Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Đề án Đường lối đối ngoại và công tác quản lý hoạt động đối ngoại của thành phố Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344 KB, 64 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC IV

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Tên đề tài:

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY VÀ THỰC TRẠNG
CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Họ và tên học viên: Phạm Hoàng Oanh
Lớp: Cao cấp Chính trị khóa 37 Cần Thơ (A37)

Cần Thơ, tháng 8 năm 2015


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................
1
PHẦN NỘI DUNG
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ BỐI CẢNH TRONG NƯỚC
HIỆN NAY ...............................................................................................................
5
1. Đặc
điểm
tình
hình
thế


giới
.......................................................................................................................
5
2. Những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay
.......................................................................................................................
6
3. Bối
cảnh
trong
nước
.......................................................................................................................
7
II. ĐƯỜNG LỐI VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ....................................................
7
1. Quá trình hình thành và hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước
ta
.......................................................................................................................
7
2. Nội dung chủ yếu của đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng

Nhà
nước
ta
hiện
nay
.......................................................................................................................
13
3. Thành tựu và phương hướng hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước

ta trong quá trình đổi mới công tác đối ngoại
.......................................................................................................................
16
3.1
Thành
tựu
.......................................................................................................................
16


3.2 Phương hướng hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong
quá
trình
đổi
mới
công
tác
đối
ngoại
.......................................................................................................................
18
III. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CẦN THƠ .......................................................
. 20
1. Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội thành phố Cần Thơ
.......................................................................................................................
. 20
2. Đặc điểm tình hình hoạt động đối ngoại của thành phố Cần Thơ
.........................................................................................................................
21

3. Thực trạng công tác quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động đối ngoại
của
thành
phố
Cần
Thơ
trong
thời
gian
qua
.......................................................................................................................
23
3.1
Kết
quả
đạt
được
.......................................................................................................................
23
3.2
Tồn
tại,
hạn
chế
.......................................................................................................................
29
4. Cơ
sở
pháp


của
Đề
án
.......................................................................................................................
34
5. Đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế trong công tác quản lý hoạt động đối
ngoại
của
thành
phố
Cần
Thơ
.......................................................................................................................
35
6. Cách
thức
tổ
chức
thực
hiện
Đề
án
.......................................................................................................................
35
7. Điều
kiện
đảm
bảo
thực
hiện

Đề
án
.......................................................................................................................
45


PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................
49
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
Cùng với dòng chảy của lịch sử dân tộc, ngoại giao Việt Nam đã trải qua
biết bao thăng trầm. Có thể nói, ở mỗi giai đoạn khác nhau thì hoàn cảnh lịch sử
trong và ngoài nước lại có những thay đổi nhất định. Và chính sự thay đổi không
ngừng của không gian và thời gian lịch sử ấy đã chi phối trực tiếp để đưa đến sự
cải biến trong đường lối, phương thức ngoại giao qua các thời kỳ lịch sử, trong
đó có nền ngoại giao Việt Nam. Trong bối cảnh cả thế giới đang chuyển mình
theo xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa, khi mà mỗi nước điều có cơ hội tốt để
hội nhập và phát triển, đồng thời vừa phải đối mặt với rất nhiều thử thách, khó
khăn, do vậy ngoại giao Việt Nam cần phải tìm ra một lối đi riêng phù hợp với
xu thế phát triển và hội nhập trên thế giới và đồng thời phải phù hợp với điều
kiện, bối cảnh trong nước là một việc làm tất yếu khách quan. Chính vì vậy mà
Đảng và Nhà nước ta không ngừng đề ra chính sách đối ngoại phù hợp, kịp thời
nhằm vừa có thể phát huy tối đa nội lực dân tộc trước thử thách mới, vận hội
mới vừa tranh thủ các nguồn lực để phát triển và hội nhập thành công.
Là một nước trong cộng đồng thế giới và là một thành viên tích cực của tổ

chức khu vực ASEAN, Việt Nam sau ngày giải phóng, đặc biệt sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1986) đến nay đã và đang bước đầu khởi
động lộ trình hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế. Với đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác với các
nước trong khu vực và trên thế giới đã từng bước nâng cao vị thế Việt Nam trên
trường quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, ổn định về chính trị, tăng
trưởng về kinh tế, chủ động trong hội nhập, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền đất nước và góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để hợp tác
và phát triển.
Những thành tựu trong hoạt động đối ngoại và quá trình hội nhập quốc tế
đã đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các nguồn lực để phát
triển đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong đó
nhiệm vụ đối ngoại trọng tâm của năm 2015 là đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn
diện với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế; tiếp tục bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền đất nước đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để


