Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Công tác quản lý hoạt động đầu tư của Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh Lạng Sơn Thực trạng và giải pháp .doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.76 KB, 107 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lạng Sơn là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía đông bắc của Tổ quốc, điểm đầu của
con đường huyết mạch ( quốc lộ 1A) nối Việt Nam với nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa và từ đó đến với các nước châu Âu, đồng thời cũng là con đường quan
trọng nối Trung Quốc với các nước ASEAN. Với vị trí địa lý thuận lợi về kinh tế và
vô cùng quan trọng về an ninh - quốc phòng, Lạng Sơn trở thành đầu mối quan trọng
trong giao lưu kinh tế, văn hoá – xã hội và hợp tác kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó,
Lạng Sơn tự hào có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nhiều địa danh đã đi vào
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, có truyền thống văn hoá mang đậm bản
sắc của dân tộc.
Trong mấy năm vừa qua bằng quyết tâm của mình, nhân dân các dân tộc
Lạng Sơn đã vượt qua được những chặng đường khó khăn, thách thức đã tạo được
những chuyển biến vượt bậc đưa nền kinh tế - xã hội phát triển giữ vững ổn định an
ninh chính trị; từng bước chuyển dịch nền kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển lĩnh
vực thương mại dụch vụ, chú trọng đầu tư phát triển các ngành công nghiệp nhất là
công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, hoạt động đầu tư ngày càng phát triển
tạo ra môi trường đầu tư công khai và minh bạch, ngày càng thu hút được nhà đầu
tư trong nước cũng như nhà đầu tư nước ngoài góp phần năng cáo chất lượng đời
sống của ngưòi dân, thúc đẩy nền kinh tế của Tỉnh cũng như của cả nước ngày càng
phát triển lên một tầm cao mới.
Để đạt được những thành tựu ấy, không thể không kể đến vai trò hết sức qua
trọng của Sở Kế hoạch và đầu tư. Nhằm xem xét và đánh giá công tác quản lý hoạt
động đầu tư của Sở kế hoạch và đầu tư Tỉnh lạng sơn, em đã nghiên cứu và viết đề
tài “ Công tác quản lý hoạt động đầu tư của Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh Lạng
Sơn: Thực trạng và giải pháp”. Đề tài đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như: Phương pháp thu thập và phân tích số liệu, phương pháp xử lý số liệu thứ cấp
và phương pháp so sánh. Kết cấu đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm ba
chương sau:
Chương I: khái quát về hoạt động quản lý đầu tư. Chương này nhằm nêu
khái niệm, nội dung, phương pháp và công cụ quản lý đầu tư.
Chương II:: Thực trạngcông tác quản lý đầu tư tỉnh Lạng Sơn giai đoạn


2007 - 2009. Chương này chủ yếu nêu lên tình hình thực hiện công tác quản lý đầu
tư của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Lạng Sơn trong các năm từ năm 2007 đến 2009,
kèm theo các phân tích, nhận xét và đánh giá.
Chương II: Định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả
quản lý đầu tưcủa Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Lạng Sơn. Trong chương này, em xin
đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý đầu tư của Sở Kế hoạch
và Đầu tư Tỉnh Lạng Sơn trong thời gian tới.
CHƯƠNG I: KHÁT QUÁT VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẦU TƯ
I. Khái niệm, mục tiêu về nguyên tắc quản lý đầu tư
1. Khái niệm quản lý đầu tư
Đầu tư là hoạt động có tính liên ngành. Quản lý đầu tư là công tác phức tạp
nhưng là yêu cầu khách quan nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Quản lý theo nghĩa
chung là sự tác động có mục đích của chủ thể vào đối tượng quản lý nhằm đạt được
các mục tiêu quản lý đã đề ra . Quản lý đầu tư là sự tác động liên tục, có tổ chức định
hướng mục tiêu vào quá trình đầu tư ( bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện
đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư) và các yếu tố đầu tư,bằng một hệ thống đồng
bộ các biện pháp kinh tế - xã hội, các tổ chức kỹ thuật và các biện pháp khác nhằm
đạt được kết quả và hiệu quả đầu tư cao nhất , trong điều kiện cụ thể xác định và trên
cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật khách quan và những quy luật đặc thù của
đầu tư.
2. Mục tiêu của quản lý đầu tư.
Mục tiêu của quản lý đầu tư trên giác độ vĩ mô
Trên giác độ vĩ mô, quản lý đầu tư nhằm đáp ứng những mục tiêu sau:
- Thực hiện thành công mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội từng
thời kỳ của quốc gia, từng ngành và từng địa phương. Đối với nước ta trong thời kì
hiện nay đầu tư nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại
hóa, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sông vật chất, tinh thần của
người lao động như đại hội X đã chỉ ra.
- Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, các nguồn tài

lực, vật lực của ngành, địa phương và xã hội. Đầu tư và sử dụng nhiều loại nguồn
vốn trong và ngoài nước, vốn nhà nước và tư nhân, vốn bằng tiền và hiện vật… quản
lý đầu tư là nhằm sử dụng hợp lý, tiết kiệm và khai thác có hiệu quả từng loại nguồn
vốn tài nguyên thiên nhiên đất đai, lao động và các tiềm năng khác. Đồng thời, quản
lý đầu tư gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái chống lại mọi hành vi tham ô lãng
phí trong sử dụng vốn đầu tư và khai thác các kết quả đầu tư.
- Thực hiện đúng những quy định pháp luật và yêu cầu kinh tế - kỹ thuật trong
lĩnh vực đầu tư: quản lý vĩ mô đối với hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo cho quá trình
thực hiện đầu tư, xây dựng công trình theo đúng thiết kế được duyệt đảm bảo sự bền
vững và mỹ quan, áp dụng công nghệ tiên tiến đảm bảo chất lượng và thời hạn xây
dựng với chi phí hợp lý.
Mục tiêu quản lý đầu tư của từng cơ sở
Mục tiêu quản lý đầu tư ở từng cơ sở là nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu
hoạt động, chiến lược của đơn vị mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, nâng cao năng
xuất lao động, đổi mới công nghệ và tiết kiệm chi phí…
Mục tiêu quản lý đối với từng dự án
Đối với từng dự án đầu tư, quản lý đầu tư là nhằm thực hiện đúng mục tiêu
của dự án, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư trên cơ sở thực hiện đúng tiến
độ thời gian đã định, trong phạm vi chi phí được duyệt với tiêu chuẩn hoàn thiện cao
nhất.
3. Các nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư
Nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư tuân theo những nguyên tắc của quản lý
kinh tế nói chung và được vận dụng với quản lý đầu tư ở tầm vĩ mô và vi mô. Dưới
đây trình bày một số nguyên tắc chính :
Thống nhất chính trị và kinh tế, kết hợp hài hòa giữa hai mặt kinh tế và xã hội
Thống nhất chính trị và kinh tế, kết hợp giữa kinh tế và xã hội là một đòi hỏi
khách quan vì kinh tế quyết định chính trị và chính trị là biểu hiện tập trung của kinh
tế, có tác trở lại đối với sự phát triển của kinh tế.
Trên giác độ quản lý vĩ mô hoạt động đầu tư, nguyên tắc “Thống nhất giữa

