Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường Tiểu học huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.13 KB, 105 trang )

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI
GIỜ LÊN LỚP Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Từ xa xưa, giáo dục đã rất được coi trọng, từ trong xã hội phong kiến, các vương
triều phong kiến đã nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục. Mỗi giai đoạn lịch sử
phát triển của giáo dục (giáo dục trong xã hội cộng sản nguyên thủy, giáo dục dưới chế
độ chiếm hữu nô lệ, giáo dục trong xã hội phong kiến và thời kì văn hóa phục hưng, giáo
dục thời kì tích lũy tư bản chủ nghĩa, giáo dục dưới thời tư bản chủ nghĩa, giáo dục thời
kì cận hiện đại và giáo dục hiện đại trong vài thập kỉ gần đây) đều mang những tư tưởng
giáo dục đặc trưng riêng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Quá trình phát triển của khoa học giáo dục, hoạt động dạy – học được nghiên cứu
một cách hệ thống từ thời J.A. Cômenxki nhưng khái niệm hoạt động ngoài giờ lên lớp là
một vấn đề rất mới mẻ, chưa được phổ biến trong các xã hội trước đây, nó chỉ xuất hiện
rõ rệt nhất trong giáo dục hiện đại.Tuy nhiên trong những giai đoạn lịch sử trước đó, các
nhà giáo dục vẫn có đề cập đến lĩnh vực này trong tư tưởng giáo dục của mình.
Rabơle(1494 - 1553), đại diện xuất sắc của chủ nghĩa nhân đạo Pháp và tư tưởng
văn hóa Phục hưng. Ông cho rằng, giáo dục phải bao hàm các nội dung “trí dục, đạo đức,
thể chất và thẩm mỹ và đã có sáng kiến tổ chức các hình thức giáo dục như ngoài việc
học ở lớp và ở nhà, còn có các buổi tham quan các xưởng thợ, các hãng, tiếp xúc với các
nhà văn, các nghệ sỹ, đặc biệt là mỗi tháng một lần Thầy và trò về sống ở nông thôn một
ngày [1. 39-40] ”
Democrite (460 – 370 trước CN), một nhà giáo dục thời Hi Lạp cổ đại, rất coi
trọng việc giáo dục lao động, là người đầu tiên trong lịch sử đưa ra nguyên tắc “kết hợp
giáo dục với lao động và cuộc sống sinh hoạt của trẻ em.” Khổng Tử (551 – 479 trước
CN), một nhà giáo dục phong kiến tiêu biểu của Trung Hoa cổ đại, luôn dạy học trò mình
một điều là ‘‘Học gì phải thực hành ngay điều ấy, phải củng cố ngay tri thức đã học
không chỉ bằng cách ôn luyện trong sách vở mà phải bằng việc làm.” [31]



Pétxtalôdi (1746 – 1827), đã bỏ tiền túi để dựng ra một trang trại có tên là “Trại
Mới” nhằm thu hút trẻ em con nhà nghèo vào để giáo dục. Ở đây, giáo dục được thực
hiện theo phương thức vừa giáo dục vừa lao động. Ông đánh giá rất cao vai trò của lao
động trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Theo Pétxtalôdi thì ‘‘Việc rèn
luyện thân thể cho trẻ em đượctiến hành thường xuyên chẳng những làm phát triển thể
chất cho trẻ mà còn phát triển nhân cách và là một bước quan trọng để chuẩn bị cho trẻ
vào cuộc sống lao động, hình thành kỹ năng lao động cần thiết sau này”. Ông đánh giá
cao ý nghĩa các bài tập quân sự, các trò chơi trong việc giáo dục thể chất cho trẻ em.
Theo ông, thể dục không được tách rời đức dục và trí dục. Do ảnh hưởng quan điểm này
của ông mà các trường học đương thời ở Thụy Sĩ rất coi trọng việc rèn luyện quân sự
phối hợp với các hoạt động thể dục, thể thao và các chuyến hành quân du lịch, tham
quan. [2]
Theo A.S.Makarenkô (1888-1939) một nhà giáo dục Xô Viết lỗi lạc thì ‘‘Cái logic
của quá trình sư phạm còn là quá trình tổ chức hợp lí hoạt động của học sinh tham gia
vào cách mạng xã hội, lao động sản xuất, các hoạt động tập thể như vui chơi, giải trí, thể
dục thể thao, tham quan du lịch, văn hóa nghệ thuật.” [2] . Ông đã chỉ ra tầm quan trọng
của công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp: Tôi kiên trì nói rằng các vấn đề giáo dục, phương
pháp giáo dục không thể hạn chế trong các vấn đề giảng dạy, lại càng không thể để cho
quá trình giáo dục chỉ thực hiện trên lớp học mà đáng ra phải trên mỗi mét vuông đất
nước chúng ta...nghĩa là trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được quan niệm rằng
công tác giáo dục chỉ được tiến hành trên lớp. Công tác giáo dục chỉ đạo toàn bộ cuộc
sống của trẻ.[1.63]
Giáo dục tư bản thời kì đế quốc chủ nghĩa ở Âu-Mỹ đã xuất hiện “Nhà trường
mới”. Đây là loại trường ra đời vào cuối thế kỉ XIX ở Anh sau đó phát triển nhanh sang
các nước khác như: Mỹ, Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ… và trở thành một phong trào rộng rãi trong
cái gọi là “Hội liên hiệp quốc tế các nhà trường mới”. Đặc điểm nổi bật của Nhà trường
mới là trẻ em được tổ chức cho thực hành lao động ít nhất 1 giờ 30 phút mỗi ngày, coi
trọng hoạt động thể dục thể thao, trẻ được bơi lội, chạy nhảy, đi xe đạp, đi bộ, cắm trại…
John Dewey (1859 – 1952) cho rằng ‘‘Cần phải cho trẻ lao động với các hình thức đa



dạng của cuộc sống và được tiến hành ở mọi nơi như ở vườn trường, xưởng trường, dưới
nhà bếp, ngoài công xưởng… qua đó trẻ phải học cách tự thiết kế, học cách tính toán, tìm
tỉ lệ, tính giá trị thành phẩm, vật liệu, sử dụng các ngôn từ chuyên dùng, học cách trang
trí nội thất.” Ý định của ông là xóa bỏ ranh giới giữa nhà trường với đời sống. [2]
Vào những năm 60 – 50 khi đất nước Liên Xô đang trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhà nước Liên Xô rất quan tâm đến giáo dục con người toàn diện. Các
nghiên cứu lý luận về giáo dục nói chung và hoạt động ngoài giờ lên lớp cũng được quan
tâm nghiên cứu. Cuốn sách “giáo dục học”, tập 3, tác giá T.A.Ilina đã nói về hoạt động
ngoài giờ lên lớp với khái niệm, hình thức, nội dung cơ bản của hoạt động này. Quyển
Quản lý giáo dục có hiệu quả (Effective Eduacational Management), tác giả Van Der
Westhtuizen đã nêu một số vấn đề của hoạt động ngoài giờ lên lớp: khái niệm, mục đích,
phân loại các hoạt động của HS làm 7 lĩnh vực, các nhiệm vụ quản lý các hoạt động của
HS, vai trò của giáo viên và những người lớn khác trong việc tổ chức hoạt động của HS.
Quan điểm giáo dục của Mác và Ăngghen cũng đã vạch ra những nguyên tắc cơ
bản để đào tạo, giáo dục những con người phát triển toàn diện của xã hội tương lai. Đó là
sự kết hợp một cách hợp lí giữa giáo dục đạo đức, thể dục, trí dục và lao động sản xuất,
đó là việc kết hợp giữa lao động sản xuất và thực hiện giáo dục bách khoa (giáo dục kỹ
thuật tổng hợp) trong việc tổ chức cho trẻ em tham gia các hoạt động thực tiễn, hoạt động
xã hội. [2]Lênin cũng cho rằng ‘‘Trong giáo dục con người, muốn trở thành người có tri
thức, có khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể tin vào việc dạy dỗ, giáo dục và
đào tạo nếu như chỉ đóng khung trong bốn bức tường của nhà trường, sự học tập tách
khỏi cuộc sống và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc.” [2]
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Ở nước ta, nghiên cứu về hoạt động ngoài giờ lên lớp được tiến hành từ những
năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay. Tuy nhiên, từ những năm 1979 trở về trước cũng có
một số tài liệu đề cập đến vấn đề này. Trong giai đoạn đó, khải niệm, nội dung của cụm
từ “hoạt động ngoài giờ lên lớp” chưa được hình thành rõ nét. Trong thư gửi học sinh
nhân dịp khai trường năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “ Nhưng các em cũng
nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen



với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất
nước” [3]
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (1950) đã vạch rõ phương châm giáo dục là:
Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Về xây dựng chương trình có đưa
thêm một số môn học và một số hoạt động mới như: thời sự chính sách, giáo dục công
dân, tăng gia sản xuất ở tất cả các lớp (mỗi tuần 3 giờ). [4] Cuộc cải cách giáo dục lần thứ
hai (1956) đã nêu rõ mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục là “Đào tạo, bồi dưỡng thế hệ
thanh niên và thiếu nhi trở thành những người phát triển về mọi mặt, những công dân tốt,
trung thành vớiTổ quốc, những người lao động tốt, cán bộ tốt của nước nhà, có tài có đức
để phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta…”.
Phương châm của giáo dục là lý luận liên hệ với thực tiễn, gắn chặt nhàtrường với đời
sống xã hội. Cuộc vận động xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa năm 1958 có yếu tố
đặc trưng là lao động sản xuất phải trở thành yếu tố cơ bản trong mục đích, phương
châm, phương pháp giáo dục của nhà trường. Trong dịp hè, các trường tổ chức cho học
sinh tham gia lao động sản xuất, học sinh sôi nổi tỏa về các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác
xã, đi về các bản làng, thôn xóm, tham gia lao động trong các công trường, các công trình
thủy lợi, cầu đường… [4]
Tại điều 7, điều lệ trường phổ thông ban hành tháng 6/1976, hoạt động ngoài giờ
lên lớp được bao hàm các nội dung sau:
+ Việc giảng dạy và giáo dục được tiến hành thông qua các hoạt động giảng dạy
trên lớp, hoạt động lao động sản xuất và hoạt động tập thể...
+ Hoạt động tập thể của HS do nhà trường phối hợp với Đoàn thanh niên lao động
Hồ Chí Minh và Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh tổ chức, boa gồm các hoạt động
văn hóa, chính trị, xã hội của Đoàn, đội và các hoạt động ngọa khóa về khoa học, kỹ
thuật, văn nghệ, thể dục, thể thao trong nhà trường và của địa phương.
+ Hoạt động tập thể góp phần giáo dục ý thức chính trị, khả năng công tác độc lập
của HS, góp phần củng cố, mở rộng kiến thức và phát triển năng khiếu của HS.



Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba (1979) có nêu mục tiêu cơ bản của giáo dục là
thực hiện tốt hơn nữa nguyên lý giáo dục: Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, với đào tạo nghề và nghiên cứu, thực nghiệm khoa học [4]
Điều lệ trường phổ thông tháng 4/1979, nội dung điều 10 được khái quát:
+Công tác giáo dục ở trường...được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục:
học tập văn hóa, lao động sản xuất, thực nghiệm khoa học và các hoạt động sản xuất.
+ Các hoạt động do nhà trường tổ chức cho HS tham gia với mức độ thích
hợp....ngoài các hoạt động trên đây cần tổ chức thêm các hoạt động ngoại khóa khác như
văn nghệ, thể dục thể thao.
Sau cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba thì tên gọi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp mới chính thức xuất hiện và có nhiều nghiên cứu về vấn đề này như: Năm 1979,
Viện Khoa học giáo dục thực hiện đề tài dài hạn nghiên cứu về “Các hoạt động ngoài giờ
học trên lớp và sự hình thành nhân cách của học sinh”. Sau năm 1979, các cán bộ nghiên
cứu của Viện Khoa học giáo dục gồm Đặng Thúy Anh, Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Thị
Kỉ, Nguyễn Thanh Bình đã nghiên cứu thực nghiệm cải tiến nội dung, phương pháp tổ
chức nhằm nâng cao chất lượng hoạt động ngoài giờ lên lớp.. Sau đó, các tác giả như:
Nguyễn Lê Đắc, Hoàng Mạnh Phú, Lê Trung Trấn, Nguyễn Dục Quang, Hà Nhật Thăng,
… đã thực hiện một số nghiên cứu lý luận nhằm xây dựng cơ sở lý luận về hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Nghị quyết số 14/NQ/TW ngày 11 tháng 01/1979 của Bộ Chính trị và Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa IV về cải cách giáo dục đã khẳng định “nội dung giáo dục ở
trường phổ thông trung học mang tính chất toàn diện...nhưng có chú ý hơn đến việc phát
huy sở trường và năng khiếu cá nhân...cần coi trọng giáo dục thẩm mỹ, giáo dục và rèn
luyện thể chất, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, quân sự[11.4-5]. Để đáp
ứng nhu cầu cho chương trình cải cải cách giáo dục, nhiều nhà nghiên cứu đã đi tìm hiểu
về khái niệm hoat động ngoài giờ lên lớp và những hình thức tổ chức hoạt động ngoài giờ
sao co hiệu quả. Trong trào lưu đó, các nhà nghiện cứu chia làm hai hướng. Hướng thứ
nhất tập trung vào nghiên cứu lý luận. Bao gồm những tác giả tiêu biểu trên. Hướng thứ



hai nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm thực tiễn trong việc tổ chức các hoạt động ngoại giờ
lên lớp ở các trường.
Ngoài ra, HĐGDNGLL còn được các tác giả luận văn Thạc sĩ chọn làm đề tài
nghiên cứu như:
- Với đề tài “Các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp của hiệu trưởng các trường THPT các tỉnh phía Nam”tác giả Nguyễn Thị
Hoàng Trâm (năm 2003) đã hệ thống lại lý luận về HĐGDNGLL, nghiên cứu thực tiễn
về quản lý HĐGDNGLL trong một số trường THPT các tỉnh phía nam, đề xuất được một
số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng quản lý HĐGDNGLL ở trường THPT.
- Với đề tài “Thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh” tác
giả Phan Thị Hiền (năm 2008) đã nghiên cứu tập trung vào những quy định về nội dung
quản lý HĐGDNGLL ở các trường THPT, những yếu tố ảnh hưởng đến việc quản lý
HĐGDNGLL của hiệu trưởng các trường THPT. Tác giả cũng đã khảo sát thực trạng và
công tác quản lý HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninhtừ
đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý HĐGDNGLL tại
các trường THPT.
Hiện nay, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tại trường tiểu học đã được quy
định cụ thể tại Điều lệ trường tiểu học ban hành kèm theo Quyết định số 51/2007/QĐBGDĐT, ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Bộ GD-ĐT. Điều 26 của Điều lệ trường tiểu
học đã chỉ rõ : “Hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trên lớp và hoạt động ngoài giờ
lên lớp nhằm rèn luyện đạo đức, phát triển năng lực, bồi dưỡng năng khiếu, giúp đỡ học
sinh yếu kém phù hợp đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học. Hoạt động giáo
dục trên lớp được tiến hành thông qua việc dạy học các môn học bắt buộc và tự chọn.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm hoạt động ngoại khoá, hoạt động vui chơi,
thể dục thể thao, tham quan du lịch, giao lưu văn hoá; hoạt động bảo vệ môi trường; lao
động công ích và các hoạt động xã hội khác”.[4]
Các công trình và luận văn trên chỉ nghiên cứu tập trung giải quyết những vấn đề
thực tiễn cụ thể ở một số địa bàn nghiên cứu khác nhau, đối tượng và khu vực cũng khác