2

phát triển; tiếp tục đưa quan hệ với các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn
định và thực chất hơn nữa; đẩy mạnh công tác đối ngoại đa phương một cách
chủ động, tích cực.
1. Lý do chọn đề án
Việc nghiên cứu đường lối đối ngoại của Đảng ta (nhất là được nêu trong
văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI) là rất cần thiết, mang ý nghĩa
khoa học và thực tiễn nhất là trong giai đoạn hiện nay. Mục tiêu của việc nghiên
cứu này là để hiểu rõ hơn các định hướng của Đảng và Nhà nước ta trong hoạt
động đối ngoại, nâng cao hơn nữa về nhận thức, tư tưởng và niềm tin vào sự

lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đi lên xã
hội chủ nghĩa của nước ta và đồng thời tìm hiểu những cơ hội, thách thức và hạn
chế của thành phố Cần Thơ trong công tác quản lý hoạt động đối ngoại trên địa
bàn để phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ chuyên môn, thực hiện tốt nhiệm vụ chính
trị được giao trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới.
Với những kiến thức về mặt lý luận được truyền đạt trên lớp học và
những kiến thức thực tiễn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn tại cơ
quan, tôi đã chọn đề tài Đề án là "Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta trong giai đoạn hiện nay và thực trạng công tác quản lý hoạt động đối
ngoại trên địa bàn thành phố Cần Thơ" để nghiên cứu.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Đề án
Đề án này sẽ tập trung nghiên cứu các chủ trương, chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta được xác định trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI và một số hạn chế trong công tác quản lý hoạt động đối ngoại
tại thành phố Cần Thơ để đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác
quản lý hoạt động đối ngoại của thành phố trong thời gian tới. Do hạn chế về
mặt thời gian, Đề án chỉ tập trung tìm hiểu, phân tích những tồn tại hạn chế
trong công tác quản lý hoạt động đối ngoại liên quan đến lĩnh vực Ngoại giao
nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Ủy ban nhân dân thành
phố giao Sở Ngoại vụ thực hiện.
Thông qua việc tìm hiểu đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay sẽ tìm hiểu, phân tích kết quả và nguyên nhân
các tồn tại, hạn chế trong hoạt động đối ngoại của thành phố Cần Thơ trong thời
gian qua và đề ra kiến nghị, đề xuất cũng như giải pháp khắc phục tồn tại, hạn
chế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại của thành phố.


3

3. Ý nghĩa của vấn đề lựa chọn

Hoạt động đối ngoại của mỗi tỉnh, thành phố ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong việc góp phần khai thác lợi thế từng vùng, từng địa phương và đồng
thời tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để cùng với cả nước xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu và ý nghĩa của hoạt động đối ngoại, việc
tìm hiểu đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta cũng như
những tồn tại, hạn chế trong hoạt động đối ngoại của địa phương là rất cần thiết
để làm cơ sở đề ra các giải pháp khả thi, thiết thực và phù hợp với điều kiện của
từng địa phương nhằm thúc đẩy hoạt động đối ngoại ngày càng phát triển góp
phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố Cần Thơ nói riêng và của cả
nước nói chung.
4. Phạm vi nghiên cứu của Đề án:
- Đối tượng: Đề án sẽ nghiên cứu đề ra các giải pháp mang tính khả thi
và phù hợp với điều kiện thực tế của thành phố Cần Thơ nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động đối ngoại trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
- Không gian: Đề án sẽ được nghiên cứu, thực hiện trên địa bàn toàn
thành phố Cần Thơ bao gồm 05 quận: Ninh Kiều, Bình Thủy, Ô Môn, Thốt
Nốt, Cái Răng và 04 huyện: Cờ Đỏ, Thới Lai, Vĩnh Thạnh và Phong Điền.
- Thời gian: Đề án sẽ được nghiên cứu căn cứ trên số liệu hoạt động đối
ngoại giai đoạn 2011 - 2015 và đề ra phương hướng, giải pháp thực hiện giai
đoạn 2016 – 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của Đề án là kết hợp giữa phân tích và tổng hợp,
giữa lý luận và thực tiễn, qua đó làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
ta trong việc đề ra các chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại phù hợp với
xu thế của thời đại. Đồng thời, tìm hiểu, phân tích những tồn tại, hạn chế trong
công tác quản lý hoạt động đối ngoại của thành phố và đề xuất một số giải pháp
cụ thể, lộ trình thực hiện để khắc phục những hạn chế còn tồn tại nhằm góp phần
đưa hoạt động đối ngoại của thành phố nói riêng và của cả nước nói chung ngày
càng hiệu quả, đi vào chiều sâu.
Nội dung bài viết Đề án gồm các thành phần như sau:

Phần mở đầu
Phần nội dung
I. Đặc điểm tình hình thế giới và bối cảnh trong nước hiện nay


4

II. Đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay
III. Thực trạng công tác quản lý hoạt động đối ngoại trên địa bàn
thành phố Cần Thơ
Phần kết luận
Qua Đề án tốt nghiệp này, tôi hy vọng sẽ đóng góp một nhỏ bé trong việc
giúp người đọc có cái nhìn khái quát về chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay và xây dựng một nền tảng nghiên cứu mang
tính chất định hướng phục vụ cho công tác chuyên môn tại cơ quan góp phần
vào sự phát triển của công tác đối ngoại nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã
hội nói chung của thành phố Cần Thơ.


