. Sự gia tăng
khoảng cách giàu nghèo hay gọi theo cách khác là bất bình đẳng thu nhập sẽ tăng. .
Vấn đề ở chỗ, khi một nước thực hiện các biện pháp làm giảm giá đồng nội tệ của

6


mình, sẽ kéo theo những biện pháp trả đũa từ các nước còn lại. Và hậu quả có thể là
rất nghiêm trọng với kinh tế thế giới.
Giai đoạn 1930s, Anh là nước đầu tiên rời bỏ chế độ bản vị vàng và phá giá
tiền tệ và do đó là nước phục hồi kinh tế sớm nhất. Song, lợi thế của nước này là bất
lợi của nước khác. Pháp, Đức - những nước rời bỏ bản vị vàng khá muộn - đã phải
trải qua một giai đoạn suy thoái kinh tế kéo dài với những bất lợi về thương mại gây
ra bởi các nước phá giá tiền tệ trước đó.Tổng kết của ngân hàng D&B (2011) về
chiến tranh tiền tệ năm 1930 đã cho thấy, việc một số nước phá giá tiền tệ đã khiến
các nước đối tác thương mại của họ chìm sâu hơn vào suy thoái kinh tế, cản trở
thương mại và tiếp tục thúc đẩy các nước phá giá tiền tệ hơn nữa, dẫn đến kinh tế
toàn cầu thu hẹp, đầu tư và thương mại toàn cầu sụt giảm tương tự như hậu quả của
chiến tranh thế giới lần thứ 2. Trong cuộc chiến tiền tệ lần này, đồng USD, yên Nhật
và bảng Anh đang là những đồng tiền giảm giá mạnh hơn so với các đồng tiền khác
sau những gói in tiền khổng lồ của NHTW các nước này. Hậu quả là đã có những
đồng tiền khác tăng giá mạnh, đáng kể nhất là Euro, Won Hàn Quốc và Real Brazil,
tác động tiêu cực lên xuất khẩu của các quốc gia này.
1.4.2.

Về mặt kinh tế, lạm phát - Nguy cơ gây lạm phát , suy thoái kinh tế,

thách thức an ninh quốc gia:
Tuy nhiên, trong dài hạn, các lý thuyết kinh tế đã cho thấy giảm giá tiền tệ
không phải lúc nào cũng hiệu quả đối với tăng trưởng kinh tế. Theo điều kiện

Marshall- Lerner, phá giá nội tệ chỉ có thể có tác dụng cải thiện cán cân thương mại
nếu tổng hệ số co giãn của xuất khẩu với giá cả và nhập khẩu với giá cả lớn hơn 1.
Theo tạp chí World Street Journal, nhiều nghiên cứu cho thấy điều kiện này không
được thỏa mãn tại phần lớn các quốc gia, kể cả trong quá khứ cũng như hiện tại.
Nghiên cứu của D&B (2011) cũng phân tích những rủi ro gây ra bởi cuộc
"chiến tranh tiền tệ" hiện nay.Đó là sự bất ổn về giá tài sản (chủ yếu trên thị trường
tiền tệ), sự gia tăng của các biện pháp bảo hộ thương mại nhằm bảo vệ tính cạnh
tranh của hàng hóa xuất khẩu mỗi quốc gia, dẫn đến những tranh chấp liên quan đến
chống bán phá giá hàng hóa.Những rủi ro này sẽ tác động tiêu cực lên thương mại
và đầu tư quốc tế.Diễn biến này thực tế đã xảy ra từ sau cuộc khủng hoảng tài chính
7


toàn cầu 2008 - 2009 đến nay và có thể sẽ còn tiếp tục trầm trọng hơn nữa.Sự bất ổn
về tiền tệ đã diễn ra tại nhiều nước trong giai đoạn vừa qua, nhất là tại các nước
xuất khẩu hàng hóa cơ bản và những nước đang chuyển đổi.
Ðã từng xảy ra hai lần trong thế kỷ trước, lần nào các cuộc chiến tranh tiền tệ
cũng kết thúc trong tồi tệ. Bao giờ cũng thế, đồng tiền mất giá, tài sản đóng băng,
vàng bị tịch thu, lạm phát tăng cao, xuất hiện các bong bóng cổ phiếu, đất đai….
còn các chính phủ thì buộc phải áp đặt các biện pháp kiểm soát mạnh tay.Với mức
độ tệ hại nhất thì chúng thoái hóa thành các cơn lạm phát, suy thoái kinh tế, những
hành động trả đũa và bạo lực thực sự bởi vì tranh giành nguồn tài nguyên sẽ dẫn
đến chiến tranh và xâm lược. Các tiền lệ đã được người ta nhận thức đầy đủ, nhưng
các mối nguy hiện nay thậm chí còn lớn hơn, tăng theo hàm lũy thừa bởi quy mô và
sự phức tạp của các mối liên kết tài chính trên toàn thế giới.
Trong số các nguy cơ mới, có các mối đe dọa không chỉ đối với sự thịnh
vượng của nền kinh tế mà còn thách thức đến an ninh quốc gia của chúng ta. Khi
các chuyên gia an ninh nghiên cứu các vấn đề tiền tệ, họ liên tục chú tâm đến các
mối đe dọa mới, từ việc mua vàng bí mật của Trung Quốc đến chương trình làm
việc của những quy đầu tư quốc gia. Lớn hơn bất kỳ mối đe dọa đơn lẻ nào khác

chính là sự nguy hiểm khi bản thân đồng đôla sụp đổ. Các quan chức quân sự và
tình báo cấp cao hiện đã nhận ra rằng ưu thế quân sự độc nhất của Hoa Kỳ chỉ có
thể được duy trì khi đồng đôla giữ được vị thế thượng phong độc nhất. Nếu đồng
đôla sụp đổ, nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ cũng sụp đổ theo.

Chương 2.

Lịch sử các cuộc chiến tranh tiền tệ

2.1. Chiến tranh tiền tệ giai đoạn 1921 – 1936

Chiến tranh tiền tệ lần thứ nhất nổ ra một cách rất đặc biệt vào năm 1921 ngay sau
tiếng súng của Thế chiến thứ I (1914 – 1918), và kéo dài mà không có kết thúc trọn
vẹn cho đến tận năm 1936. Cuộc chiến này được chia thành nhiều giai đoạn và trải
dài suốt cả 5 châu lục và thậm chí còn gây ảnh hương lớn đến thế kỉ XXI hiện nay.
NƯỚC ĐỨC
Thực trạng nền kinh tế:
8