nhau về hoạt động ngoài giờ lên lớp. Từ lịch sử nghiên cứu vấn đề trên cho thấy: Đa số
các tác giả chú trọng nghiên cứu về hoạt động ngoài giờ lên lớp, rất ít có công trình
nghiên cứu một cách hệ thống công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, đặc
biệt là bậc tiểu học. Hiện nay, qua tìm hiểu,chúng tôi nhận thấy chưa có tác giả nào
nghiên cứu về thực trạng quản lý, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chính vì vậy việc lựa
chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các
trường Tiểu học huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóalà cần thiết và phù hợp với công tác
quản lý giáo dục trong tình hình thực tế hiện nay ở đơn vị này.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục
1.2.1.1. Quản lý
Thuật ngữ quản lý được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau trên cơ sở những
cách tiếp cận khác nhau.
Từ điển tiếng Việt (2005): Đặt quản lý trong vai trò một động từ và định nghĩa:
“Quản lý là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định: là tổ chức và điều khiển
các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”. [7, 800].
G.KH.PôPôp cho rằng quản lý là chiếc đòn bấy để xã hội loài người phát triển. Ông
nói: “quản lý là một yếu tố không thể thiếu của đời sống chúng ta. Loài người không thê
phát triển, nếu không giảm bớt tốc độ bất định, không nâng cao tính tổ chức, không dùng
chiếc đòn bây là quản lý”.
Henri Fayol (1841-1925), người Pháp, người đặt nền móng cho lý luận tổ chức cổ
điển cho rằng: “Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”.
Khái niệm này xuất phát từ sự khái quát về các chức năng của quản lý.
Quản lý là tổng thẻ những hoạt động (thao tác) do con người, chủ thế của quán lý
thực hiện đối với khách thể, nhằm cải tạo khách thể, đảm bảo cho nó vận động đi tới một
mục tiêu đã định”[9]
Quản lý là một tập hợp các hoạt động lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra
các quá trình tự nhiên, xã hội, khoa học, kỹ thuật và công nghệ để chúng phát triển hợp



quy luật, các nguồn lực (hiện hữu và tiềm năng) vật chất và tinh thần, hệ thống tổ chức và
các thành viên thuộc hệ thống, các hoạt động để đạt được các mục đích đã định (Phan
Văn Kha, 2007 ” Gíao trình Quản lý nhà nước về giáo dục” nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội). Các nhà khoa học quản lý khẳng định “ hạt nhân của quản lý là con ngườivà
quản lý con người thực chất là xác định vị trí của mỗi con người trong xã hội, quy định
các chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ cùng vai trò xã hội của họ”.[8]
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của thể
quản lý dẫn đến tập thể những người lao động nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến.
Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành
viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các
mục đích đã định.[15]
Dựa trên sự phân tích các đặc trưng của quản lý, tác giả Hà Sỹ Hồ cho rằng: “Quản
lý là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể
có, dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường, nhằm giữ cho sự
vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định” [23]
Ngày nay, mặc dù thuật ngữ quản lý đã trở lên phổ biến nhưng chưa có một định
nghĩa nào thống nhất. Tuy nhiên với tư cách là một họat động, có thể định nghĩa: Quản lý
là sự tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào hệ thống con người,
nhằm đạt các mục tiêu kinh tế- xã hội. Quản lý là một quá trình tác động có định hướng,
có tổ chức dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho
sự vận hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định[9]. Hiểu một
cách ngắn gọn thì quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý
đến khách thể quản lý (tập thể những người lao động) nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
Quản






4

chức

năng



bản:

Lập

kế

hoạch,

tổ

chức,

lãnh đạo và kiểm tra. Trong bốn chức năng trên thì lập kế hoạch là nền tảng của
quản lý; chức năng tổ chức là công cụ; chức năng lãnh đạo là quá trình tác động
điều hành; phấn đấu đạt được các mục tiêu của tổ chức; chức năng kiểm tra là đánh
giá kết quả của việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức nhằm tìm ra những mặt ưu
điểm, hạn chế để điều chỉnh việc lập kế hoạch, tổ chức và lãnh đạo.


Chủ thể quản lý


Mục tiêu

Khách thể quản lý

Đối tượng quản lý

H.1: Sơ đồ thể hiện khái niệm về quản lý
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội. Đó là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của
hệ thống nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục,
đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất
lượng. Hiểu theo nghĩa tổng quát: Quản lý giáo dục là điều hành phối hợp các lực lượng
giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo - giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã
hội.
Khái niệm quản lý giáo dục đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra, tùy cách tiếp cận,
phương pháp nghiên cứu mà các nhà nghiên cứu có những cách hiểu khách nhau nhưng
không khác nhau về bản chất. Chúng ta có thể tiếp cận một số khái niệm về quản lý giáo
dục của một số nhà nghiên cứu sau đây để thấy rõ hơn vấn đề này:
Theo từ điển giáo dục học “Quản lý GD (nghĩa hẹp) chủ yếu là quản lý GDthế hệ
trẻ, GD nhà trường, GD trong hệ thống GD quốc dân”[24]
Theo M.I.Kônđacốp: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý
thức và hướng đích của chủ thế quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ
thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ
trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển
thể lực và tâm lý của trẻ em”[17]


TS. Nguyễn Gia Quý cho rằng “Quản lý GD là sự tác động có ý thức củachủ thể
quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động GD tới mục tiêu đã địnhtrên cơ sở

nhận thức và vận dụng đúng những qui luật khách quan của hệ thốnggiáo dục quốc
dân”[25]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục nói chung là
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa
nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào
tạo đối với ngành Giáo dục- Đào tạo, với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh”[18]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành
theo đường lối, nguyên lý của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội
chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu diêm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ
giáo dục đến mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái về chất”.[19]
Từ những khái niệm trên có thể hiểu: Quản lý GD là tác động có hệ thống,có mục
đích, có kế hoạch, là quá trình tổ chức và điều khiển, là sự tác động có ýthức của chủ thể
quản lý trong hệ thống GD quốc dân đưa giáo dục đạt tới mục tiêudựkiến. Nói cách khác:
Quản lý GD là tác động có ý thức, có mục đích, có kếhoạch của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý trong hệ thống GD nhằm làm chohoạt động GD đạt được mục tiêu đã định.
Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội nói chung. Có thể nói quản lý là
yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng GD; QLGD là nhân tố quan trọng để phát triển
sự nghiệp GD. Như vậy, theo nghĩa rộng “Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo - giáo dục thế hệ trẻ theo yêu
cầu phát triển của xã hội”.Quản lý giáo dục là quản lý việc đào tạo con người, hình thành
và hoàn thiện nhân cách, tái sản xuất nguồn lực con người. Vì không có gì phức tạp bằng
con người cho nên quản lý giáo dục đòi hỏi chủ thể quản lý phải có những năng lực, phẩm
chất tương xứng với công việc. Quản lý giáo dục thực chất là quản lý con người đối với
ngành giáo dục, quản lý con người còn có nghĩa là đào tạo con người, dạy cho họ thưc
hiện vai trò xã hội, những chức năng, nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi, phát triển nghề


nghiệp của họ để làm tròn trách nhiệm xã hội của mình, vì sự nghiệp phát triển xã hội và
phát triển bản thân