5

PHẦN NỘI DUNG
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ BỐI CẢNH TRONG NƯỚC
HIỆN NAY
1. Đặc điểm tình hình thế giới
Nếu như trước năm 1991, mâu thuẫn, xung đột giữa hai phe tư bản chủ
nghĩa và xã hội chủ nghĩa bao trùm lên mối quan hệ quốc tế, thì sau khi cuộc
chiến tranh lạnh chấm dứt, xu thế hòa bình, hợp tác cùng đối thoại để phát
triển lại trở thành xu thế chính yếu trong mọi mối quan hệ, chi phối sâu rộng

đến đường lối đối ngoại của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn thế nữa, trong nửa
cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI này, các thành tựu về khoa học công nghệ phát
triển như vũ bảo, đặc biệt là công nghệ thông tin. Có thể nói, chính sự phát triển
nhanh chóng của những thành tựu công nghệ ấy đã góp phần đắc lực trong quá
trình liên kết toàn cầu, kết nối mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới với nhau, bất
luận khoảng cách địa lý hay sự khác biệt về thể chế chính trị, đặc trưng tôn giáo,
tín ngưỡng… Trong bối cảnh chung đó, một mặt các quốc gia phải chủ động
tham gia vào quá trình giao lưu chính trị, kinh tế, văn hóa để cùng phát triển,
mặt khác mỗi nước cũng phải nhận thấy rõ rằng quá trình toàn cầu hóa có thể
làm lộ rõ hơn những khác biệt về nhiều mặt giữa các quốc gia, dân tộc – một
trong những căn nguyên dẫn đến các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo… Do vậy
mà, hơn lúc nào hết, ngoại giao với tư cách là phương thức hòa bình sẽ ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác và tháo gỡ những bất
đồng, mâu thuẫn tiềm tàng hiện tồn tại trong quan hệ quốc tế. Đặc biệt, sự chú
trọng hơn đến ngoại giao văn hóa và phát huy thế mạnh của nó trong việc xây
dựng lòng tin, giúp làm sâu sắc và thắt chặt hơn nữa các mối quan hệ chính trị
và kinh tế đang là sự lựa chọn của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay.
Dự báo tình hình thế giới những năm sắp tới, văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ XI nêu rõ: "Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có
những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng
thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị,
can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi
truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính – tiền tệ, điện
tử - viễn thông, sinh học, môi trường… còn tiếp tục gia tăng.


6

Cục diện thế giới thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa
trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi pối các

quan hệ quốc tế. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học – công nghệ phát triển
mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội và kinh tế tri thức. Kinh tế thế
giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó
khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể
chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức
mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ ảnh hưởng
nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh
giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn,
nguồn nhân lực chất lượng cao… giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn
đề toàn cầu như anh ninh tài chính, anh ninh năng lượng, an ninh lương thực,
biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh…. Sẽ tiếp tục diễn
biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu
tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á,
vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất
ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình
thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tuy còn nhiều khó khăn,
thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực."
2. Những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay
- Hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo trong quan
hệ quốc tế hiện nay. Vì hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở
thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới.
- Các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và
liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác.
- Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh
chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền
văn hóa dân tộc.
- Các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân, các lực
lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh cho hòa bình, độc lập

dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.


7

- Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau, vừa hợp tác vừa đấu
tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Đây là xu thế mới, thể hiện rõ tính chất gay
go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp không phân tuyến giai đoạn hiện nay.
3. Bối cảnh trong nước
Nếu như trước đây, khi nhắc đến chủ quyền, độc lập dân tộc "nhiều người
nghĩ đến một chính sách khép kín về chính trị theo kiểu biệt lập, tự cấp tự túc về
kinh tế" thì ngày nay, quốc gia nào càng có mối quan hệ rộng mở, đa dạng hóa,
đa phương hóa trong quan hệ quốc tế thì lại càng có khả năng tăng cường thế "tự
chủ" trong việc thực thi các chính sách, đường lối đối nội và đối ngoại.
Bối cảnh mới đặt ra yêu cầu tất yếu cho nền ngoại giao Việt Nam là phải
thay đổi tiêu chí phân loại các mối quan hệ ngoại giao. Nếu như trước đây trên
thế giới có sự phân tuyến giữa một bên là những nước tư bản chủ nghĩa và một
bên là những nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa thì ngày nay, ranh giới ấy
đã bị phá vỡ trong xu thế toàn cầu hóa về mọi mặt. Do vậy, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế với phương châm vì hòa bình, độc lập và phát triển
đã trở thành nhu cầu bức thiết đối với nền ngoại giao Việt Nam.
Những thành tựu, kinh nghiệm của gần 30 năm đổi mới đã tạo ra cho đất
nước lực và thế, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Tuy nhiên, nước
ta đứng trước nhiều thử thách lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến
phức tạp, không thể xem nhẹ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại. Tình trạng suy
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phân không nhỏ cán
bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm
giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp
tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các

chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" có những diễn biến phức tạp.
II. ĐƯỜNG LỐI VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Quá trình hình thành và hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta
Để đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn và phù hợp như trong giai đoạn
hiện nay, về lý luận, Đảng và Nhà nước ta trước hết là đã vận dụng một cách