chính trị và kinh tế , kết hợp giữa kinh tế và xã hội” thể hiện ở vai trò quản lý của nhà
nước, thể hiện trong cơ chế quản lý đầu tư, cơ cấu đầu tư (đặc biệt là cơ cấu thành
phần kinh tế và vùng lãnh thổ), chính sách bảo vệ môi trường , bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, thể hiện thông qua việc giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội giữa phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng và giữa
yêu cầu phát huy nội lực và tăng cường hợp tác quốc tế trong đầu tư .
Đối với các cơ sở , nguyên tắc đòi hỏi phỉ đảm bảo quyền lợi cho người lao
động, doanh lợi cho cơ sở, đồng thời phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà
nước và xã hội .
Tập trung dân chủ
Quản lý hoạt động đầu tư vừa phải đảm bảo nguyên tắc tập trung lại vừa đảm
bảo yêu cầu dân chủ. Nguyên tắc tập trung đòi hòi công tác quản lý đầu tư cần tuân
theo sự lãnh đạo thống nhất từ một trung tâm, đồng thời phát huy cao tính chủ động
sáng tạo của địa phương , các ngành và của các cơ sở. Nguyên tắc tập trung dân chủ
đòi hỏi khi giải quyết bất cứ một vấn đề gì phát sinh trong quản lý đầu tư , một mặt
phải dựa vào ý kiến, nguyện vọng, lực lượng và tinh thần chủ động sáng tạo của các
đối tượng quản lý ( các cơ sở các bộ phận ), mặt khác đòi hỏi phải có một trung tâm
quản lý tập trung thống nhất với mức độ phù hợp để không xảy ra tình trạng vô chủ
trong quản lý nhưng cũng đảm bảo không ôm đồm, quan liêu cửa quyền.
Vấn đề đặt ra là phải xác định rõ nội dung, mức độ và hình thức tập trung và
phân cấp quản lý. Trong nền kinh tế thị trường XHCN nước ta, sự can thiệp của nhà
nuớc nhằm điều chỉnh tính tự phát của thị trường, đảm bảo định hướng XHCN. Nhà
nước tập trung thống nhất quản lý một số lĩnh vực kinh tế then chốt nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu kinh tế xã hội mà đại hội Đảng X đề ra. Mặt khác, quan tâm đến
lợi ích người lao động là những động lực quan trọng đảm bảo cho sự thành công của
các hoạt động kinh tế xã hội. Trong hoạt động đầu tư, nguyên tắc tập trung dân chủ
được vận dụng hầu hết các khâu công việc, từ lập kế hoạch đến thực hiện kế họạch, ở
việc phân cấp quản lý và phân công trách nhiệm, ở cơ cấu bộ máy tổ chức với chế độ
một thủ trưởng chịu trách nhiệm và sự lãnh đạo tập thể, ở quá trình ra quyết định đầu
tư….

Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ
Chuyên môn hóa theo ngành và phân bố sản xuất theo vùng lãnh thổ là yêu
cầu khách quan của nguyên tắc quản lý đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ. Đầu tư là
một cơ sở quản lý kinh tế kỹ thuật của cả cơ quan chủ quản (ngành) và của cả địa
phương. Các cơ quan bộ và ngành hay kỹ thuật của ngành hay tổng cục của Trung
ương chịu trách nhiệm quản lý chủ yếu những vấn đề kỹ thuật của ngành mình cũng
như quản lý của nhà nước về mặt kinh tế đối với hoạt động đầu tư thuộc ngành theo
sự phân công và phân cấp của nhà nước. Mặt khác các cơ quan địa phương chịu
trách nhiệm quản lý về mặt hành chính và xã hội cũng như thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về kinh tế đối với các hoạt động đầu tư diễn ra ở địa phương theo mức
độ được nhà nước phân cấp.
Trong hoạt động đầu tư, để thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành
và lãnh thổ phải giải quyết hàng loạt như: xây dựng các kế hoạch quy hoạch và định
hướng, xác định cơ cấu đầu tư hợp lý theo ngành và vùng lãnh thổ, giữa các hoạt
động đầu tư của các bộ, ngành và địa phương… việc kết hợp quản lý đầu tư theo địa
phương và ngành cho phép tiết kiệm hợp lý chi phí vận chuyển góp phần năng cao
hiệu quả đầu tư xã hội.
Kết hợp hài hòa giữa các lợi ích trong đầu tư
Đầu tư tạo ra lợi ích. Có nhiều lợi ích như lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, lợi
ích nhà nước tập thể và cá nhân, lợi ích trực tiếp và gián tiếp, lợi ích trước mắt và lâu
dài … thực tiễn hoạt động kinh tế cho thấy, lợi ích kinh tế là động lực quan trọng
thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế. Tuy nhiên lợi ích kinh tế của các đối tưọng khác
nhau, vừa có tính thống nhất vừa có mâu thuẫn. Do đó kết hợp hài hòa lợi ích của
mọi đối tượng trong hoạt động kinh tế nói chung, đầu tư nói riêng sẽ tạo động lực và
những điều kiện làm cho nền kinh tế phát triển vững chắc và ổn định
Trên giác độ nền kinh tế, sự kết hợp này được thực hiện thông qua các chương
trình định hướng phát triển kinh – xã hội, chính sách đòn bẩy kinh tế, các chính sách
đối với người lao động …
Trong hoạt động đầu tư, kết hợp hài hòa các lợi ích thể hiện sự kết giữa lợi ích
của xã hội mà đại diện là nhà nước với lợi ích của các cá nhân và tập thể người lao

động, giữa lợi ích của chủ đầu tư, nhà thầu các cơ quan thiết kế, tư vấn dịch vụ đầu
tư và người hưởng lợi. Sự kết hợp này được đảm bằng các chính sách của nhà nước,
sự thỏa thuận theo hợp đồng giữa các đối tượng tham gia quá trình đầu tư cạnh tranh
của thị trường thông qua luật định.Tuy nhiên, đối với một số hoạt động đầu tư và
trong những môi trường nhất định, giữa lợi ích của nhà nước và các thành viên tham
gia có thể mâu thuẫn nhau.Lợi ích của nhà nước bị xâm phạm. Do vậy quản lý nhà
nước cần có những quy chế , biện pháp để ngăn chặn mặt tiêu cực . Tiết kiệm và
hiệu quả
Trong đầu tư tiết kiệm và hiệu quả thể hiện ở chỗ: với một lượng vốn đầu tư
nhất định phải đem hiệu quả kinh tế xã hội đã dự kiến với chi phí đầu tư thấp nhất.
Biểu hiện tập trung của nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý hoạt
động đầu tư của các cơ sở là đạt được lợi nhuận cao, đối với xã hội là gia tăng sản
phẩm quốc nội và giá trị gia tăng, tăng thu nhập cho người lao động và nâng cao chất
lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, giáo dục và gia tăng phúc
lợi công cộng …
II . Nội dung, phương pháp và công cụ quản lý đầu tư
1. Nội dung quản lý đầu tư
1.1 Nội dung quản lý đầu tư của nhà nước
Nhà nước XHCN thực hiện chức năng quản lý kinh tế của mình trong đó có
việc quản lý hoạt động đầu tư. Nhà nước thống nhất quản lý đầu tư với các nội dung
sau đây :
- Nhà nước xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp và những văn bản dưới
luật liên quan đến hoạt động đầu tư. Nhà nước ban hành, sửa đổi bổ sung Luật Đầu
tư và các luật liên quan như : Luật Thuế, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu … và các văn
bản dưới luật nhằm, một mặt khuyến khích hoạt động đầu tư, mặt khác đảm bảo cho
đầu tư hoạt động đúng luật và đạt hiệu quả cao.
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư. Trên cơ sở chiến lược quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của đất nước của ngành và của địa phương và
của lãnh thổ, xây dựng các quy hoạch, kế hoạch đầu tư trong đó, rất quan trọng là
việc xác định nhu cầu vốn, các giải pháp huy động vốn … Từ đó xác định danh mục