Công cụ

Mục tiêu

Đối tượng QLGD

Chủ thể QLGD

Phương pháp

Hình 2: sơ đồ thể hiện khái niệm quản lý giáo dục
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì ‘‘Quản lý nhà trường là tập hợp những tác
động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và cán bộ khác, nhằm tận
dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và lao động xây
dựng vốn tự có. Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường, mà điểm hội
tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo
đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới.” [27]
Theo Trần Kiểm thì quản lý nhà trường là QLGD ở tầm vi mô trongphạm vi một
nhà trường; “là sự tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên tất cả các
nguồn lực có được, nhằm đảm bảo cho các hoạt động của nhà trường tiến triển tốt, đạt
được mục tiêu giáo dục mà trọng tâmcủa nó là hoạt động dạy học và HĐGD” [10].
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo
dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. [11] Quản lý nhà trường là những tác động
quản lý của các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho
hoạt động giảng dạy, học tập của nhà trường. [23]



Theo Nguyễn Minh Đường, quản lý nhà trường là QLGD dưới cấp độ nghĩa hẹp;
ngoài ra, quản lý nhà trường là quản lý theo mục tiêu chất lượng, tức là phải làm cho
chương trình, nội dung, phương pháp và hình thứctổ chức giáo dục phù hợp với các đối
tượng học sinh cụ thể, các điều kiệnhọc tập cụ thể [4]. Điều này, một mặt đòi hỏi nhà
QLGD phải quản lý được mục tiêu, quản lý các nguồn lực, quản lý các hoạt động, phải
có kế hoạch tổ chức thực hiện chương trình, mặt khác chỉ đạo tổ chức thực hiện tất cả các
HĐGD trong nhà trường, điều kiện CSVC, ứng dụng công nghệ thông tin, công tác đào
tạo, bồi dưỡng… tức là triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục.
Quản lý nhà trường là một hoạt động được thực hiện trên cơ sở những quy luật
chung của quản lý, đồng thời cũng có những nét đặc thù riêng. Quản lý nhà trường khác
với các loại quản lý xã hội được quy định bởi bản chất hoạt động sư phạm của người giáo
viên, bản chất của quá trình dạy học, giáo dục trong đó mọi thành viên của nhà trường
vừa là đối tượng quản lý vừa là chủ thể hoạt động của bản thân mình. Sản phẩm tạo ra
của nhà trường là nhân cách của người học được hình thành trong quá trình học tập, tu
dưỡng và rèn luyện theo yêu cầu của xã hội và được xã hội thừa nhận. [23] Từ các định
nghĩa trên, ta có thể hiểu: Quản lý, lãnh đạo nhà trường là quản lý, lãnh đạo hoạt động
của giáo viên, cán bộ, nhân viên và học sinh trong trường nhằm đạt được mục tiêu giáo
dục đã đề ra.Quản lý nhà trường, nhìn chung, là tác động có mục đích, kế hoạch của chủ
thể quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các LLGD
khác cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng GD-ĐT
của nhà trường; đẩy mạnh hoạt động của nhà trường theo nguyên lý giáo dục và tiến đến
mục tiêu giáo dục.
Nhà trường là đơn vị cơ sở trực tiếp giáo dục – đào tạo, hoạt động của nhà trường
rất đa dạng, phong phú và phức tạp, nên việc quản lý, lãnh đạo chặt chẽ, khoa học sẽ bảo
đảm sự đoàn kết, sẽ thống nhất được mọi lực lượng trong và ngoài nhà trường, tạo nên
sức mạnh đồng bộ nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục đích giáo dục. Công
tác quản lý nhà trường phải nhằm quản lý toàn diện tất cả mọi hoạt động mới có thể giáo
dục, hoàn thiện và phát triển nhân cách của trẻ một cách hợp lí, hợp quy luật, khoa học



và hiệu quả. Hiệu quả giáo dục trong nhà trường phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của nhà
trường kể cả các lực lượng hỗ trợ, các đoàn thể, tổ chức trong và ngoài nhà trường. Muốn
có hiệu quả trong công tác quản lý, người quản lý phải xem xét đến những điều kiện đặc
thù của nhà trường, phải chú trọng đến việc cải tiến công tác quản lý giáo dục.
Trọng tâm của công tác quản lý nhà trường là:
+ Quản lý việc chỉ đạo thực hiện tốt các hoạt động chuyên môn theo hướng dẫn
của các cấp quản lý giáo dục cao hơn, thực hiện đúng chương trình và phương pháp giáo
dục để chất lượng giáo dục ngày một nâng cao. Quản lý phải sát sao với công việc, kiểm
tra, thanh tra kịp thời để giúp đỡ, uốn nắn, tạo điều kiện cho các hoạt động được thực
hiện đúng theo kế hoạch đề ra.
+ Quản lý việc xây dựng đội ngũ giáo viên, công nhân viên và tập thể học sinh;
tạo bầu không khí sư phạm vui vẻ, thoải mái, đoàn kết, tương thân, tương ái giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
+ Quản lý tốt việc học tập của học sinh theo quy chế của Bộ GD-ĐT. Quản lý cả
thời gian và chất lượng học tập. Quản lý học sinh tốt thì chất lượng sẽ cao.
+ Quản lý cơ sở vất chất, thiết bị dạy học nhằm phục vụ tốt cho việc giảng dạy,
học tập, giáo dục học sinh, thường xuyên kiểm tra, bổ sung thêm những thiết bị mới theo
yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục.
+ Quản lý nguồn tài chính hiện có của nhà trường theo đúng quy tắc tài chính của
nhà nước và của ngành giáo dục; đồng thời biết động viên, thu hút các nguồn tài chính
khác nhằm xây dựng, mua sắm thêm thiết bị phục vụ các hoạt động dạy học.
+ Quản lý việc thi đua khen thưởng và việc đề bạt cán bộ kế cận, xét duyệt nâng
bậc lương cho giáo viên. Các hoạt động này phải được công khai minh bạch trước hội
đồng sư phạm của trường. Quản lý phải luôn chú ý tới nhiệm vụ chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của cán bộ giáo viên, công nhân viên, phải tạo một phong trào thi đua liên
tục trong nhà trường “Thầy dạy tốt – Trò học tốt”. Thầy trò cùng hướng đến một chất
lượng giáo dục của trường ngày một nâng cao.
Công tác quản lý nhà trường đòi hỏi phải đưa nhà trường từ trạng thái đang có tiến

lên một trạng thái phát triển mới, bằng phương thức xây dựng và phát triển mạnh mẽ các