Tháng 11/1918, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất tạm thời kết thúc bằng việc
ký một Hiệp định đình chiến giữa Hoàng đế Đức với các nước Đồng minh, nhưng
chưa chính thức. Một năm sau, Hội nghị Hòa bình tổ chức tại Paris đã cho ra đời
Hiệp ước Versailles - một thỏa thuận chính thức chấm dứt chiến tranh, đồng thời
cũng là thỏa thuận quốc tế đầu tiên ràng buộc nước Đức phải bồi thường chiến
tranh. Theo các thỏa thuận trong Hiệp ước Versailles, nước Đức bị tước hết quyền
lợi tại các thuộc địa, đồng thời bị cắt luôn vùng Alsace-Lorraine (ngày nay thuộc
Pháp), bị hạn chế tối đa các hoạt động quân sự và phải bồi thường thiệt hại cho
những vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhất. Chính vì những khó khăn như thế
nên Ủy ban Bồi thường Quốc tế đã phải làm việc tích cực trong 2 năm để đánh giá

các thiệt hại, đồng thời xét đến tương quan thực lực kinh tế nước Đức, sao cho mức
giá bồi thường phải nằm trong tầm "vừa túi tiền" của nước Đức. Cuối cùng Ủy ban
Bồi thường đưa ra mức giá bồi thường là 266 đồng Mark vàng (tiền của đế quốc
Đức thời đó), tương đương 63 tỉ USD lúc đó, khoảng 768 tỉ USD ngày nay. Con số
này sau đó đã được hạ xuống còn 33 tỉ USD, khoảng 402 tỉ USD ngày nay. Nhưng
đối với nước Đức thời đó, con số đó cũng đã là quá lớn. Kinh tế gia Anh John
Maynard Keynes, người đã tham gia Ủy ban Bồi thường có mặt tại Hội nghị Paris
đã phản ứng dữ dội, bỏ ra khỏi phòng họp và viết một bài báo nhan đề "Những hậu
quả kinh tế của Hòa bình", trong đó ông lập luận việc áp giá bồi thường như thế sẽ
khiến cho kinh tế nước Đức sụp đổ. Quan điểm chung của giới kinh tế thời đó, kể cả
sau này, đều ủng hộ ông Keynes, nhưng họ cũng cho rằng mức bồi thường đó không
phải không thể chi trả. Thế rồi đến ngày chi trả khoản bồi thường đầu tiên trị giá
500 triệu USD vào năm 1921 cũng là lúc cuộc chiến tranh tiền tệ bắt đầu.
Diễn biến:


Năm 1919, giá cả gần như đã tăng gấp đôi và nước Đức thất trận. Khoản tiền
bồi thường sau chiến tranh được quy định trong Hiệp ước Versailles buộc Đức
phải trả bằng vàng hay ngoại tệ tương ứng thay vì đồng mác. Để mua số ngoại
tệ này, chính phủ Đức đã phải sử dụng đồng papiermark được đảm bảo bằng nợ

chính phủ và vì vậy đã làm tăng tốc độ phá giá đồng tiền.
• Năm 1921, Nước Đức hành động đầu tiên với một đợt siêu lạm phát (lạm phát
phi mã) lúc đầu nhằm làm tăng năng lực cạnh tranh, sau đó kéo dài và phá hủy
hoàn toàn một nền kinh tế bởi các khoản bồi thường chiến phí đè nặng.
9


Chiến tranh tiền tệ bắt đầu năm 1921 khi Ngân hàng trung ương Đức bắt đầu
hủy hoại giá trị đồng Mark Đức bằng việc ồ ạt in tiền, dẫn đến lạm phát phi

mã. Lạm phát chủ yếu xảy ra khi NHTW Đức mua trái phiếu chính phủ Đức
để cung cấp tiền cho chính phủ nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách và bù đắp chi
tiêu, gia tăng sản xuất. Đây là đợt phá giá tiền tệ với quy mô lớn nhất và ảnh
hưởng nặng nề nhất ở một nền kinh tế phát triển. Nước Đức đã chủ tâm phá
giá đồng tiền của họ để thoát khỏi gánh nặng chiến phí phải trả cho Anh và
Pháp sau hiệp ước Versailles. Bằng việc phá giá đồng nội tệ, NHTW Đức nhận
ra cơ hội gia tăng xuất khẩu và khuyến khích được du lịch và đầu tư vào Đức.
Từ đó, Đức có thể thu ngoại tệ cần thiết để trả các khoản bồi thường chiến phí
mà không cần giảm trực tiếp những khoản bồi thường này.
Khi lạm phát bắt đầu tăng vào cuối năm 1921, nước Đức không nhận ra được
nguy cơ trước mắt: đồng tiền của họ đang sụp đổ. Và dường như có nhiều công
ty, khoản nợ bốc hơi do số tiền nợ chẳng còn giá trị, họ dường như xóa nợ và
giàu lên. Khi đồng nội tệ mất giá, động thái thị trường thường là tháo chạy
dòng vốn. Nhiều nhà tư sản tin rằng thiệt hại do đồng tiền mất giá sẽ được bù
lại bằng những khoản lời trên thị trường chứng khoán. Nhưng rồi tất cả sẽ trở
nên vô giá trị mà thôi. Những người lĩnh lương hưu không đủ điều kiện tăng
lương và những người dân gửi tiết kiệm ngân hàng chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất. Cụ thể, họ có thể phải bán đi tài sản của mình để mua thức ăn để sống, rồi
tự tử bằng gas, tội phạm gia tăng…
Năm 1922, lạm phát đã trở thành siêu lạm phát, NHTW Đức điên cuồng in
thêm tiền. Nhu cầu về tiền giấy lúc ấy lớn đến mức NHTW phải thuê thật nhiều
nhà in tư nhân và sử dụng nhiều đơn vị hậu cần để tìm đủ giấy mực cho việc in
tiền liên tục. Đến năm 1923, tiền giấy Đức chỉ in trên một mặt để tiêt kiệm
mực in. Nước Đức rơi vào lạm phát trầm trọng nhất vào hồi tháng 10/1923 khi
tỷ lệ lạm phát lê tới 29.500%. Tại thời điểm 12/1923, người ta phải bỏ ra 4.200
tỷ mác (papiermark) để đổi lấy 1 USD.
Khi tình hình hỗn loạn kinh tế đến đỉnh điểm, nước Đức không còn khả năng
trả được các khoản nợ, Pháp và Bỉ kéo quân tràn vào khu vực công nghiệp tại
10



thung lũng Ruhr năm 1923 để đảm bảo duy trì những lợi ích của các khoản đòi
bồi thương chiến phí của họ. Và họ đã thu lại được một khoản chiến phí bằng
hiện vật, cụ thể là than đá và các hàng hóa chế tạo của Đức.
Tháng 11/ 1923, để chống lại lạm phát phi mã Đức đã ban hành đồng tiền mới
mang tên Rentenmark, lúc đầu đồng tiền này được lưu hành song song với
đồng Mark cũ. Rất nhanh sau khi Rentenmark được tung ra, đồng Mark cũ
hoàn toàn sụp đổ. Sau đó, phương án tạm thời này được thay bằng đồng Mark
Đức mới, được đảm bảo trực tiếp bằng vàng. Năm 1924, đồng Mark cũ được
“quét sạch”
Giai đoạn sau cuộc lạm phát, 1924-1929, sản xuất công nghiệp Đức tăng
trưởng mạnh và nhanh hơn cả Hoa Kỳ. Nước Đức đã xóa bỏ được Bản vị vàng
trong thời bình. Vì vậy nhiều người nói rằng điều nước Đức làm đã minh
chứng cho việc siêu lạm phát có thể được sử dụng như một đồn bẩy chính sách
tuy nhiên chi phí cho nó thì không hề nhỏ kể cả về vật chất lẫn tinh thần.
NƯỚC PHÁP
Thực trạng nền kinh tế
Sau thế chiến thứ 1, Pháp là một trong các nước nhận được khoản bồi thường
chiến tranh từ phía Đức. Vào những năm của thập niên 1920, nền kinh tế Pháp và
Đức cũng phát triển mạnh.
Diễn biến
• Năm 1923, cả Pháp và Đức đều đối mặt với vấn đề lạm phát thời kì chiến tranh