các dự án ưu tiên.
- Ban hành kịp thời các chính sách chủ trương đầu tư. Nhà nước ban hành các
chính sách, chủ trương quan trọng như chính sách tài chính tiền tệ, tín dụng linh hoạt,
chính sách ưu đãi đầu tư… nhằm cải thiện môi trường và thủ tục đầu tư; Nhà nước đề
ra các giải pháp nhằm huy động tối đa và pháp huy có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu
tư đặc biệt vốn trong dân và vốn đầu tư nước ngoài; trên cơ sở đó phân tích đánh giá
hiệu quả của hoạt động đầu tư, kịp thời điều chỉnh bổ sung những bất hợp lý, chưa
phù hợp trong cơ chế, chính sách.
- Ban hành các biện pháp - kỹ thuật, các chuẩn mực đầu tư. Nhà nước mà đại
diện là ngành thống nhất quản lý các định mức kinh tế - kỹ thuật liên quan đến ngành
mình như ban hành những quy định về yêu cầu thiết kế thi công, tiêu chuẩn chất
lượng môi trường…
- Xây dựng chính sách cán bộ thuộc lĩnh vực đầu tư. Nhà nước xây dựng
chính sách cán bộ, đào tạo huấn luyện đội ngũ cán bộ chuyên môn chuyên sâu cho
từng lĩnh vực của hoạt đông đầu tư.
- Đề ra chủ chương và chính sách hợp tác đầu tư với nước ngoài để chuẩn bị
các nguồn lực tài chính, vật chất và nhân lực để hợp tác có hiệu quả cao.
- Thực hiện chức năng kiểm tra giám sát. Các cơ quan quản lý nhà nước thực
hiện chức năng quản lý việc tuân thủ pháp luật của các chủ đầu tư , xử lý những vi
phạm pháp luật, quy định của nhà nước cam kết của chủ đầu tư ( như chuyển
nhượng, bổ sung hoạt động tăng vốn để đầu tư chiều sâu, gia hạn thời gian hoạt động
giải thể … )
- Quản lý trực tiếp nguồn vốn nhà nước. Nhà nước đề ra các giải pháp để quản
lý và sử dụng nguồn vốn nhà nước từ khâu xác định chủ trương đầu tư. Phân phối
vốn đến việc thi công xây dựng và vận hành công trình. Đối với các dự án đầu tư
nhóm A sử dụng vốn ngân sách nhà nước thủ tướng chính phủ ra quyết định đầu tư
hoặc ủy quyền quyền quyết định đầu tư, thẩm định dự án.
1.2 Nội dung quản lý đầu tư bộ ngành và địa phương
- Các Bộ, Ngành, địa phương xây dựng chiến lược, quy hoạch đầu tư cho Bộ,
Ngành và địa phương mình.

- Xác định danh mục các dự án đầu tư của ngành địa phương
- Xây dựng các kế hoạch huy động vốn.
- Hướng dẫn các nhà đầu tư thuộc ngành, địa phương mình lập dự án tiền khả
thi và khả thi.
- Ban hành những văn bản quản lý thuộc ngành mình địa phương mình liên
quan đến đầu tư.
- Lựa chọn đối tác, đàm phán ký hợp đồng liên doanh liên kết trong hợp tác
đầu tư với nước ngoài .
- Trực tiếp kiểm tra giám sát quá trình hoạt động của các dự án thuộc ngành,
địa phương theo chức năng nhiệm vụ được phân cấp quản lý.
- Hỗ trợ và trực tiếp xử lý những vấn đề pháp sinh trong quá trình đầu tư như
cấp đất, giải phóng mặt bằng, thuê và tuyển dụng lao động, xây dựng công trình …
- Kiến nghị với cấp trên điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những bất hợp lý trong
cơ chế chính sách, quy định dưới luật …nhằm năng cao hiệu quả quản lý nhà
nước và hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư.
2. Phương pháp quản lý hoạt động đầu tư
Cũng như các hoạt động kinh tế khác, quản lý hoạt động đầu tư cũng bao gồm
các phương pháp như phương pháp kinh tế, giáo dục, hành chính các phương pháp
toán thống kê…
2.1 Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế trong quản lý là phương pháp tác động của chủ thể vào
đối tượng quản lý bằng các chính sách và đòn bẩy kinh tế như tiền lương, tiền
thưởng, tiền phạt, giá cả, lợi nhuận, tín dụng, thuế…Quản lý hoạt động đầu tư bằng
phương pháp kinh tế, nghĩa là, thông qua các chính sách và đòn bẩy kinh tế để hướng
dẫn, kích thích động viên và điều chỉnh các hành vi của các đối tượng tham gia quá
trình thực hiện đầu tư theo một mục tiêu nhất định của nền kinh tế xã hội. Như vậy,
phương pháp kinh tế trong quản lý chủ yếu dựa vào lợi ích kinh tế của đối tượng
tham gia vào quá trình đầu tư, kết hợp hài hòa lợi ích của nhà nước, xã hội với lợi ích
của tập thể và cá nhân người lao động trong lĩnh vực đầu tư.
2.2 Phương pháp hành chính

Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý được sử dụng cả trong lĩnh
vực xã hội và kinh tế. Phương pháp hành chính là cách thức tác động trực tiếp của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng những văn bản, chỉ thị, những quy định
về tổ chức…
Phương pháp hành chính trong quản lý được thể hiện ở hai mặt: Mặt tĩnh và
mặt động
- Mặt tĩnh thể hiện ở những tác động có tính ổn định về mặt tổ chức thông qua
việc thể chế hóa tổ chức ( gồm cơ cấu tổ chức va chức năng quản lý) và tiêu chuẩn
hóa tổ chức(định hướng và tiêu chuẩn tổ chức)
- Mặt động của phương pháp là sự tác động thông qua quá trình điều khiển tức
thời khi xuất hiện những vấn đề cần giả quyết trong quá trình quản lý. Phương pháp
hành chính có ưu điểm là giải quyết trực tiếp và nhanh chóng những vấn đề cụ thể,
nhưng cũng đẫn đến tình trạng quan liêu máy móc, bộ máy hành chính cồng kềnh và
độc đoán.
2.3 Phương pháp giáo dục
Theo lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất quyết định ý thức
nhưng ý thức lại tác động tích cực hay tiêu cực trở lại đối với vật chất.
Trong quản lý, con người là đối tượng trung tâm. Các hành vi kinh tế đều xảy
ra dưới tác động của con người với động cơ là lợi ích vật chất và tinh thần khác nhau,
với mức độ giác ngộ, trách nhiệm công đân và ý thức dân tộc không giống nhau, với
những quan điểm nghề nghiệp và trình độ kiến thức quản lý kinh tế cũng khác nhau.
Do đó, để đạt mục tiêu và yêu cầu quản lý, phương pháp giáo dục cần được
coi trọng. Phải giáo dục, hướng các cá nhân phát triển theo hướng có lợi cho sự phát
triển chung của toàn xã hội. Ngoài ra, phương pháp giáo dục trong hệ thống các
phương pháp giáo dục trong hệ thống các phuơng pháp quản lý nền kinh tế thị trưòng
XHCN còn nhằm mục đích xây dựng con người mới XHCN Việt Nam.
Nội dung các phương pháp giáo dục trong quản lý bao gồm giáo dục về thái
độ đối với lao động, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, khuyến khích
phát huy sáng kiến, giữ gìn uy tín đối với chủ đầu tư, khách hàng và người tiêu
dùng