nguồn lực giáo dục và hướng các nguồn lực đó vào phục vụ cho việc tăng cường chất
lượng giáo dục.
1.2.1.4. Quản lý nhà trường Tiểu học
Có nhiều cấp quản lý trường học: cấp cao nhất là Bộ GD-ĐT, nơi quản lý nhà
trường bằng các biện pháp vĩ mô; hai cấp trung gian là Sở GD- ĐT ở tỉnh/thành phố và
các Phòng Giáo dục ở các quận/ huyện; cấp quản lý quan trọng trực tiếp của HĐGD
trong các trường học là Ban Giám hiệu nhà trường [3].
Trường tiểu học là cơ sở giáo dục của bậc tiểu học, bậc học nền tảng của hệ thống
giáo dục quốc dân, có tư cách pháp nhân và con dấu riêng. Trường tiểu học có nhiệm vụ
tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo chương trình giáo dục
của Bộ Giáo dục và Đào tạo; huy động hết trẻ em vào lớp một và vận động học sinh bỏ
học đến trường; thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục tiểu học và tham gia xóa mù chữ
trong cộng đồng.Trường tiểu học được xác định trong mạng lưới trường học và đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ủy ban nhân dân cấp phường/xã lập
hồ sơ theo quy định, Phòng Giáo dục và Đào tạo chấp nhận hồ sơ và cùng với Ủy ban
nhân dân phường/xã khảo sát tính khả thi và trình lên Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
quận/huyện xem xét quyết định. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp quận/huyện kí quyết định
thành lập trường tiểu học khi có đủ hồ sơ quy định thành lập trường.
Nội dung quản lý nhà trường Tiểu học gồm:
- Tổ chức đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh (CBGV-NV-HS) thực
hiện tốt các nhiệm vụ trong chương trình công tác của nhà rường; giáo dục học sinh phấn
đấu học tập, rèn luyện trở thành những công dân tốt cho đất nước.
- Chỉ đạo tốt các hoạt động chuyên môn theo chương trình của Bộ
GD-ĐT sao cho chương trình được thực hiện nghiêm túc và các phương
pháp giáo dục luôn được cải tiến, đổi mới nhằm nâng cao không ngừng chất
lượng dạy và học. Biện pháp quản lý là theo dõi, đôn đốc mọi công việc,
thanh kiểm tra thường xuyên để kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh. Quản lý tốt việc học tập

của học sinh theo đúng quy chế của Bộ GD-ĐT bao gồm quản lý thời gian, chất lượng
học tập, tinh thần thái độ và phương pháp học tập.


- Quản lý CSVC và trang thiết bị nhà trường (bao gồm việc bảo quản CSVC và
trang thiết bị hiện có và không ngừng bổ sung cái mới, có giá trị) nhằm phục vụ tốt nhất
cho việc học tập và giảng dạy, cho việc giáo dục học sinh. Quản lý nguồn tài chính hiện
có của nhà trường theo đúng nguyên tắc quản lý tài chính nhà nước và của Ngành Giáo
dục;
- Quản lý nhà trường Tiểu học còn có nghĩa là chăm lo đến đời sống vật chất và
tinh thần cho tập thể CB-GV-NV nhà trường. Cần động viên, khuyến khích đội ngũ để
tạo phong trào thi đua sôi nổi và liên tục trong toàn trường.
1.2.2. Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học
1.2.2.1. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Trong nuốn tài liệu đào tạo thuộc Dự án Phát triển giáo viên tiểu học nêu rõ: “Hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp là hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn học.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là hoạt động nối tiếp và thống nhất hữu cơ với hoạt
động giáo dục trong giờ học trên lớp. Nó là cầu nối giữa công tác giảng dạy trên lớp với
công tác giáo dục học sinh ngoài lớp”. [7]Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên cốt cán trường
trung học phổ thông xác định: ‘‘Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động
có mục đích giáo dục, tổ chức có kế hoạch, có chương trình, nội dung, phương pháp và
phương tiện phù hợp, được thực hiện với vai trò chủ đạo của giáo viên. Đó là sự tiếp nối
hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lý luận với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất
giữa nhận thức với hành động, góp phần hình thành tình cảm, niềm tin đúng đắn ở học
sinh. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là con đường phát triển toàn diện nhân cách,
là điều kiện tốt nhất để học sinh phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực, chủ động trong
quá trình học tập, rèn luyện. Nó vừa củng cố, bổ sung, mở rộng kiến thức đã học, vừa
phát triển các kỹ năng cơ bản, phù hợp với yêu cầu, mục tiêu giáo dục của nhà trường
như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thích ứng, kỹ năng sống chung, kỹ năng tổ chức cuộc
sống và các kỹ năng khác…” [28]

Tác giả Đặng Vũ Hoạt viết: “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là việc tổ chức
giáo dục thông qua hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học-kỹ thuật, lao động công
ích, hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa, văn nghệ, thẩm mỹ, thể dục thể thao,


vui chơi, giải trí… để giúp các em hình thành và phát triển nhân cách (đạo đức, năng lực,
sở trường,…) [15]
Tác giả T.A.Ilina cho rằng: “Công tác giáo dục học sinh ngoài giờ học thường
được gọi là công tác giáo dục ngoại khóa. Công tác này bổ sung và làm sâu hơn công tác
giáo dục nội khóa, trước tiên là phương tiện để phát hiện đầy đủ tài năng và năng lực của
trẻ em, làm thức tỉnh hứng thú và thiên hướng của học sinh đối với một hoạt động nào đó,
đó là một hình thức tổ chức giải trí của học sinh và là cơ sở để tổ chức việc thực tập về
hành vi đạo đức để xây dựng kinh nghiệm của hành vi này.” [20]
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là hoạt động tổ chức ngoài giờ học của các
môn học trên lớp nhằm tiếp nối và thống nhất hữu cơ với hoạt động học tập trên lớp, tạo
sự thống nhất giữa giáo dục trong và ngoài nhà trường, giữa thời gian trong năm học và
thời gian hè nhằm góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo mục tiêu
đào tạo, đáp ứng những yêu cầu đa dạng của xã hội [43]. Hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp bao gồm các hoạt động ngoại khóa về khoa học, văn học, nghệ thuật, TDTT, an
toàn giao thông, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục giới tính, giáo dục pháp luật, giáo
dục hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng sống nhằm phát triển toàn diện và bồi dưỡng năng
khiếu; các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn hoá, giáo dục môi trường;
hoạt động từ thiện và các hoạt động xã hội khác phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa
tuổi học sinh” [1].
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp do nhà trường tổ chức và quản lý với sự
tham gia của các lực lượng xã hội. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được tiến hành
tiếp nối hoặc xen kẽ hoạt động dạy-học trong phạm vi nhà trường hoặc trong cộng đồng.
Hoạt động này diễn ra trong suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè để khép kín quá trình
giáo dục, làm cho quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc.
Từ các định nghĩa nêu trên có thể đưa ra một điểm chung: Hoạt động giáo dục

ngoài giờ lên lớp là hoạt động giáo dục được tổ chức ngoài thời gian học trên lớp. Đây là
một trong hai hoạt động giáo dục cơ bản được thực hiện một cáchcó tổ chức, có mục đích
theo kế hoạch của nhà trường, hoạt động tiếp nối và thống nhất hữu cơ với hoạt động học