và phá giá đồng tiền của họ.
Năm 1925, Pháp tiếp tục việc phá giá đồng Franc trước khi quay lại chế độ
Bản vị vàng nhằm giành được lợi thế xuất khẩu so với Anh và Mỹ. Khi đồng
Franc sụp đổ, người Mỹ có thể sống hết sức thoải mái tại Paris khi đó bằng

việc đem đồng đô la đổi lấy đồng Franc đang mất giá hằng ngày.

• Đến năm 1927, Pháp dần gia tăng khối lượng dự trữ vàng và ngoại tệ. Thời
gian đó, Anh bị chảy máu vàng nghiêm trọng. Thống đốc ngân hàng trung
ương Anh lúc đó không chịu tăng lãi suất, một phần vì ông ta lo ngại những
phản đối về mặt chính trị, một phần nữa ông ta cho rằng luồng vàng chảy vào
Pháp là do đồng Franc bị phá giá. Về phần mình, người Pháp cũng từ chối việc
định giá lại đồng Franc, chỉ đề xuất rằng họ sẽ làm điều đó trong tương lai, tất

11


cả những điều này làm gia tăng bất ổn và khuyến khích sự đầu cơ vào cả đồng
Bảng Anh và đồng Franc Pháp
• Năm 1936, Pháp từ bỏ chế độ Bản vị vàng
NƯỚC MỸ:
Tình trạng nền kinh tế: Thập niên 1920 là thời gian thịnh vượng tại Hoa Kỳ
Diễn biến


28/10/1929, ngày thứ 2 đen tối khi chỉ số Dowjones giảm 12,8% chỉ trong
vòng 1 ngày. Tuy nhiên Đức đã chìm trong suy thoái từ một năm trước đó, còn
Anh chưa bao giờ hồi phục từ đợt suy thoái 1920-1921. Ngày này đánh dấu sự
nổ tung của bong bong tài sản tại nước Mỹ hùng mạnh, trong một thế giới đang

vật lộn với giảm phát và suy thoái.
• Năm 1931, Anh từ bỏ Bản vị vàng( 21/09/1931) do lượng vàng chảy ra quá
nhiều và trước nguy cơ các ngân hàng lớn ở London sụp đổ, giành lại lợi thế đã
mất vào tay Pháp năm1925. Cùng năm đó, Đức được đẩy mạnh nhờ vào Tổng
thống Mỹ tuyên bố hoãn trả nợ bồi thường chiến phí và đến năm 1932 xóa nợ
theo kết quả của Hội nghị Lausanne.
• Năm 1932, năm tồi tệ nhất trong cuộc Đại suy thoái tại Mỹ. Tỷ lệ thất nghiệp

lên đến mức 20%, đầu tư, sản xuất và giá cả đều đổ nhào tại mức 2 con số so
với thời kì đầu suy thoái.
• Ngày 06/03/1933, sau 2 ngày tổng thống Roosevelt nhậm chức, ông tuyên bố
đợt tạm đóng cửa ngân hàng, sau này đợt này kéo dài vô thời hạn nhằm xây
dựng lòng tin ở người dân. Tiếp theo, luật Khẩn cấp về Ngân hàng được ban
hành 09/03/1933 nhằm giải quyết vấn đề ồ ạt rút tiền tại các ngân hàng. Giải
quyết xong vấn đề này, ông phải đối mặt với việc giảm phát nhập khẩu vào
khắp nơi trên thế giới thông qua còn đường tỷ giá. Và chiến tranh tiền tệ lần
thứ nhất tràn vào ngưỡng cửa Nhà Trắng. Và ông chọn con đường phá giá đô la
so với đồng tiền cuối cùng, đó là vàng, tức là cần nâng giá vàng (tính theo đô
la). Kỳ vọng vàng tăng giá khiến nhiều người đầu cơ, tích trữ, vì vậy Roosevelt
đã ban hành sắc lệnh hành chính 6102 ngày 05/04/1933. Sau đó là sắc lệnh
hành chính 6111 ngày 20/04/1933, cấm việc xuất khẩu hoàn toàn vàng từ Hoa
Kỳ trừ khi có chấp thuận của Bộ trưởng Ngân khố. Sắc lệnh số 6261 ngày
12


29/08/1933 đã quốc hữu hóa các mỏ vàng của nước Mỹ. Kết quả là lượng dự
trữ vàng của chính phủ tăng lên.
• Năm 1933, sự lên ngôi của Hitler, nước Đức đi theo con đường riêng, rút khỏi
hệ thống thương mại thế giới trở thành một nền kinh tế độc lập. Sau đó là động
thái phá giá tiền tệ so với vàng của Mỹ , giành lại lợi thế cạnh tranh về chi phí
xuất khẩu đã mất vào tay Anh năm 1931.
• Năm 1936, Pháp từ bỏ chế độ Bản vị vàng và trở thành nước lớn cuối cùng
thoát khỏi những ảnh hưởng nặng nề của Đại suy thoái, trong khi Anh phá giá
nội tệ một lần nữa để giành lại lợi thế đã mất về tay Mỹ sau tuyên bố phá giá
Đô la của tổng thống F.D. Roosevelt năm 1933
• Năm 1936, Hiêp ước Tay Ba được ký giữa Anh, Mỹ và Pháp, có hiệu lực giữa
các bên và nhân danh các nước tham gia Bản vị vàng, nhằm hỗ trợ các điều
kiện bảo vệ hòa bình và đóng góp tốt nhất cho công cuộc phục hồi trật tự trong

các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đây là một cam kết không trả đũa từ Mỹ một tín hiệu cho thấy chiến tranh tiền tệ đi đến hồi kết.
Hậu quả của cuộc chiến tranh tiền tệ lần thứ nhất:
Hệ quả của cuộc chiến tranh tiền tệ lần 1 là vô cùng thảm khốc vì nó kéo theo
cuộc thế chiến thứ hai. Ngay cả khi hiệp ước Tripartite Agreement 1936 được ký kết
vào năm 1936 để chấm dứt cuộc chiến tranh tiền tệ thì vẫn là quá muộn. Sự tàn phá
kinh tế bởi Hiệp ước versaill và siêu lạm phát Weimar đã khiến chủ nghĩa phát xít
bao trùm nước Đức. Từ đó, khởi mào cho thế chiến thứ II, cuộc chiến thật sự đẫm
máu nhất trong lịch sử.