8

sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, trong đó có công tác đối
ngoại nhằm khai thác tốt nhất nhân tố quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển đất
nước, đồng thời mở rộng và phát huy ảnh hưởng của Đảng, đóng góp với cộng
đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát
triển. Về thực tiễn, Đảng ta đã kế thừa và phát huy truyền thống đối ngoại của
dân tộc Việt Nam, của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những giai đoạn trước,
nhất là những bài học quý báu trong công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới. Đồng
thời, Đảng ta đã tiến hành phân tích, nhận định đúng đắn tình hình thế giới,
trong khu vực và những điều kiện trong nước giai đoạn hiện nay để đề ra đường
lối đối ngoại phù hợp.
Việc hình thành đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước ta là
một quá trình, bắt đầu từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay nhưng rõ nhất là bắt
đầu từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
1.1. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986)
Đại hội VI và Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI của Đảng ta đã xác
định các chủ trương lớn trong quan hệ quốc tế đó là: Chủ trương thêm bạn bớt

thù, tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và tiến tới bình thường
hóa quan hệ với Mỹ; tìm giải pháp chính trị cho Campuchia; xây dựng quan hệ
hữu nghị hợp tác với các nước Đông Nam Á; mở rộng hợp tác với tất cả các
nước trên nguyên tắc bình đẳng và phát triển.
Có thể nói, Đại hội VI là đại hội khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước
và là đại hội chuyển hướng và mở cửa cho quan hệ ngoại giao Việt Nam. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn ra từ ngày 15 18/12/1986 tại Hà Nội. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, “nói rõ sự thật”,
“đổi mới tư duy”, Đảng đã đánh giá khách quan tình hình đất nước, thừa nhận
những sai lầm trong xây dựng và phát triển là “chủ quan, duy ý chí” và đề ra chủ
trương đổi mới toàn diện.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có những điểm đổi mới về
tư duy đối ngoại. Trước hết là rút ra những bài học kinh nghiệm về sự cần thiết
phải đổi mới phương cách tập hợp lực lượng là “phải biết kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”; nhận thức được xu thế mở rộng
phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế, xã hội khác
nhau cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ


9

nghĩa xã hội. Từ đó, Đảng ta chủ trương “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng
quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục
vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự
nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế
hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động. Chăm lo đáp ứng
các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân.
Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông
Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới,
tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước
trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ
và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Trong đó, mục tiêu đối ngoại được
Nghị quyết khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng
cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế”.
Sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, tháng 3/1990, Hội nghị lần thứ Tám
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 8A “Về
tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và
nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta”. Theo đó, việc mở rộng quan hệ đối ngoại theo
phương châm “thêm bạn, bớt thù” được coi là một trong những nhiệm vụ cấp
bách; đồng thời, Nghị quyết xác định: Cách đóng góp tốt nhất và thiết thực nhất
lúc này vào cách mạng thế giới là thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của
Đảng, làm cho Việt Nam ngày càng ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, xã
hội, mạnh về quốc phòng và an ninh.
1.2. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991)
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã đề ra chủ trương trong hoạt
động đối ngoại "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Ngoài ra Đại hội VII của


10

Đảng cũng đã nêu rõ đường lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam là: Độc lập, tự
chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại và cũng chỉ rõ nhiệm vụ của

công tác đối ngoại là: "Giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp
tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội."
1.3. Hội nghị Trung ương lần 3 khóa VII (1992)
Đến cuối năm 1991, Chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ hoàn toàn ở Đông Âu và
cả ở Liên Xô. Phạm vi của Chủ nghĩa xã hội thế giới bị thu hẹp, Chủ nghĩa xã
hội tạm thời lâm vào thoái trào và ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất từ trước đến
nay.
Hội nghị Trung ương 3 khóa VII xác định tư tưởng chỉ đạo của công tác
đối ngoại là: "Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội,
đồng thời rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như những diễn biến của tình hình thế giới
và khu vực, phù hợp với từng đặc điểm, từng đối tượng ta có quan hệ."
Ngoài ra, Hội nghị cũng đã chỉ rõ 4 phương châm của công tác đối ngoại
là:
- Đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Tránh
hợp tác một chiều, tránh đấu tranh một chiều và tránh trực diện đối đầu trong
quan hệ quốc tế hiện nay.
- Tham gia hợp tác khu vực và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên
thế giới.
Hội nghị Trung ương 3 khóa VII là hội nghị tiếp tục và cụ thể hóa hơn
nữa đường lối chính sách đối ngoại và có thể nói tại Hội nghị này đường lối đối
ngoại đổi mới của Đảng ta đã ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện.
1.4. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996)
Đại hội VIII xác định mục tiêu của công tác đối ngoại là: "Mở rộng quan

hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và
nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế." và đồng thời xác định nhiệm


11

vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới là: "Củng cố môi trường hòa bình
và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.". Về phương hướng của
công tác đối ngoại, Đại hội nêu rõ: "Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với
tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển."
Có thể nói, đường lối chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta do
Đại hội VIII nêu ra là tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới nhưng ở
mức độ cao hơn. Vì trong quan hệ quốc tế, ta đã có bề rộng, nay phải đi vào
chiều sâu của công tác đối ngoại. Ta đã có vị thế cao trên trường quốc tế thì nay
phải chủ động, tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực và phải có
trách nhiệm tham gia giải quyết những vấn đề có tính chất toàn cầu. Đồng thời
phải tiếp tục mở rộng quan hệ với tất cả các nước, các khu vực và các vùng đất
còn lại mà ta chưa có quan hệ trên thế giới.
1.5. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001)
Đại hội lần thứ IX đã đề ra chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Có thể nói, từ khi đổi mới năm 1986, sau Nghị quyết 13 Đại hội VI của
Bộ Chính trị năm 1988, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa IX là tài liệu thứ hai có tầm quan trọng chiến lược trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam; đã xác định nguyên tắc và phương thức đối ngoại
của Việt Nam với tất cả các nước trong khu vực và thế giới, không phân biệt chế
độ chính trị và trình độ phát triển.
1.6. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006)
Tại Đại hội này, Đảng ta tiếp tục chủ trương thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, độc lập và phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các