. Khác với nhiều lĩnh vực khác, những nội dung này đặc biệt quan trọng
trong quản lý đầu tư vì lao động xây dựng có đặc thù là đòi hỏi chuyên môn
cao, đa nghề lại di chuyển thường xuyên theo địa điểm thực hiện dự án và đòi
hỏi tính tự giác cao Giáo dục ý thức và trách nhiệm phải luôn đi đôi với việc
khuyến khích lợi ích vật chất.
3.Các công cụ quản lý hoạt động đầu tư
Có nhiều công cụ quản lý hoạt động đầu tư. Dưới dây là những công cụ quản
lý chủ yếu:
Các quy hoạch tổng thể và chi tiết . Các quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi
tiết của ngành và địa phương về đầu tư và xây dựng là những công cụ quan trọng
được sử dụng để quản lý hoạt động đầu tư.
Các kế hoạch: các kế hoạch định hướng và một số kế hoạch trực tiếp về đầu
tư của ngành và đơn vị.
Hệ thống luật pháp: hệ thống luật pháp liên quan và thường được áp dụng để
quản lý hoạt động đầu tư như: Luật Đầu tư, Luật Công ty, Luật Xây dựng, Luật Đất
đai, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Lao động, Luật Bảo hiểm, Luật Thuế, Luật Phá
sản và một loạt các văn bản dưới luật kèm theo về quản lý hoạt động đầu tư như các
quy chế về quản lý tài chính, vật tư thiết bị, lao động, tiền lương, sử dụng đất đai và
tài nguyên khác…
Các định mức và tiêu chuẩn: Các định mức và tiêu chuẩn quan trọng có liên
quan đến hoạt động quản lý đầu tư và lợi ích của toàn xã hội.
Danh mục các dự án đầu tư.
Các hợp đồng kinh tế, các hợp đồng ký kết với các cá nhân và đơn vị thực
hiện các công việc của dự án.
Các chính sách và đòn bẩy kinh tế. Những chính sách và đòn bẩy kinh tế quan
trọng thường được áp dụng để quản lý hoạt động đầu tư bao gồm: chính sách giá cả
tiền lương, tài chính tín dụng, chính sách khuyến khích đầu tư…những thông tin cần
thiết. Các thông tin về tình hình cung cầu, kinh nghiệm quản lý, giá cả , các tài liệu
phân tích đánh giá kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư và các thông tin khác có
liên quan đến đầu tư.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA SỞ
KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
I. Tình hình hoạt động đầu tư của tỉnh Lạng Sơn
1. Giới thiệu tổng quan điều kiện tự nhiên- kinh tế xã hội tỉnh lạng sơn
1.1.Về vị trí địa lý
Lạng Sơn nằm ở điểm nút giao lưu kinh tế quan trọng với các điểm phía tây là
Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái nguyên. Phía đông là Quảng Ninh, Hải Phòng. Phía nam là
Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội. Phía bắc tiếp giáp với khu tự trị dân tộc Choang,
Quảng Tây, Trung Quốc, với 2 cửa khẩu quốc tế là cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị,
đường sắt Đồng Đăng, 2 cửa khẩu quốc gia là Bình Nghi và Chi Ma và 7 điểm chợ
biên giới. Tại hầu hết các khu vực cửa khẩu đã được đầu tư cơ sở hạ tầng thuận lợi
cho việc xuất nhập khẩu hàng hóa và xuất nhập cảnh khách du lịch. Tỉnh Lạng Sơn
có hệ thống giao thông rất thuận lợi, có các đường quốc lộ đi qua là 1A, 1B, 4A, 4B,
3B, 279 và đường sắt liên vận quốc tế nối các nước Đông, Bắc Âu- Trung Quốc- Việt
Nam- các nước ASEAN. Theo quy hoạch phát triển tuyến hành lang kinh tế: Lạng
Sơn- Hải Phòng- Quảng Ninh, Lạng sơn là trung tâm đầu mối của tuyến hành lang
kinh tế và trong tương lai sẽ là một đỉnh của tứ giác phát triển trọng điểm vùng Bắc
bộ là: Lạng Sơn- Hải Phòng- Quảng Ninh.
Với vị trí đặc biệt thuận lợi, để phát huy lợi thế so sánh trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, ngày 14/10/2008, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số
138/2008/QĐ-TTg về việc thành lập và ban hành quy chế hoạt động của khu kinh tế
cửa khẩu Đồng Đăng- Lạng Sơn với các chính sách đầu tư rộng mở, cơ chế quản lý
đặc thù sẽ là nhân tố đột phá thúc đẩy kinh tế Lạng Sơn phát triển.
1.2. Về phát triển kinh tế
Phát triển nông lâm nghiệp
Tiềm năng đất đai của Lạng Sơn còn rất lớn, Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh
là 883.124 ha, trong đó đất có khả năng sản xuất nông lâm nghiệp là 717.202 ha,
chiếm 86%; cơ cấu đất nông lâm nghiệp như sau:
- Đất nông lâm nghiệp đang sử dụng: 68.958 ha
- Đất rừng tự nhiên: 199.236 ha

- Đất chưa có rừng: 302.057 ha 9 trong đó qy hoạch trông rừng sản xuất
250.000 ha)
Đất đai trên địa bàn chủ yếu là đất Feranit nâu đỏ, hoặc màu vàng phát triển
trên đá vôi và bồn địa phù sa; với đặc điểm của các vùng địa lý thổ nhưỡng đa dạng
nên đất đai Lạng Sơn rất phù hợp với các cây trồng như: Lúa, chè, ngô, thuốc lá, đậu
đỏ các loại, gừng…các cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả có giá trị kinh tế cao
có sản lượng lớn, ổn định như: cây hồng, cây quýt. Thảm thực vật ở Lạng Sơn rất
phong phú về chủng loại có khoảng 65 họ với 297 loài, Trong đó có các loại đặc
trưng phát triển trên núi đá và núi đất. Khả năng phát triển nông nghiệp ở Lạng Sơn
có nhiều thuận lợi, quỹ đất khá lớn; khí hậu và đất đai Lạng Sơn đặc biệt phù hợp
cho các cây lâm sản như: thông, bạch đàn, keo và các loại tre, luồng…
Đàn gia súc, gia cầm năm 2008 đạt 3600 ngàn con, cò nhiều tiềm năng để phát
triển mạnh chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm và chăn nuôi bò sữa.
Với tiềm năng nêu trên Lạng Sơn hướng tới phát triển một nền nông nghiệp
sản xuất hàng hóa. Đẩy mạnh tiến bộ ký thuật và công nghệ mới vào sản xuất gắn với
thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ưu tiên đầu tư cho các cây công nghiệp có giá trị kinh
tế cao như phát triển vùng cây ăn quả đặc sản, phát triển vùng trồng hoa, trồng cây
cảnh, vùng trồng chè. Tiếp tục phát triển lâm nghiệp nhất là các dự án trồng rừng sản
xuất. Tiếp tục phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung vào 3 loại
vật nuôi chính là bò thịt, bò sữa, thịt gia cầm nhằm khai thác tiềm năng lương thực,
rau quả trên địa bàn, tạo nguồn hàng hóa xuất khẩu và phát triển trên cơ sở chế biến
sản phẩm
Phát triển công nghiệp
Là tỉnh có nhiều tài nguyên khoáng sản như : bauxit, đá vôi, than nâu …Lạng
Sơn có thế mạnh trong việc phát triển khai khoáng , công nghiệp vật liệu xây dựng,
công nghiệp chế biến. Ngoài ra Lạng Sơn có những thuận lợi khi tận dụng lợi thế
Cửa khẩu để phát triển công nghiệp lắp ráp điện tử, cơ khí, công nghiệp chế biến
nông lâm sản…Trong tương lai gần Lạng Sơn sẽ hình thành khu gia công sản xuất
khẩu, nhập khẩu quan trọng trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh- Lạng Sơn- Hải
Phòng- Quảng Ninh. Trong quy hoạch có khu công nghiệp Đồng Bành quy mô 320