tập trên lớp, nhằm góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo mục tiêu
đào tạo, đáp ứng những yêu cầu đa dạng của xã hội đối với thế hệ trẻ.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học
các môn học. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự tiếp nối và thống nhất hữu cơ với
hoạt động dạy học, tạo điều kiện gắn lí thuyết với thực hành, góp phần quan trọng vào sự
hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của học sinh.Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được
trong toàn bộ quá trình giáo dục của các trường phổ thông nói chung, của trường tiểu học
nói riêng.Biết, hiểu, thiết kế và tổ chức hiệu quả hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
trong trường tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng đối với giáo viên.
1.2.2.2. Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các công việc: lập kế hoạch
chi tiết cho hoạt động, chuẩn bị cho hoạt động của giáo viên và học sinh; tổ chức hoạt
động theo kế hoạch đã vạch ra; tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá quá trình và kết quả
hoạt động. Như vậy, quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là tiến trình hoạch định
kế hoạch, tổ chức, điều khiển và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
1.2.2.3. Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học
Với tầm quan trọng của hoạt động ngoài giờ lên lớp ở bậc tiểu học, công tác quản
lý hoạt động này đóng vai trò rất quan trọng. Bởi lẽ, nếu công tác quản lý hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp được đảm bảo và tổ chức tốt sẽ phát huy được hiệu quả của hoạt
động này và ngược lại.
Quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp ở Tiểu học là quá trình tác động của chủ
thể quản lý (hiệu trưởng và bộ máy giúp việc của hiệu trưởng) đến tập thể giáo viên và
học sinh được tiến hành các hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chương trình kế hoạch

nhằm đạt mục tiêu giáo dục học sinh một các toàn diện. Quản lý hoạt động ngoài giờ lên
lớp của cán bộ quản lý giáo dục trong nhà trường thực chất là quản lý về mục tiêu giáo
dục, quá trình giáo dục, là quản lý về kế hoạch, đội ngũ, các điều kiện, công tác kiểm tra,
đánh giá, công tác phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường thực hiện hoạt


động ngoài giờ lên lớp. Vì vậy, tham gia tổ chức thực hiện hoạt động ngoài giờ lên lớp là
một trong những tiêu chí để đánh giá thi đua các tập thể và cá nhân trong mỗi năm học.
Quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp ở bậc tiểu học bao gồm quản lý về các
chương trình, nội dung của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Quản lý các nguồn nhân
lực, vật lực tham gia vào hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp; Quản lý hiệu quả các
chương trình hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở bậc tiểu hoc phải đảm
bảo nguyên tắc, yêu cầu, mục đích của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và yêu cầu
của công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.Quản lý hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp là một hoạt động không thể thiếu và rất quan trọng trong toàn bộ quá
trình quản lý ở nhà trường Tiểu học; do đó, các nhà QLGD cần chỉ đạo thực hiện chương
trình hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo quy định của Bộ GD-ĐT, có kết hợp lồng
ghép tuyên truyền giáo dục cũng như tích hợp giảng dạy kỹ năng sống và các luật vào
một số môn học khoa học xã hội. Phương thức tổ chức phải rất linh hoạt,
sáng tạo để đạt được mục tiêu đề ra, giúp học sinh thực sự phát huy vai trò là chủ thể
trong các hoạt động; từ đó làm phong phú hấp dẫn các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp và chuẩn bị cho các hoạt động tiếp theo ở các khối lớp học khác nhau.
1.2.3. Giải pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học
Giải pháp có nghĩa là chỉ, vạch ra con đường để đi tới được cái "đích" mình cần
đến hay mục tiêu mong đợi, giải pháp tốt thì đến đích nhanh an toàn giải pháp không phù
hợp có thể không đến được đích mà ta mong muốn.
Giải pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học là
những kế hoạch, những con đường, chiến lược được đưa ra nhằm quản lý các hoạt động
ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Bao gồm hiệu quả về

chương trình, nội dung, nhân vật lực tham gia hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp thuộc
bậc Tiểu học. Đồng thời đảm bảo hiệu quả phù hợp về mặt trình độ, nhận thức đối vợi HS
bậc tiểu học.
1.3. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học
1.3.1. Vị trí, vai trò của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học


* Vị trí:
Dưới góc độ chỉ đạo chung, vị trí của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được
khẳng định tại điều 27 Điều lệ trường tiểu học và điều 24 Điều lệ trường trung học (ban
hành ngày 11 tháng 7 năm 2000), là một trong hai hoạt động giáo dục trong nhà trường:
- Hoạt động giáo dục trên lớp được tiến hành thông qua các môn bắt buộc và
tựchọn…
- Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp do nhà trường phối hợp với các lực
lượng giáo dục ngoài nhà trường tổ chức,…
Như vậy, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp không phải là hoạt động “phụ”,
hoạt động “bề nổi” mà giữ một vị trí rất quan trọng trong các hoạt động giáo dục của
các nhà trường.
Chúng ta đã biết, quá trình giáo dục hiểu theo nghĩa hẹp và quá trình dạy học là
những bộ phận của quá trình sư phạm tổng thể (giáo dục hiểu theo nghĩa rộng). Trong
quá trình dạy học, ngoài việc truyền thụ cho học sinh những tri thức khoa học một cách
có hệ thống, còn phải hướng tới việc giáo dục toàn diện, góp phần hình thành nhân cách
cho các em. Chính vì vậy, trong quá trình giáo dục hiểu theo nghĩa rộng, ngoài hoạt động
trí dục, học sinh còn được giáo dục về tư tưởng chính trị, đạo đức, thể chất, lao động. Vì
vậy, quá trình giáo dục không những được thực hiện qua các hoạt động giáo dục trên lớp
mà còn qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Có thể nói, hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp có vị trí rất quan trọng trong quá trình giáo dục. hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp là cầu nối giữa hoạt động giảng dạy và học tập ở trên lớp với giáo dục
học sinh ở ngoài lớp thông qua các hoạt động lao động, vănnghệ, xã hội, thể dục thể thao,
… Hay nói cụ thể hơn đó là sự chuyển hóa giữa giáo dục với tự giáo dục, chuyển hóa

những yêu cầu về chuẩn mực, hành viđã được quy định thành hành vi và thói quen tương
ứng. Muốn cho sự chuyển hóa này diễn ra thì phải thông qua các hoạt động như: học tập,
lao động, sinh hoạt tập thể, xã hội, vui chơi giải trí và qua giao lưu với bạn bè, với các
thầy, cô giáo, với cha mẹ và mọi người xung quanh…
Nhà trường có nhiệm vụ dạy chữ và dạy người. Nếu nhà trường chỉ thực hiện hoạt
động dạy và h ọc các bộ môn văn hóa trên lớp thì nhiệm vụ chưa hoàn thành vì học sinh