12

lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội này đã nêu chủ trương lớn về mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. So với
đường lối đối ngoại Đại hội IX, Đại hội X đã điều chỉnh, bổ sung một số nội
dung như:
- Thứ nhất, khẳng định việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển (bổ sung cụm từ hòa bình, hợp tác và phát triển);
- Thứ hai, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế (coi đa phương hóa, đa dạng hóa là đặc trưng của
chính sách đối ngoại rộng mở);
- Thứ ba, nhấn mạnh yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ với tinh
thần “chủ động” mà còn phải “tích cực”, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên
các lĩnh vực khác;
- Thứ tư, quan điểm của Đại hội X vừa tiếp tục khẳng định đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, vừa thể hiện
quyết tâm chính trị của Đảng đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào

chiều sâu, ổn định, bền vững.
1.7. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011)
Chủ trương của Đảng ta tại Đại hội này là thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh.
Tháng 1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt
Nam diễn ra tại Hà Nội. Đại hội đề ra nhiệm vụ chủ yếu về đối ngoại từ năm
2011 - 2015 là “mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực,
chủ động hội nhập quốc tế”. So với nhiệm vụ đối ngoại được xác định tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế”, thì chủ trương đối ngoại trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI đã thể hiện bước phát triển mới về tư duy, chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc


13

tế” lên “hội nhập quốc tế” - hội nhập toàn diện, đồng bộ từ kinh tế đến chính trị,
văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh. Đây là bước ngoặt đổi mới về tư duy và
chính sách đối ngoại của Đảng ta, là kết quả bước chuyển từ tư duy đối ngoại
thời kỳ chiến tranh lạnh sang đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hội
nhập kinh tế quốc tế đến hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực.
Tóm lại, quá trình phát triển đường lối đổi mới trong chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta kể từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1982)
đã trải qua 02 giai đoạn:
- Giai đoạn 1986 – 1996: là giai đoạn xác lập đường lối đối ngoại độc lập,

tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
- Giai đoạn 1996 – nay: là giai đoạn bổ sung và phát triển đường lối đối
ngoại theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
2. Nội dung chủ yếu của đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng
và Nhà nước ta hiện nay
Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hoạch định
đường lối, chính sách đối ngoại và triển khai hoạt động đối ngoại thời kỳ đổi
mới, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Những nội
dung cách mạng triệt để về thời đại, về vấn đề dân tộc và quốc tế, về quan hệ
quốc tế và tình đoàn kết theo chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong học
thuyết Mác – Lênin luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng, nghiên cứu,
quán triệt và vận dung sáng tạo vào điều kiện Việt Nam.
Nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay với
mục tiêu chính là giữ vững độc lập chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ, giữ
vững hòa bình và tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự ủng hộ và
giúp đỡ của quốc tế, gây ảnh hưởng và nâng cao uy tín quốc tế của Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách
mạng Việt Nam, là con đường giải pháp đúng đắn, phù hợp với tiến trình phát
triển của xã hội Việt Nam và xu thế thời đại. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội chỉ đạo nhận thức và hành động trong triển khai đường lối
chính sách đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam. Độc lập tự chủ, tự cường đồng


14

thời tăng cường đoàn kết quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế. Độc lập tự chủ

đảm bảo lợi ích chính đáng của dân tộc là nguyên tắc và nhiệm vụ hàng đầu của
ngoại giao Việt Nam. Sự giúp đỡ hợp tác quốc tế là quan trọng, độc lập tự chủ,
tự lực, tự cường không có nghĩa là biệt lập với bên ngoài, ngược lại trên cơ sở
độc lập, tự chủ cần phải mở rộng đoàn kết, hợp tác quốc tế, xử lý đúng đắn các
vấn đề liên quan giữa dân tộc, thời đại giữa Việt Nam và quốc tế. Trong hoạt
động đối ngoại chú ý vấn đề tập hợp lực lượng quốc tế, tạo thế và lực cho đất
nước. Ngoài ra tiếp tục nhận được sự giúp đỡ quốc tế phải đi liền với làm nghĩa
vụ quốc tế. Chính vì vậy, văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI đã xác định:
"Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi
cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới."
Đại hội XI cũng nêu rõ một số nhiệm vụ cụ thể trong công tác đối ngoại
như:
- Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan
hệ quốc tế vào chiều sâu toàn diện, ổn định, bền vững.
- Chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội
nhập quốc tế.
- Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu
quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ,
trình độ quản lý tiên tiến.
- Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa
phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc.
- Thực hiện tốt các công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp
quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó
với những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đối khí
hậu.
- Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.

- Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên
quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết làm thất bại mọi âm
mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền,


15

thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt
Nam.
So với nội dung về chính sách đối ngoại được xác định trong văn kiện của
các Đại hội trước thì chính sách đối ngoại được thể hiện trong văn kiện Đại hội
XI có những bước phát triển mới như sau:
Thứ nhất, vấn đề lợi ích quốc gia, dân tộc được xác định vừa là mục tiêu,
vừa là một nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân mà ưu
tiên hàng đầu là bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng và bảo vệ thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ. Về mục tiêu đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: "vì lợi ích quốc gia, dân
tộc". Cùng với lợi ích, quốc gia dân tộc, Đại hội X cũng đặt mục tiêu đối ngoại
là "vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh". Hai mục tiêu này thống
nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở cơ bản để xây dựng
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để
thực hiện các lợi ích đó.
Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại "vì lợi ích quốc gia, dân tộc" được nêu rõ
trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng. Điều
này không có nghĩa là Đảng ta chưa từng xác định mục tiêu đối ngoại là vì lợi
ích quốc gia, dân tộc. Từ khi Đảng ra đời, lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu
phấn đấu xuyên suốt của Đảng ta. Nghị quyết 13/NQ-TW của Bộ Chính trị khóa
VI về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới đã khẳng định "Lợi
ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để
tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế". Có thể nói, từ khi đổi mới năm

1986, sau Nghị quyết số 13/NQ-TW của Bộ Chính trị năm 1988, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX là tài liệu thứ hai có
tầm quan trọng chiến lược trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, đã xác định
nguyên tắc và phương thức đối ngoại của Việt Nam với tất cả các nước trong
khu vực và thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển. Nghị
quyết Trung ương 8 khóa IX nhấn mạnh "bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc" là
một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thứ hai, việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, lấy hội nhập kinh tế
quốc tế là trọng tâm và được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đặc biệt là mở rộng sang các lĩnh vực như chính trị, quốc phòng, an ninh,
văn hóa – xã hội và ở mọi cấp độ song phương, khu vực, đa phương và toàn cầu.


16

Thứ ba, việc xác định và khẳng định Việt Nam là thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đây là bước phát triển rõ nét từ chỗ Việt Nam
muốn là bạn, sẵn sàng là bạn, là bạn và là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế
đến chỗ khẳng định vai trò và trách nhiệm của mình trong cộng đồng quốc tế.
Thứ tư, việc xác định xây dựng cộng đồng ASEAN là một ưu tiên trong
chính sách của Đảng và Nhà nước ta, trước hết Việt Nam là một thành viên có
trách nhiệm của ASEAN và những gì Việt Nam và các nước khác đang làm là
phấn đấu cho một cộng đồng ASEAN.
Thứ năm, triển khai đường lối, chính sách đối ngoại một cách đồng bộ,
toàn diện và thống nhất trên tất cả các ngành, lĩnh vực.
3. Thành tựu và phương hướng hoạt động đối ngoại của Đảng ta trong thời
gian tới
3.1 Thành tựu
Từ Đại hội XI đến nay, thông qua việc xác định và triển khai thực hiện
đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã giành được những thành

tựu rất quan trọng. Đó là:
- Việt Nam đã giữ vững và củng cố được môi trường hòa bình, ổn định,
tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh tình
hình khu vực và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, kinh tế thế giới
và kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, việc chúng ta tiếp tục duy trì được môi
trường hòa bình, ổn định, từng bước ổn định kinh tế vĩ mô, có tăng trưởng khá,
bảo đảm an sinh xã hội, huy động được đáng kể các nguồn tài trợ phát triển
chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), mở rộng được thị
trường, tăng kim ngạch xuất khẩu là những thành tựu rất đáng khích lệ. Kết quả
này đã khẳng định và làm nổi rõ hình ảnh của một nước Việt Nam hòa bình, ổn
định và đang phát triển – đối tác tin cậy của các nước và cộng đồng quốc tế.
- Bên cạnh đó, Việt Nam đã tiếp tục giữ vững được độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, kịp thời giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh trên biển.
Đã hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc trên thực địa với Lào và
khoảng 82,2% với Campuchia; tích cực đàm phán phân định vùng cửa Vịnh và
hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm với Trung Quốc, phân định vùng đặc quyền
kinh tế với Indonesia. Đã giải quyết thành công nhiều vấn đề tồn tại với các
nước láng giềng trên cơ sở luật pháp quốc tế, các bên cùng chấp nhận, từng bước
làm cho đường biên giới chung của nước ta với các nước thành biên giới hòa


17

bình, hữu nghị và hợp tác. Những khác biệt trong tranh chấp ở Biển Đông tuy
còn không ít trở ngại, song đang có xu hướng thu hẹp, đi vào đàm phán, đối
thoại trên cả bình diện song phương và đa phương.
- Đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của bạn bè quốc tế.
Quan hệ song phương và đa phương ngày càng được củng cố, phát triển và dần
dần đi vào chiều sâu. Các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện được
xác lập giữa Việt Nam với một số nước, nhất là với các nước lớn, tạo ra bước