ha, khu công nghiệp Na Dương quy mô 350 ha, cụm công nghiệp Hợp Thành trên
200 ha, khu gia công Khơ Đa – Ma Mèo quy mô 150 ha, cụm công nghiệp Hữu Lũng
quy mô trên 300 ha. Quy đất dàn cho phát triển các khu cụm công nghiệp đạt 1.500
ha trở lên . Hiện nay khu công nghiệp Đồng Bành đã có quyết định thành lập và hoàn
thành quy hoạch chi tiết, đang thực hiên vận động dự án đầu tư, cụm công nghiệp
Hợp Thành và cụm công nghiệp Hữu Lũng đã hoàn thành quy hoạch chi tiết, các khu
cụm công nghiệp khác đang xây dựng quy hoạch. Các ngành nghề ưu tiên khuyến
khích đầu tư gia công, tái chế hàng nhập khẩu; công nghiệp cơ khí, điện tử; khai thác,
chế biến khoáng sản; sản xuất vật liệu xây dựng; thủy điện; nhiệt điện …
Phát triển dịch vụ
Tỉnh Lạng Sơn là tỉnh biên giới có nhiều cửa khẩu , là vùng đất có nhiều di chỉ
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc như: di chỉ văn hóa Bắc Sơn, di chỉ văn hóa Mai Pha,
các làn điệu dân ca như: Then, Lượn, Sli..., có các danh lam thắng cảnh như: động
Tam Thanh, Nhị Thanh, Thành Nhà Mạc, Núi Tô Thị, Giếng Tiên, các di tích lịch sử
như: Chi Lăng, Bắc Sơn, Đường 4…Những đặc điểm trên đã tạo lợi thế về phát triển
du lịch.
Trên thực tế lượng hàng hóa xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu của tỉnh hàng
năm đạt mức tăng trưởng trung bình trên 20%. Các loại dịch vụ phát triển nhanh như
viễn thông , tài chính tín dụng ngân hàng. Trên địa bàn tỉnh hệ thống chợ và hệ thống
bán lẻ tương đối phát triển gồm các chợ đầu mối và các chợ cửa khẩu; hiện có một số
trung tâm thương mại đang triển khai như: Trung tâm phân phối, bán sỉ và kho vận
tải tại thành phố Lạng Sơn với quy mô trên 11ha; 02 khách sạn 5 sao và 01 sân golf
18 lỗ …các tuyến du lịch hoạt động khá sôi động như : Lạng sơn- Hà Nội- Hải
Phòng- Quảng Ninh và ngược lại; Hà Nội- Lạng Sơn- Bằng Tường, Côn Minh, Bắc
Hải, Quảng Châu …( Trung Quốc); mấy năm gần đây trung bình Lạng sơn đón 1,0
triệu lượt khách và đạt tốc dộ tăng trưởng trên 18%.
Trong thời gian tới tỉnh sẽ đặc biệt ưu tiên phát triển lĩnh vực dịch vụ . Trong
triển khai thực hiện xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng- Lạng Sơn, sẽ chú
trọng thu hút đầu tư và hình thành các khu, trung tâm trung chuyển hàng hóa lớn
( gắn với khu phi thuế quan), làm cầu nối giữa Trung Quốc- Việt Namvà các nước

ASEAN. Khuyến khích các nhà đầu tư tiếp tục đầu tư các Trung tâm thương mại,
trung tâm hội trợ triển lãm quốc tế và hệ thống khách sạn cao cấp, các khu nghỉ mát
sinh thái.
Với lợi thế gần thủ đô Hà Nội, nằm sát vùng kinh tế trọng điểm phía bắc có
tuyến đường cao tốc nối sang Nam Ninh ( thủ phủ của Quảng Tây), đường thông ra
biển Quảng Ninh, Hải Phòng rất thuận lợi; tỉnh Lạng Sơn có nhiều cơ hội để phát
triển thương mại và dịch vụ.
1.3 Về phát triển các lĩnh vực xã hội
Tỉnh tập trung cho công tác nâng cao chất lưọng nguồn nhân lực, chất lượng
đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Ưu tiên các dự án đầu tư và lĩnh vực
giáo dục, khuyến khích và dành ưu đãi cho các dự án liên danh, liên kết đào tạo trong
và ngoài nước các cấp học, bậc học ngành học ( gồm cả học phổ thông và học nghề).
Đặc biệt khuyến khích dự án đầu tư xây dựng trường Đại học Lạng Sơn, trường
Quốc tế Lạng Sơn ( trong tất cả các bậc học).
Trong lĩnh vực y tế: khuyến khích thành lập trung tâm y tế chất lượng cao;
bệnh viện y học cổ truyền chất lượng quốc tế . Với lợi thế là tỉnh biên giới có giao
thông thuận lợi với các tỉnh khác , khí hậu mát mẻ quanh năm và sát với Trung Quốc
có nền y học cổ truyền rất phát triển , tỉnh Lạng Sơn có cơ hội phát triển dịch vụ
khám chữa bệnh chất lượng cao đi kèm với các dịch vụ nghỉ dưỡng và phục hồi chức
năng khác.
Ngoài ra, tỉnh có nhiều di tích tín ngưỡng lâu đời như; chùa Tam Thanh, Đền
Mẫu Đồng Đăng, Chùa Tiên…tỉnh Lạng Sơn khuyến khích và lựa chọn, huy động
các hình thức xã hội hóa đầu tư để tôn tạo, trùng tu các điểm di tích tín ngưỡng phục
vụ nhu cầu đa dạng về hưởng thụ văn hóa lành mạnh của các dân tộc trong và ngoài
tỉnh nhằm phát triển các loại hình du lịch tín ngưỡng, du lịch văn hóa tâm linh….
2. Tình hình hoạt động đầu tư trong thời gian qua
Để thấy được tình hình hoạt động đầu tư của tỉnh Lạng Sơn trong thời gian
vừa qua chúng ta tiến hành phân tích quy mô và xu hướng vốn đầu tư của tỉnh trong
giai đoạn từ năm 2001- 2008
2.1. Quy mô và xu hướng vốn đầu tư

Bảng 1 : Tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh giai đoạn (2001- 2009)
Năm Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
TổngVĐT Tỷ đồng
1381 1744 2023 2256 1766 1953 2860 3830 4750
Tốc độ tăng
VĐT định gốc
%
26.29 16.00 11.52 -21.72 10.59 46.44 33.92 24,02
Tốc độ tăng vốn
đầu tư định gốc
%
26.29 46.49 63.63 27.88 41.42 107.1 177.3 243,95
Nguồn: UBND tỉnh Lạng Sơn – Báo cáo tình hình đầu tư xã hội và đầu tư từ
Nhà nước giai đoạn 2001-2009 và định hướng đầu tư trong giai đoạn tới
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh có sự biến động qua các năm,
nhìn chung là năm sau cao hơn năm trước. Tổng vốn đầu tư phát triển của Lạng Sơn
giai đoạn 2001-2009 đạt 22.563 tỷ đổng. Vốn đầu tư qua các năm có sự gia tăng
không đồng đều. Nếu năm 2001 vốn đầu tư đạt 1.381 tỷ đồng thì năm 2002 tăng gấp
1,26 lần, năm 2003 tăng gấp 1,16 lần năm 2002, năm 2004 tiếp tục tăng và gấp 1,11
lần năm 2003, như vậy từ năm 2001 đến năm 2004 vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh liên
tục gia tăng về giá trị tuyệt đối nhưng tỉ lệ gia tăng có xu hướng giảm dần. Đến năm
2005, vốn đầu tư sụt giảm khá nhiều, chỉ bằng 78,7% so với năm 2004. Nguyên nhân
là do trong năm này tỉnh tập trung ưu tiên giải quyết nợ xây dựng cơ bản tồn đọng từ
những năm trước do đầu tư dàn trải lên đến 347,21 tỷ đồng tính đến hết năm 2005
( từ năm 2004 trở về trước là 220,5 tỷ đồng ). Năm 2005 cũng là năm mà Chính phủ
lựa chọn là năm điểm để đấu tranh khắc phục thất thoát và đầu tư dàn trải và kiên
quyết giải quyết tình trạng nợ đọng trong xây dựng đồng thời các địa phương từ năm
2004 trở đi phải dùng một phần ngân sách địa phương được cấp để giải quyết nợ
đọng xây dựng từ những năm trước. Trong những năm tiếp theo ( từ năm 2006 đến
năm 2009 ), tỉnh tiếp tục giành một phần vốn trong kế hoạch mỗi năm để thanh toán