2.2. Chiến tranh tiền tệ giai đoạn 1967 – 1987

Tình hình nền kinh tế:
Kỷ nguyên Bretton Woods (từ năm 1944 – 1973) là giai đoạn ổn định về mặt
tiền tệ, lạm phát thấp, tỷ lệ thất nghiệp thấp, tăng trưởng kinh tế cao và thu nhập
thực gia tăng. Mặc cho sự tồn tại bền vững của hệ thống này cho đến những năm 70
của thế kỉ XX, mầm mống của Chiến tranh tiền tệ lần II đã được gieo vào khoảng
giữa cuối thập niên 60.
Diễn biến
13


Có thể nói khởi điểm của cuộc chiến tranh tiền tệ này là từ năm 1967, trong
khi điểm báo của nó xuất phát từ việc thắng cử vang dội của Lyndon B. Johnson và
lời tuyên bố “súng và bơ” của ông ta. Súng tượng trưng cho cuộc chiến tranh ở Việt
Nam và bơ tượng trưng cho các chương trình xã hội Great Society bao gồm chiến
tranh chống đói nghèo.
Mỹ đã duy trì một lực lượng quân sự ở Việt Nam từ năm 1950 nhưng việc
triển khai quân đội chiến đấu trên diện rộng đầu tiên diễn ra vào năm 1965, làm leo
thang chi phí chiến tranh. Tháng 1 năm 1965, đánh dấu sự khởi động của chương
trình Great Society trên phạm vi toàn diện. Chính điều này đã cho thấy tổn thất về

chi phí chỉ sau vài năm. Nguồn tích trữ sức mạnh nội địa và thiện chí chính trị trên
bình diện quốc tế bắt đầu dần kiệt quệ
Chính sách giảm thuế thời Kennedy đã mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế.
GDP tăng 5% trong năm đầu tiên thực hiện chính sách, tăng trưởng đạt trung bình
trên 4,8%/năm. Nhưng lạm phát đã tăng nhanh khi mà cả ngân sách và thương mại
cùng bị thâm hụt, bắt nguồn từ các chính sách của Johnson. Lạm phát đã tăng gấp
đôi từ 1,9% đến 3,5% năm 1966. Lúc đó, họ đã ví von cuộc lạm phát này như con
ngựa bất kham. Cho đến năm 1986, lạm phát mới trở lại ở mức chỉ hơn 1%. Trong
vòng 5 năm từ 1977 đến 1981, lạm phát lũy tiến lên mức hơn 50%, khiến giá trị
đồng đô la giảm một nửa.
Cuộc khủng hoảng Bảng Anh âm ỉ từ năm 1964 đã sôi sục vào năm 1967 bằng
việc phá giá đồng bảng Anh đầu tiên kể từ hội nghị Bretton Woods. Sự bất ổn của
đồng tiền này kèm việc vào khoảng giữa những năm 60, lượng bảng Anh nằm ngoài
nước Anh được báo cáo là nhiều gấp 4 lần lượng dự trữ trong nước khiến nước Anh
có thể gặp nguy cơ đổ xô rút tiền tại các ngân hàng nếu những người nắm giữ đồng
bảng cố đổi đồng bảng để lấy đồng đô la hoặc vàng một cách ồ ạt.
Ba cuộc khủng hoảng nhỏ nữa của đồng Bảng Anh đã xảy ra vào giữa những
năm 1964 và 1966 nhưng sau cùng đã được giải quyết. Cuộc khủng hoảng thứ tư
xảy ra vào giữa năm 1967 đã chính thức thông báo cái chết của đồng tiền này. Lạm
phát tăng cao tại Anh cũng như Hoa Kỳ. Đồng Bảng Anh chính thức bị phá giá so
với đồng đô la Mỹ vào ngày 18/11/1967 từ 2,8$ còn 2,4$ tức là phá giá 14,3%
14


Sau đó, Hoa Kỳ cũng đã trải nghiệm cùng một vấn đề bao gồm thâm hụt
thương mại và lạm phát, điều đã đánh gục đồng Bảng Anh. Tuy nhiên, giá trị của
đồng đô la lại gắn với giá trị của vàng, nghĩa là phá giá đồng đô la, giá vàng sẽ đi
lên.
Sự công kích của công chúng đối với việc một đồng đô la thống trị neo với
vàng của hệ thống Bretton Woods đã bắt đầu thậm chí trước cả sự kiện phá giá đồng

Bảng Anh năm 1967. Tháng 2/1965, Tổng thống Pháp tuyên bố rằng đồng đô la
được thu xếp trở thành đồng tiền đứng đầu trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Ông kêu
gọi sự trở lại của hệ thống Bản vị vàng cổ điển. Tháng 01/1965, Pháp và sau đó là
Tây Ban Nha đã chuyển đổi đô la dự trữ sang vàng. Động thái này đã làm kiệt quệ
dự trữ vàng của Mỹ.
Vào cuối những năm 60, gặp phải sự phản đối mạnh mẽ với hệ thống Bản vị
vàng thuần túy, nó đòi hỏi phải phá giá đồng đô la và những đồng tiền khác so với
vàng. Các yêu cầu đổi lấy vàng từ những người đang giữ đô la trở thành một cơn
dịch bệnh. Tháng 3/1968, lượng vàng chảy ra khỏi kho dự trữ đạt đến mức 30 tấn 1
giờ. Và một lần nữa động thái tạm dừng hoạt động lại xảy xa như kỳ nghỉ của ngân
hàng Mỹ năm 1933. Lần này là thị trường vàng London tạm thời đóng cửa ngày
15/03/1968 và tiếp tục đóng cửa trong vòng 2 tuần. Đến cuối tháng 3/1968, London
Golden Pool (Kho dự trữ vàng London) sụp đổ. Sau đó hệ thống 2 lớp được gọi là
cửa sổ vàng ra đời: mức giá thị trường được quyết định tại London và mức giá
thanh toán quốc tế. Chính hệ thống này tạo áp lực đầu cơ hướng tới thị trường mở.
Tất cả đã tạo nên sự bình ổn của hệ thống tiền tệ quốc tế cuối năm 1968 và 1969.
Không lâu sau đó, Time đã ám chỉ giá vàng thấp một cách giả tạo. Người ta nhận ra
rằng vấn đề ở đây là sự thừa mứa của tiền giấy trong mối tương quan với vàng và
biểu hiện cụ thể là sự lạm phát đang tăng lên tại Hoa Kỳ và Anh, Pháp. Vì vấn đề
nói trên mà IMF đã đề ra “Quyền rút vốn đặc quyền” (SDR) và được mọi người
xem như là “vàng giấy”.
Từ năm 1967 đến năm 1971 là khoảng thời gian của sự hỗn loạn và bất ổn
trong các vấn đề tiền tệ quốc tế. Hàng loại đợt phá giá, định giá lại, lạm phát,
SDR, sự sụp đổ của London Golden Pool, hoán đổi tiền tệ, các khoản cho vay của
IMF, hệ thống 2 lớp… 15/08/1971, Tổng thống Nixon trình bày “Chính sách Kinh
15


tế mới”: kiểm soát lương và giá cả ngay lập tức, thuế suất 10% đối với nhập khẩu
và việc đóng cửa cửa sổ vàng, đồng đô la sẽ không được hoán đổi thành vàng.