phát triển mới về chất trong hoạt động đối ngoại, tạo thuận lợi cho nhiệm vụ hội
nhập quốc tế của nước ta trong giai đoạn mới. Hiện nay, chúng ta có quan hệ
ngoại giao với 177 nước và có quan hệ thương mại với 220 nước và vùng lãnh
thổ, là thành viên chính thức của tất cả các tổ chức quốc tế lớn.
- Đã thực sự phát huy được vai trò là thành viên tích cực của các thể chế
khu vực và toàn cầu. Nước ta đã tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình liên
kết khu vực Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương thông qua các tổ chức
và diễn đàn ASEAN, diễn an ninh khu vực (ARF), Cộng đồng kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương (APEC), diễn đàn cấp cao Đông Á (EAS), đã tham gia 08
Hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực và đang đàm phán 06 Hiệp
định khác, trong đó có 02 Hiệp định có phạm vi rộng lớn chưa từng có là Hiệp
định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Đối tác hợp tác kinh
tế khu vực (RCEP). Việt Nam đã cùng các nước thành viên đóng góp tích cực
vào quá trình xây dựng cộng đồng ASEAN và có vị trí, uy tín ngày càng cao
trong cộng đồng khu vực. Lần thứ hai, Việt Nam đã chính thức ứng cử làm Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2020 –
2021); đăng cai tổ chức thành công Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới
IPU lần thứ 132 (năm 2015); và cũng là lần thứ hai đứng ra đăng cai tổ chức Hội
nghị cấp cao APEC (năm 2017). Gần đây nhất, nước ta đã được bầu vào Hội
đồng Thống đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA), Ủy ban Di sản
thế giới của UNESCO và lần đầu tiên được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên
hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 – 2016) với số phiếu rất cao. Kết quả đó thể hiện uy
tín quốc tế của nước ta và lòng tin của Cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam.
- Đã có những chuyển biến rõ rệt trong công tác vận động cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày
26/3/2004 của Bộ Chính trị về Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã và đang làm tốt nhiệm vụ bảo


18


hộ công dân, thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy của cộng đồng người Việt sinh
sống và làm việc ở nước ngoài và là cầu nối giữa các địa phương trong nước với
các đối tác nước ngoài.
- Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện tốt chủ trương tích cực
và chủ động hội nhập quốc tế thông qua việc tổ chức rất nhiều chuyến thăm và
làm việc của các đoàn đại biểu cấp cao tại các nước trong khu vực và trên thế
giới. Gần đây nhất là các chuyến công tác của đoàn đại biểu cấp cao của Đảng
và Nhà nước ta tại các nước như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, Cộng hòa Séc, Cộng hòa Azerbaizan, Liên bang Nga…
- Các hoạt động ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại, công tác về
người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân cũng có những thành tích hết
sức quan trọng. Cụ thể là trong năm 2014, đã sơ tán thành công 1.700 công dân
Việt Nam khỏi Lybia, đảm bảo an toàn cho cộng đồng người Việt Nam tại
Ucraina, đã góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, củng cố niềm tin của
nhân dân và kiều bào Việt Nam đối với các chính sách của Đảng, Nhà nước.
Những thành tựu trong công tác văn hóa đối ngoại, thông tin đối ngoại đã góp
phần nâng cao hình ảnh của đất nước trong mắt bạn bè quốc tế. Và đặc biệt là đã
đạt được thành tựu đáng kể trong cuộc đấu tranh ngoại giao bảo vệ chủ quyền
khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng thềm lục
địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
3.2 Phương hướng hoạt động đối ngoại trong thời gian tới
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và phương châm trong công
tác đối ngoại trong tình hình mới, Đại hội XI của Đảng đã đề ra những định
hướng lớn cho công tác đối ngoại trong thời gian tới. Trong đó, định hướng tổng
thể, bao trùm là nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối
quan hệ quốc tế vào chiều sâu. Định hướng cụ thể như sau:
- Về công tác lãnh đạo: bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự
quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt
chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân;

giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối
ngoại với quốc phòng, an ninh.
- Về quan hệ song phương: tiếp tục thực hiện phương châm đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, Việt Nam sẽ ưu tiên phát triển quan hệ hợp


19

tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới, đồng
thời nổ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác chủ chốt.
- Về định hướng tham gia trong ASEAN: Việt Nam sẽ chủ động, tích cực
và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh,
tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và cũng cố vai trò quan trọng của
ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
- Về ngoại giao đa phương: với phương châm là thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày
càng tích cực, chủ động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực,
đa phương và toàn cầu, đặc biệt là Liên Hợp quốc. Việt Nam sẽ tích cực hợp tác
với các nước, các tổ chức quốc tế để ứng phó với các thách thức an ninh phi
truyền thống, nhất là các vấn đề về biến đổi khí hậu. - Về đối ngoại quốc phòng,
an ninh: tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh;
tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi
ích quốc gia và trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến
chương Liên hợp quốc.
- Về biên giới lãnh thổ: thúc đẩy giải quyết những vấn đề còn tồn tại về
biên giới lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan, trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu
vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu
nghị, hợp tác cùng phát triển.
- Về triển khai các hoạt động đối ngoại: triển khai đồng bộ và toàn diện

các hoạt động đối ngoại trong tất cả các lĩnh vực ngoại giao chính trị, ngoại giao
kinh tế, ngoại giao văn hóa, công tác thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân; kết
hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân,
phục vụ phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế.
- Về các lĩnh vực khác: Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại
Đảng với các Đảng cộng sản, công nhân, Đảng cánh tả, các Đảng cầm quyền và
các Đảng khác, tiếp tục coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân
dân.