sẽ thiếu môi trường hoạt động và giao tiếp, hạn chế về tình huống thực tế và thời gian,
không có điều kiện để trải nghiệm những kiến thức đã học vào hoạt động thực tiễn; do
vậy, nhà trường phải tổ chức các hoạt động vào thời gian ngoài giờ lên lớp để tạo điều
kiện hình thành thái độ, rèn luyện hành vi, kĩ năng xã hội cho học sinh. Hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp được khẳng định là một trong hailoại hoạt động giáo dục thiết yếu
nằm trong cả trong chương trình chính khóa và ngoại khoá nhằm tiếp nối hoạt động dạy
học để tạo sự hài hòa, cân đối của quá trình sư phạm tổng thể, hiện thực hóa mục tiêu
giáo dục toàn diện của cấp học, được nhà trường phối hợp tổ chức với các lực lượng xã
hội để tạo ra mối liên hệ đa chiều giữa Nhà trường –Gia dình –xã hội;
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là cầu nối tạo ra mối liên hệ haichiều giữa
nhà trường và xã hội. Thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhà trường có điều
kiện phát huy vai trò tích cực của mình đối với xã hội, mở ra khả năng thuận lợi để gắn
học với hành, nhà trường với xã hội thông qua việc đưa Thầy và Trò tham gia các hoạt
động cộng đồng. Bằng việc đóng góp sức người, sức của của cộng đồng để tổ chức các
hoạt động giáo dục, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là điều kiện và phương tiện để
huy động sức mạnh cộng đồng tham gia vào quá trình đào tạo thế hệ trẻ, vào sự phát triển
nhà trường
Học sinh tiểu học ở lứa tuổi ngây thơ, hồn nhiên, sống bằng tình cảm. Vì thế, hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp lại càng cần thiết và quan trọng nhằm giúp trẻ làm quen
với các hoạt động, tích lũy dần những kinh nghiệm thực tiễn của cuộc sống, đồng thời
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cũng đáp ứng những nhu cầu, quyền lợi của trẻ. Đây
cũng là con đường để giúp trẻ hình thành và phát triển toàn diện nhân cách.

* Vai trò hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học có vai trò sau:
+Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp góp phần hình thành và phát triển tính chủ
thể cho học sinh: tính chủ động, tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo trong việc tham gia
vào các hoạt động chính trị xã hội. Trên cơ sở đó bồi dưỡng cho trẻ thái độ đúng đắn với
các hiện tượng tự nhiên và xã hội, thái độ có trách nhiệm đối với công việc chung, có xúc
cảm, tình cảm sâu sắc đối với con người, quê hương, đất nước, đối với nghĩa vụ công dân
tương lai, với Đảng, với dân tộc.Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp còn tạo cơ hội tốt


để thu hút cả ba lực lượng giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội cùng tham gia giáo
dục.
+ Củng cố và khắc sâu kiến thức của các môn học trên lớp; mở rộng hiểu biết
cho học sinh về các lĩnh vực của đời sống cộng đồng, bước đầu hình thành kinh
nghiệm hoạt động tập thể của học sinh.Tri thức cũng giúp người học hiểu được thế giới
xung quanh, biết cách cư xử đúng đắn với mọi người, biết cách tiến hành công việc trong
lao động, trong học tập, trong hoạt động nghệ thuật, trong rèn luyện sức khỏe… Vì thế,
làm bất cứ một việc gì, dù đơn giản đến đâu chăng nữa thì tri thức vẫn là cơ sở đầu tiên
để xác định mục đích, nắm bắt một cách chính xác, cụ thể, rõ ràng, trình tự hành động và
thao tác của công việc. Với ý nghĩa đó, tổ chức Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
trước hết phải nhằm giúp học sinh tiểu học bổ sung, củng cố và hoàn thiện những tri thức
đã được học trên lớp (qua những hình thức sinh hoạt câu lạc bộ, tham quan, sưu tầm, sinh
hoạt theo các chuyên đề...). Các hoạt động này còn giúp cho học sinh có những hiểu biết
mới, mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh, cộng đồng và xã hội.Hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp giúp học sinh biết vận dụng những tri thức đã học để giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đời sống đặt ra.
+. Bước đầu rèn luyện và hình thành cho học sinh các kĩ năng cơ bản phù hợp
với lứa tuổi học sinh tiểu học như: kĩ năng giao tiếp ứng xử có văn hóa; kĩ năng tổ
chức và tham gia các hoạt động tập thể với tư cách là chủ thể của hoạt động; kĩ năng
tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện; hình thành các hành vi, thói quen tốt
trong học tập, lao động tự phục vụ và hoạt động tập thể.Nói đến hoạt động là phải nói tới

hành vi, kỹ năng thực hiện hoạt động.
Đối với học sinh tiểu học, hoạt động ngoài giờ lên lớp rèn luyện cho các em những
hành vi, kỹ năng như:Kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn hóa, những thói quen tốt trong
học tập, lao động công ích và trong các hoạt động khác. Kỹ năng tự quản, trong đó có kỹ
năng tổ chức, điều khiển và thực hiện một hoạt động tập thể có hiệu quả, kỹ năng nhận
xét, đánh giá kết quả hoạt động.Kỹ năng tự giáo dục, tự điều chỉnh, kỹ năng hòa nhập để
thực hiện tốt các nhiệm vụ do thầy giáo, cô giáo, do nhà trường hoặc tập thể lớp giao cho.
Nhiệm vụ củng cố, tăng cường nhận thức góp phần phát triển năng lực trí tuệ, năng lực tư


duy và hình thành thế giới quan khoa học. Thái độ, tình cảm được hình thành dựa trên cơ
sở, nền tảng của thế giới quan và niềm tin của con người. Nhiệm vụ này thực hiện tốt sẽ
có tác dụng tốt, có tính chất quyết định đối với sự hình thành thái độ, tình cảm đạo đức,
tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mĩ và hoạt động xã hội. Nhận thức, ý nghĩ của con người
được thể hiện, bộc lộ qua thái độ, tình cảm. Thái độ, tình cảm được biểu hiện ở hành vi.
Thông qua các hoạt động sống hàng ngày tạo thành các kỹ năng, thói quen phù hợp với
các giá trị của cuộc sống. Hệ thống thái độ, hành vi, kỹ năng, thói quen được hình thành
trở thành phương tiện, công cụ hữu hiệu nhấtcho việc bổ sung, tăng cường nhận thức, mở
rộng tầm hiểu biết ở mức độ cao và sâu sắc hơn. Sự kết hợp giữa kiến thức, tình cảm,
niềm tin và biểu lộ ở thói quen, hành vi, lối sống của con người trong mọi mối quan hệ xã
hội chính là thước đo, là hiệu quả của hoạt động giáo dục.
+Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự tiếp nối hoạt động dạy học, do đó
tạo nên sự hài hòa, cân đối của quá trình sư phạm tổng thể nhằm hiện thực hóa mục
tiêu giáo dục của cấp học tiểu học
+ Bồi dưỡng thái độ tự giác tham gia các hoạt động tập thể; hình thành tình
cảmchân thành, niềm tin trong sáng với cuộc sống, với quê hương đất nước; có thái
độđúng đắn đối với các hiện tượng tự nhiên và xã hội.Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp giúp học sinh hướng nhận thức, biết tự điều chỉnh hành vi đạo đức, lối sống cho phù
hợp. Qua đó từng bước làm giàu thêm những kinh nghiệm thực tế, xã hội cho các em.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp giúp học sinh định hướng chính trị, xã hội, có

những hiểu biết nhất định về truyền thống đấu tranh cách mạng, truyền thống xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống văn hóa tốt đẹp của đất nước… qua đó làm tăng thêm sự
hiểu biết của các em về Bác Hồ, về Đảng, Đội… để từ đó thực hiện tốt nghĩa vụ học sinh,
nghĩa vụ đội viên. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp giúp học sinh có những hiểu biết
tối thiểu về các vấn đề có tính thời đại như vấn đề hòa bình và hữu nghị, vấn đề bảo vệ
môi sinh, môi trường, vấn đề pháp luật…
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp từng bước hình thành cho học sinh niềm tin
vào những giá trị mà các em phải vươn tới, đó là niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa,
niềm tin vào Bác Hồ… từ đó các em có lòng tự hào dân tộc, mong muốn làm đẹp thêm