nợ xây dựng cơ bản tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
này nhất là những doanh nghiệp của tỉnh giảm bớt một phần khó khăn về tài chính,
nhưng điều chỉnh bổ sung vốn đẩy nhanh tiến độ thi công cho một số dự án cấp thiết,
công trình trọng điểm. Nhờ vậy vốn đầu tư trong những năm này lại tiếp tục gia
tăng : năm 2006 tăng gấp 1,1 lần năm 2005, năm 2007 gấp 1,46 lần năm 2006 và năm
2008 tăng gấp 1,34 lần năm 2007, năm 2009 tăng gấp 1,67 lần năm 2008
Bảng 1 còn cung cấp cho ta thêm một chỉ tiêu nữa, đó là tốc độ tăng vốn đầu
tư liên hoàn, cho biết tốc độ gia tăng vốn đầu tư của năm sau so với năm trước. Trong
giai đoạn 2001 – 2009, tốc độ gia tăng vốn đầu tư của Lạng Sơn là không đều, có
năm là âm ( năm 2005 với -21,72%) và có năm khá cao ( năm 2007 với 46,44% ).
Điều này đã được lý giải ở phần trên.
Hình 1.1: Tổng vốn đầu tư phát triển của Lạng Sơn giai đoạn 2001 – 2009
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
4500
5000
tỷ đồng
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
năm
Tổng VĐT
Tổng VĐT
2.2. Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn
Vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tỉnh có được từ nhiều nguồn khác nhau, bao

gồm 3 nguồn chủ yếu là : nguồn trong tỉnh, nguồn ngoài tỉnh và nguồn nước ngoài.
Trong giai đoạn 2001-2009, tổng vốn đầu tư huy động được trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn là 22.563 tỷ đồng ( bình quân mỗi năm huy động được khoảng 2.507 tỷ đồng ).
Để xét cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn trong giai đoạn này ta chia vốn đầu tư thành
những nguồn cơ bản sau đây:
- Vốn ngân sách Nhà nước
- Vốn doanh nghiệp Nhà nước
- Vốn doanh nghiệp và của dân
- Vốn nước ngoài
Bảng 2: Vốn đầu tư xã hội theo nguồn
( Đơn vị : tỷ đồng)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tổng cộng 1381 1744 2023 2256 1766 1953 2861 3830 4750
Vốn ngân sách nhà
nước
719 732 581 608 738 564 902 1119 1182
Vốn tín dụng đầu tư
phát triển nhà nước
42 280 665 820 70 265 365 285 131
Vốn doanh nghiệp
nhà nước
28 31 38 40 38 59 40 390 512
Vốn doanh nghiệp và
của dân
550 580 610 650 680 865 1326 1669 2351
Vốn nước ngoài 42 121 129 138 240 200 228 367 574
Bảng 3: Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn
(Đơn vị:%)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tổng cộng 100 100 100 100 101 100 100 100 100

Vốn ngân nước nhà
nước
52 42 29 27 42 29 32 29 25
Vốn tín dụng đầu tư
phát triển nhà nước
3 16 33 36 4 14 13 7 3
Vốn doanh nghiệp nhà
nước
2 2 2 2 2 3 1 10 11
Vốn doanh nghiệp và
của dân
40 33 30 29 39 44 46 44 49
Vốn nước ngoài 3 7 6 6 14 10 8 10 12
Nguồn: Niên giám thống kê Lạng Sơn

Qua bảng 2 và3 cho thấy:
Nguồn vồn ngân sách nhà nước: Nguồn vốn ngân sách nhà nước chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng vốn đầu tư đứng thứ hai sau nguồn vốn doanh nghiệp và của dân
cư. Tỷ trọng nguồn vốn ngân sách nhà nước đạt mức cao nhất vào năm 2001 (52%)
và có xu hướng giảm dần và đạt mức 25% vào năm 2009. Năm 2004 là năm mà
nguồn vốn Ngân sách ở mức thấp nhất trong tổng đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn
ngân sách nhà nước được tỉnh tập trung đầu tư hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, các
chương trình dự án trọng điểm, các khu vực kinh tế, các ngành kinh tế mũi nhọn, các
vùng kinh tế động lực để hỗ trợ các vùng kinh tế khác cùng phát triển.Tổng vốn đầu
tư từ ngân sách Nhà nước năm 2001-2009 do tỉnh quản lý là 7.145 tỷ đồng, trong đó:
- Đầu tư cho lĩnh vực nông lâm nghiệp 778.805 tỷ đồng, chiếm 10,9%
- Đầu tư lĩnh vực công nghiệp xây dựng 4679,975 tỷ đồng, chiếm 65,5%
- Đầu tư cho lĩnh vực dịch vụ 171,48 tỷ đồng, chiếm 2,4%
- Đầu tư cho các lĩnh vực xã hội 1514,74 tỷ đồng, chiếm 21,2%
Sử dụng nguồn vốn ngân sách có trên 871 công trình hạng mục công trình

được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật từng bước được củng
cố và hoàn thiện, góp phần phục vụ phát triển kinh tế xã hội , cải thiện và nâng cao
đời sống vật chất , tinh thần của nhân dân.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước:Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà
nước chiếm tỷ lệ tương đối thấp trong tổng nguồn vốn đầu tư và có xu hướng gia
tăng không đều, có năm ở mức thấp như năm 2001 là 3%, có năm lại lên khá cao như
năm 2004 chiếm 36% tổng đầu tư toàn xã hội.Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà
nước được tỉnh dùng để hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển các thành phần kinh tế
thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác dụng trực
tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. trong
thời gian gần đây nguồn vốn này được tỉnh tập trung đầu tư vào lĩnh vực Nông –
Lâm nghiệp.
Vốn Doanh nghiệp nhà nước: là thành phần kinh tế quan trọng , giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế. Nguồn vốn doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh. Xét
từ năm 2001 đến năm 2007 hầu như không biến động nhiều trong cơ cấu vốn đầu tư,
và con số tuyệt đối thì vẫn tăng qua các năm. Nhưng đến năm 2009 thì vốn DNNN
lại tăng đột biến cả về số tuyệt đối và tỉ lệ trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội ( 512
tỷ và chiếm 11% tổng vốn đầu tư ).
Vốn của khu vực dân cư và các thành phần kinh tế khác : bao gồm phần tiết
kiệm của dân cư, phần tiết kiệm của khu vực dân doanh, các hợp tác xã… đây là một
nguồn vốn quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn đầu tư của toàn tỉnh. Vốn
đầu tư của các doanh nghiệp và trong dân cư là nguồn vốn chiếm tỷ trọng hàng đầu
trong tổng vốn đầu tư lại có xu hướng tăng dần qua các năm ( cả về số tuyệt đối và tỷ
trọng ) và có xu hướng ngày càng chiếm đa số trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội của
tỉnh, nếu năm 2001 là 550 tỷ đồng thì đến năm 2009 con số này là 2.351 tỷ đồng ( tức
là gấp 3 lần ). Trong những năm vừa qua nguồn vốn của dân cư và các thành phần
kinh tế khác chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như công nghiệp, thương mại dịch
vụ, khoai thác khoáng sản, trồng rừng…Đặc biệt trong giai đoạn 2007- 2009, khu
vực doanh nghiệp của tỉnh đã mạnh dạn đầu tư vào các dự án hạ tầng đô thị, trung
tâm thượng mại, trồng rừng, khai khoáng thủy điện