Người ta còn gọi nó là Cú sốc Nixon.
Thuế suất 10% đối với tất cả hàng hóa được nhập khẩu vào Mỹ đã làm các
nước châu Âu và Nhật Bản sốc. Nixon muốn phá giá đồng đô la ngay lập tức so với
tất cả các đồng tiền chính, sau đó thả nổi để đồng đô la có thể đằm chìm trong các
cuộc phá giá tiếp theo trên thị trường ngoại hối. Cuối tháng 8 Nhật Bản đã thông
báo họ sẽ thả nổi đồng Yên so với đồng đô la. Ngay lập tức đồng Yên tăng 7% so
với đô la. Và cộng với thuế suất con số này lên tới 17%. Bộ trưởng thương mại
Canada ước ượng rằng thuế suất này sẽ làm mất 90 ngàn việc làm ở Canada trong
những năm đầu tiên. Một vài vụ phá giá đồng đô la đã diễn ra trên thị trường hối
đoái, khi nhiều quốc gia bắt đầu thả nổi đồng tiền của họ so với đồng đô la và nhiều
đồng tiền ngay lập tức tăng giá từ 3-9%
Đầu tháng 12, cuộc họp của nhóm G10 diễn ra, đề nghị mức nâng giá trung
bình của các ngoại tệ là 11% và mức phá giá của đồng đô la so với vàng là 10%. Sự
kết hợp 2 chiều này nghĩa là mức tăng hơn 20% tính theo đô la dành cho hàng xuất
khẩu của các nước vào Hoa Kỳ. Đổi lại Hoa Kỳ sẽ bỏ mức thuế suất nhập khẩu
10%. Châu Âu và Nhật Bản đều giật mình. Các nước luôn sợ bị mất lợi thế. Và cứ
như vậy việc thương lượng đã không có hồi kết.
Hiệu ứng như Cú sốc Nixon, hiệp ước Smithsonian ra đời. 10 quốc gia dẫn
đầu về kinh tế đã nhóm họp tại Washington D.C tháng 12 năm 1971 và đi đến thỏa
thuận, với tên gọi “Hiệp Ước Smithsonia” (Smithnsonian Agreement of December
1971): (1) Hoa Kỳ chấp nhận phá giá đồng Đô la lên 38 USD/ounce vàng (8,57%)
và các thành viên khác chấp nhận định lại giá đồng tiền so với Đô la Mỹ từ 7,4%
đối với Canada đến 16,9% đối với Nhật Bản; (2) Biên độ dao động được mở rộng từ
1% hiện tại lên 2,25% và có thể dao động tối đa đến mức 4,5% so với USD.Vào
quý 2 năm 1972, hệ thống tiền tệ mới đi vào hoạt động.Đồng Đô la Mỹ tiếp tục suy
yếu do cán cân thanh toán Hoa Kỳ tiếp tục thâm hụt.Chế độ chuyển đổi Đô la ra
vàng vẫn có hiệu lục nhưng ảnh hưởng rất ít trên thực tế.Trên thực tế, giá vàng trên
thị trường London vào tháng 8 năm 1972 là 70 USD/ounce. Điều này đã dẫn đến sự
lên giá mạnh trên thị trường chứng khoán khi các nhà đầu tư nhắm đến khoản lợi
16



nhuận tính theo đô la mỹ cao hơn từ thép, xe hơi, hàng không, phim ảnh và những
khu vực khác được hưởng lợi cả từ việc gia tắng xuất khẩu hoặc giảm nhập khẩu
hoặc cả hai. Phụ tá tổng thống Peter G. Peterson đã ước lượng rằng việc phá giá
đồng đô la tạo ít nhất 500.000 công việc mới trong vòng 2 năm tới. Chưa tới 2 năm
sau, Hoa Kỳ rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể từ Thế chiến thứ 2 với
GDP sụt giảm, nạn thất nghiệp tăng vọt, khủng hoảng dầu lửa, thị trường chứng
khoán sup đổ và lạm phát ở mức hỏa tiễn.
Hiệp ước Smithsonian đã bị chết yểu. Đồng bảng Anh bị phá giá lần nữa vào
23/06/1972, lần này dưới hình thức thả nổi. Đồng tiền này ngay lập tức rớt giá 6%
và 10% vào cuối năm 1972. Vào ngày 29/06/1972, Đức áp lệnh kiểm soát tiền tệ
với nỗ lực ngăn chặn việc thu mua hỗn loạn đồng Mark. Cho đến ngày 3/7 cả Franc
thụy Sỹ và đô la Canada đều được thả nổi. Việc phá giá đồng bảng Anh cuối cùng
dẫn đén việc thất bại thảm hại của đồng đô la khi các nhà đầu tư tìm kiếm sự an
toàn với đồng Mark Đức và đồng Franc Thụy Sỹ.
Cuối năm 1973, IMF tuyên bố khai tử hệ thống Bretton Woods, chính thức kết
thúc vai trò của vàng trong tài chinh quốc tế và để cho các giá trị đồng tiền biến
động so với nhau ở bất kì mức nào mà các chính phủ hoặc các thị trường mong
muốn.
Sau sự chết dần chết mòn của hệ thống Bretton, các quốc gia chủ lực ở Tây Âu
đã bắt đầu một cuộc hành trình tìm kiếm sự thống nhất tiền tệ kéo dài 30 năm, đỉnh
điểm là sự ra đời ở EU và đồng Euro, chính thức được công bố vào năm 1999. Mặc
cho những kì vọng về tăng trưởng và việc làm xuất phát từ việc phá giá đồng đô la,
nước Mỹ vẫn phải chịu thêm 3 cuộc suy thoái kinh tế từ năm 1973 đến năm 1981.

17


Nguy cơ bùng nổ chiến tranh tiền tệ

trong giai đoạn 2010 – 2015
Chương 3.