truyền thống của trường, của lớp, của quê hương mình, mong muốn vươn lên thành con
ngoan, trò giỏi, đội viên tích cực để trở thành công dân có ích cho xã hội mai sau.Hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm đạo đức trong
sáng (tình cảm thầy trò, tình cảm bạn bè, tình yêu quê hương, đất nước), qua đó, giúp các
em biết kính yêu và trân trọng cái tốt, cái đẹp, biết ghét những cái xấu, cái lỗi thời không
phù hợp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bồi dưỡng, xây dựng cho học sinh lối
sống và nếp sống phù hợp với đạo đức, pháp luật, truyền thống tốt đẹp của địa phương và
của đất nước. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bồi dưỡng cho học sinh tính tích cực,
tính năng động, sẵn sàng tham gia những hoạt động xã hội, hoạt động tập thể của trường,
của lớp vì lợi ích chung, vì sự trưởng thành và tiến bộ của bản thân.Hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp còn góp phần giáo dục cho học sinh tình đoàn kết hữu nghị với các bạn
thiếu nhi Quốc tế, với các dân tộc khác trên thế giới. Việc bồi dưỡng thái độ, tình cảm
cho trẻ em là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và phải được thực hiện ngay từ lứa tuổi
tiểu học. Do đó, việc thu hút được học sinh tham gia vào các loại hình Hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp sẽ góp phần tạo nên sự thành công trong giáo dục mà các nhà giáo
dục đang mong đợi.
+ Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp vừa củng cố, vừa phát triển quan hệ
giaotiếp giữa các lớp trong trường và với cộng đồng xã hội.
+ Thu hút và phát huy được tiềm năng củacác lực lượng giáo dục trong và ngoài

nhà trường để nâng cao hiệu quả giáo dục họcsinh.
Môi trường thực hiện hoạt động giáo dục rất đa dạng: có thể diễn ra trong lớp học,
trong nhà trường, trong môi trường thiên nhiên rộng lớn; do đó, tùy điều kiện của từng
địa phương, từng trường, từng nơi mà tổ chức thực hiện cho phù hợp, không thể dập
khuôn theo một tiêu chí thống nhất nào. Vì thế, các nhà QLGD cần biết linh hoạt trong
khâu tổ chức thực hiện, cần biết củng cố, vừa phát triển quan hệ giao tiếp giữa các lớp
trong trường và với cộng đồng xã hội, vừa phát huy các tiềm năng của các lực lượng giáo
dục trong và ngoài nhà trường cũng như thu hút các nguồn lực trong xã hội để huy động
tham gia xây dựng nội dung, thống nhất hình thức tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp, nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho học sinh.


+ Phát triển sự hiểu biết của học sinh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội, từ đó làm phong phú thêm vốn tri thức của các em.
+ Góp phần hình thành và phát triển tính tích cực, tự giác cho học sinh trong việc
tham gia vào các hoạt động chính trị- xã hội. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng cho trẻ thái độ
đúng đắn với các hiện tượng tự nhiên và xã hội, thái độ có trách nhiệm đối với công việc
chung. Dưới sụ cố vấn, giúp đỡ của giáo viên, học sinh cùngnhau tổ chức các hoạt động
tập thể khác nhau trong đời sống hàng ngày ở nhà trường,ngoài xã hội. Từ đó giúp hình
thành những kinh nghiệm giao tiếp, ứng xử có văn hóa,giúp cho việc hình thành và phát
triển nhân cách ở các em
Nhiệm vụ Mục tiêu của giáo dục tiểu học theo Quyết định số 43/2001/QĐ-BGDĐT ngày 9-11-2001 của Bộ Giáo dục và Đào tạo có quy định rõ: “Giáo dục tiểu học
nhằm giúp cho học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục
học trung học cơ sở”. Nhiệm vụ giáo dục được quán triệt vào Hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp ở trường tiểu học thể hiện ở 3 nhiệm vụ cơ bản:
+Nhiệm vụ củng cố tăng cường nhận thức, nhiệm vụ bồi dưỡng hệ thống thái độ,
nhiệm vụ hình thành hệ thống kỹ năng, hành vi.
+ Nhiệm vụ củng cố, tăng cường nhận thức Tri thức là kết quả của nhận thức hiện
thực được kiểm tra bằng thực tiễn và được phản ánh ở tư duy con người.

+ Nhiệm vụ bồi dưỡng thái độ, tình cảm Tri thức là cơ sở, là nền tảng, là cội nguồn
để hình thành niềm tin. Tri thức, thái độ và niềm tin là những thành phần cơ bản của ý
thức con người nói chung và trẻ em tiểu học nói riêng. Ý thức lại được tôi rèn trong hoạt
động cho nên Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp phải tạo cho học sinh hứng thú và
lòng ham muốn hoạt động. Vì vậy, Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp phải có nội
dung, hình thức và quy mô phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và nhu cầu của học
sinh. Ngoài ra, Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cũng phải sôi nổi, phong phú, đa
dạng để thu hút, lôi cuốn các em tham gia một cách tự giác.
+ Nhiệm vụ hình thành hệ thống kỹ năng, hành vi Hệ thống kỹ năng, hành vi là
điều kiện quan trọng để thực hiện hoạt động có hiệu quả.


Ba nhiệm vụ này có mối quan hệ hữu cơ, gắn kết, bổ sung lẫn nhau và làm tiền đề
cho nhau.
1.3.2.Yêu cầu về hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở bậc tiểu học cần đảm bảo yêu cầu về
nguyên tắc của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: Nguyên tắc tính mục đích, tính kế
hoạch; tính tự nguyện, tự giác tham gia hoạt động; Nguyên tắc tính đến đặc điểm lứa tuổi
và tính cá biệt của học sinh; Nguyên tắc kết hợp sự lãnh đạo sư phạm của thầy với tính
tích cực, độclập và sáng tạo của học sinh. Ngoài ra hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
phải đảm bảo yêu cầu đảm bảo nhiệm vụ, nội dung của hoạt động này.
1.4. Một số vấn đề về quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học
1.4.1. Sự cần thiết phải quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường
Tiểu học
Có thể nói, quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học hiện
nay là vấn đề cần thiết hơn bao giờ hết, bới lẽ, như đã trình bày, hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp chiếm giữ vị trí và có vai trò vô cũng quan trọng đối với việc giáo dục toàn
diện cho HS. Thêm vào đó, thực tế hiện nay vì nhiều lý do khách quan và chủ quan khác
nhau mà hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở bậc Tiểu học nói riêng, hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp ở các bậc học khác nói chung chưa phát hut được nhiệm vụ, vai trò

của nó. Thậm chí nhiều đơn vị trường chưa nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của họt
động này, hoặc có đơn vị có tổ chức nhưng chỉ mang tính đối phó, hời hợt...Đó là môt
nghịch lý.
Bất cứ lĩnh vực nào muốn phát huy được hiệu quả, tính tích cực của nó thi công
tác quản lý là điều không thể thiếu,hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cũng vậy, nhất là
từ thực tế việc tổ chức quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp hiện nay.
1.4.2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học
1.4.2.1. Quản lý nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học
*Quản lý mục tiêu Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: là việc xây dựng và tổ
chức thực hiện mục tiêu của các hoạt động này một cách đầy đủ, toàn diện, đảm bảo ba


×