Vốn đầu tư nước ngoài: Vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh cũng tăng
nhanh qua các năm, nếu năm 2001 số vốn là 42 tỷ đồng chỉ chiếm 3% thì đến năm
2009 đã tăng lên đến 574 tỷ đồng và chiếm 10% cơ cấu vốn đầu tư. Điều này nếu
xem xét trên phạm vi cả nước cũng dễ hiểu, bởi sau thời gian suy thoái kéo dài từ
năm 1999-2004 làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu tăng cao và đột
biến trong năm 2009. Hiện nay tỉnh Lạng sơn có 32 dự án có vốn đầu tư nước ngoài
còn có hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 169.870.436 USD. Tính đến tháng 6/ năm
2009 toàn tỉnh có 900 doanh nghiệp hoạt động với số vốn đăng ký đạt trên 6.500 tỷ
đồng, trong đó số doanh nghiệp nước ngoài là 28 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký
là 2000 tỷ đồng. Đặc biệt năm 2007 đánh dấu sự khởi sắc trong thu hút đầu tư của
tỉnh Lạng Sơn. Các hoạt động xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại được đẩy mạnh;
tỉnh tăng cường thực hiện trao đổi, hội đàm cấp cao giữa lãnh đạo hai tỉnh Lạng Sơn
và Quảng Tây ( Trung Quốc ), phối hợp với hai tỉnh là Cao Bằng, Bắc Kạn tổ chức
thành công hội nghị xúc tiến đầu tư vào ba tỉnh; đi đôi với đó, tỉnh tích cực cải thiện
môi trường đầu tư thông qua các nỗ lực cải cách hành chính, cụ thể hoá các chính
sách đầu tư, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án hạ tầng, và hoàn thành các đề án,
dự án quy hoạch phục vụ cho phát triển kinh tế. Nhờ vậy mà số dự án đầu tư vào tỉnh
đã tăng lên vượt bậc, ví dụ như trong 9 tháng đầu năm 2007 ( tức là ngay trong năm
triển khai các kế hoạch thu hút vốn ở trên ) đã có 95 doanh nghiệp được thành lập với
tổng số vốn đăng ký đạt 175,2 tỷ đồng và cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 18 dự án,
tổng vốn là 2.448 tỷ đồng, trong đó có một số dự án lớn như: 5 dự án Thuỷ điện; dự
án Trung tâm thương mại và Kho vận; dự án Khách sạn 5 sao tại thành phố Lạng
Sơn; dự án tổ hợp thể thao, giải trí; dự án Khai thác và chế biến quặng Bô xít…
Đối với các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào tỉnh chủ
yếu là các dự án có chủ đầu tư đến từ Trung Quốc, Hồng Kông, Ma cao và Hàn Quốc
tập trung vào khai thác các thế mạnh của tỉnh như: trồng rừng, khai thác và chế biến
khoáng sản, các dịch vụ như bán hàng miễn thuế, trung tâm thương mại…góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, phù hợp với quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa, tăng thu ngân sách và phát triển kinh tế xã hội.
Đối với các dự án sử dụng vốn ODA đầu tư chủ yếu vào các lĩnh vực hệ

thống thủy lợi, thực hiện các chương trình y tế như cung cấp một số trang thiết bị cho
tuyến y tế cấp thôn, xã phường, cho vay tín dụng thông qua Hội phụ nữ quản lý, bảo
vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội, kế hoạch hóa gia đình, hướng nghiệp cho
thanh niên…
Tuy nhiên vốn nước ngoài còn chiếm một tỷ lệ khá nhỏ trong cơ cấu vốn đầu
tư ở Lạng Sơn, năm cao nhất là năm 2005 chiếm 14% còn năm thấp nhất là năm 2001
với 3%. Trong những năm gần đây, với nỗ lực của tỉnh con số này có xu hướng tăng
lên, như trong năm 2009 đã tăng cả về tỷ trọng lẫn số tuyệt đối, đây là một tín hiệu
đáng mừng trong việc huy động vốn phục vụ đầu tư phát triển của tỉnh.
2.3 Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành, lĩnh vực
Bảng 4 : Vốn đầu tư toàn xã hội của Lạng Sơn phân theo ngành, lĩnh
vực giai đoạn 2001-2009 ( Đơn vị: Tỷ đồng)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Nông -lâm nghiệp 66 74 79 89 93 109 112 120 130
Công nghiệp và
xây dựng
282 355 1248 685 441 484 776 1350 1872
Dịch vụ- du lịch 1033 1315 696 1482 1232 1360 1972 2360 2748
Tổng VĐT xã hội 1381 1744 2023 2256 1766 1953 2860 3830 4750
Nguồn: Niên giám thống kê Lạng Sơn
Bảng 5: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội của Lạng Sơn phân theo ngành,
lĩnh vực giai đoạn 2001-2009
(Đơn vị: %)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Nông- Lâm
nghiệp
4,78 4,42 3,91 3,95 5,27 5,58 3,92 3,13 2,74
Công nghiệp
và xây dựng
20,42 20,36 61,69 30,36 24,97 24,78 27,13 35,25 39,41

Dịch vụ- du
lịch
74,8 75,4 34,4 65,69 69,76 69,64 68,95 61,62 57,85
Tổng vốn đầu
tư xã hội
100 100 100 100 100 100 100 100 100
Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê Lạng Sơn
Nhìn vào hai bảng trên, ta có thể đánh giá sơ bộ rằng vốn đầu tư ở Lạng Sơn
trong thời gian qua tập trung nhiều nhất vào khu vực Dịch vụ, sau đó đến khu vực
công nghiệp và xây dựng còn khu vực Nông – lâm ngư nghiệp nhận được ít vốn đầu
tư nhất. Nhìn chung, vốn đầu tư vào mỗi khu vực có xu hướng tăng lên theo thời gian
về số tuyệt đối. Để có một phân tích kỹ càng hơn, chúng ta hãy xem xét đến tốc độ
tăng vốn đầu tư liên hoàn của từng khu vực
Bảng 6 : Tốc độ tăng vốn đầu tư liên hoàn từng ngành, lĩnh vực của
Lạng Sơn giai đoạn 2001-2009
(Đơn vị: %)
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Nông –lâm nghiệp 12,12 6,76 12,66 4,49 17,2 2,75 7,14 8,33
Công nghiệp - xây dựng 25,89 251,55 -45,11 -35,62 9,75 60,33 73,96 38,66
Dịch vụ - du lịch 27,3 -47,07 112,93 -16,87 10,39 45 19,68 16,44
Tổng vốn đầu tư 26,29 16 11,52 -21,72 10,59 46,44 33,92 24,02
Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê Lạng Sơn
Điểm nổi bật nhất qua bảng trên đó là sự biến động của vốn đầu tư vào mỗi
ngành qua các năm, và sự biến động đó có liên quan khá chặt chẽ với tốc độ tăng
trưởng liên hoàn của vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh Lạng Sơn. Năm 2005 là năm mà
lượng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh sụt giảm rất nhiều so với những năm khác
trong kỳ nghiên cứu, kéo theo sự suy giảm của vốn đầu tư vào hai khu vực Công
nghiệp – xây dựng và Dịch vụ - du lịch. Năm 2007 và 2009 là ba năm mà lượng vốn
đầu tư vào Lạng Sơn tăng trở lại thì đồng thời vốn đầu tư cho hai khu vực trên cũng
tăng trưởng tương đối cao.

Tốc độ tăng cao nhất thuộc về khu vực Công nghiệp và xây dựng trung bình
tăng 45,6%/năm. Có thể nói giai đoạn 2001-2009 là giai đoạn mà Lạng Sơn đầu tư
nhiều vào xây dựng kết cấu hạ tầng và một số nhà máy công nghiệp. Năm 2003,
lượng vốn đầu tư vào khu vực này tăng đột biến lên đến 251,55 % tuy nhiên tổng
vốn đầu tư toàn xã hội lại không tăng mạnh do đó kéo theo sự sụt giảm của vốn đầu
tư vào khu vực dịch vụ. Đứng thứ hai là khu vực Dịch vụ - du lịch với 18,92%/năm,
đây đồng thời cũng là khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu vốn đầu tư của
tỉnh. Cuối cùng là khu vực Nông – lâm ngư nghiệp với 7,9%/năm.
Với sự gia tăng của quy mô vốn đầu tư trong giai đoạn ( 2001- 2009), đặc biệt
với sự gia tăng của nguồn vốn khu vực doanh nghiệp và dân cư, vốn đầu tư nước
ngoài. Và sự chuyển biến tích cực nguồn vốn đầu tư đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp,
thương mại dịch vụ của Lạng Sơn trong thời gian vừa qua cho ta thấy hoạt động đầu tư
của Lạng Sơn ngày càng sôi động hơn, thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trong
và ngoài nước. Đặc biệt với sự nỗ lực của UBND tỉnh Lạng Sơn trong việc xây dựng
các chính sách thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư, trong tương lai Lạng
Sơn sẽ là một miền đất hứa đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước.
II. Tổng quan về Sở Kế hoạch và Đầu tư Lạng Sơn
1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngày 31-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nuớc
Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra sắc lệnh số 78-SL thành lập Uỷ ban nghiên cứu kế
hoạch kiến thiết, nhằm nghiên cứu soạn thảo một kế hoạch kiến thiết quốc gia về các
ngành kinh tế, tài chính, xã hội, văn hoá trình Chính phủ. Cùng với sự ra đời ngành
kế hoạch của cả nước, Ban Kế hoạch tỉnh Lạng Sơn cũng được thành lập do một
đồng chí Uỷ viên thuờng trực Uỷ ban nhân dân tỉnh phụ trách, với số lượng ban đầu
có một ít cán bộ nhân viên được điều động ở các ngành về. Ban Kế hoạch được giao
nhiệm vụ xây dựng kế hoạch 3 năm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
(1955-1957), trong đó tập trung vào kế hoạch phục hồi, củng cố và phát triển nông
nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp, văn hoá, giáo dục, y tế, ... vừa củng cố lực
lượng, vừa xây dựng kế hoạnh, đồng thời tiến hành kiểm tra, đôn đốc các đơn vị cơ
sở triển khai thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu đề ra.