3.1. Tiền đề cho một cuộc chiến tranh tiền tệ


Tình hình kinh tế Mỹ giữa năm 2010
Giải quyết trạng thất nghiệp cho tám triệu rưỡi người đã bị mất việc trong hai
năm 2008-2009 do tác động của khủng hoảng tài chính và kinh tế, ngân hàng Trung
ương Mỹ lo ngại từ nay cho đến năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở trên mức 8%Một
trong những nguyên nhân giải thích hiện tượng này có thể là do kinh tế Mỹ thực sự
bước vào giai đoạn “ hậu công nghiệp” ở đó trọng lượng của các khu vực sản xuất
ngày càng bị thu gọn lại để nhường chỗ cho các ngành tài chính, tin học và những
dịch vụ. Mô hình mới đó cho phép nước Mỹ tiếp tục tăng trưởng mà không nhất
thiết phải tuyển dụng thêm nhân công.
Với tỉ lệ thất nghiệp hiện nay ở mức 9.5%, kéo dài ở mức trên 9% đã một năm
nay, nền kinh tế nước Mỹ đang hoạt động ở mức dưới tiềm năng GDP (potential
GDP) một mức khá xa. Nếu tỉ lệ thất nghiệp không giảm thì khối lượng không lao
động không những làm gánh nặng cho ngân quỹ quốc gia qua những chương trình
trợ cấp thất nghiệp, huấn nghiệp, mà còn làm giảm nhu cầu tiêu thụ của xã hội, và
từ đó làm giảm GDP.
Muốn giảm tỉ lệ thất nghiệp thì phải có công ăn việc làm. Muốn có công ăn
việc làm thì các công ty phải có nhu cầu thuê mướn lao động vào. Muốn các công ty
thuê mướn thì phải có nhu cầu tiêu thụ hàng hoá. Oái ăm thay là muốn có nhu cầu
tiêu thụ hàng hóa thì người dân phải có công ăn việc làm. Cái vòng xoắn ốc này có
lúc đi lên do yếu tố trước thuận lợi tác động vào yếu tố sau, đẩy kinh tế phát triển
theo đường xoắn ốc lên. Tuy nhiên khi một yếu tố bị suy giảm, vòng xoắn ốc sẽ bị
đảo ngược và chiều hướng kinh tế lại đi xuống. Về nạn thất nghiệp vấn đề thất
nghiệp sẽ vẫn là một bài toán nan giải, chưa thể giải quyết một sớm một chiều được
và là trở ngại chính cho sự phục hồi kinh tế của nước Mỹ nói riêng và của cả thế

giới nói chung. Nhóm Financial Forecast Center tiên đoán tỉ lệ thất nghiệp tại Hoa
Kỳ sẽ còn tiếp tục ở mức cao trên 9% và vượt 10% trong vòng một năm nữaới tỷ lệ
thất nghiệp giao động gần 10%, chắc chắn mức tiêu thụ tại cường quốc kinh tế số
một thế giới này sẽ bị chựng lại. Đối với một quốc gia mà sức mua sắm của các hộ
18


gia đình bảo đảm đến 80% tăng trưởng của GDP.gói kích cầu 800 tỷ đô la đã bơm
vào nền kinh tế Mỹ từ đầu năm 2008 trong mục đích cải thiện thị trường lao động


Nhật Bản
Nền kinh tế Nhật Bản hiện đang ở vào tình trạng tồi tệ nhất kể từ đầu năm
2010 đến nay. Theo tuyên bố mới nhất ngày 19/10/2010 của chính phủ Nhật Bản,
“sự phục hồi kinh tế của Nhật Bản đã dừng lại”. Nguyên nhân chủ yếu khiến nền
kinh tế Nhật Bản rơi vào đình trệ là sự lên giá mạnh của đồng yên, nhu cầu của thế
giới đối với hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản giảm xuống, và tình trạng giảm phát
vẫn tiếp tục dai dẳng. Theo Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản, Yoshihiko Noda, Nhật
Bản sẵn sàng tiếp tục can thiệp vào các thị trường nhằm kìm hãm đà leo thang của
giá đồng yên. Phát biểu tại một cuộc họp báo ở thủ đô Tokyo vào đầu tháng 10, sau
khi giá yên tăng lên 82,11 yen/USD, mức cao nhất trong 15 năm qua, Sự hồi phục
kinh tế dựa vào xuất khẩu của Nhật Bản thời gian gần đây có dấu hiệu chậm lại.
Xuất khẩu Nhật Bản đã tăng trưởng với tốc độ chậm nhất trong tháng 8, trong bối
cảnh nhu cầu ở nước ngoài sụt giảm và giá tiêu dùng tiếp tục giảm. Trong khi đó,
đồng yên mạnh lên đã tác động đến các nhà xuất khẩu Nhật Bản, khiến hàng hóa
của Nhật đắt đỏ hơn và làm giảm lợi nhuận ở nước ngoài. Đồng nội tệ mạnh cũng
làm giá hàng nhập khẩu rẻ hơn, góp phần kéo dài chu kỳ thiểu phát trong đó người
tiêu dùng trì hoãn việc mua sắm với hy vọng giá tiếp tục giảm, phủ bóng đen lên
đầu tư doanh nghiệp trong tương lai. Về chính sách tiền tệ, vào đầu tháng 10 Ngân
hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đã thông qua chính sách lãi suất bằng 0% và các

biện pháp bơm tiền trong nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng, chống thiểu phát và giải
quyết các tác động của đồng yên tăng giá đối với nền kinh tế. Hiện tại việc đồng
yên có giá trị mạnh đang ảnh hưởng tới xuất khẩu Nhật Bản. Mặc dù kinh tế Nhật
Bản có nhiều điểm yếu, đồng yên vẫn có xu hướng tăng giá so với các đồng tiền
khác trong hoàn cảnh tình hình tài chính toàn cầu có nhiều bất ổn, một phần là vì
Nhật Bản vẫn đang có thặng dư tài khoản vãng lai. Nhiều ý kiến cho rằng biện pháp
hạ lãi suất sẽ chỉ có tác dụng trong một thời gian ngắn đối với tỷ giá đôla - yên.
Trên thực tế, đồng yên dù có giảm giá sau khi quyết định trên được công bố, nhưng
ngay sau đó đã tăng trở lại mạnh hơn.



Khủng hoảng nợ công ở châu âu đầu năm 2010
19


Nợ công của nhiều nước trên thế giới đang phình to, sau khi các chính phủ đổ
hàng nghìn tỉ USD vào các gói kích thích kinh tế. Tại các nước phát triển và các nền
kinh tế mới nổi nhóm G20, nợ công tăng lên mức kỷ lục: hơn 98% GDP năm 2010
và sẽ tăng tới 115% GDP vào năm 2015. Con số này tại các nước có thu nhập ở
mức giữa sẽ là 13% trong giai đoạn 2010 - 2015. Trong khi đóng góp của những
nước này trong tổng GDP của thế giới giảm tương ứng từ 74% xuống còn 54%. Nợ
công của Mỹ tăng cao gấp hai lần trong vòng bảy năm qua, lên mức hơn 14.000 tỉ
USD, chiếm hơn 62% GDP; tại Nhật Bản con số này là hơn 200% GDP. Cuộc
khủng hoảng nợ công, trong đó, Hy Lạp - quốc gia có mức nợ công cao nhất khu
vực đồng tiền chung châu Âu là 144% GDP năm 2010 đang tàn phá “ngôi nhà
chung châu Âu”. Tổng nợ công của EU có thể lên tới 100% GDP vào năm 2014 và
cộng đồng chung châu Âu (EC) dự báo tỷ lệ thất nghiệp tại Eurozone sẽ tăng lên
mức kỷ lục 12% trong năm 2013. Nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng nợ
công châu Âu là do chính sách tài khóa thiếu bền vững và sự mất cân đối trong việc