20

III. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐỐI
NGOẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
1. Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của thành phố Cần Thơ
Cần Thơ là thành phố trực thuộc Trung ương, nằm ở vị trí trung tâm của
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vốn được mệnh danh là Tây Đô – Thủ phủ của
miền Tây Nam bộ từ hơn trăm năm trước, giờ đây Cần Thơ đã trở thành đô thị
loại I và là một trong 4 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm của vùng đồng bằng
sông Cửu Long và là vùng kinh tế trọng điểm thứ tư của Việt Nam. Thành phố
Cần Thơ nằm trong vùng trung – hạ lưu châu thổ sông Cửu Long, bên bờ Nam
sông Hậu trải dài gần 60km, trung tâm địa lý của vùng đồng bằng sông Cửu
Long, phía Bắc giáp với tỉnh An Giang, phía Đông giáp với tỉnh Đồng Tháp và
tỉnh Vĩnh Long, phía Nam giáp với tỉnh Hậu Giang.
Thành phố Cần Thơ với số dân hơn 1,232 triệu người và có tổng diện tích
đất tự nhiện là 1.404,96km2, chiếm 3,49% diện tích đồng bằng sông Cửu Long,
gồm 5 quận: Ninh Kiều, Bình Thủy, Ô Môn, Thốt Nốt, Cái Răng và 4 huyện
gồm: Phong Điền, Cờ Đỏ, Thới Lai và Vĩnh Thạnh. Tổng số đơn vị cấp phường
– xã là 85 gồm 44 phường, 5 thị trấn và 36 xã.

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP- giá so sánh 2010) ước đạt 69.514,7 tỷ
đồng, tăng 12,05% so với năm 2013, đạt kế hoạch đề ra. Cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch đúng hướng tăng dần tỷ trọng Khu vực II và III chiếm 92,73%;
giảm dần tỷ trọng tỷ trọng Khu vực I chiếm 7,27% trong cơ cấu kinh tế thành
phố, đặc biệt chất lượng được nâng lên khi cả ba khu vực đều tăng trưởng so với
cùng kỳ 1. Nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế đã làm tăng thu nhập, cải
thiện và nâng cao mức sống của người dân thành phố. Ước thực hiện tổng sản
phẩm bình quân đầu người đạt 70,2 triệu đồng, tăng 7,1 triệu đồng so với năm
2012, đạt kế hoạch đề ra (KH 70-70,5 triệu đồng); quy USD là 3.298 USD, tăng
294 USD so năm 2013.
Nghị Quyết 45-NQ/TW ngày 17 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị ra
đời đã mở hướng tháo gỡ những khó khăn và huy động sức mạnh tổng hợp cho
sự phát triển của các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung và thành
phố Cần Thơ nói riêng. Nhiều công trình, dự án mang tầm quốc gia, có sự lan
1

Khu vực I tăng 0,95%; khu vực II tăng 10,51%, khu vực III tăng 14,85%. Trong cơ cấu GDP, khu vực I chiếm 7,27%, khu
vực II chiếm 35,79% và khu vực III chiếm 56,94%.
2
Năm 2013, thu nhập bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt 63,1 triệu đồng; quy USD đạt 3.004 USD.


21

toả trong vùng đã và đang triển khai, nhằm đưa Cần Thơ phát triển ngang tầm
một thành phố trung tâm của cả nước. Những khó khăn về giao thông đang được
giải quyết bằng các dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1A, mở thêm tuyến đường
nối miền Tây với miền Đông Nam Bộ và nhiều con đường nối liền các tỉnh
trong khu vực; cầu Cần Thơ đã hoàn thành nối đôi bờ sông Hậu; sân bay Cần
Thơ đang được nâng cấp trở thành cảng hàng không quốc tế; luồng Định An sẽ

được cải tạo để tiếp nhận tàu có trọng tải lớn vào cảng Cần Thơ. Sự thiếu hụt về
nguồn nhân lực đã được giải quyết bằng nhiều chủ trương, giải pháp phát triển
nguồn nhân lực qua việc nâng cấp và mở thêm các trường đại học, cao đẳng
chuyên ngành… Có thể nói, thành phố Cần Thơ đã hội đủ các yếu tố cần thiết để
trở thành một trong những trung tâm kinh tế lớn của cả nước, có khả năng hợp
tác, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế.
2. Đặc điểm tình hình hoạt động đối ngoại của thành phố Cần Thơ
Nhìn chung, hoạt động đối ngoại của thành phố Cần Thơ bước đầu có sự
phát triển đáng kể và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Thành phố Cần Thơ
đã thực hiện nhiều giải pháp đổi mới trong công tác đối ngoại theo hướng chủ
động, tích cực, quan tâm đến hiệu quả và sự phối hợp chặt chẽ hoạt động đối
ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đặc biệt, thành
phố Cần Thơ ngày càng chú trọng vào 03 trụ cột của công tác ngoại giao chính
trị, ngoại giao văn hóa và ngoại giao kinh tế để nhằm tranh thủ tối đa ngoại lực
và đồng thời phát huy nội lực cho sự phát triển chung của thành phố trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, xứng đáng là thành phố động lực của vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, thành phố rất quan tâm và xem trọng công
tác đối ngoại quốc phòng và an ninh nhằm góp phần vào việc giữ vững môi
trường hòa bình, hợp tác và phát triển cho thành phố Cần Thơ nói riêng và cho
cả nước nói chung. Xác định việc xây dựng và phát triển nhanh, toàn diện thành
phố Cần Thơ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của các tỉnh trong vùng
đồng bằng sông Cửu Long và cả nước như Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 17
tháng 02 năm 2005 của Ban Bí thư về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng bộ, Chính quyền và
Nhân dân thành phố Cần Thơ luôn nổ lực phấn đấu không ngừng trên tất cả các
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực hoạt động đối ngoại – một trong những lĩnh vực
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình, độc lập dân tộc



×