Thời kỳ xây dựng kế hoạch 3 năm (1958-1960) theo tinh thần Nghị quyết của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tháng 1 năm 1957, trong đó xác định nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, tập trung nguồn lực để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
và nông thôn, mở rộng diện tích, nâng cao năng suất các loại cây trồng nông- lâm
nghiệp, nhất là cây lương thực. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật phục
vụ thâm canh, tăng vụ; ưu tiên đầu tư phát triển thuỷ lợi, khôi phục các tuyến đường
giao thông phục vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Xây dựng các tổ đổi công
trong sản xuất nông nghiệp tiến tới xây dựng hợp tác xã, xác lập quyền làm chủ của
nhân dân lao động.
Thời kỳ xây dựng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965): Sau khi hoàn
thành việc khôi phục và phát triển kinh tế 3 năm 1957- 1960 cùng với ngành kế kế
hoạch cả nước, ngành kế hoạch Lạng Sơn lại tiếp tục xây dựng kế hoạch 5 năm phát
triển kinh tế- xã hội lần thứ nhất của tỉnh Lạng Sơn, tập trung vào sản xuất nông lâm
nghiệp, củng cố quan hệ sản xuất mới, triệt để khai thác mọi khả năng, tiềm lực của
địa phương, xây dựng kế hoạch thu mua nông sản, thực phẩm bước đầu xây dựng các
mặt hàng có khả năng xuất khẩu của địa phương như: tinh dầu hồi, gừng tươi, mặt
hàng sản xuất từ tre, trúc, thêu ren,...chú trọng phát triển công nghiệp địa phương để
phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp, đẩy mạnh công tác tài chính, tiền tệ.
Kế hoạch thời chiến (1965- 1975): chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ đã lan
rộng ra miền Bắc, chủ trương của Đảng và Nhà nước là tạm thời đình hoãn xây dựng
các công trình cơ bản lớn, tập trung xây dựng kế hoạch chuyển từ thời bình sang thời
chiến, tập trung xây dựng các công trình giao thông như: cầu, đường hầm, kho tàng
khu hậu cứ, các cô sở sơ tán, trường học, bệnh viện, cơ quan, xí nghiệp, đảm bảo hậu
cần phục vụ cho chiến đấu cung cấp tại chỗ và cho địa phương. Cơ quan kế hoạch lúc
này thực sự là bộ máy tham mưu đắc lực cho Tỉnh uỷ và UBND tỉnh, nắm bắt tình
hình kịp thời, chính xác, bảo đảm vừa xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội
vừa bảo đảm kế hoạch chiến đấu trước mắt và lâu dài. Lạng Sơn được xác định là
cảng nổi của cả nước. Công tác kế hoạch lúc này phải đảm bảo cho nhiệm vụ lãnh
đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh trên các lĩnh vực: kế hoạch sản xuất
thời chiến, kế hoạch tuyển quân, đảm bảo hậu cần, kế hoạch huy động lực lượng, tiếp

nhận các mặt hàng viện trợ phục vụ cho hậu phương và tiền tuyến qua Lạng Sơn,
đảm bảo xây dựng hậu phương vững mạnh về kinh tế để phục vụ tốt cho công tác
quốc phòng.
Kế hoạch 2 năm (1966-1967) đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua với
mục tiêu: Tập trung lực lượng, ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, đảm bảo
lương thực cung cấp đầy đủ cho nhân dân địa phương và có dự trữ phục vụ chiến đấu
chống lại chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ Tập trung xây dựng kế hoạch tổ chức và
cải tiến hợp tác xã, đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, mà mũi nhọn hàng
đầu là công tác thuỷ lợi, kế hoạch cung ứng phân bón, giống lúa, ngô, kể cả việc đẩy
mạnh phát tiển lâm nghiệp, trồng rừng, bảo vệ rừng,...
Trong lúc cả nước đang đấu tranh thực hiện kế hoạch khôi phục và phát triển
sau chiến tranh, xây dựng lại đất nước, thì tháng 2/1979 chiến tranh biên giới phía
Bắc xảy ra. Công tác kế hoạch lúc này phải tập trung xây dựng phương án chuyển từ
thời bình sang thời chiến. Nhanh chóng bảo đảm các điều kiện cho việc xây dựng các
cơ sở hạ tầng ở địa phương, bảo đảm an toàn cho nhân dân vùng sát biên giới sơ tán,
bảo đảm các chỉ tiêu cung cấp vật tư, thiết bị,... cho việc xây dựng cơ sở vật chất ở
hậu cứ và bảo đảm cho các lực lượng chiến đấu. Cuộc chiến tranh biên giới tuy diễn
ra trong thời gian ngắn, nhưng toàn bộ cơ sở vật chất như: trường học, bệnh viện, kho
tàng, các công trình cầu đường giao thông, thuỷ lợi, các cơ quan, nhà dân bị tàn phá
nặng nề. Công tác kế hoạch thời kỳ này là tập trung xây dựng lại các cơ sở vật chất
phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt và hoạt động trở lại của các cơ quan, đồng thời sẵn
sàng đối phó với các tình huống xấu nhất có thể xảy ra, chỉ trong một thời gian ngắn
các công trình cơ sở hạ tầng và hoạt động của các cơ quan, nhân dân đã được khôi
phục.
Kế hoạch 5 năm (1981- 1985), Uỷ ban kế hoạch tỉnh đã thành lập trung tâm
xây dựng theo hướng cải tiến và phân phối thu nhập quốc dân trên cơ sở hài hoà giữa
3 lợi ích: Nhà nước, tập thể và người lao động. Nhiệm vụ công tác kế hoạch lúc này
là phải tiến hành đổi mới từng bước theo từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, giao
quyền tự chủ cho doanh nghiệp, không can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh,
tạo hành lang pháp lý và cân đối những yếu tố chủ chốt, xây dựng các chỉ tiêu hướng

dẫn và các chỉ tiêu pháp lệnh.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội từ 1986 trở lại đây: Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI đặt ra nhiệm vụ mới, với cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự
quản lý của nhà nước đã dần đi vào cuộc sống. Trong thời gian này có nhiều ý kiến
trái ngược nhau về công tác kế hoạch hoá, thậm chí còn có ý kiến cho rằng: kinh tế
thị trường không cần kế hoạch hoá nền kinh tế, nhất là sau khi ngành thống kê và kế
hoạch sát nhập làm một đơn vị từ tỉnh đến các huyện, công tác kế hoạch ở cấp huyện
hầu như không còn cán bộ đảm nhiệm, ở tỉnh đội ngũ cán bộ giảm nhiều. Nội dung
xây dựng kế hoạch kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà

×