vay nợ của các quốc gia. Điển hình là Hy LạpMột nguyên nhân nữa dẫn đến cuộc
khủng hoảng nợ công châu Âu là sự hạn chế trong cơ chế phối hợp điều hành trong
khu vực sử dụng đồng tiền chung (Eurozone), nhất là giữa tiền tệ và tài khóa.
Cùng với áp lực đang gia tăng từ thất nghiệp, thâm hụt NSNN và chi tiêu
công, cũng như sự mất giá của trái phiếu chính phủ, cuộc khủng hoảng nợ công
châu Âu đã làm tổn thất hàng ngàn tỷ USD thu nhập tài chính của các nước thành
viên EU, làm suy giảm nặng nề thêm nền kinh tế khu vực, cũng như thị trường tài
chính-tiền tệ khu vực và thế giới, khiến nhiều chính trị gia mất ghế, gây nhiều tranh
cãi và những chi phí giải cứu tốn kém hàng trăm tỷ Euro.
Đức có tiềm lực kinh tế mạnh nhất và thặng dư thương mại liên tục.đồng euro
đổ vỡ sẽ gây thiệt hại cho hệ thong ngân hàng châu âu và thế giới đức cũn không
ngoại lệ . Như vậy ,hậu quả của khủng hoảng nợ công có thể được tóm tắt như sau:
cán cân ngân sách thâm hụt, giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng ,lạm phát tăng ,các
doanh nghiệp hạn chế đầu tư tăng trưởng GDP giarm và thất nghiệp tăng Ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu tới nền kinh tế thế giới trong
thời gian qua cho thấy, nợ công là một vấn đề mang tính toàn cầu mà bất cứ
một quốc gia nào dù mạnh hay yếu cũng có nguy cơ gặp phải
20


Từ những thông tin về tình hình về những nền kinh tế có tầm ảnh hưởng lớn
đối với thế giới trên,có thể kết luận rằng : “vấn đề nền kinh tế thế giới tập trung chủ
yếu là thất nghiệp ,tăng trưởng kinh tế và vấn đề nợ công.Hơn nữa, biến động của
các nền kinh tế trọng điểm trên có ảnh hưỏng rất lớn đối với nền kinh tế thế giới Vì
vậy vấn đề đặt ra là các nước đó cần có những chính sách về tài khóa hay tiền tệ
hiệu quả để cải thiện nền kinh tế toàn cầu”.
3.2. Dấu hiệu cho cuộc chiến tranh tiền tệ lần thứ 3

Nhận thấy sự kém hiệu quả của các chính sách tiền tệ thông thường, Fed đã
chuyển sang sử dụng các gói QE. Với mục đích vực dậy nền kinh tế sau khủng

hoảng kinh tế tài chính 2007-2008, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã sử dụng liên
tiếp các gói nới lỏng định lượng (Quantitative Easing -QE) từ năm 2008 đến nay.
Giữa năm 2010, NHTW Mỹ lại tiếp tục chính sách tiền tệ nới lỏng QE2 với dự
định bơm ra thị trường khoảng 600 tỷ USD bằng việc mua lại trái phiếu khiến cho
tổng tài sản của tổ chức này tăng lên hơn 2400 tỷ USD vào cuối năm Đồng đô la
Mỹ tràn ngập thị trường tài chính thế giới là nguyên nhân chính cho sự tăng bất
thường của dòng vốn nóng chảy vào các nước mới nổi tìm kiếm lãi suất cao.Tuy
nhiên,sau 2 gói QE1 và QE2, nền kinh tế Mỹ vẫn không có nhiều dấu hiệu khởi sắc.
Chính phủ Mỹ quyết định tung ra gói QE3 ,đồng thời cam kết tiếp tục giữ lãi suất
ngắn hạn ở mức gần 0% ít nhất đến giữa năm 2015.Vào ngày 13 tháng 9 năm 2012,
Cục dự trữ lien bang Mỹ Fed công bố vòng nới lỏng định lương lần 3 (QE3), cung
cấp mua 40 tỷ USD chứng khoán thế chấp mỗi tháng cho đến khi thị trường lao
động được cải thiện đáng kể, ngày 12 tháng 12 năm 2012, FOMC tiếp tục mở rông
thêm với 45 tỷ USD trái phiếu kho bạc dài hạn. Nâng tổng số tiền QE3 mỗi tháng
lên 85 tỷ USD. Tính đến ngày 14/9/2012 một ngày sau khi kết thúc cuộc họp ủy
ban điều hành thị trường mở Fed FOMC với tuyên bố về QE3 - đồng USD đã giảm
giá xấp xỉ 5% so với đồng EUR khi đồn đoán về động thái nới lỏng mạnh tay của
Fed lan rộng trên thị trường và từ đó tiếp tục giảm mạnh cho đến nay (ngày
1/2/2013 tỷ giá EUR/USD chạm ngưỡng cao nhất trong vòng 15 tháng,
Một tuần sau quyết định QE3 của Fed, Ngân hàng Trung ương BOJ (NHTW)
Nhật Bản cũng bất ngờ công bố quyết định nới lỏng quyết liệt chính sách tiền tệ của
21


mình nới lỏng định lượng với quy mô lơn . Sau khi mở rộng chương trình mua tài
sản thêm 10 nghìn tỷ Yên lên mức 80 nghìn tỷ Yên (tương đương 101 tỷ USD) vào
tháng 9/2012, NHTW Nhật Bản liên tục mở rộng gói mua tài sản vào tháng 10, 11
và gần đây nhất, ngày 22/1/2013, quy mô chương trình mua tài sản đã được tăng lên
mức 111 nghìn tỷ Yên (tương đương 113 tỷ USD) và sẽ kéo dài vô thời hạn. Nhật
Bản phải tự bảo vệ mình bằng cách duy trì một đồng yên yếu nhằm chống lại việc

các nước khác đang giảm giá đồng tiền của mình, khiến giới quan sát cho rằng Nhật
Bản đang công khai chủ động phá giá đồng Yên với mục đích rõ ràng là hỗ trợ xuất
khẩu. Từ tháng 11/2012 đồng yên của Nhật giảm giá 11 % so với đô la và 20 % so
với đồng tiền chung châu Âu. Đơn vị tiền tệ của Nhật Bản cũng giảm giá 18 %
trong ba tháng qua so với đồng won của Hàn Quốc. Nhật Bản khiến thế giới phải lo
lắng về một bước ngoặt mới trong cuộc chiến tranh tiền tệ khi tuyên bố in tiền
không giới hạn nhằm đạt mục tiêu lạm phát 2%. .,
Sau động thái của Nhật Bản, Venuezela tuyên bố phá giá 1/3 giá trị đồng nội
tệ vào tháng 2.2013. Ngân hàng trung ương New Zealand cho biết đang xem xét can
thiệp vào thị trường tiền tệ để hạn chế đà tăng của đồng Kiwi. Brazil đang cố gắng
hạ giá đồng tiền bằng cách hạn chế dòng vốn vào. Tháng 4.2013, nước Anh dấy lên
dư luận phải phá giá mạnh đồng Bảng, có thể là 1/3 giá trị, nhằm cứu nền kinh tế.
USD giảm giá mạnh, kéo theo một loạt các nước cũng tìm mọi cách bảo vệ đồng
tiền của mình không tăng giá. Các thành viên G10 đã phát ra tín hiệu để ghìm giá
trước động thái nới lỏng đinh lượng nổi bật nhất là Brazil và Thụy Sỹ. Tháng
8/2011, bất chấp lạm phát vẫn cao hơn mức mục tiêu, NHTW Brazil đột ngột quyết
định cắt giảm lãi suất và tuyên bố Brazil sẽ "không ngần ngại can thiệp để giảm giá
đồng Real"; năm 2012, NHTW liên tục can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối
bằng cách bán ra các hợp đồng hoán đổi đảo nghịch (reverse-currency swaps) và Bộ
trưởng Tài chính Guido Mantega nhấn mạnh rằng, Chính phủ Brazil sẽ không để
đồng Real tăng giá. Trong bối cảnh đồng Franc Thụy Sỹ tăng giá mạnh so với nhiều
đồng tiền với vai trò dự trữ an toàn, thì tháng 9/2011, lần dầu tiên kể từ năm 1978,
NHTW Thụy Sỹ đưa ra quyết định mua "không giới hạn" các ngoại tệ nhằm giữ tỷ
giá luôn trên ngưỡng 1,20 Euro ăn 1 Franc, khiến đồng Franc ngay lập tức giảm giá
8,1% so với Euro chỉ trong vòng 1 ngày sau khi NHTW bắt đầu can thiệp. Chiến
dịch giảm giá tiền tệ gần đây giữa Mỹ và Nhật Bản đang gây quan ngại sâu sắc rằng
22


nó có thể lan rộng thành một cuộc chiến tiền tệ toàn cầu với sự tham gia của nhiều

quốc gia.
Hai tháng đầu năm 2015 được xem là đỉnh điểm của cuộc chiến tiền tệ thế
giới khi hàng loạt ngân hàng trung ương (NHTW) tuyên bố hạ lãi suất và nới
lỏng chính sách tiền tệ.; NHTW Uzbekistan, NHTW Romania, NHTW Thụy Sĩ,
NHTW Ai Cập và Ấn Độ , Ngân hàng Dự trữ Trung ương Peru, NHTW Canada,
Thổ Nhĩ Kỳ, Ngân hàng Trung ương châu Âu , Ngân hàng Nhà nước Pakistan ,Cơ
quan quản lý tiền tệ Singapor, Albania,NGA,Đan Mạch ,Trung Quốc ,Thụy
Điển,Indonesia ,Nhật Bản ,Isarel,Balan,Thái Lan
Tiếp đến,làn sóng cắt giảm lãi suất gây bất ngờ của các ngân hàng trung ương
ở khu vực châu Á, từ Trung Quốc, Ấn Độ cho tới Singapore, trong năm nay là nhằm
giành lợi thế cho xuất khẩu. Lãi suất cơ bản đồng Won về mức thấp kỷ lục 1,75%
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) bắt đầu in tiền để mua trái phiếu chính phủ
nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Dư địa hạ lãi suất của ECB gần như đã không còn bởi
lãi suất ngắn hạn đã xuống gần 0%. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) cũng
đang áp dụng cách làm tương tự như ECB

Tỷ giá USD/Euro 1 năm qua

23


Trong những tháng đầu năm 2015, đồng USD đã tăng rất mạnh và ngày càng
tiến gần đến mức ngang bằng giá trị với đồng Euro. Cách đây 1 năm, vào thời điểm
tháng 3/2014 tỷ giá đồng EUR/USD ở khoảng mức 1 EUR bằng 1,39 USD. Đến
ngày 13/03/2015, tức là chỉ đúng 1 năm sau, 1 đồng Euro chỉ đổi được khoảng 1,05
USD,giảm gần 24% so với T3-2014. Như vậy ,đồng Euro đã giảm giá mạnh sau khi
Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) công bố thực hiện chương trình nới lỏng
định lượng (QE) trong tháng 3/2015, sẽ tiếp tục duy trì mức lãi suất thấp và bơm
thêm tiền vào nền kinh tế thông qua các gói kích cầu để giúp Nhật và EU tránh rơi
vào suy thoái. Điều này kết hợp với đồng usd tăng giá từ t6/2014 càng làm cho

Euro thêm mất giá so với đồng USD.Việc đồng bạc xanh tăng giá mạnh so với đồng
Euro gây nên những xáo trộn trong hoạt động kinh tế thế giới và chắc chắn việc
biến động tỷ giá này sẽ ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế và giá trị đồng tiền của tất
cả các nước.
Đó là sự tăng trưởng ngoạn mục của kinh tế Mỹ trong năm 2014. Sau giai
đoạn phục hồi ì ạch sau khủng hoảng 2008-2009, năm 2014 kinh tế Mỹ đạt tốc độ
tăng trưởng cả năm là 3,3%Thứ hai, quyết định của Mỹ chấm dứt Gói nới lỏng định
lượng (QE) vào ngày 29/10/2014, mà thực chất là gói kích cầu khổng lồ trị giá 3,7
ngàn tỷ USD mà Mỹ bơm ra suốt 6 năm qua kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng
2008-2009 nhằm đưa kinh tế Mỹ thoát khỏi viễn cảnh khủng hoảng 1929-1933.
cùng với khả năng Cục dự trữ liên bang FED sẽ nâng lãi suất từ mức cận 0 hiện nay
do tăng trưởng kinh tế Mỹ cao cùng với tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp dưới 6%
Tỷ giá đồng Nhân dân tệ so với USD giảm tương đối trong tháng 2/2015 với 1
CNY đổi được 0,16 USD, tuy nhiên gần cuối tháng 3, đồng CNY có xu hướng tăng
giá nhẹ, khoảng 0,3% so với đồng USD.

24


Tỷ giá đồng Nhân dân tệ so với USD giảm tương đối trong tháng 2/2015 với 1
CNY đổi được 0,16 USD, tuy nhiên gần cuối tháng 3, đồng CNY có xu hướng tăng
giá nhẹ, khoảng 0,3% so với đồng USD.: Hai đối tác thương mại chính là euro và
yen Nhật đang yếu hơn khá nhiều, Trung Quốc sẽ không tránh khỏi phải giảm giá
nội tệ.Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) có thể nới lỏng chính sách tiền tệ
và làm suy yếu đồng nội tệ nhằm hạn chế nguy cơ giảm phát Tháng2/2015, PBoC
đã giảm lãi suất tiền gửi kỳ hạn một năm xuống còn 5,35% và cũng đã hạ tỷ lệ dự
trữ bắt buộc vào tháng 2/2015,tháng 4/2015
Hiện nay, tỷ giá hoán đổi USD/CNY là 1 USD ăn xấp xỉ 6.25 CNY (hay
CNY/USD = 0.16). Con số này không tăng đáng kể nào so với 28/06/2010 là
6.7890 CNY đổi lấy 1USD, dù năm 2010 đồng USD đã đụng đáy. Trong bối

cảnh nhiều đồng tiền trên thế giới đang rớt giá thảm hại thì tỷ giá đồng nhân
dân tệ dự báo sẽ ổn định trong năm 2015. Trung Quốc vẫn kiểm soát chặt tỷ giá
25


×